Thực tế cho thấy tiềm năng huy động vốn nhàn rỗi từ dân cư là rất lớn vì tỷ lệ thanh
toán bằng tiền mặt hiện nay còn rất cao. Vì vậy, tăng cường huy động vốn sẽ giúp cho các
ngân hàng phát triển ổn định. Bên cạnh đó, cần chú trọng tăng huy động vốn trung và dài
hạn thông qua kênh phát hành các công cụ tài chính. Trên thị trường tài chính trong nước,
có thể phát hành tr ái phiếu có khả năng chuyển đổi - Đây là hình thức huy động vốn linh
hoạt vì sẽ chủ động được kỳ hạn và quy mô vốn. Trên thị trường tài chính quốc tế có thể
phát hành trái phiếu, cổ phiếu vì với xu thế hội nh ập thì thị trường ngân hàng trong nước
là địa điểm đầu tư khá hấp dẫn đối với NHTM nước ngoài.
Về sử dụng vốn, không nên đặt mục tiêu tín dụng là h oạt động chủ yếu trong sử
dụng vốn của ngân hàng vì có nguy cơ rủi ro, làm cho thu nhập của ngân hàng giảm sút do
bị thu hẹp chênh lệch giữa lãi suất tiền gử i và lãi suất cho vay vì canh tr anh gay gắt. Do
vậy, nên mở rộng hình thức sử dụng vốn kh ác như thuê mua tài chính, liên doanh liên kết,
bao thanh toán, tài trợ xuất khẩu, bảo lãnh cho các công ty phát hành trái phiếu dài hạn
Hiện nay mọi nhu cầu vốn của nền kinh tế chủ yếu đều dựa vào hệ thống ngân
hàng, trong khi các kênh khác của thị trường vốn lại chưa phát triển và/hoặc hoạt động
đúng chứ c. Về phía các chính sách vĩ mô khác, cần tiếp tục thự c hiện các giải pháp tái cấu
trúc thị trường tài chính, khuyến khích sự p hát triển của thị trường trái phiếu, đặc biệt là
trái ph iếu doanh nghiệp, thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển bền vững và hiệu quả
để thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế. Đồng thời về
phía các doanh nghiệp, để có thể huy động được nguồn vốn trên thị trường trái phiếu
doanh nghiệp, cần phải chủ động xây dựng cơ cấu tài chính bền vữ ng, hoạt động hiệu quả,
đa dạng hóa nguồn vốn huy động cho sản xuất kinh doanh cũng như minh bạch hóa thông
tin để tạo dự ng uy tín, lòng tin và thu hút được các nhà đầu tư.
40 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 3392 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i nhiều nước đang phát
triển khác5, trong khi nhiều hệ thống ngân hàng trên thế giới có tỉ lệ an toàn vốn quốc tế
(Basel II) cao hơn chuẩn mực hiện nay đang áp dụng tại Việt Nam. Đến cuối tháng
09/2011, có 01 NHTMNN, 02 NHTMCP, 01 công ty tài chính trong nước và 02 công ty
cho thuê tài chính không đạt mức 9% theo quy định, thậm chí âm do bị kinh doanh thua lỗ
lớn. Về mặt kỹ thuật, TCTD không đạt mức an toàn vốn tối thiểu theo quy định của Cơ
quan Thanh tra, giám sát thì TCTD đó không an toàn; TCTD không còn vốn tự có hay hệ
số an toàn vốn âm coi như phá sản.
- Số lượng các TCTD nhiều nhưng một bộ phận không nhỏ TCTD tiềm ẩn nhiều
rủi ro, tài chính kém lành mạnh, khả năng cạnh tranh thấp và dễ bị tổn thương khi môi
trường kinh doanh có sự thay đổi. Tính đến cuối tháng 09/2011, 30 NHTM có vốn điều
lệ dưới 5.000 tỷ đồng; 14 NHTM có tài sản dưới 30.000 tỷ đồng; 06/17 công ty tài chính
có tài sản dưới 3.000 tỷ đồng và 12/13 công ty cho thuê tài chính có vốn điều lệ dưới
500 tỉ, tài sản có dưới 2.000 tỷ đồng. Một số NHTM CP chuyển đổi từ mô hình
NHTMCP nông thôn có quy mô còn nhỏ, năng lực tài chính yếu và kém lành mạnh.
Nhiều công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, hoạt động
với quy mô nhỏ, không có hiệu quả đã và đang tác động đến an toàn hệ thống, hầu hết
các công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính thuộc sở hữu của các NHTM và Tập
đoàn Kinh tế, tổng công ty nhà nước không có khả năng cạnh tranh huy động vốn và hoạt
động chủ yếu phụ thuộc vào nguồn vốn của ngân hàng mẹ hoặc công ty mẹ.
Số lượng TCTD Việt Nam nhiều nhưng không mạnh, nhiều TCTD hoạt động
không chuyên nghiệp, chứa đựng rất nhiều rủi ro, yếu kém. Việc triển khai đồng bộ,
nghiêm túc, N ghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 trong lĩnh vực tiền tệ, ngân
hàng đã làm lộ rõ những yếu kém cố hữu và những TCTD hoạt động kém lành mạnh.
Khó khăn về thanh khoản chỉ là biểu hiện bên ngoài của những yếu kém nghiêm trọng
bên trong về năng lực, hiệu quả quản trị, t ài chính và kinh doanh của các TCTD đó. Các
TCTD yếu kém này là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho thị trường tiền
28
tệ rối loạn (lãi suất bị đẩy cao, cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm pháp luật, phá vỡ
kỷ cương, kỷ luật thị trường).
2.2. Sự ra đời của Đề án 254:
2.2.1. Mục tiêu cơ cấu lại hệ thống NHTM:
Cơ cấu lại căn bản, triệt để và toàn diện hệ thống các TCTD để đến năm 2020 phát
triển được hệ thống các TCTD đa năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả
vững chắc với cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô, loại hình có khả năng cạnh tranh lớn
hơn và dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng t iên tiến phù hợp với thông lệ,
chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài
chính, ngân hàng của nền kinh tế.
Trong giai đoạn 2011-2015, t ập trung lành mạnh hóa tình trạng t ài chính và củng cố
năng lực hoạt động của các TCTD; cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của
các TCTD; nâng cao trật tự, kỷ cương và nguy ên t ắc thị trường trong hoạt động ngân
hàng. Phấn đấu đến cuối năm 2015 hình thành được ít nhất 1- 2 ngân hàng thương mại có
quy mô và trình độ tương đương với các ngân hàng trong khu vực.
2.2.2. Quan điểm của đề án:
Thứ nhất, cơ cấu lại hệ thống các TCTD và từng TCTD là một quá trình thường
xuyên, liên t ục nhằm khắc phục những khó khăn, yếu kém và chủ động đối phó với những
thách thức để các TCTD không ngừng phát triển một cách an toàn, hiệu quả, vững chắc và
đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới.
Thứ hai, củng cố, phát triển hệ thống các TCTD đa dạng về sở hữu, quy mô và loại
hình phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế Việt N am trong giai đoạn
hiện nay. Hệ thống các TCTD bao gồm các ngân hàng lớn, hoạt động lành mạnh đóng vai
trò làm trụ cột trong hệ thống, có khả năng cạnh tranh trong khu vực, đồng thời có những
ngân hàng vừa và nhỏ, TCTD phi ngân hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu dịch vụ ngân
hàng của mọi t ầng lớp trong xã hội: Nâng cao vai trò, vị trí chi phối, dẫn dắt thị trường của
các TCTD Việt Nam, đặc biệt là bảo đảm các ngân hàng 100% vốn của Nhà nước và ngân
hàng có cổ phần chi phối của Nhà nước (sau đây gọi chung là ngân hàng thương mại nhà
nước) thật sự là lực lượng chủ lực, chủ đạo của hệ thống các TCTD, đồng thời có đủ năng
lực cạnh tranh trong nước và quốc tế.
Thứ ba, khuyến khích việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại các TCTD theo nguy ên tắc
tự nguyện, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và các quyền, nghĩa vụ kinh tế của các
bên có liên quan theo quy định của pháp luật. Để bảo đảm an toàn, ổn định của hệ thống,
một số TCTD có mức độ rủi ro, nguy cơ mất an toàn cao sẽ được áp dụng các biện pháp
xử lý đặc biệt theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, thực h iện cơ cấu lại toàn diện về tài chính, hoạt động, quản trị của các
TCTD theo các hình thức, biện pháp và lộ trình thích hợp. Hình thức và biện pháp cơ cấu
lại TCTD được áp dụng phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng TCTD.
