Tiểu luận Tài chính quốc tế Khủng hoảng tài chính thế giới

Nền kinh tế cũng như sức khỏe của con người, có những lúc “ khỏe mạnh”, cũng như cũng có lúc “suy yếu”. Và hiện nay, nền kinh tế thế giới nói chung cũng như nền kinh tế Việt Nam nói riêng đang lâm vào tình trạng khủng hoảng. Từ một sự khủng hoảng thanh khoản của M ỹ đến sự khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới, là một sự minh chứng cho sự liên kết và ảnh hưởng chặt chẽ giữa các nền kinh tế trên thế giới. Sự khủng hoảng không dừng lại trên phạm vi 1 quốc gia mà đã lan khắp các châu lục. Để vượt qua sự khủng hoảng này, tất cả các nước không những cần có những chính sách riêng cho từng quốc gia của mình mà phải kết hợp với nhau để thực hiện các chính sách liên kết về tỷ giả, lãi suất Việt Nam, chúng ta cũng có những chính sách để giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng chung của thế giới như chính sách kích cầu, hỗ trợ doanh nghiệp

pdf65 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3490 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tài chính quốc tế Khủng hoảng tài chính thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lợi từ xuất khẩu chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn.Với Việt Nam cũng vậy, hiện nay 60% GDP của chúng ta là từ xuất khẩu, mà M ỹ là t hị trường nhập khẩu quan trọng các mặt hàng dệt may, da giày, thuỷ sản của Việt Nam. Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 39 Khủng hoảng tài chính xuất phát từ Hoa Kỳ dẫn đến toàn cầu là yếu tố các doanh nghiệp cho là nguyên nhân quan trọng đưa đến khó khăn cho xuất khẩu. Hiệp hội Chế biến thủy sản cho biết, Mỹ đang thắt chặt tín dụng nên nhà nhập khẩu phải bán xong mới trả tiền cho DN Việt Nam. Vì vậy DN Việt Nam không có vốn để tiếp tục sản xuất. Không chỉ Hoa Kỳ, các thị trường xuất khẩu khác như Nhật, EU, ASEAN, châu Phi… cũng đều bị thu hẹp. Ngoài việc giảm đơn hàng, giá bán hàng bán cũng bị giảm. Điều này khó khăn cho DN xuất khẩu, vì giá thành sản phẩm không giảm do giá nguyên liệu đầu vào, giá xăng dầu, vận tải, chi phí cho nhân công… vẫn không giảm hơn trước. Chẳng hạn ngành chế biến gỗ, 80% nguyên liệu phải nhập từ Indonesia, Malaysia, Brazil… Trong khi đó, cước vận chuyển hàng hóa tăng đến 40%. Theo đại diện Hiệp hội Gỗ - Lâm sản Việt Nam, hiện có nguy cơ 20% DN trong lĩnh vực này bị phá sản, 30% khó khăn, chỉ khoảng 50% trụ được... Tuy nhiên, tính chung từ đầu năm 2008, đến thời điểm tháng 10/2008, xuất khẩu vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá tốt. Cụ thể, các mặt hàng chủ lực vẫn đạt kim ngạch xuất khẩu và tỷ lệ tăng trưởng tốt. Dầu thô đạt 9,4 tỷ USD, tăng 43% kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái. Tương tự, than đá đá 1,2 tỷ USD, tăng 57%; dệt may 7,6 tỷ USD, tăng 20%; giày dép 3,7 tỷ tăng 16%; điện tử và máy tính 2,2 tỷ USD, tăng 27,3%; gạo 2,6 tỷ USD, tăng 83%; cà phê 1,69 tỷ USD, tăng 9.5%; cao su 1,39 tỷ USD, tăng 28,9%; sản phẩm gỗ đạt 2,23 tỷ USD tăng 18,6%...Xuất khẩu trong hai tháng đầu năm 2009 của Việt Nam vẫn sụt giảm. Tuy nhiên, so với nhập khẩu có mức sụt giảm lớn hơn rất nhiều thì dù không có thành tích tăng trưởng nhưng bất ngờ chúng ta lại có "thành tích" xuất siêu. Như vậy, xuất siêu xuất phát chính từ việc nhập khẩu giảm chứ không phải do xuất khẩu tăng. Đây được xem là một đột biến bất thường hơn là một dấu hiệu tăng trưởng.Trong danh mục hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam thì chỉ có 4 mặt hàng tăng, trong đó hai mặt hàng tăng đáng kể, còn gần 20 mặt hàng khác lại giảm. Tất cả các mặt hàng chủ lực như dầu khí, dệt may, thủy sản... đều giảm mạnh. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào một số thị trường lớn như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, ASEAN… đều giảm trên 20%. Hai mặt hàng tăng là lúa gạo tăng 113% và kim loại quý tăng hơn 3.000%. Từ biểu đồ sau, ta thấy được sự sụt giảm đáng kể kim ngạch xuất nhập khẩu ở một số thị trường chủ yếu của việc năm từ sau cuộc khủng hoảng: Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 40 Biểu đồ 11: Kim ngạch XNK các thị trường chủ yếu năm 2008-2009 (Nguồn: Số liệu tổng hợp từ Tổng cục thống kê) Không riêng gì Việt Nam mà nhiều quốc gia ở châu Á còn phải chịu những tác động sâu xa hơn từ việc thị trường xuất khẩu lớn nhất bị suy thoái. Mỹ là một nền kinh tế 70% tiêu dùng. M ột khi mà người tiêu dùng Mỹ thắt chặt hầu bao, không còn vung tiền chi tiêu mua sắm ôtô, tivi, tủ lạnh, thực phẩm... thì các nền kinh tế dựa chủ yếu vào nguồn lợi từ xuất khẩu chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Biểu đồ 12 : KNXK sang một số thị trường lớn từ năm 2007 đến năm 2009 0 2.000 4.000 6.000 8.000 10.000 12.000 14.000 ASEAN EU Trung Quốc Nhật Bản Hoa Kỳ 2007 2008 2009 Nguồn: http:www.moit.gov. vn Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 41 3.4.3. Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Với cuộc khủng hoảng tài chính lan rộng trên phạm vi toàn cầu như hiện nay, có thể nói hầu hết các doanh nghiệp M ỹ và Châu Âu sẽ giảm đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, nên việc thu hút FDI ở hai thị trường này của Việt Nam đều bị tác động đáng kể. Hơn thế nữa, chi phí huy động vốn toàn cầu có thể ngày càng tăng do biên độ tín dụng gia tăng dẫn tới khả năng thu hút đầu tư bị hạn chế; tiêu dùng có thể giảm sút dẫn tới việc giải ngân FDI giảm.Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bị chững lại, thậm chí vốn đã cam kết sẽ thực hiện trễ hơn bởi khoảng 80% vốn đầu tư vào Việt Nam là đi vay. Khi không đi vay được thì nhà đầu tư sẽ khó giải ngân vào Việt Nam. Vốn cam kết thì lớn, nhưng vốn thực hiện có thể thấp, tình hình giải ngân những tháng cuối năm sẽ gặp khó khăn. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam vốn cao và thường mang tính dài hạn nên sẽ không bị ảnh hưởng nhiều lắm, nhưng vốn đầu tư gián tiếp (FII) thì có thể có chịu ảnh hưởng ở mức độ nào đó. 3.4.4. Đối với tình trạng thất nghiệp Kinh tế thế giới chao đảo hình thành nên "cơn lốc sa thải" với tốc độ lây lan nhanh chóng. Trong số các doanh nghiệp buộc phải cắt giảm việc làm, xuất hiện cả những cái tên "đình đám" nhất như: Yahoo, General Electric, Coca-Cola, Goldman Sachs, Citigroup... và tất nhiên là tất cả các hãng xe hơi danh giá. Nhiều người cho rằng cuộc khủng hoảng tài chính đang ở tầm xa, ảnh hưởng của nó đến Việt Nam sẽ không lớn. Tuy nhiên, trên phương diện này, khi xét về thị trường lao động trong nước, chúng ta cũng cần nhìn nhận một cách tỉnh táo. Những biến động từ cuộc khủng hoảng cùng với sức ép từ việc điều chỉnh tiền lương đã khiến ngay cả các đại gia lớn như tập đoàn FPT, Công ty Sony tại Việt Nam, công ty sản xuất và lắp ráp ô tô Trường Hải... phải lên kế hoạch điều chỉnh nhân sự. Cụ thể: Bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 6/2008, tình hình kinh doanh của FPT bị ảnh hưởng mạnh, nhiều dự án về công nghệ thông tin có khả năng bị cắt giảm do đồng đôla khan hiếm. Vì vậy, để đảm bảo kế hoạch tăng trưởng, FPT đã phải cơ cấu và thu hẹp quy mô nhân sự, khoảng 1.000 nhân viên của tập đoàn này buộc phải thôi việc (chiếm 10% nhân sự FPT). Tháng 9/2008, công ty Sony quyết định đóng cửa nhà máy sản xuất tại Việt Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 42 Nam sau 14 năm hoạt động, chuyển sang kinh doanh thương mại hàng nhập khẩu nguyên chiếc đã khiến gần 200 công nhân rơi vào tình trạng thất nghiệp. Khó khăn trong kinh doanh, sản lượng ô tô bị giảm sút (chỉ đạt 1.400 chiếc tính đến hết tháng 6), Tổng công ty Công nghiệp ôtô (Vinamotor) cũng đã phải giảm bớt số lao động dôi dư. Một số đơn vị thành viên của tổng công ty này như: Nhà máy Ôtô 1-5, Nhà máy Ôtô 3-2 đã tạm dừng ký hợp đồng với lao động thời vụ (3 tháng, 6 tháng, 9 tháng). Cũng trong hoàn cảnh tương tự, Công ty sản xuất và lắp ráp ôtô Trường Hải (khu kinh tế mở Chu Lai, Núi Thành, Quảng Nam) có thông báo cắt giảm 30% số lao động ở nhiều bộ phận (tương đương gần 500 công nhân). Từ cuối năm 2008 đến nay, nhiều doanh nghiệp trong các khu công nghiệp đã cắt giảm một lượng lao động đáng kể do suy giảm kinh tế. Nhìn chung, tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam hiện nay là khoảng 4,65%, tăng 0,01% so với năm 2007. Trong khi đó, tỷ lệ lao động thiếu việc làm hiện nay là 5,1%, tăng 0,2% so với năm 2007. Đáng chú ý, tỷ lệ thiếu việc làm nông thôn lên tới 6,1%, trong khi tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 2,3%. 3.4.5. Đối với du lịch Trước tình hình ảm đạm của kinh tế thế giới, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam cũng có dấu hiệu giảm sút, ngành du lịch Việt Nam đang nỗ lực tìm kiếm các biện pháp để vượt qua khó khăn, duy trì tăng trưởng. Bắt đầu t ừ tháng 6/2008, mức tăng trưởng của du lịch quốc tế đã có dấu hiệu suy giảm. Năm 2009, do nền kinh tế t iếp tục còn khó khăn nên mức tăng trưởng du lịch theo Tổ chức Du lịch Thế giới chỉ từ 0% đến 2%. Châu Á – Thái Bình Dương là những vùng có suy giảm nhanh chóng nhất. Ảnh hưởng xấu của cuộc khủng hoảng đã tác động đến tất cả các nước: Trong Quý III, khách tới Trung Quốc giảm 9,3%, khách tới Hồng Kông giảm 2,2%, khách tới Nhật Bản giảm 2%, tới Singapore giảm 5,2%, tới Việt Nam giảm 6,9% so với cùng kỳ năm 2007. Tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong cả năm 2008 đạt khoảng 4,2 triệu lượt; khách du lịch nội địa ước đạt 20 triệu lượt; thu nhập xã hội từ du lịch năm 2008 ước đạt 60.000 tỷ đồng. Theo thống kê của các doanh nghiệp lữ hành, tình trạng khách du lịch giảm tới nay vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi đáng kể. Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 43 Nhìn chung, từ năm 2009 đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã phục hồi khá tốt trong bối cảnh khó khăn chung của kinh tế thế giới và khu vực. Tăng trưởng kinh tế đã tăng rõ rệt hơn theo thời gian, quí sau cao hơn quí trước. Năm 2009 đạt mức tăng trưởng GDP 5,32% là khá tốt trong khu vực. Các nước trong khu vực đều bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thường nước nào tăng trưởng tốt thì đạt 4-5%. Như vậy, nền kinh tế Việt Nam đang bắt đầu hồi phục và quay lại con đường phát triển như đã kỳ vọng. 4. GIẢI PHÁP NHẰM VƯỢT QUA KHỦNG HOẢNG CỦA CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM 4.1. Giải pháp của các quốc gia, tổ chức trên Thế giới Khủng hoảng tài chính diễn ra nhưng nguyên nhân của khủng hoảng tài chính vẫn đang là vấn đề tranh cãi của các nhà kinh tế, các nhà nghiên cứu và các chính trị gia trên thế giới trong đó nổi bật 02 quan điểm về nguyên nhân của khủng hoảng: (1) do mất cân đối toàn cầu dẫn đến dòng chảy tài chính chảy vào Mỹ tạo áp lực khiến lãi suất của Mỹ được duy trì ở mức thấp, từ đó phát sinh những khoản cho vay tín dụng dưới chuẩn; (2) do hệ thống giám sát tài chính bị buông lỏng, các chỉ số tài chính của các tổ chức tài chính phi ngân hàng không được quan tâm trong khi tính ràng buộc lẫn nhau của các tổ chức tài chính này với hệ thống tài chính là khá cao và là nguyên nhân gây nên khủng hoảng. Mặc dù có sự khác nhau về quan điểm nhìn nhận nguyên nhân của khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay, nhưng thực tế khủng hoảng tài chính toàn cầu đã xảy ra và tác động ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế thế giới là rất lớn. Sự lan rộng của khủng hoảng khiến cho Chính phủ nhiều nước phải bắt tay vào đối phó khủng hoảng nhằm hạn chế tác động xấu của khủng hoảng tài chính. Cụ thể có một số biện pháp ứng phó với khủng hoảng như sau: Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 44 STT Các biện pháp ứng phó của Chính phủ các nước 01 Quốc hữu hóa toàn bộ hoặc một phần ngân hàng và quỹ tư nhân 02 Kiểm soát các quỹ đầu tư 03 Mua cổ phần hoặc tài sản từ các tổ chức tài chính 04 Bãi bỏ thuế đối với các khoản đầu tư nước ngoài 05 Hạ lãi suất cơ bản 06 Vay tiền từ tổ chức tài chính quốc tế 07 Bảo lãnh tất cả các khoản tiền gửi, trái phiếu và nợ của một số ngân hàng lớn trong 02 năm. 08 Khuyến khích sáp nhập ngân hàng yếu kém 09 Cho phép một số ngân hàng tuyên bố phá sản 10 Mua lại các khoản nợ của các ngân hàng đang có vấn đề hoặc bị phá sản 11 Cấp t iền cho ngân hàng để trả các khoản nợ nước ngoài 12 Huy động tiền từ các nhà đầu tư toàn cầu để chống đỡ cơn khủng hoảng 13 Nới lỏng quy định cho phép các công ty mua cổ phiếu của chính họ  IMF: Tổ chức này đang thực hiện hình thức hiệp định vay song phương nhằm củng cố thêm nguồn vốn cho vay các nước thành viên để đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 45 Đồng thời IMF cũng lần đầu tiên phát hành kỳ phiếu có trả lãi để bỏ sung nguồn vốn cho vay của mình. IMF cũng tăng tường cho vay ưu đãi và cân nhắc việc sử dụng các khoản thu từ việc bán đi một phần vàng đang nắm giữ của quỹ để tăng khả năng cho vay đối với các nước nghèo, chịu ảnh hưởng nặng ề của cuocj khủng hoảng. IMF dang thực hiện tốt tiến độ mục tiêu cho vay 250 tỉ USD đối với chính phủ các nước thành viên, được xem là một phần trong quá trình gia tăng nguồn vốn cho vay của Quỹ lên gấp 3 lần để đạt được mục tiêu 750 tỉ USD. Hành động này cũng nằm trong quá trình bơm tiền mặt cho nền kinh tế toàn cầu thông qua việc giải ngân 250 tỉ đô trong tài sản dự trữ của IM F bằng hình thức quyền rút vốn đặc biệt (SDRs) IMF đang trong quá trình hoàn thành mục tiêu vay song phương với các nước thành viên. M ột số thỏa thuận vay đã ký kết với Nhật Bản (100 tỉ USD), Canada (10 tỉ USD) và Nauy (4,5 tỉ USD). Ngoài ra, các thành viên của công đồng Châu Âu cam kết khoảng 100 tỉ USD và Thụy Sỹ cam kết 10 tỉ USD.  