Thứ năm, không để xảy ra đổ vỡ và mất an t oàn hoạt động ngân hàng ngoài tầm
kiểm soát của Nhà nước. Quá trình chấn chỉnh, củng cố và cơ cấu lại hệ thống các TCTD
hạn chế tới mức thấp nhất tổn thất và chi phí của ngân sách nhà nước cho xử lý những vấn
đề của hệ thống các TCTD.
2.2.3. Lộ trình thực hiện:
- Năm 2011 – 2012:
+ Đánh giá, xác định thực trạng hoạt động, chất lượng tài sản và nợ xấu của các
TCTD;
+ Tiến hành đánh giá và phân loại TCTD;
+ Xây dựng và triển khai phương án cơ cấu lại TCTD yếu kém và TCTD khác;
29
+ Tập trung hỗ trợ thanh khoản để bảo đảm khả năng chi trả của các TCTD;
+ Hoàn thành căn bản phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng của các ngân
hàng thương mại nhà nước (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam);
+ Triển khai sáp nhập, hợp nhất, mua lại TCTD;
+ Tăng vốn điều lệ và xử lý nợ xấu của các TCTD;
+ Cơ cấu lại hoạt động và hệ thống quản trị.
Kết quả dự kiến: Khả năng chi trả của toàn hệ thống các TCTD về cơ bản được bảo
đảm, đồng thời xác định, kiểm soát được tình hình của TCTD yếu kém để làm cơ sở cho
việc áp dụng các biện pháp cơ cấu lại ở giai đoạn sau.
- Năm 2013:
+ Hoàn thành sửa đổi, bổ sung các quy định an toàn hoạt động ngân hàng;
+ Tiếp tục triển khai lành mạnh hóa t ài chính của các TCTD, bao gồm xử lý nợ
xấu và tăng vốn điều lệ;
+ Triển khai cơ cấu lại hoạt động và quản trị;
+ Hoàn thành căn bản cơ cấu lại sở hữu, pháp nhân của ngân hàng thương mại cổ
phần yếu kém;
+ Hoàn thành cơ cấu lại các công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính.
Kết quả dự kiến: N guy cơ đổ vỡ hệ thống các TCTD được loại bỏ. Các TCTD yếu
kém được xử lý về cơ bản. Kỷ cương, kỷ luật trong lĩnh vực ngân hàng được lập lại và
củng cố.
- Năm 2014:
+ Hoàn thành căn bản cơ cấu lại tài chính của TCTD;
+ Các TCTD đáp ứng đầy đủ mức vốn điều lệ thực và các chuẩn mực, giới hạn an
toàn hoạt động ngân hàng theo quy định pháp luật;
+ Tiếp tục triển khai cơ cấu lại hoạt động và quản trị;
+ Tiếp tục sáp nhập, hợp nhất, mua lại theo nguyên tắc tự nguy ện.
Năm 2015: Hoàn thành cơ cấu lại hoạt động và quản trị.
Kết quả dự kiến: Tài chính và hoạt động kinh doanh được củng cố, chấn chỉnh và
lành mạnh hóa; hệ thống quản trị được cải thiện một bước quan trọng. Các TCTD đáp ứng
đủ các yêu cầu về vốn và tiêu chuẩn an t oàn hoạt động ngân hàng.
Triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp củng cố, chấn chỉnh và cơ cấu lại các
TCTD nêu trên, đến năm 2015 hệ thống các TCTD Việt Nam được lành mạnh hóa một
bước quan trọng về t ài chính và hoạt động, giảm bớt số lượng TCTD nhỏ, yếu kém và
hình thành một số ngân hàng thương mại có quy mô lớn hơn, có khả năng cạnh tranh
mạnh hơn, đặc biệt tăng cường được quy mô và vị trí chi phối của các ngân hàng thương
mại nhà nước trong hệ t hống ngân hàng. Quá trình củng cố, chấn chỉnh, cơ cấu lại hệ
thống các TCTD được tiến hành với chi phí thấp nhất, loại trừ nguy cơ đổ vỡ ngân hàng
ngoài tầm kiểm soát, bảo đảm giữ vững sự an toàn, ổn định của hệ thống, đồng thời không
gây tác động tiêu cực đến sự ổn định kinh tế vĩ mô, an ninh chính trị và trật tự xã hội
2.3. Kết quả sau gần 02 năm thực hiện đề án:
Thực hiện Quyết định số 254/2012/QĐ-TTg và Quyết định số 734/2012/QĐ-
NHNN về tái cơ cấu hệ thống các TCTD Việt Nam, NHNN đã tiến hành các giải pháp
đồng bộ và quyết liệt để chấn chỉnh hệ thống các TCTD vốn đang đứng trước rủi ro và
nhiều vấn đề cấp bách bắt nguồn từ suy thoái kinh tế toàn cầu.
Sau gần 02 năm thực hiện các biện pháp tái cơ cấu, ngành Ngân hàng Việt Nam
dường như đã vượt qua thời kỳ khó khăn nhất, hoàn thành cơ bản nhiệm vụ tái cơ cấu sở
hữu và tư cách pháp nhân của những ngân hàng cổ phần yếu kém, các công ty tài chính và
30
cho thuê tài chính.
NHNN đã chỉ đạo và tiến hành các biện pháp t ái cơ cấu đối với 09 ngân hàng
TM CP yếu kém, đồng thời giám sát và chỉ đạo sát sao quá trình tái cơ cấu tại những ngân
hàng này. Đến nay, tiền gửi và tài sản của cá nhân và doanh nghiệp tại những TCTD thuộc
diện tái cơ cấu đều được bảo đảm an toàn, lượng tiền gửi đã tăng đáng kể, nợ xấu giảm
dần cả về tỉ trọng tương đối và con số tuy ệt đối, nhiều sai phạm đã được khắc phục, tình
hình hoạt động đã được cải thiện một bước, hầu hết các ngân hàng đã có định hướng chiến
lược k inh doanh rõ ràng trong dài hạn và xây dựng lộ trình áp dụng qui trình quản trị hiện
đại theo thông lệ quốc tế.
Theo báo cáo của Cơ quan Thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước, tính đến thời
điểm này, hệ thống tín dụng đã giảm 06 tổ chức so với trước khi tiến hành tái cơ cấu (giảm
04 ngân hàng ngân hàng thương mại và 02 TCTD phi ngân hàng) thông qua hợp nhất, s áp
nhập, giải thể.
Cụ t hể, NHTM cổ phần Sài Gòn (SCB) tiến hành hợp nhất với NHTM cổ phần Việt
Nam Tín N ghĩa và NHTM cổ phần Đệ Nhất từ ngày 01/01/2012. Ngày 28/08/2012,
thương hiệu Habubank chính thức biến mất khỏi thị trường thông qua sáp nhập với SHB.
Ngày 08/09/2013, Westernbank sáp nhập với tổng công ty Tài chính cổ phần D ầu
khí (PVFC) thành PVcombank. Ngày 18/11/2013, NHNN có quyết định chấp thuận việc
sáp nhập DaiABank vào HDBank. Ngoài ra, nhiều ngân hàng lên kế hoạch tự tái cơ cấu
như Navibank, Trustbank, TPBank và GPBank.
Hiện nay, NHNN đang tiếp tục đánh giá và xác định thêm một số TCTD yếu kém
và đưa vào diện tái cơ cấu nhằm xử lý dứt điểm, cơ bản những TCTD yếu kém trong năm
2013 theo đúng mục tiêu và lộ trình đề ra.
Bên cạnh nhóm ngân hàng cổ phần, các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước
trên 50% đã hoàn thiện phương án tái cơ cấu. Nhìn chung, nhóm ngân hàng này đều tích
cực, chủ động thực hiện các giải pháp và cách thức tăng vốn điều lệ.
Cho đến nay, NHNN đã nhận được 24/25 phương án tái cơ cấu của các NHTM cổ
phần và đang khẩn trương phê duyệt các phương án t ái cơ cấu; đồng t hời chỉ đạo các ngân
hàng bổ sung, chỉnh sửa một số nội dung, đảm bảo những yêu cầu của Đề án tái cơ cấu đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. NHNN cũng tạo điều kiện và khuy ến khích các
TCTD nước ngoài góp vốn, mua cổ phần của các TCTD Việt Nam, nhất là TCTD yếu
kém nhằm đẩy nhanh tiến độ tái cơ cấu những TCTD này.
Đối với các quĩ t ín dụng nhân dân (QTDND), NHNN đã chỉ đạo QTDND hoàn
thành việc chuy ển mô hình hoạt động thành ngân hàng hợp tác xã nhằm thực hiện tốt mục
tiêu liên kết hệ thống, hỗ trợ tài chính và điều hòa vốn trong hệ thống các QTDND, giúp
các quĩ tín dụng cơ sở hoạt động hiệu quả theo mô hình hợp tác xã. NHNN cũng đang chỉ
đạo các đơn vị chức năng và hệ thống QTDND thực hiện tái cơ cấu theo đúng lộ trình và
có hiệu quả, đảm bảo cho hệ thống QTDND phát triển theo đúng mục t iêu đề ra.
Đối với các TCTD phi ngân hàng, NHNN đã chỉ đạo các TCTD phi ngân hàng xây
dựng và triển khai phương án tái cơ cấu. Cụ thể là, NHNN đã hướng dẫn từng TCTD phi
ngân hàng hoàn thiện phương án tái cơ cấu và chỉ đạo những TCTD yếu kém khẩn trương
hoàn thiện phương án t ái cơ cấu. Đến nay, NHNN đã tiếp nhận các phương án tái cơ cấu
của t ất cả 13 TCTD phi ngân hàng và đang tiến hành thẩm định những phương án này.
Bên cạnh các biện pháp giải thể, sáp nhập để tiết giảm chi phí hoạt động nhằm giải
quyết những vấn đề trước mắt, NHNN cũng đang nỗ lực thực hiện các bước cải cách tiếp
nhằm lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng và, đặc biệt là tăng cường tính minh bạch và
giám sát, xử lý vấn đề sở hữu chéo, góp phần kiểm soát hiệu quả hoạt động của các
TCTD. Kiên quyết áp dụng Thông tư 02/2013/TT-NHNN từ tháng 6/2014 tới đây, buộc
các TCTD phải phân loại nợ một cách chính xác, đồng thời xây dựng hệ thống quản trị
31
mới theo hướng phù hợp dần với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Sau những nỗ lực liên tục của NHNN và các bộ ngành liên quan, Công ty Quản lý
nợ xấu của các TCTD (VAMC) đã được hình thành và bắt đầu hoạt động từ tháng 9/2013.
Tính đến ngày 10/11/2013, VAMC đã nhận hồ sơ từ 20 TCTD đề nghị bán tổng cộng
khoảng 38.000 tỉ VND nợ xấu cho VAM C. Trong số này, VAMC đã mua lại trên 15.000 tỉ
VND nợ xấu từ 15 TCTD. Hiện nay, NHNN đang khẩn trương hoàn thiện những thủ tục
pháp lý cần thiết để hình thành thị trường mua bán nợ tập trung, tạo điều kiện cho các nhà
đầu tư trong nước và quốc tế tham gia vào việc mua bán nợ, góp phần đẩy nhanh tiến độ
xử lý nợ xấu tại các TCTD.
Ngày 12/11/2013, Thống đốc NHNN đã ban hành văn bản số 8421/NHNN-
TTGSNH về việc triển khai thực h iện Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/05/2013 của
Thủ tướng Chính phủ. Tại văn bản này, NHNN đã yêu cầu các TCTD xây dựng và triển
khai Kế hoạch xử lý nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng giai đoạn 2013-2015 ( là một
phần của Phương án tổng thể cơ cấu lại TCTD) để thực hiện Quyết định số 254/QĐ-TTg
ngày 01/03/2012 và Q uyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/05/2013 của Thủ tướng Chính
phủ.
Nhìn chung, với giải pháp đồng bộ và quyết liệt của NHNN, Đề án tái cơ cấu các
TCTD Việt Nam đang tiến triển t ích cực theo đúng lộ trình đề ra, ngành Ngân hàng Việt
Nam sẽ thực hiện thành công những mục tiêu tái cơ cấu giai đoạn 2011-2015, là nền tảng
để hệ thống Ngân hàng Việt Nam phát triển bền vững, an toàn trong xu thế toàn cầu hóa
và hội nhập kinh t ế quốc t ế.
Đánh giá chung tiến trình tái cơ cấu ngân hàng sau 02 năm thực hiện:
Kết quả đạt được: Tái cơ cấu ngân hàng đã đạt được kết quả bước đầu. Trong đó,
đáng chú ý là an toàn hệ thống các TCTD được cải thiện rõ rệt; nguy cơ đổ vỡ hệ t hống
từng bước được đẩy lùi; tài sản của Nhà nước và nhân dân được bảo đảm an t oàn; tiền gửi
của nhân dân vẫn chi trả bình thường, kể cả ở ngân hàng yếu kém. Các TCTD yếu kém có
nguy cơ đổ vỡ đã được NHNN kiểm soát chặt chẽ và từng bước được xử lý bằng những
giải pháp thích hợp nhờ đó thị trường tiền tệ dần đi vào ổn định. Các TCTD từng bước cơ
cấu lại hoạt động theo hướng lành mạnh; tích cực lành mạnh hóa tài chính thông qua tăng
vốn điều lệ để cải thiện các chỉ t iêu lành mạnh tài chính và an toàn hoạt động; hệ t hống
quản trị, kiểm soát và kiểm toán nội bộ được chú trọng củng cố.
Những khó khăn, thách thức: Tiến trình t ái cơ cấu ngân hàng còn chậm so với kế
hoạch đặt ra; tuy tốc độ tăng nợ xấu có giảm nhưng quy mô nợ xấu còn rất lớn và suốt cả
năm 2012 vẫn chưa có biện pháp xử lý cơ bản khoản nợ này; công tác quản trị, điều hành
của một số TCTD còn thấp ; năng lực thanh tra, giám sát của NHNN còn yếu... Do vậy, rủi
ro hệ thống vẫn còn tồn tại và một cuộc khủng hoảng thanh khoản vẫn có thể xảy ra bất cứ
lúc nào do ảnh hưởng của nợ xấu.
Đồng thời, một vấn đề quan trọng là số chi phí cho tái cơ cấu là bao nhiêu và lấy từ
những nguồn lực nào thì chưa đư ợc chỉ rõ trong Đề án cơ cấu lại các TCTD. Các chi phí
liên quan tới tái cơ cấu hệ thống ngân hàng sẽ là lớn, vì hệ thống ngân hàng của Việt Nam
là một trong những hệ thống lớn nhất so với hệ thống ngân hàng của các nước có cùng
hạng điểm tín nhiệm. Nguồn tài chính thực hiện tái cơ cấu bao gồm: Nguồn tái cấp vốn
cho các ngân hàng gặp yếu kém về thanh khoản, nguồn xóa nợ và xử lý nợ xấu, chi phí xử
lý và giải quyết các TCTD đổ vỡ, chi phí có liên quan đến việc thực hiện những giải pháp
tái cơ cấu chính.
Trong Đề án đã chỉ ra NHNN sẽ chịu trách nhiệm tái cấp vốn cho các TCTD yếu
kém, sử dụng nguồn trích lập dự phòng rủi ro của các TCTD để xóa nợ và bán nợ qua
Công ty Mua bán nợ và tài sản t ồn đọng của doanh nghiệp thuộc Bộ Tài chính và các công
ty mua bán nợ của những TCTD; đối với các khoản nợ do chủ trương cho vay hỗ trợ chính
32
sách của Chính phủ, dùng nguồn NSNN để xóa nợ. Đối với nguồn vốn xử lý nợ xấu, theo
dự kiến, Chính phủ không dùng t iền ngân sách để xóa nợ cho các ngân hàng.
Bên cạnh đó, các chi phí khác liên quan đến việc thực hiện những giải pháp tái cơ
cấu của chính các TCTD, như chi phí đánh giá chất lượng tài sản; sắp xếp lại, giải thể các
TCTD thua lỗ, phá sản; chi phí bồi t hường cho người gửi tiền; nâng cao năng lực quản trị,
hoạt động của các TCTD; chi phí thoái vốn, rút khỏi lĩnh vực đầu tư phi tài chính… thậm
chí cũng chưa được đề cập đến.
Ngoài ra, mặc dù quan điểm của Đề án Tái cơ cấu là khuyến khích các ngân hàng
tự nguyện sáp nhập, NHNN sẽ hỗ trợ thanh khoản trong trường hợp các ngân hàng quá
yếu kém, không có khả năng chi trả. Tuy nhiên, nguồn tiền này lấy từ đâu lại là vấn đề khi
mà chính cơ quan quản lý tài chính của Chính phủ là Bộ Tài chính cũng không xác định
được Quỹ dành cho tái cơ cấu là bao nhiêu.
Như vậy, sau một năm tái cơ cấu ngân hàng những kết quả đạt được còn chưa như
mong muốn bởi một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, khuôn khổ pháp lý cho việc cơ cấu lại các TCTD nói chung chưa hoàn
thiện, như thiếu cơ chế can thiệp, xử lý của Nhà nước đối với các TCTD yếu kém dẫn đến
xử lý chưa kịp thời, dứt điểm pháp nhân của các TCTD yếu kém; hầu hết các NHTM Nhà
nước đã được cổ phần hóa nên hạn chế khả năng tham gia xử lý các TCTD yếu kém thông
qua sáp nhập, mua lại; thiếu các cơ chế, chính sách, khuy ến khích miễn, giảm thuế, phí để
hỗ trợ TCTD trong xử lý nợ xấu và các tài sản bảo đảm tiền vay cũng như trong các giao
dịch sáp nhập, hợp nhất, mua lại của quá trình tái cơ cấu TCTD.
Thứ hai, việc cơ cấu lại hệ thống các TCTD và xử lý các TCTD yếu kém là vấn đề
hết sứ c phức t ạp, nhạy cảm, liên quan đến quyền, nghĩa vụ, lợi ích của nhiều bênvà mất
nhiều thời gian để thanh tra, kiểm toán nhằm đánh giá thực trạng tài chính của từng ngân
hàng với nhiều thủ tục, quy định. Trong khi đó, việc xử lý các TCTD yếu kém đòi hỏi phải
nhanh để hạn chế tổn thất và ảnh hưởng đến an toàn hệ thống. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân làm cho việc xử lý các NHTM cổ phần yếu kém thời gian qua chậm
hơn so với kế hoạch dự kiến.
Thứ ba, sự thiếu hợp tác hoặc chống đối từ phía cổ đông lớn của các NHTM cổ
phần yếu kém đối với các chính sách, biện pháp cơ cấu lại của NHNN đã gây khó khăn
cho quá trình cơ cấu lại các ngân hàng này.
Thứ tư, thiếu nguồn lực tài chính công để có thể hỗ trợ cho việc xử lý nợ xấu, lành
mạnh hóa và nâng cao năng lực tài chính của hệ thống TCTD, từ đó làm chậm tiến trình
cơ cấu lại TCTD.
2.4. Những vấn đề đặt ra cho giai đoạn 2013 – 2015:
Một là, hoàn thiện một bước quan trọng khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, hoạt động
ngân hàng, đặc biệt là các quy định an toàn hoạt động ngân hàng để hỗ trợ cho quá
trình tái cơ cấu các TCTD . Cụ thể, NHNN đã đưa ra một loạt các quy định nhằm tạo điều
kiện cho các NHTM tái cơ cấu lại nợ, giãn nợ, giảm lãi suất, đẩy mạnh thủ tục pháp lý để
xử lý nợ,... NHNN cũng trình Chính phủ để Chính phủ trình Quốc hội cho phép miễn giảm
một số loại t huế, phí đối với các ngân hàng được xử lý mua, bán, sáp nhập. Đặc biệt,
NHNN đã trình Chính phủ Đề án thành lập Công ty Mua bán nợ quốc gia tập trung để xử
lý trên quy mô lớn nợ xấu nhằm khơi thông dòng chảy vốn tín dụng cho nền kinh tế.
Ngoài ra, những nội dung của chương trình tái cơ cấu trong giai đoạn ba cũng đã
được NHNN chuẩn bị bằng việc ban hành một số văn bản, như: Thông tư số 02/2013/TT-
NHNN ngày 21/01/2013 quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp lập dự
phòng rủi ro và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của TCTD... để thay thế
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN về việc ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập
33
và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD; các
quyết định về chỉ tiêu an toàn hệ thống, về công khai, minh bạch tài chính, về chuẩn mực
kế toán và báo cáo t ài chính,... Như vậy, có thể nói, năm 2013 là năm trọng tâm của
chương trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng để hướng tới mục tiêu có thể kết thúc chương
trình vào năm 2015.
Hai là, tập trung xử lý nợ xấu bằng nhiều biện pháp. Giải pháp tổng thể xử lý nợ
xấu và các “nút thắt” gây ra nợ xấu bao gồm: “phá băng” thị trường bất động sản, giải
quyết hàng tồn kho cho doanh nghiệp, thúc đẩy tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. NHNN
cần có chính sách kiểm soát để các NHTM nâng cao chất lượng t ài sản, kiểm soát chất
lượng tín dụng, giảm nợ xấu và điều quan trọng là cần đẩy nhanh, dứt điểm tái cơ cấu các
TCTD. Đẩy nhanh tái cơ cấu đầu tư công, bao gồm cả việc xử lý nợ tồn đọng xây dựng cơ
bản. Kinh nghiệm quốc t ế và thực tiễn Việt Nam cho thấy có 6 phương thức xử lý nợ xấu
chủ yếu sau: (1) Cơ cấu lại nợ; (2) Miễn giảm lãi và phí tín dụng; (3) Mua, bán nợ; (4) Sử
dụng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý; (5) Xử lý, phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ; (6)
Chuyển nợ thành vốn góp.
Ba l à, thúc đẩy hoạt động mua lại, sáp nhập, nâng cao khả năng tự chủ tài chính
của ngân hàng. Tăng nhanh quy mô và năng lực t ài chính thông qua t ăng vốn để bảo đảm
đủ mức vốn tự có theo tiêu chuẩn an toàn vốn của Hiệp ước vốn Basel 02 đến năm 2015,
thông qua phát hành cổ phiếu bổ sung và nguồn vốn từ Chính phủ; mua lại, sáp nhập
TCTD và mở rộng nguồn vốn huy động.
Bốn l à, tăng cường quản trị rủi ro và nâng cao hi ệu lực và hiệu quả của thanh
tra, giám sát ngân hàng. Bởi vì hoạt động quản trị rủi ro trong toàn hệ thống ngân hàng
hiện còn kém xa so với các chuẩn mực quốc tế. Theo Đề án cơ cấu lại các TCTD, đến cuối
năm 2015 các TCTD mới đạt mức vốn tự có đủ để bù đắp rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường
và rủi ro tác nghiệp theo quy định của Hiệp ước vốn Basel 2. Trong khi đó, các văn bản
ngân hàng còn nhiều bất cập và chế tài chưa đủ mạnh khiến cho những NHTM Việt Nam
chưa thực sự quan t âm đến vấn đề quản trị rủi ro theo chuẩn mực quốc t ế.
Năm là, giải quyết vấn đề sở hữu chéo của các ngân hàng. NHNN cần rà soát kỹ
lưỡng hơn để bảo đảm giới hạn về tỷ lệ sở hữu theo Điều 55 của Luật các TCTD.
Sáu là, tăng cường minh bạch thông tin. NHNN đã ban hành Thông tư số
35/2011/TT-NHNN (bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/04/2012) quy định về việc công bố và
cung cấp thông tin của NHNN. M ặc dù việc công bố thông tin này so với trước đây đã cho
thấy nỗ lực minh bạch hóa hoạt động của ngành ngân hàng, đồng thời phù hợp với các
bước đi khác trong quá trình tái cấu trúc tổng thể toàn ngành, nhưng những thông tin này
vẫn cần được công bố đến công chúng bởi với cơ chế minh bạch t hông t in, nhất là công
khai về xử lý nợ xấu sẽ tạo ra một hệ thống ngân hàng phát triển lành mạnh, làm nền tảng
cho việc tái cơ cấu toàn bộ nền kinh tế.
'
III. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kiến nghị về mặt chính sách:
Một là, nâng cao hiệu quả công tác quản trị điều hành: so với các NHTM của
các nước có nền kinh t ế phát triển thì công t ác quản trị, điều hành của các NHTM VN hiện
nay còn thua kém, do đó các NHTM trong nước cần nâng cao công tác quản trị điều hành
ở tất cả các khâu như: tổ chức, nhân sự, quản trị tài sản và nợ, quản trị rủi ro thanh khoản,
lãi suất, tỷ giá…tất cả những vấn đề trên là rất bức thiết, quan trọng nhằm t ạo ra những
định hướng đúng đắn để dẫn dắt các định chế t ài chính hoạt động an toàn và hiệu quả hơn.