Mỹ : Đứng trước tình hình hết sức khó khăn của phố Wall, Bộ Tài Chính và Cục dự trữ liên bang M ỹ đã công bố kế hoạch giải cứu thị trường với tổng giá trị là 700 tỷ USD chủ yếu để mua lại các khoảng nợ xấu của các định chế tài chính. Hình 3: Gói cứu trợ kinh tế của Mỹ Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 46 Dưới đây là 3 nhóm giải pháp can thiệp chính của chính phủ M ỹ: Giải pháp 1 - Các nghiệp vụ hoán đổi tài sản - TAF (Term Auction Facility) và TSLF (Term Securities Lending Facility): Vào cuối năm 2007 và đầu 2008, cuộc khủng hoảng cho vay bất động sản dưới chuẩn đã khiến cho nhiều ngân hàng thương mại (NHTM ) và tổ chức đầu tư tài chính lớn rơi vào tình trạng không còn khả năng chi trả, có thể rơi vào tình trạng phá sản. Vì các tổ chức đầu tư tài chính không được phép tiếp cận FED thông qua thị trường mở và vì các tổ chức tài chính đã cạn kiệt trái phiếu chính phủ (T-bonds), nên FED đã đưa ra hai công cụ điều hành tiền tệ hoàn toàn mới là TAF và TSLF để đối phó với tình trạng này. Về bản chất, hai công cụ này cho phép các NHTM và một số tổ chức tài chính lớn được phép dùng các loại trái phiếu thương mại để vay tiền mặt hoặc tráo đổi (swap) lấy trái phiếu chính phủ từ FED. FED hy vọng rằng hai công cụ này có thể giải quyết được vấn đề thanh khoản, đồng thời vẫn duy trì được các nghiệp vụ truyền thống của mình (như thiết lập các mức lãi suất cơ sở và lãi suất chiết khấu, và các nghiệp vụ thị trường mở). Nghiệp vụ hoán đổi tài sản này tuy không làm thay đổi tổng tài sản của FED nhưng đã làm giảm chất lượng tài sản của FED, tức đồng USD. Đồ thị trong Hình 2 dưới đây thể hiện cấu trúc tài sản của FED. Nó cho ta thấy từ tháng 12/2007 những tài sản tốt của FED như trái phiếu chính phủ (sercurity held outright) đã bị giảm đáng kể, và thay vào đó là những tài sản xấu mà các NHTM và tổ chức tài chính mang ra hoán đổi (thể hiện trên đồ thị là các mục term auction credits, commercial paper và other assets). Biểu đồ 13: Cấu trúc tài sản trong bảng cân đối tài sản của FED, 6/28/2007-1/15/2009 Đơn vị: triệu USD Nguồn: Bagus and Schiml (2010). Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 47 Giải pháp 2 - Gói kích cầu trị giá 168 tỷ USD. Vào tháng 3/2008, chính quyền Bush đưa ra một gói kích cầu trị giá 168 tỷ USD nhằm giảm thuế cho tất cả những người đóng thuế ở M ỹ cũng như cho các doanh nghiệp đầu tư mới. Gói kích cầu này, như ta đã thấy, không những không ngăn chặn được suy thoái do chu kỳ kinh doanh, mà lại còn khiến cho các nhà đầu tư tiếp tục lao vào đầu cơ các loại nguyên liệu thô vì hy vọng rằng nền kinh tế sẽ hồi phục. Hệ quả là giá các loại nguyên liệu thô đã bị đấy lên cao chưa từng có, đẩy hệ thống sản xuất toàn cầu vào tình trạng mất cân đối nghiêm trọng. Giải pháp 3 - Chính sách giải cứu các tổ chức tài chính sắp phá sản. Chính sách này được chính phủ Mỹ thực hiện từ tháng 3-2008. Những gói giải cứu này tất nhiên đã giúp cho những tổ chức được nhận tiền cứu trợ không bị phá sản. Tuy nhiên, hậu quả mà nó gây ra không chỉ đơn thuần là làm tăng gánh nặng cho những người đóng thuế cũng như ngăn cản những doanh nghiệp tốt còn lại phát triển. Điều nguy hiểm nhất của những chương trình cứu trợ này là chúng tạo ra sự bất định chính quyền (regime uncertainty), tương tự như New Deal của chính quyền Roosevelt tạo ra trong thời kỳ 1933-1938. Ngoài ra, ngay khi khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra, Fed bắt đầu can thiệp bằng cách hạ lãi suất và tăng mua MBS. Đến khi tình hình phát triển thành khủng hoảng tài chính từ tháng 8 năm 2007, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) đã tiếp tục tiến hành các biện pháp nới lỏng tiền tệ để tăng thanh khoản cho các tổ chức tài chính. Cụ thể là lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng đã được giảm từ 5,25% qua 6 đợt xuống còn 2% chỉ trong vòng chưa đầy 8 tháng (18/9/2007-30/4/2008).[34] Lãi suất này sau đó còn tiếp tục giảm và đến ngày 16/12/2008 chỉ còn 0,25%, mức lãi suất gần 0 hiếm thấy. Fed còn thực hiện nghiệp vụ thị trường mở (mua lại các trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ mà các tổ chức tài chính nước này có) và hạ lãi suất tái chiết khấu. Giữa tháng 12 năm 2008, Fed tuyên bố có kế hoạch thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ mặt lượng. Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 48 Biểu đồ 14: Mua repo MBS của Fed tăng vọt vào cuối năm 2007. Với việc FED cho các định chế tài chính như AIG, Citigroup vay trực tiếp cũng như mua lại các khoản nợ xấu của Fannie Mae, Freddie Mae, và các ngân hàng cho vay cầm cố khác, FED đã không chỉ dừng ở việc hoán đổi tài sản tốt lấy tài sản xấu mà còn trực tiếp bơm ra ngoài thị trường hàng ngàn tỷ USD để đối lấy những tài sản ngày càng xấu hơn. Hình 2 cho thấy đến cuối năm 2008, tài sản tốt của FED chỉ còn chiếm khoảng hơn 30% so với mức 95% của cuối năm 2007.  Các nước Châu Âu Ngày 08/10/2008, trong một động thái chưa từng có, Chính phủ Anh vừa tuyên bố một chương trình giải cứu khổng lồ dành cho hệ thống ngân hàng của nước này. Nội dung kế hoạch :Chính phủ Anh sẽ mua lại lượng cổ phiếu ưu đãi trị giá tới 50 tỷ Bảng, tương đương 87 tỷ USD, của nhiều ngân hàng và tổ chức tín dụng nhà ở, 200 tỷ Bảng để tái cấp vốn cho các ngân hàng và 250 tỷ Bảng để bảo lãnh nợ cho các ngân hàng. Số tiền đầu tư vào mỗi ngân hàng sẽ khác nhau và phụ thuộc vào một số yếu tố như cổ tức, lương lãnh đạo của các ngân hàng… Chính phủ Anh cũng yêu cầu các ngân hàng được rót vốn phải cho các doanh nghiệp nhỏ và người sở hữu nhà được vay tiền. Hiện đã có 8 ngân hàng và tổ chức tín dụng nhà ở của Anh khẳng định họ sẽ tham gia vào chương Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 49 trình này là Abbey, Barclays, HBOS, HSBC, Lloyds TSB, Nationwide Building Society, RBS và Standard Chartered. Ngày 13/10/08, 3 ngân hàng hàng đầu của Anh là Royal Bank of Scotland, HBOS và Lloyds đã tiếp nhận khoản vốn khổng lồ 37 tỷ Bảng (64 tỷ USD) từ Chính phủ nước này như một phần trong kế hoạch giải cứu ngành ngân hàng của Anh. 13/10/08 Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) cho biết, các ngân hàng trung ương lớn sẽ cung cấp USD với khối lượng không giới hạn cho các tổ chức tài chính nhằm phục hồi niềm tin và đảm bảo thanh khoản cho thị trường. Theo đó, Ngân hàng Trung ương Anh (BoE), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và Ngân hàng Trung ương Thụy Sỹ (SNB) sẽ tiến hành đấu giá các khoản vay bằng USD có kỳ hạn 7 ngày, 28 ngày và 84 ngày với mức lãi suất cố định và khối lượng không giới hạn. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) cũng sẽ cân nhắc áp dụng các biện pháp tương tự. Ngày 16/10/2008, Chính phủ Thụy Sỹ đã công bố gói hỗ trợ trị giá 59,2 tỷ USD dành cho ngân hàng lớn nhất nước này là UBS. Bên cạnh đó, Chính phủ Thụy Sỹ cũng đang có kế hoạch nâng trần bảo hiểm tiền gửi tiết kiệm và sẵn sàng đảm bảo cho các khoản vay ngắn hạn và trung hạn trên thị trường liên ngân hàng - tương tự như các biện pháp mà hầu hết các nước châu Âu đã áp dụng, mà đi đầu là nước Anh. Theo kế hoạch này, UBS sẽ nhận được 6 tỷ Franc Thụy Sỹ, tương đương 5,2 tỷ USD, từ Chính phủ. Đổi lại, Chính phủ Thụy Sỹ sẽ có được lượng cổ phần 9,3% trong UBS. Bên cạnh đó, UBS cũng chuyển lượng tài sản xấu trị giá 60 tỷ USD sang một quỹ do Ngân hàng Trung ương Thụy Sỹ (SNB) hỗ trợ. SNB sẽ dành cho quỹ này một khoản vay 54 tỷ USD.  Châu Á Đối với khu vực Châu Á, mặc dù không nằm trong trung tâm của cuộc khủng hoảng nhưng nguy cơ đối với khu vực này ngày càng tăng trước những diễn biến tiêu cực trong môi trường tài chính và kinh tế vĩ mô toàn cầu. Điều này là do độ mở lớn của nền kinh tế trong khu vực và mối quan hệ phức tạp giữa khu vực sản xuất và tài chính đã làm tăng tốc độ và mức độ lây lan của cuộc khủng hoảng. Tác động lan truyền khủng hoảng diễn ra qua các kênh thương mại, tài chính và đầu tư do nhiều nước trong khu vực Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 50 theo đuổi mô hình tăng trưởng dựa trên xuất khẩu và phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn bên ngoài. Do vậy, khi cuộc khủng hoảng xảy ra, nhiều nước phải đối mặt với tình trạng xuất khẩu giảm sút mạnh và các luồng vốn đảo chiều (bao gồm cả đầu tư trực tiếp và gián tiếp). Vừa qua, IMF đã giảm một nửa con số dự báo tăng trưởng của Châu Á trong năm 2009 xuống còn 2,5% do các nền kinh tế mở của Châu Á đặc biệt phụ thuộc vào xuất khẩu và do vậy dễ bị tác động bởi tình t rạng cầu giảm đang diễn ra ở Mỹ và Châu Âu. - Gói kích thích của Trung Quốc chủ yếu hướng tới xây dựng cơ sở hạ tầng (45% của tổng gói kích thích 4000 tỷ, hay tương đương 1800 tỷ nhân dân tệ) và tranh thủ giải quyết các vấn đề xã hội mà hậu quả của quá trình phát triển quá nóng trong một thời gian dài vừa qua (gần 700 tỷ). Theo như kế hoạch, thì 1800 tỷ là cho xây dựng cơ bản theo kiểu đầu tư công truyền thông, và gần 700 tỷ là chi cho khu vực nông thôn vốn đã trở nên lạc hậu rất xa so với các vùng phía Đông. - Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và 10 quốc gia thành viên Đông Nam Á (ASEAN) đã thống nhất về việc thiết lập một quỹ chung trị giá 80 tỷ USD để giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ có thể xảy ra. Cuộc thảo luận trên cơ sở bài học của cuộc khủng hoảng tài chính cách đây 11 năm. Trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, quỹ đầu tư từ bên ngoài khu vực này đã gây ra bất ổn trên thị trường và ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nền kinh tế châu Á. Các quốc gia này đã chuẩn bị một hiệp định khung cho việc thiết lập quỹ chung có thể được sử dụng để ngăn chặn một cuộc khủng hoảng tiền tệ tái diễn. Bộ Tài chính Nhật Bản đưa ra kết luận rằng quỹ này cần kêu gọi khoản tiền trị giá 80 tỷ USD. 80% tổng số tiền của quỹ trên sẽ được 3 nước Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc đóng góp. Phần còn lại do ASEAN đóng góp. Ngoài ra, từng nước cũng có những giải pháp riêng để giúp nước mình thoát khỏi tình trạng khủng hoảng hiện : - Ngày 17/10/2008 Singapore và Malaysia tuyên bố sẽ bảo đảm cho tất cả tài khoản tiền gửi của người dân trong ngân hàng - giải pháp tương tự như nhiều nước châu Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 51 Âu và nền kinh tế láng giềng khác trong khu vực như Hồng Kông, Indonesia, Australia và New Zealand đã áp dụng trước đó. - Ngày 19/10/2008, Hàn Quốc đã công bố kế hoạch giải cứu nói trên. Theo đó, Chính phủ nước này sẽ dành 100 tỷ USD cho việc bảo đảm các khoản vay giữa các ngân hàng và chi 30 tỷ USD để bơm tiền vào hệ thống tài chính nhằm tăng cường tính thanh khoản. Giá trị gói giải cứu này tương đương với 13% GDP của Hàn Quốc. Đồng Won của Hàn Quốc từ đầu năm tới nay đã mất giá 37% so với USD, trở thành đồng tiền mất giá nặng nhất ở châu Á. Theo các nhà phân tích, nợ ngắn hạn của Hàn Quốc hiện tương đương với mức 76% dự trữ ngoại hối của nước này, đưa Hàn Quốc vào thế rủi ro nhất ở châu Á trong khủng hoảng tài chính. - Ngày 20/10/2008 Ngân hàng Trung ương Ấn Độ đã tiến hành cắt giảm lãi suất cơ bản lần đầu tiên trong vòng 4 năm qua nhằm ngăn chặn sự giảm tốc kinh tế, bất chấp lạm phát nước này vẫn đang ở mức cao. Theo đó, lãi suất cơ bản đồng Rupee đã giảm từ mức 9% xuống còn 8%. Trước đó, vào ngày 11/10, Ngân hàng Trung ương Ấn Độ đã giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại từ mức 6,5% xuống còn 2,5%. 4.2. Giải pháp của Việt Nam 4.2.1. Giải pháp về chính sách tài chính: Đề nghị chưa thực hiện việc giảm vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước mà chỉ thực hiện các biện pháp rà soát, cắt giảm, cho dừng những dự án chưa cấp bách hoặc kém hiệu quả, tập trung và điều chuyển vốn cho các dự án có khả năng hoàn thành sớm, có tác động lớn đối với nền kinh tế và xã hội. Đưa vấn đề hiệu quả vốn đầu tư là chỉ tiêu quan trọng nhất trong năm 2008 để rà soát lại các danh mục đầu tư đã được phê duyệt. Thực hiện kiên quyết việc cắt giảm chi tiêu ngân sách trong năm 2008 nhằm đạt mục tiêu bội chi ngân sách dưới 5% và có lộ trình trong những năm còn lại của kế hoạch 5 năm đạt được mức an toàn theo kinh nghiệm quốc tế. Có chính sách thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp bảo đảm tương thích với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế và khả năng quản lý kinh tế vĩ mô. Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 52 Kiểm soát chặt chẽ việc vay vốn đầu tư của các doanh nghiệp, đặc biệt là các Tổng công ty, tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước lớn, bảo đảm sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả. Kiểm soát việc thành lập và hoạt động của các công ty chứng khoán, bảo đảm an ninh tài chính – tiền tệ. Đẩy mạnh cổ phần hoá, tiếp tục thực hiện lộ trình đấu giá cổ phiếu lần đầu của các DNNN lớn để ổn định thị trường chứng khoán. Giao Bộ Tài chính hướng dẫn triển khai thực hiện các nội dung, cụ thể như sau: a) Giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của quý IV năm 2008 và số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2009 đối với thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. b) Giãn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian 9 tháng đối với số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2009 của các doanh nghiệp nhỏ và vừa nói trên (70% số thuế còn lại sau khi giảm) và của các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất, gia công, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử. c) Tạm hoàn 90% số thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hoá thực xuất khẩu trong trường hợp doanh nghiệp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng và hoàn tiếp 10% khi có chứng từ thanh toán. Bộ Tài chính hướng dẫn thủ tục hoàn thuế bảo đảm chặt chẽ, đúng đối tượng. d) Điều chỉnh thuế suất thuế xuất khẩu đối với một số loại tài nguyên, khoáng sản và trình Chính phủ sửa đổi thuế suất thuế tài nguyên theo hướng hạn chế xuất khẩu, bảo đảm nguồn nguyên liệu cho sản xuất trong nước. đ) Điều chỉnh giảm thuế suất thuế nhập khẩu đối với một số nhóm hàng là nguyên liệu đầu vào của sản xuất, trong nước chưa sản xuất được hoặc có sản xuất nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giảm chi phí, nâng cao sức cạnh tranh. Điều chỉnh tăng thuế trong khuôn khổ cam kết WTO, tạo điều kiện cho phát triển sản xuất trong nước, kiềm chế nhập siêu. e) Giãn thời gian ân hạn nộp thuế đối với một số ngành hàng phù hợp với chu kỳ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm (đóng tàu, sản xuất cơ khí....). Thực hiện tốt chính sách về ân hạn Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 53 thời hạn nộp thuế nhập khẩu (275 ngày) đối với vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu. g) Cải cách thủ tục xuất nhập khẩu, rút ngắn thời gian thông quan hàng hoá, đơn giản hoá thủ tục hoàn thuế, quyết toán thuế đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng xuất khẩu. h) Quy định rõ và phù hợp tỷ lệ phế liệu, phế phẩm thu được trong quá trình nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu không phải chịu thuế nhập khẩu. i) Trong tháng 12 năm 2008, Bộ trưởng Bộ Tài chính thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc triển khai thực hiện Luật Thuế thu nhập cá nhân theo hướng hỗ trợ khó khăn cho một số đối tượng nộp thuế. Thêm vào đó, Ngân sách chỉ nên dùng để hỗ trợ những người lao động bị mất việc làm thay vì tìm cách cứu giúp các doanh nghiệp thua lỗ. Với một ngân sách liên tục bị thâm hụt và khủng hoảng kinh tế thế giới có khả năng còn kéo dài, việc đẩy mạnh chi tiêu chính phủ ngay trong giai đoạn đầu suy thoái rất dễ khiến cho môi trường kinh tế vĩ mô của Việt Nam bị rơi vào bất ổn trong nay mai. Các biện pháp giãn thuế ngắn hạn trong khi nguồn thu bị thu hẹp sẽ tạo ra bất ổn cho doanh nghiệp thay vì giúp doanh nghiệp vượt khó. Chính phủ cũng nên xây dựng kế hoạch dài hạn để giảm chi tiêu thường xuyên, chuyển các khoản đầu tư công sang cho khu vực tư nhân, qua đó góp phần vào việc giảm thuế dài hạn cho khu vực doanh nghiệp và cá nhân mà vẫn đảm bảo được cân đối ngân sách. Trong những tháng đầu năm 2009, NHNN, Bộ Công thương, Văn phòng Chính phủ và các bộ, ngành liên quan đã phối hợp, triển khai các cơ chế hỗ trợ lãi suất do Thủ tướng Chính phủ ban hành. Các tổ chức, cá nhân vay vốn được hỗ trợ lãi suất tại NHTM và công ty tài chính theo cơ chế cho vay thông thường (Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 23/01/2009, Quyết định số 443/QĐ-TTg ngày 04/4/2009, Quyết định số 497/QĐ-TTg ngày 17/4/2009); vay vốn được hỗ trợ lãi suất tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Q uỹ đầu tư phát triển địa phương (văn bản số 667/TTg-KTTH ngày 05/5/2009); vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội theo cơ chế cho vay ưu đãi (Quyết định số 579/QĐ-TTg Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 54 ngày 06/5/2009). Phương thức hỗ trợ lãi suất là khi các NHTM, công ty tài chính, Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Quỹ đầu tư phát triển địa phương thu lãi tiền vay của khách hàng, thì giảm trừ số lãi tiền vay phải trả cho khách hàng bằng với số lãi tiền vay được hỗ trợ lãi suất; NHNN chuyển số lãi tiền vay đã hỗ trợ cho khách hàng vay trên cơ sở báo cáo của các ngân hàng .Cơ chế hỗ trợ lãi suất đã có tác động tích cực nhiều mặt về kinh tế - xã hội: Một là, cơ chế hỗ trợ lãi suất được triển khai kịp thời, nhanh chóng, đúng đối tượng và có tính giám sát cao của các cơ quan hữu quan và đối tượng thụ hưởng; vì thế, đã sớm tạo lòng tin, sự đồng thuận và động lực cho doanh nghiệp và người dân thực hiện các giải pháp kích thích kinh tế của Chính phủ; Hai là, cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp, hộ sản xuất mà nòng cốt là hệ thống ngân hàng, đã triển khai cơ chế hỗ trợ lãi suất, khá thông suốt, phù hợp với quy định của pháp luật; Ba là, đồng thời với việc thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất, chính sách tiền tệ được thực thi nới lỏng một cách thận trọng, tạo điều kiện cho các N HTM duy trì lãi suất kinh doanh ở mức hợp lý, tăng vốn huy động từ nền kinh tế để cho vay với lãi suất thấp (4- 6%/năm sau khi được hỗ trợ lãi suất) làm cho tăng trưởng tín dụng 7 tháng đầu năm ở mức cao (22,61%), góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế; Bốn là, theo báo cáo khảo sát của các địa phương và Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, việc thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất đã đạt được mục tiêu là tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hộ sản xuất giảm chi phí vay vốn khoảng 30 - 40%, giảm giá thành từ 2,5 - 6%, duy trì và mở rộng sản xuất - kinh doanh, tạo được việc làm cho người lao động, có 91% doanh nghiệp nhỏ và vừa duy trì, phát triển sản xuất - kinh doanh. Năm là, mặt bằng lãi suất thị trường tương đối ổn định, các NHTM huy động vốn từ thị trường để cho vay hỗ trợ lãi suất, NHNN không phát hành thêm tiền ra lưu thông; thông qua thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất đã kiểm chứng được sự tác động và khả năng thực thi chính sách có hiệu quả của hệ thống ngân hàng. Tuy vậy, thực tế triển khai các cơ chế hỗ trợ lãi suất nổi lên một số vấn đề: (1) Có sự trùng lắp về đối tượng hỗ trợ lãi suất giữa Quyết định số 131/QĐ-TTg, Quyết định 443/QĐ-TTg và Quyết định số 497/QĐ-TTg; thủ tục cho vay hỗ trợ lãi suất theo Quyết định số 497/QĐ-TTg chặt chẽ hơn so với cho vay theo cơ chế thông thường, nên kết quả đạt thấp; Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 55 (2) Cơ chế hỗ trợ lãi suất được thực hiện trong ngắn hạn, có phạm vi rộng về đối tượng, địa bàn và các TCTD, định chế tài chính tham gia cho vay, gây khó khăn đáng kể cho việc thanh tra, giám sát của NHNN và các bộ, ngành liên quan; (3) Cơ chế hỗ trợ lãi suất tác động làm cho tín dụng VND tăng trưởng ở mức cao, lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất tiền gửi, làm “méo mó” khối lượng vốn huy động và lãi suất thị trường, ảnh hưởng không thuận lợi đến việc kiểm soát lạm phát, ổn định lãi suất và tỷ giá. Phân tích gói kích thích kinh tế của các nước, giải pháp điều hành kinh tế nước ta trong nhiều năm qua và kết quả của cơ chế hỗ trợ lãi suất mang lại, thì việc thực hiện hỗ trợ lãi suất tiền vay ngân hàng 17.000 tỷ đồng là giải pháp được lựa chọn theo phương thức riêng và tối ưu, phù hợp với điều kiện của nước ta, có hiệu quả và chi phí thấp, đạt được sự nhất trí, đồng thuận cao của các cấp, các ngành và xã hội, kể cả các tổ chức tài chính quốc tế. 4.2.2. Giải pháp về chính sách tiền tệ: Đầu năm 2008 NHNN thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát thì sau đó NHNN đã linh hoạt đổi hướng chính sách, thực hiện nới lỏng chính sách tiền tệ do tình hình đã đảo ngược nhanh chóng. Chỉ trong vòng 1 tháng từ 20/10/2008 đến 20/11/2008 NHNN đã 3 lần điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản từ 14%/ năm xuống còn 11%/ năm, tăng lãi suất cho dự trữ bắt buộc lên 10%/ năm, giảm tỷ lệ cho dự trữ bắt buộc từ 11% xuống còn 8% và tiến hành thanh toán trước hạn cho 20,300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc phát hành hồi đầu năm. Trước những diễn biến ngày càng xấu trên thế giới và những khó khăn ngày càng hiện rõ của kinh tế trong nước, ngày 3/12/2008 NHNN tiếp tục giảm lãi suất cơ bản xuống 10%/năm, giảm lãi suất tái cấp vốn từ 12% xuống 11%/năm, lãi suất tái chiết khấu giảm từ 10%/năm xuống 9%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNNVN đối với các ngân hàng giảm từ 12% xuống 11%/năm, giảm tỉ lệ dự trữ bắt bộc từ 8% xuống 6%. Trong những tháng đầu năm 2009, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ (CSTT) để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 56 và chủ động hạn chế tác động của khủng hoảng tài chính, ngăn chặn nguy cơ suy giảm kinh tế. Tuy nhiên, cùng với đà tăng trưởng trở lại của kinh tế trong nước cũng như thế giới, càng về những tháng cuối năm diễn biến thị trường tài chính - tiền tệ càng trở nên phức tạp, áp lực lạm phát trở lại đối với nền kinh tế ngày càng rõ nét. Với mục tiêu duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế bền vững trong năm 2010, chủ động đối phó với diễn biến phức tạp của thị trường tài chính và kinh tế thế giới, NHNN đã quyết định điều chỉnh lãi suất cơ bản tăng từ 7%/năm lên 8%/năm (Quyết định số 2665/QĐ-NHNN), tăng lãi suất tái cấp vốn tăng từ 7%/năm lên 8%/năm, lãi suất chiết khấu tăng từ 5%/năm lên 6%/năm (Quyết định số 2664/QĐ-NHNN) áp dụng từ 01/12/2009. Bảng 3: Lãi suất cơ bản từ năm 2004-2010 Lãi suất cơ bản Văn bản quyết định Ngày áp dụng 8,0% QĐ 2665/QĐ-NHNN ngày 25/11/2009 01/12/2009 7,0% 172/QĐ-NHNN ngày 23/1/2009 01/02/2009 8,5% 3161/QĐ-NHNN 22/12/2008 10,0% 2948/QĐ-NHNN 05/12/2008 11,0% 2809/QĐ-NHNN 21/11/2008 12,0% 2559/QĐ-NHNN Ngày 3/11/2008 05/11/2008 13,0% 2316/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008 21/10/2008 14,0% 1317/QĐ-NHNN ngày 10 tháng 6 năm 2008 11/06/2008 8.75% 305/QĐ-NHNN Ngày 30/1/2008 01/02/2008 8.25% 1746/QĐ-NHNN ngày 1/12/2005 01/12/2005 7,8% 93/QĐ-NHNN ngày 27 tháng 1 năm 2005 01/02/2005 7,5% QĐ số 2210/QĐ-NHNN ngày 27/02/2004 01/03/2004 Nguồn: Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 57 Bên cạnh đó, với mục tiêu điều hành tỷ giá trong mối quan hệ với lãi suất, chỉ số giá tiêu dùng, diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế phù hợp với tín hiệu của thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước, NHNN công bố mức tỷ giá bình quân liên ngân hàng áp dụng cho ngày 26/11/2009 là 17.961(tăng 5,16%) và áp dụng biên độ tỷ giá mới cho giao dịch mua bán giao ngay giữa USD và VND là ± 3% từ ngày 26/11/2009. NHNN cũng cam kết sẽ hỗ trợ mạnh mẽ trong việc bán ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại kèm nhiều biện pháp hỗ trợ khác nhằm bình ổn thị trường ngoại hối. Các TCTD có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở xuống được NHNN cam kết bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng cung cấp đủ ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt ưu tiên những mặt hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất. Bảng 4: Biến động biên độ dao động tỷ giá USD/VND năm 2007-2009 Năm 2007 1/1/2008 10/3/2008 27/6/2008 7/11/2008 24/03/2009 26/11/2009 Biên độ 0,5% 0,75% 1% 2% 3% 5% 3% Ngay sau khi mức lãi suất cơ bản mới có hiệu lực, các NHTM đồng loạt đều tăng lãi suất huy động lên mức cao (10,5 % sau đó giảm xuống 10,499 %). Lãi suất cho vay ở các kỳ hạn đều tăng trần lên mức 12%. Như vậy lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng đã gần tiến gần tới lãi suất thực của thị trường; Tín dụng đối với nền kinh tế tháng 12/2009 ước tăng 0,87% so với mức tăng 3,57% của tháng 11 và mức tăng 2,04% của tháng 10. Ngoài ra, sự điều chỉnh tỷ giá lần này của NHNN đã lập tức có hiệu quả, tác động ngay đến giá USD trên thị trường tự do. Ngay trong ngày 25/11/2009, khi NHNN công bố thông tin về việc điều chỉnh tỷ giá, giá USD trên thị trường tự do đã giảm từ mức 19.750-19.800 buổi sáng xuống còn 19.500-19.700 vào buổi chiều. Sang ngày 26/11, tỷ giá tự do tiếp tục giảm còn 19.300-19.500 VND/USD. Về hệ thống ngân hàng: Để đối phó với khủng hoảng trong năm 2008 và 2009, NHNNVN đã thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm CPI. Một loạt các biện pháp được đưa ra như tăng các mức lãi suất chiết khấu, lãi suất cơ bản và tỷ lệ dự trữ bắt buộc; yêu cầu các ngân Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 58 hàng mua trái phiếu bắt buộc; và hạn chế cho vay bất động sản, hạn chế cho vay chứng khoán. Những biện pháp này đã khiến cho lãi suất huy động của ngân hàng thương mại có nơi lên đến 21%, đẩy lãi suất cho vay cũng tăng ở mức tương ứng. Hậu quả là nền kinh tế bị phanh gấp, khiến cho nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng thua lỗ. Một danh sách dài những doanh nghiệp thua lỗ trong quí IV/2008 là một minh họa rõ nét cho hậu quả tiêu cực của chính sách phanh gấp này. Rất may cho nền kinh tế Việt Nam là khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra vào cuối năm 2008. Nhờ giá cả các nguồn nguyên liệu và máy móc thiết bị nhập khẩu giảm mạnh, áp lực lạm phát và mất cán cân thanh toán được giải tỏa, giúp cho NHNN có thể tăng tín dụng và giảm lãi suất. Các hoạt động của ngân hàng thương mại và khu vực sản xuất đã hồi sinh trở lại. Tuy nhiên chúng ta cần cần có những giải pháp kiên quyết đồng bộ theo hướng tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng cho hiệu quả hơn, tăng cường kiểm soát rủi ro và nân cao tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Cụ thể là: - Tiến hành rà soát lại hệ thống văn bản điều chỉnh hoạt động ngân hàng bao gòm luật ngân hàng nhà nước năm 1997 và Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 và các văn bản dưới luật về ngân hàng. - Tăng cường kiểm soát rủi ro trong hoạt dộng ngân hàng: cần đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện các quy định về cá tỷ lệ bảo đảm an tòan trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng và tổ chức tín dụng theo quy định Luật các tổ chức tín dụng và Quyết định số 457/2005 ngày 19 tháng 04 năm 2005 quy định cụ thể các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng và các văn bản khác. Đặc biệt, cần nghiên cứu xây dựng và giám sát chặt chẽ hạn mức tín dụng đối với các lĩnh vực nhạy cảm như cho vay kinh doanh, đầu tư chứng khoán, bất động sản. về lâu dài ngân hàn nhà nước cần xây dựng hệ thống quản trị rủi ro phù hợp với thông lệ quốc tế theo tiêu chẩn an toàn vốn của Basel, rà soát và xây dựng mới các quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro.. Cần nâng cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong kiềm chế lạm phát và khai thông thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thực hiện nhất quán, đồng bộ chính sách “thắt chặt tiền tệ”, bảo đảm kiểm soát tăng tổng phương tiện thanh toán ra thị trường không quá 25- 30%, phối hợp đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ như lãi suất, tỷ giá... Thực Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 59 hiện chính sách tỷ giá linh hoạt, đáp ứng nhu cầu chuyển đổi ngoại tệ của các nhà đầu tư và doanh nghiệp xuất khẩu để đảm bảo ổn định sản xuất, xuất khẩu. Từng bước điều chỉnh lãi suất ngân hàng phù hợp với yêu cầu kiềm chế lạm phát; rà soát, bổ sung, nâng cao yêu cầu đối với việc thành lập mới các ngân hàng thương mại phù hợp với chiến lược phát triển ngành ngân hàng; kiểm soát tốc độ tăng dư nợ tín dụng không quá 30%. Cụ thể như sau: a) Có các biện pháp cụ thể để tạo điều kiện tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa; doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu và doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm như: tiếp tục xem xét điều chỉnh giảm dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng; điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản phù hợp để hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh. b) Nghiên cứu, hướng dẫn các tổ chức tín dụng thực hiện việc cho vay theo lãi suất thoả thuận quy định tại Nghị quyết số 23/2008/QH 12 ngày 06 tháng 11 năm 2008 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 trong quý I năm 2009. c) Các ngân hàng thương mại thực hiện việc cơ cấu lại thời hạn nợ và áp dụng các giải pháp xử lý nợ vay vốn ngân hàng phù hợp với quy định của pháp luật đối với các hộ nông dân bị thiệt hại do thiên tai và các doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm: d) Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu quả; điều chỉnh linh hoạt tỷ giá ngoại tệ theo tín hiệu thị trường, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu điều hành cán cân thanh toán quốc tế theo hướng không để thâm hụt. đ) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo các ngân hàng thương mại xem xét điều chỉnh áp dụng lãi suất cho vay của các hợp đồng tín dụng xuống phù hợp theo mức lãi suất hiện hành; không phạt do quá hạn đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn. Giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn triển khai thực hiện các nội dung trên. e) Giao Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm hỗ trợ tốt hơn cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 60 vay để phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm mới. Bộ Tài chính chủ trì cùng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn triển khai thực hiện ngay trong tháng 12 năm 2008. 4.2.3. Giải pháp nhằm hạn chế thâm hụt ngân sách Trước những khó khăn của các doanh nghiệp, Chính phủ hiện đang nổ lực nhằm tạo điều kiện cho các mặt hàng truyền thống của Việt Nam như: nông sản, thủy sản, may mặc…giữ vững tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thực tế thời gian qua các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu luôn được ưu tiên trong tiếp cận vốn ngân hàng và tỷ giá USD/VND được duy trì theo hướng có lợi cho xuất khẩu. Các cơ quan chức năng còn sử dụng hàng rào kỹ thuật nhằm hạn chế nhập khẩu, áp thuế tiêu thụ đặc biệt với những mặt hàng thuộc nhóm xa xỉ phẩm, những mặt hàng không cần thiết như: vàng, điện thoại di động, mỹ phẩm, ô tô… các ngân hàng không cho vay để nhập khẩu trong thời gian qua. Kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước ở mức dưới 5% GDP; nâng cao hiệu quả đầu tư từ khu vực nhà nước (ngân sách, tín dụng và doanh nghiệp nhà nước), giảm hệ số ICOR xuống mức tương ứng với các nước trong khu vực, giảm dần chênh lệch giữa tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm so với GDP. 4.2.4. Giải pháp nhằm kích thích đầu tư và tiêu dùng Phát biểu tại hội nghị ngành Kế hoạch đầu tư được tổ chức tại Hà Nội ngày 22/11/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh phải gấp rút thực hiện gói giải pháp về kích cầu đầu tư để ngăn chặn suy giảm kinh tế. tuy nhiện, việc kích cầu đầu tư này không thực hiện tràn lan, mà chỉ tập trung vào những dự án hiệu quả vì thực tế đang đối diện với lạm phát cao. Ngân sách NN cấp cho đầu tư phát triển năm 2009 là 112.000 tỉ đồng, thấp hơn so với thực hiện 2008 gần 6.000 tỉ đồng, để bù đắp khoản này chính phủ đã đồng ý tăng thêm 6.000 tỉ đồng trái phiếu chính phủ. Hơn nữa từ cuối tháng 12/2008 đến nay, chính phủ đã thông qua 2 gói kích cầu Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 61 Bên cạnh đó, cần thực hiện quyết liệt các chính sách kiềm chế nhập khẩu đã có, nhất là với nhóm hàng tiêu dùng, đồng thời nghiên cứu các giải pháp mới để đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu để giảm nhập siêu, tiến tới cân bằng cán cân thanh toán. Thực hiện hỗ trợ cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu gặp khó khăn do việc thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ “thắt chặt” gây ra. Ngoài ra, đề nghị Chính phủ tăng cường chỉ đạo công tác phối hợp trong điều hành thực hiện các giải pháp đã được thông qua giữa các bộ, ngành và địa phương; đồng thời phân giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành, địa phương để việc kiểm tra, đôn đốc chỉ đạo sâu sát, thường xuyên hơn, tạo sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ, ngành, địa phương, phát hiện kịp thời các biến động của tình hình thực hiện các giải pháp để có điều chỉnh kịp thời. Đặc biệt, về nhóm các biện pháp hỗ trợ: Tiếp tục có chính sách thoả đáng hỗ trợ nông dân vượt qua thiên tai, dịch bệnh, tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, chăn nuôi để góp phần kiềm chế tăng giá nhóm mặt hàng lương thực, thực phẩm, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đồng thời bảo đảm duy trì sản lượng lương thực phục vụ nhu cầu xuất khẩu trong tình hình giá đang có lợi. Trước mắt, cần có giải pháp tăng cung trên thị trường, góp phần giảm giá nhóm mặt hàng có tốc độ tăng cao thời gian vừa qua ảnh hưởng lớn đến đời sống nhân dân. Tăng cường sự phối hợp giữa các bộ để đảm bảo hệ thống chính sách đồng bộ, thống nhất. Bên cạnh những giải pháp nhằm ổn định tình hình kinh tế, cần xem xét một số giải pháp mang tính ổn định lâu dài: Thứ nhất là tận dụng thời cơ, sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư của Nhà nước để thực hiện chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế; Thứ hai là nâng cao năng lực dự báo và điều hành vĩ mô; Thứ ba là từng bước hoàn chỉnh chính sách tài chính - tiền tệ; Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 62 Thứ tư là xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, ưu tiên cho giáo dục đào tạo nguồn nhân lực và hỗ trợ ổn định đời sống nhân dân, nhất là hộ có thu nhập thấp, hộ nghèo. Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 63 KẾT LUẬN Nền kinh tế cũng như sức khỏe của con người, có những lúc “ khỏe mạnh”, cũng như cũng có lúc “suy yếu”. Và hiện nay, nền kinh tế thế giới nói chung cũng như nền kinh tế Việt Nam nói riêng đang lâm vào tình trạng khủng hoảng. Từ một sự khủng hoảng thanh khoản của Mỹ đến sự khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới, là một sự minh chứng cho sự liên kết và ảnh hưởng chặt chẽ giữa các nền kinh tế trên thế giới. Sự khủng hoảng không dừng lại trên phạm vi 1 quốc gia mà đã lan khắp các châu lục. Để vượt qua sự khủng hoảng này, tất cả các nước không những cần có những chính sách riêng cho từng quốc gia của mình mà phải kết hợp với nhau để thực hiện các chính sách liên kết về tỷ giả, lãi suất…Việt Nam, chúng ta cũng có những chính sách để giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng chung của thế giới như chính sách kích cầu, hỗ trợ doanh nghiệp… Không những thế muốn mau chóng thoát khỏi cuộc khủng hoảng này đòi hỏi nước ta phải có sự thay đổi về thể chế quản lý một cách trật tự và vững chắc. Một thể chế quản lý nhấn mạnh tới trách nhiệm, hiệu quả của từng tế bào của bộ máy quản lý Nhà Nước, của từng tổ chức tài chính và công nghiệp đối với lợi ích của toàn xã hội và với yêu cầu phát triển bền vững. Điều đó đòi hỏi một sự minh bạch về thông tin quản lý, về hiệu quả kinh tế- xã hội của từng đơn vị hay tổ chức trong từng địa phương và trong nền kinh tế. Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 64 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. NGND, PGS,TS. Ngô Hướng, Nguyên nhân và bản chất của khủng hoảng kinh tế tài chính hiện nay – những giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn, Đại học Ngân hàng Tp.HCM . 2. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu đối với nền kinh tế Việt Nam” do Khoa Kinh tế, ĐQG TP.HCM tổ chức tháng 12/2008. 3. GS. Trần Văn Thọ, Khủng hoảng tài chính và những ảnh hưởng, Đại học Waseda, Tokyo (Nhật Bản), hiện đang nghiên cứu ở Đại học Harvard, Cambridge. 4. GS. Trần Lê Anh, Khủng hoảng tài chính và những ảnh hưởng, Đại học Lasell, Boston (Mỹ). 5. Xuân Đảng, Cái nhìn tổng quan việc thay đổi chính sách tiền tệ của NHNN là linh hoạt, thận trọng. 6. TS. Nguyễn Văn Giàu, Chính sách tiền tệ đối với ổn định và phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, UVBCHTW Đảng, Thống đốc NHNN Việt Nam. 7. Các tài liệu công bố tại website của NHNN Việt Nam, 8. Các tài liệu công bố tại website của Tổng cục thống kế Việt Nam, 9. Các tài liệu công bố tại website của Bộ công thương Việt Nam, 10. Website Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế: 11. Website Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: ủng_hoảng_tài_chính_Hoa_Kỳ_2007-2009. Khủng hoảng tài chính thế giới Tiểu luận m ôn Tài chính Quốc tế 65 BẢNG PHÂN CÔNG STT Họ và tên Công v iệc 1 Cao Thanh Hùng Nguyên nhân 2 Trần Viết Quang Khánh Tổng hợp tài liệu, thuyết trình phần nguyên nhân, diễn biến 3 Nguyễn Thành Luân Tác động, thuyết trình phần tác động 4 Ngô Vũ Mai Ly Diễn biến 5 Nguyễn Thị Thùy Nga Tổng hợp tài liệu 6 Phạm Thị Hoàng Nhung Nguyên nhân 7 Huỳnh Phạm Loan Thảo Tác động 8 Võ Trần Anh Thư Tổng hợp tài liệu 9 Tiêu Vân Trang Giải pháp, thuyết trình phần giải pháp 10 Dương Tường Vy Diễn biến

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthuyet_trinh_116.pdf
Luận văn liên quan