Hai là, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hành lang pháp lý: thực tế cho thấy, hành
lang pháp lý ở lĩnh vực ngân hàng còn nhiều bất cập, do đó các cấp có thẩm quyền cần xây
dựng khung pháp lý về hoạt động ngân hàng thật công khai, minh bạch và công bằng
34
nhằm tạo cho các NHTM được bình đẳng trong cạnh tranh và bảo đảm an toàn hệ thống,
áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn đối với hoạt động tiền
tệ, ngân hàng, hình thành môi trường lành mạnh; xóa bỏ phân biệt đối xử giữa các NHTM
và loại bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp trong lĩnh vực ngân hàng.
Ba là, tăng cường năng lực tài chính của các NHTM: NHTM cần chủ động nâng
cao năng lực tài chính của mình trên một số phương diện chính như: vốn tự có, chất lượng
tài sản và khả năng sinh lời. Để thực hiện được điều đó, các NHTM cần phải từng bước
tăng vốn điều lệ, xây dựng lộ trình tăng vốn điều lệ cho phù hợp với điều hiện hoàn cảnh
thực tế tại VN, cũng như đảm bảo cho các NHTM nâng cao sức cạnh tranh và chủ động
hội nhập trong khu vực và thế giới; trích lập đầy đủ các khoản dự phòng rủi ro nhằm minh
bạch hóa tình hình tài chính và t ài sản có rủi ro; khi cho vay hoặc đầu tư mới phải thực
hiện đúng quy trình cho vay và đầu tư, chấp hành nghiêm chỉnh việc cho vay và đầu tư
vào những doanh nghiệp sân sau của ngân hàng…
Bốn là, đổi mới và kiện toàn công tác nhân sự: nhân sự là một yếu tố vô cùng
quan trọng đối với sự phát triển của hệ thống các ngân hàng. Một đội ngũ cán bộ không có
hoặc hạn chế về trình độ, yếu kém về đạo đức thì sẽ khó lòng đưa NHTM phát triển theo
đúng mục tiêu, định hướng đã đề ra, thậm chí sẽ đẩy ngân hàng xuống “vực sâu” của
khủng hoảng. Do đó, NHNN và các NHTM cần đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ,
điều đó cần được thực hiện từ khâu tuyển dụng, đào tạo đến khâu bổ nhiệm cán bộ, làm
sao để xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực trình độ, có bản lĩnh và đạo đức nghề
nghiệp.
Năm là, tiếp tục chủ động hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và
ngân hàng, quá trình hội nhập này phải tính toán cụ thể sao cho phù hợp với năng lực thực
tế của các NHTM, cũng như khả năng quản lý và kiểm soát của các cơ quan quản lý nhà
nước.
Sáu là, NHNN cần chủ động và linh hoạt hơn trong việc điều hành chích sách
tiền tệ: Căn cứ vào thực t ế và dự báo tình hình kinh tế xã hội, hoạt động t ài chính ngân
hàng ở trong và ngoài nước, NHNN cần chủ động và linh hoạt việc sử dụng công cụ của
chính sách tiền tệ để điều hành hành chính sách t iền tệ theo hướng ổn định thanh khoản,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định tỷ giá; thường xuyên theo dõi kiểm tra kiểm soát
việc tăng trưởng tín dụng, các khoản bảo lãnh; kiên quyết chỉ đạo các NHTM thực hiện
hạch toán đầy đủ các khoản dự phòng rủi ro và xử lý rủi ro theo đúng quy định; bám sát
vào diễn biến trên t hị trường ngoại hối, NHNN thực h iện điều chỉnh tỷ giá linh hoạt, phù
hợp với các cân đối vĩ mô, hướng tới mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền VN, thúc đẩy xuất
khẩu; từng bước đưa lãi suất thực hiện theo đúng nguyên tắc thị trường.
Bảy là, cơ cấu lại mạng lưới giao dịch của từng NHTM: Sau một thời gian
NHNN cho phép các NHTM mở rộng mạng lưới giao dịch, một số NHTM tiến hành mở
rộng nhanh mạng lưới mà chưa tính toán kỹ đến khả năng quản trị điều hành, chất lượng
nguồn nhân lực...nhiều ngân hàng trên cùng một địa bàn đã thành lập nhiều chi nhánh,
phòng giao dịch (đặc biệt là trên các đô thị lớn như: Hà Nội và TP.HCM , tạo ra sự cạnh
tranh không lành mạnh nội bộ giữa các NHTM nhằm giành giật khách hàng làm cho thị
trường tiền t ệ đôi khi rất hỗn loạn. Do đó, NHNN tiếp tục yêu cầu các NHTM cơ cấu lại
mạng lưới giao dịch sao cho trong nội bộ các NHTM không cạnh tranh chồng chéo lên
nhau. Tuy nhiên, NHNN và bản thân các NHTM cũng cần cẩn trọng trong việc cơ cấu
mạng lưới, xem xét cụ thể từng trường hợp, có những trường hợp cần sáp nhập, giải thể,
nhưng có những trường hợp có thể thay đổi nhân sự chủ chốt của các chi nhánh để thực
hiện điều hành cho có hiệu quả hơn, tránh xáo trộn trong khâu tổ chức cán bộ cũng như
tâm lý hoang mang của khách hàng.
35
Tám là, tiế p tục đổi mới công nghệ ngân hàng: Mặc dù việc ứng dụng công nghệ
ngân hàng của các NHTM có bước phát triển về chất trong thời gian qua, song so với các
NHTM ở những nước tiên tiến trên thế giới thì các NHTM ở VN vẫn còn có hoảng cách
khá xa. Do đó, hệ thống các NHTM trong nước cần tiếp tục đổi mới, ứng dụng công nghệ
hiện đại nhằm phát triển hơn nữa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên nền
tảng công nghệ, tăng tính bảo mật thông tin của khách hàng...
3.2. Giải pháp tái cấu trúc ngân hàng:
3.2.1. Tái cấu trúc nợ của khu vực doanh nghiệp
Trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, bao giờ cũng phải giải quyết vấn đề
nợ xấu đối với khu vực doanh nghiệp (DN). Để giải quyết vấn đề này có nhiều hướng tiếp
cận khác nhau.
Nếu DN lâm vào tình trạng khó khăn tạm thời, không trả nợ và lãi đúng hạn do lãi
suất t ăng cao và do những bất lợi khách quan khác nhưng về lâu dài DN vẫn có triển vọng
phát triển, thì ngân hàng có thể tạo điều kiện cho DN cơ cấu lại các khoản nợ để DN có
thể tiếp tục hoạt động được. Điều này không chỉ giúp bản thân DN mà còn có thể giúp
chính ngân hàng bảo toàn được các khoản cho vay, hơn là cho các DN phá sản và ngân
hàng chỉ thu lại được khoản nợ của mình trong quá trình thanh lý tài sản.
Nếu tình hình nợ xấu của DN có nguy cơ ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh tế nói
chung thì những sự hỗ trợ chính thức từ nhà nước là rất cần thiết. Thực tế tại tại Nhật Bản
cho thấy, theo Chương trình phục hồi công nghiệp và t ài chính giai đoạn cuối 1990 –
2006, song song hỗ trợ ngân hàng, Chính phủ nước này đã tiến hành hỗ trợ DN, đặc biệt
hỗ trợ điều chỉnh chiến lược kinh doanh, các D N tập trung vào các ngành kinh doanh
chính và thoái vốn khỏi những ngành không mang lại hiệu quả. Trung Quốc trong giai
đoạn cuối những năm 1990 lại xử lý nợ của DN nhà nước thông qua phương thức khá hiệu
quả là hoán đổi nợ của DN thành vốn cổ phần của bốn công ty quản lý tài sản nhà nước.
Tại Mexico, năm 1983, Chính phủ nước này đã thành lập quỹ tín thác FICORCA do
NHTW quản lý, nhằm hỗ trợ các DN trong quá trình tái cơ cấu nợ.
M ột phần đáng kể của các khoản vay trong khu vực ngân hàng là cho các tập đoàn
kinh t ế và DNNN. Vì vậy, cải cách các tập đoàn kinh tế và DNNN là rất quan trọng. Chiến
lược cải cách của các nhà chức trách hiện tại chủ yếu tập trung vào việc giữ lại các doanh
nghiệp lớn, làm ăn có lãi với quyền lực độc quyền lớn hoặc nằm trong các lĩnh vực chiến
lược của Nhà nước. Bước đi đầu tiên là tình hình tài chính thực sự của các tập đoàn kinh tế
và DNNN phải được công bố cho công chúng, bao gồm cả báo cáo thu nhập và cân đối kế
toán được kiểm toán và sự vay mượn của các doanh nghiệp này từ hệ thống ngân hàng.
Những doanh nghiệp này sử dụng tiền công quỹ cho các hoạt động của họ và công chúng
cần được biết về các hoạt động này. Sau khi tình trạng tài chính thực sự của các doanh
nghiệp được công khai, mới thực hiện các bước để cải thiện hoạt động và cơ cấu quản trị.
Các kế hoạch này phải được xây dựng, bao gồm cả dự toán chi phí cho ngân sách nhà
nước trong tương lai gần và được thực hiện trong một thời gian nhất định.
3.2.2. Hỗ trợ hệ thống ngân hàng
Sự đa dạng trong các biện pháp tái cơ cấu ngân hàng đã buộc Chính phủ các nước
phải thành lập và/hoặc chỉ định một cơ quan đầu mối điều phối các chính sách. Tuy nhiên,
khi Chính phủ tiến hành các chính sách hỗ trợ hệ thống ngân hàng luôn xảy ra nguy cơ
làm tăng rủi ro đạo đức. Chính sách hỗ trợ có thể khuyến khích những hành động chấp
nhận rủi ro quá mức của các ngân hàng vì nếu thất bại đã có Chính phủ hỗ trợ. Do vậy, khi
thiết kế chính sách hỗ trợ, Chính phủ các nước thường cố gắng đảm bảo các hành vi rủi ro
đạo đức phải ở mức thấp nhất.
Với trường hợp khi cả hệ thống ngân hàng gặp khó khăn chung, NHTW có thể áp
dụng nhiều chính sách khác nhau như cung cấp các khoản cho vay với các ngân hàng gặp
36
căng thẳng về thanh khoản, khi đó lượng vốn cho vay nên phù hợp với giá trị của tài sản
thế chấp của ngân hàng và nên chỉ tiến hành trong một khoảng thời gian cụ thể. Một biện
pháp mà NHTW có thể sử dụng là giảm dự trữ bắt buộc hoặc t ăng lãi suất trả cho khoản
dự trữ bắt buộc, nhờ đó các ngân hàng thương mại có thể t ăng thanh khoản, giúp hỗ trợ
quá trình tái cơ cấu. Ngoài ra, có thể sử dụng chính sách tiền tệ nới lỏng với mục t iêu giảm
lãi suất. Thông qua giảm lãi suất, cầu tín dụng tăng có thể giúp các ngân hàng củng cố
hoạt động và lợi nhuận của mình. Tuy nhiên, khi áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng có
thể dẫn tới lạm phát, do vậy, cần phải cân nhắc rất kỹ khi sử dụng chính sách này.
M ột cách trực tiếp để giúp đỡ các ngân hàng gặp khó khăn là bơm vốn. Để thực
hiện việc bơm vốn cho ngân hàng, trước tiên phải có sự phân loại ngân hàng. Theo lý
thuyết thì có ba loại ngân hàng:
Nhóm thứ nhất, gồm các ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh, có năng lực,
quy mô đủ lớn để tiếp tục phát triển thành những ngân hàng trụ cột trong hệ thống NHTM.
Nhóm thứ hai là các ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh nhưng quy mô còn
nhỏ, khó có điều kiện để phát triển, mở rộng quy mô hơn nữa. Các TCTD loại này dự kiến
sẽ được NHNN quy định lĩnh vực hoạt động để đảm bảo phù hợp với phân khúc của thị
trường, nhằm phát huy được tiềm năng, thế mạnh và đảm bảo an toàn cho toàn thể hệ
thống.
Nhóm thứ ba là nhóm TCTD đang có tình hình tài chính khó khăn, buộc phải thực
hiện tái cơ cấu bằng nhiều hình thức. Thông qua các biện pháp khác nhau, NHNN sẽ giám
sát chặt chẽ và t iến hành chỉ đạo sắp xếp để không gây ra những xáo trộn, đổ vỡ, đồng t hời
bảo đảm tối đa quyền lợi của người gửi tiền.
Như vậy, chỉ có nhóm ngân hàng thứ hai mới được tiếp nhận hỗ trợ vốn của cơ
quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, việc phân loại trên không hề dễ dàng và dễ gây ra tranh
cãi.
M ột điểm đáng lưu ý là một số nước thành lập cơ quan chuy ên biệt để bơm vốn cho
hệ thống ngân hàng, điều này sẽ giúp tránh sự liên quan trực tiếp giữa hoạt động bơm vốn
và ngân sách nhà nước. Danamodal của M alaysia là một ví dụ. Danamodal được tài trợ
một phần bởi NHTW nhưng phần lớn là từ khoản phát hành trái phiếu được Chính phủ
bảo lãnh có thời hạn từ 5-10 năm. Bên cạnh đó, ở các nước, trong mọi trường hợp, để
được bơm vốn các ngân hàng đều phải thỏa mãn những điều kiện đi kèm. Ví dụ Thái Lan
buộc các ngân hàng phải tăng dự phòng, tự tăng vốn tương ứng với những tỷ lệ nhất định
và vốn của Nhà nước được ưu tiên hơn.
3.2.3. Quản lý nợ xấu
Nói chung, nợ xấu trong nền kinh tế phải được xử lý bởi nguyên tắc thị trường,
đảm bảo hiệu quả kinh tế. Khi vấn đề nợ xấu xảy ra ở mức độ lớn, bản thân hệ thống ngân
hàng khó có thể giải quyết, điều này có thể ảnh hưởng đến việc cung cấp t ín dụng cho nền
kinh t ế, lúc đó sẽ cần sự can thiệp của nhà nước. Giải pháp hỗ trợ của nhà nước chỉ nên
thực h iện đối với số nợ xấu còn lại sau khi TCTD đã tự xử lý và theo nguy ên tắc đảm bảo
hài hòa hiệu quả kinh t ế và xã hội.
Để tái cơ cấu ngân hàng thành công, việc tháo gỡ nút thắt nợ xấu hiện nay đóng vai
trò rất quan trọng, thậm chí mang tính quyết định. Trước khối lượng nợ xấu lớn như hiện
nay, giải pháp khả thi là phải vực dậy thị trường bất động sản, giải quy ết hàng tồn kho cho
DN, giảm tỷ lệ nợ xấu của DN - giúp giảm tỷ lệ nợ xấu ngân hàng, kết hợp với chính sách
mua nợ xấu, xử lý nợ xấu dứt điểm từ phía Nhà nước. NHNN rất cần có chính sách kiểm
soát để các NHTM phải nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng và
giảm nợ xấu. Tập trung xử lý nợ xấu của các NHTM nhà nước để sớm làm sạch bảng cân
đối của NHTM nhà nước.
37
Cần đảm bảo tính nhất quán trong việc định nghĩa nợ xấu cũng như mức độ nâng
cao thông tin liên quan đến nợ xấu, bởi chỉ khi nắm rõ được tình hình nợ xấu mới có được
giải pháp cụ thể, phù hợp. Đối với VAMC, cần có giải pháp định giá h iệu quả tài sản cho
thị trường, VAMC không nên vội vã xử lý bất kỳ tài sản nào được chuyển giao và quan
trọng là tăng cường tính minh bạch để củng cố niềm tin trong quá trình thực hiện. Việc
mua bán nợ xấu của VAM C giúp các TCTD giảm nhanh nợ xấu, làm sạch bảng cân đối kế
toán, lành mạnh hóa tình hình tài chính. Hơn nữa, thông qua việc t ái cấp vốn các trái phiếu
đặc biệt của VAMC, khi cần thiết, NHNN vẫn có thể bơm thanh khoản cho các NHTM.
Nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho việc hình thành, phát triển
và quản lý thị trường mua bán nợ; ban hành danh sách các công ty thẩm định giá, công ty
kế toán, kiểm toán đủ tiêu chuẩn tham gia quá trình xử lý nợ xấu để xác định giá trị thị
trường của doanh nghiệp, tài sản và các khoản nợ xấu. Theo đó, việc định giá tài sản theo
giá trị thị trường của VAMC sẽ thuận lợi, hiệu quả hơn. Và sau khi mua các khoản nợ xấu,
VAM C sẽ tiến hành phân loại các khoản nợ, khách hàng vay... Việc xử lý, bán t ài sản là
biện pháp áp dụng cuối cùng trong trường hợp khách hàng được đánh giá là không có triển
vọng phục hồi khả năng trả nợ”.
3.2.4. Thúc đẩy hoạt động M&A, nâng cao khả năng tự chủ tài chính của ngân hàng
Tăng nhanh quy mô và năng lực tài chính thông qua t ăng vốn để bảo đảm đủ mức
vốn tự có theo tiêu chuẩn an toàn vốn của Basel II đến năm 2015 thông qua phát hành cổ
phiếu bổ sung và nguồn vốn từ Chính phủ; M ua lại, sáp nhập TCTD và mở rộng nguồn
vốn huy động.
Khuyến khích các ngân hàng chủ động sáp nhập theo nguyên tắc t hị trường trong
thời hạn nhất định. Nếu các ngân hàng không chủ động sáp nhập thì NHNN cần phân t ách
và sáp nhập theo các nhóm:
Nhóm 1 bao gồm các ngân hàng quy mô vừa và nhỏ, thường xuyên mất thanh
khoản, cần sáp nhập với các ngân hàng có quy mô lớn hơn, có tính thanh khoản tốt nhằm
đảm bảo hệ số an toàn về vốn và các hệ số thanh khoản khác;
Nhóm 02 bao gồm các ngân hàng có quy mô vừa và nhỏ, có tính thanh khoản trung
bình thì cần thu hep phạm vi cho phù hợp với quy mô nhằm nâng cao chuyên môn hóa và
khả năng quản trị rủi ro;
Nhóm 03 bao gồm những ngân hàng có quy mô lớn, có năng lực quản lý tốt, cơ cấu
tài sản lành mạnh thì tạo cơ hội để phát triển thành ngân hàng trọng điểm, sẽ là trụ cột đủ
sức cạnh tranh với khu vực và chịu đựng cho nền kinh tế khi có những biến động lớn trên
thị trường.
Tiếp tục s áp nhập các ngân hàng yếu kém: đối với các NHTM thuộc nhóm 1; trước
khi sáp nhập hoặc phá sản, nhà nước cần thận trọng để xử lý các khoản phải thu và phải
trả cho khách hàng, như thuê một công ty kiểm toán độc lập để định giá đưa vào vốn góp(
đối với ngân hàng sáp nhập), hoặc thanh lý tài sản của NHTM để có cơ s ở để giải quyết
những khoản nợ mà NHTM huy động và vay của các tổ chức, cá nhân; song theo kinh
nghiệm của Trung Quốc thì các khoản gốc, lãi hợp pháp của các chủ nợ nước ngoài và
người gửi tiền cá nhân phải được ưu tiên chi trả đầu tiên. Nếu việc sáp nhập được thực
hiện một cách bài bản thì sẽ giúp các NHTM hoạt động được tốt hơn, đảm bảo cho hệ
thống NHTM hoạt động ổn định, cạnh tranh lành mạnh.
Trong điều kiện ổn định thì cần nâng cao vốn chủ sở hữu trên cơ sở lợi nhuận từ
hoạt động kinh doanh và hoàn thiện chính sách phân phối lợi nhuận cho phù hợp với đặc
điểm kinh doanh của mỗi ngân hàng. Trường hợp cần thiết có thể hạn chế NHTM cổ phần
chia cổ tức, lợi nhuận; kiểm soát chặt chẽ việc chuyển nhượng cổ phần, vốn góp và t ài sản
của NHTM cổ phần; giảm dư nợ tín dụng và hạn chế mở rộng quy mô hoạt động.
3.2.5. Tăng cường khả năng huy động vốn và sử dụng vốn hiệu quả.
38
Thực tế cho thấy tiềm năng huy động vốn nhàn rỗi từ dân cư là rất lớn vì tỷ lệ thanh
toán bằng tiền mặt hiện nay còn rất cao. Vì vậy, tăng cường huy động vốn sẽ giúp cho các
ngân hàng phát triển ổn định. Bên cạnh đó, cần chú trọng t ăng huy động vốn trung và dài
hạn thông qua kênh phát hành các công cụ tài chính. Trên thị trường tài chính trong nước,
có thể phát hành trái phiếu có khả năng chuyển đổi - Đây là hình thức huy động vốn linh
hoạt vì sẽ chủ động được kỳ hạn và quy mô vốn. Trên thị trường tài chính quốc tế có thể
phát hành trái phiếu, cổ phiếu vì với xu thế hội nhập thì thị trường ngân hàng trong nước
là địa điểm đầu tư khá hấp dẫn đối với NHTM nước ngoài.
Về sử dụng vốn, không nên đặt mục tiêu tín dụng là hoạt động chủ yếu trong sử
dụng vốn của ngân hàng vì có nguy cơ rủi ro, làm cho thu nhập của ngân hàng giảm sút do
bị thu hẹp chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay vì canh tranh gay gắt. Do
vậy, nên mở rộng hình thức sử dụng vốn khác như thuê mua tài chính, liên doanh liên kết,
bao thanh toán, tài trợ xuất khẩu, bảo lãnh cho các công ty phát hành trái phiếu dài hạn…
Hiện nay mọi nhu cầu vốn của nền kinh t ế chủ yếu đều dựa vào hệ thống ngân
hàng, trong khi các kênh khác của thị trường vốn lại chưa phát triển và/hoặc hoạt động
đúng chức. Về phía các chính sách vĩ mô khác, cần tiếp tục thực hiện các giải pháp tái cấu
trúc thị trường t ài chính, khuyến khích sự phát triển của thị trường trái phiếu, đặc biệt là
trái phiếu doanh nghiệp, thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển bền vững và hiệu quả
để thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế. Đồng thời về
phía các doanh nghiệp, để có thể huy động được nguồn vốn trên thị trường trái phiếu
doanh nghiệp, cần phải chủ động xây dựng cơ cấu tài chính bền vững, hoạt động hiệu quả,
đa dạng hóa nguồn vốn huy động cho sản xuất kinh doanh cũng như minh bạch hóa thông
tin để tạo dựng uy tín, lòng tin và thu hút được các nhà đầu tư.
3.2.6. Tăng vốn và sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài
Theo nhiều chuyên gia tài chính, nếu có sự tham gia của nhà đầu tư (NĐT) nước
ngoài, quá trình tái cơ cấu của hệ thống tín dụng trong nước sẽ đẩy nhanh được tiến độ.
Nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài sẽ giúp làm sạch bảng cân đối kế toán của ngân hàng được
tái cơ cấu, giải quy ết một phần vấn đề thanh khoản. Quan trọng hơn, sự tham gia của nhà
đầu tư nước ngoài sẽ góp phần nâng cao tính minh bạch, giảm thiểu các giao dịch với các
bên liên quan trong hoạt động của các ngân hàng. NHNN đang nghiên cứu để trình Chính
phủ có thể điều chỉnh một số tỷ lệ giới hạn theo hướng mở rộng cho một số đối tượng nhà
đầu tư nước ngoài (NH nước ngoài) tham gia góp vốn, mua cổ phần với các TCTD trong
nước.
3.2.7. Triệt để xử lý sở hữu chéo
Hạn chế tình trạng sở hữu, đầu tư chéo, thông qua các biện pháp thanh tra, kiểm tra
sở hữu chéo, đầu tư chéo, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy định của pháp luật.
Làm minh bạch các mối quan hệ rắc rối này để kiểm soát tình trạng thâu tóm ngân hàng,
gây ra nợ xấu cũng là biện pháp quan trọng để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.
Nếu không được thanh tra, giám sát chặt chẽ, nghiêm minh, rất nhiều TCTD sẽ lợi
dụng quyền uy của nhóm lợi ích, đảo nợ xấu thành “nợ tốt” và tiếp tục lũng đoạn. Với
những TCTD này cần nghiêm khắc đưa ra khỏi hệ thống ngân hàng nếu phát hiện họ vi
phạm nguyên tắc hoạt động tài chính. Biện pháp giảm đầu tư, sở hữu chéo hữu hiệu nhất
là NHNN phải t iến hành đánh giá thận trọng nguồn lực t ài chính của các cổ đông khi tham
gia góp vốn, mua cổ phần tại các TCTD để từ chối những nhà đầu tư không có đủ năng
lực tài chính.
NHNN đang triển khai thanh tra đánh giá thực trạng tài chính, cổ đông của khoảng
30 ngân hàng thương mại. N goài ra, NHNN cũng đang soạn t hảo các văn bản quy phạm
pháp luật để xử lý các bất cập hiện hành, nhất là liên quan đến sở hữu chéo. Cần đánh giá
đúng thực trạng sở hữu chéo của hệ thống ngân hàng, từng bước triển khai xử lý vi phạm
39
pháp luật về sở hữu, phòng ngừa và hạn chế sự lạm dụng, chi phối của cổ đông lớn, nhóm
cổ đông lớn và người có liên quan tại các TCTD; phối hợp với các bộ, ngành, địa phương
triển khai lộ trình thoái vốn của doanh nghiệp nhà nước tại các TCTD. Hiện nay, với
những biện pháp kiểm tra từ xa, giám sát t ại chỗ, NHNN hoàn toàn có khả năng kiểm soát
các luồng tiền khi NHTM tăng vốn. Việc tăng vốn tại các TCTD được Cơ quan Thanh tra
giám sát NHNN theo dõi và kiểm tra rất kỹ lưỡng về nguồn tiền. Các giao dịch của các
bên liên quan, hoặc các khách hàng, nhóm công ty có liên hệ với nhau đều được Cơ quan
Thanh tra giám sát và Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) giám sát kỹ.
3.2.8. Quyết tâm thực hiện đúng lộ trình tái cơ cấu
Hoạt động tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ít nhiều có thể ảnh hưởng đến hoạt động
của doanh nghiệp và khách hàng. Bởi vậy, trong quá trình tái cơ cấu, cần phải theo dõi
diễn biến thị trường, nâng cao công t ác thanh tra giám sát nhằm điều chỉnh chính sách kịp
thời, tránh những biến động bất lợi
Để hạn chế tâm lý bầy đàn khi thực hiện tái cơ cấu thì nên mở rộng công t ác tuy ên
truyền đến dân cư để không t ạo trạng thái người dân đổ xô đi rút tiền hoặc chuyển sang
các kênh đầu tư khác. Vì vậy quá trình tái cơ cấu nên thực hiện thí điểm một số ngân hàng
để rút kinh nghiệm và quá trình tái cơ cấu nên thực hiện từ từ. Có thể sáp nhập theo lãnh
vực hoạt động trước, sau đó để bộ máy các cấp đồng bộ thì sẽ sáp nhập bộ máy cấp cao.
Khi sáp nhập thì nên tiến hành từng bước nhằm tránh những t âm lý hoang mang từ dân cư,
doanh nghiệp. Có thể s áp nhập các ngân hàng theo từng nhóm ngân hàng nhằm giải quyết
nguồn lực đủ để trợ giúp thanh khoản từ NHNN. Như vậy sẽ tránh hiện tượng phải bơm
khối lượng tiền lớn vào các ngân hàng để trợ giúp.
Bên cạnh các biện pháp giải thể, sáp nhập để tiết giảm chi phí hoạt động nhằm giải
quyết những vấn đề trước mắt, NHNN cũng đang nỗ lực thực hiện các bước cải cách tiếp
nhằm lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng và, đặc biệt là tăng cường tính minh bạch và
giám sát, xử lý vấn đề sở hữu chéo, góp phần kiểm soát hiệu quả hoạt động của các
TCTD. Kiên quyết áp dụng Thông tư 02/2013/TT-NHNN từ tháng 6/2014 tới đây, buộc
các TCTD phải phân loại nợ một cách chính xác, đồng t hời xây dựng hệ thống quản trị
mới theo hướng phù hợp dần với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
3.2.9. Áp dụng các hệ thống quản trị quốc tế
Việt Nam cần thúc đẩy công tác quản trị của hệ t hống ngân hàng t iệm cận với
những chuẩn mực quốc tế trên các khía cạnh thực thi luật, minh bạch, quản trị rủi ro, mở
rộng cơ cấu sở hữu, giảm ảnh hưởng cổ đông lớn, t ăng cường kiểm tra, giám sát... Để thực
hiện các mục tiêu này, cần đảm bảo thực thi Basel II vào năm 2015, áp dụng các chuẩn
mực kế toán quốc tế về trích lập dự phòng, Thông tư 02 cần thực thi đúng lộ trình đề ra…
Hội nhập quốc tế đòi hỏi ngân hàng phải có năng lực tài chính mạnh, kinh nghiệm
quản trị rủi ro tốt, đặc b iệt là có quy trình nghiệp vụ chuẩn mực tiên tiến và công nghệ
hiện đại. Đổi mới hệ thống quản trị ngân hàng phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế
tiên tiến, đặc b iệt tăng cường hiện đại hóa hệ thống quản trị rủi ro, nâng cao hiệu quả hệ
thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ để các NHTM có khả năng tự kiểm soát một cách có
hiệu quả các loại rủi ro trong hoạt động, trước hết là chất lượng tín dụng và khả năng
thanh khoản.
Các NHTM cần hiện đại hóa hệ thống công nghệ, t ạo điều kiện phát triển dịch vụ
ngân hàng mới và nâng cao chất lượng dịch vụ, đồng thời hỗ trợ quản trị ngân hàng có
hiệu quả. Mỗi ngân hàng cần chủ động t iếp cận vốn thị trường t ài chính quốc tế nhằm tìm
kiếm và cải thiện cơ cấu nguồn vốn, mở rộng thị phần, tiếp thu công nghệ h iện đại và nâng
cao khả năng quản trị trong hoạt động của mình.
Có thể thấy quá trình t ái cơ cấu hệ t hống ngân hàng là một quá trình lâu dài, bao
gồm nhiều biện pháp được triển khai theo từng bước, từ những biện pháp khẩn cấp lập lại
40
lòng t in đến việc t ạo dựng những cơ chế để xử lý những ngân hàng buộc phải sắp xếp. Bên
cạnh tính pháp lý, yếu tố con người cũng rất quan trọng. Hệ thống thanh tra giám sát ngân
hàng cần phải được đào tạo và trang bị các kỹ năng để thực thi các luật định và các nhà
quản lý ngân hàng cần phải thấy được các lợi ích thiết thực khi tuân thủ nghiêm túc các
luật định phòng ngừa rủi ro và thi hành các tiêu chuẩn kế toán, kiểm toán quốc tế. Nói
cách khác, khuôn khổ pháp lý xung quanh viêc tái cấu trúc ngân hàng cần đảm bảo một cơ
cấu t hưởng phạt nhất quán để trừng trị các hành động gian lận, đầu cơ, đồng thời tưởng
thưởng thái độ tuân thủ pháp luật về phòng ngừa rủi ro.
Từ năm 2013 đến năm 2015, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ tập trung v ào nâng
cao các hiệu quả an toàn, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế và củng cố, nâng chất hoạt
động quản tr ị. Đặc biệt, Chính phủ sẽ tập trung xây dựng các nhóm ngân hàng lành mạnh,
có đủ sức làm trụ cột cho hoạt động ngân hàng trong nước và phấn đấu để có thể có từ 1-
2 ngân hàng đạt tiêu chuẩn khu vực.
Như vậy, hầu như trong mọi quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, Chính phủ và
NHTW luôn đóng một vai trò quan trọng. Các cơ quan nhà nước nên sớm nhận biết những
vấn đề đối với hệ thống ngân hàng và ban hành những chính sách điều chỉnh kịp thời, vì
kinh nghiệm thực tiễn tại một số nước cho thấy những biện pháp phòng trừ k ịp thời sẽ ít
gây tốn kém hơn là khi vấn đề đã trầm trọng. Những biện pháp được các cơ quan nhà
nước áp dụng và hiệu quả của chúng cũng cần được cân nhắc trong tổng thể điều kiện
kinh tế v ĩ mô.
KẾT LUẬN
Tái cơ cấu lại các NHTM là chủ trương đúng đắn của Đ ảng và Nhà nước ta nhằm
đưa các NHTM hoạt động lành mạnh và hiệu quả hơn, qua đó góp phần đưa hệ thống tài
chính của đất nước ta phát triển ổn định. Đây là một bài toán khó, đòi hỏi cần được sự
quan tâm ủng hộ và giám sát của cả hệ thống chính trị. Trong khuôn khổ bài báo này, tác
giả đã đánh giá một số khía cạnh về thành tựu và thách thức đang đặt ra đối với hệ thống
NHTM, qua đó gợi ý một số cơ chế chính sách nhằm tái cơ cấu lại hệ thống NHTM hoạt
động lành mạnh, an toàn và hiệu quả hơn trong thời gian tới. Hy vọng rằng những giải
pháp đề xuất của tác giả sẽ góp phần nhỏ bé vào việc tái cơ cấu lại hệ thống NHTM ở
nước t a trong giai đoạn hiện nay.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- noi_dung_tieu_luan_nvnhtm_992.pdf