Phát triển kinh tếcủa châu Phi và ổn định chính trịlà rất quan trọng đối với cảcông
dân của mình và cho phần còn lại của thếgiới. Thành công của nó dường nhưphụ
thuộc chủyếu vào hành động mà người châu Phi tự làm đểthành lập tổchức và
chính sách kinh tế, luật pháp và chính trị mạnh mẽ. Quyền tựchủvềdoanh thu là
yếu tốquan trọng của cải cách hành chính phải được thực hiện trong tất cảcác nước
được nghiên cứu. Tuy nhiên, nâng cao hiệu quảkhu vực công cộng, quản lýkhả
năng tài chính và giám sát ngân sách có thể đóng một vai trò quan trọng trong các
nền kinh tế. Trong khi cần ưu tiên cho khu vực doanh thu, việc thực hiện thuếhoặc
các biện pháp tài chính phải được xem là cốt lõi của chính sách tài khóa. Các nước
đang phát triển đã ngày càng phát triển để nhận được dòng vốn đầu tưtrực tiếp
nước ngoài tạo ra một cơsởhạtầng quan trọng, nhưng họphải có khảnăng quản lý
và ứng phó biến động kinh tếquốc tế. Chúng tôi đồng ývềnguyên tắc rằng một
chính sách tiền tệlà công cụchính để ổn định kinh tếvĩmô. Tuy nhiên, một chính
sách tài khóa có khảnăng có thể đóng một vai trò ổn định trong thời kỳsuy thoái
nghiêm trọng và khi lạm phát là rất thấp. Nghèo vềtài chính và công khai hoạt động
các doanh nghiệp đặt ra các yêu cầu chính phủvay, và áp đặt cảmột gánh nặng tài
chính và kinh tế đối với nền kinh tế. Trong khi đó, giải quyết các nghĩa vụthanh
toán một cách kịp thời, nâng cao thu nhập đầy đủ, và giám sát các biện pháp ngân
sách có thểgiúp ngăn chặn những tổn thất tài chính. Nói chung, không có khảnăng
nâng cao doanh thu đầy đủ làm cho nó không thể đạt được trạng thái cân bằng.
23 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2344 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tái cơ cấu chính sách tài khóa kích thích tăng trưởng kinh tế - Một trường hợp của các nước châu Phi chọn lọc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
TÁI CƠ CẤU CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ KÍCH
THÍCH TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ - MỘT TRƯỜNG HỢP CỦA CÁC
NƯỚC CHÂU PHI CHỌN LỌC
Trang 1
TÁI CƠ CẤU CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ KÍCH THÍCH TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ - MỘT TRƯỜNG HỢP CỦA CÁC NƯỚC CHÂU PHI CHỌN LỌC
Ravinder Rena (Poytechnic of Namibia, Namibia)
Ghirmai T. Kefela (DTAG INC., USA)
Tóm tắt: Quản trị tài chính công chỉ mạnh khi các chính phủ có thể đưa ra các
chính sách tài khoá một cách bền vững, và các chính sách này áp dụng hiệu quả vào
việc cung cấp các hàng hoá và dịch vụ công. Nghiên cứu này giới thiệu những vấn
đề của chính sách tài khoá và những hiệu quả tiềm năng trong hoạt động kinh tế của
chúng. Nghiên cứu cũng đào sâu các vai trò mang tính kinh tế và những cách thức
ngầm của việc vay nợ trong nước và nước ngoài. Nó tập trung vào phương pháp của
chính sách tài khoá để chỉ ra và đánh giá các tác động của chính sách thuế linh hoạt
và các yêu cầu của quản lý nợ công. Bài nghiên cứu cũng làm rõ giả thiết cơ bản,
nguyên tắc và ứng dụng của tài chính công bao gồm sự phân quyền và các mối quan
hệ tài chính liên chính phủ trong các nền kinh tế đang phát triển và chuyển tiếp của
châu Phi.
Giới thiệu
Bài nghiên cứu này giới thiệu các vấn đề chính của chính sách tài khoá và các hiệu
quả ngầm trong hoạt động kinh tế. Hai công cụ chính của chính sách kinh tế vĩ mô
là chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá. Chính sách tài khoá là một công cụ mà
một chính phủ điều chỉnh mức độ chi tiêu công để theo dõi và gây ảnh hưởng lên
nền kinh tế của quốc gia (Rena, 2006). Đây là chính sách có quan hệ mật thiết với
chính sách tiền tệ, là chính sách mà một Ngân hàng Trung Ương tác động tới cung
tiền của một quốc gia. Hai chính sách này được kết hợp rất nhiều trong nỗ lực đưa
nền kinh tế quốc gia đạt được các mục tiêu. Chính sách tài khoá là một công cụ
GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Trang
mạnh để ổn định kinh tế, kiểm soát dựa trên số lượng và cơ cấu của thuế, chi tiêu
công và quản lý nợ công. Chính sách tài khoá tác động đến tổng cầu, phân phối của
cải và khả năng của nền kinh tế tạo ra hàng hoá và dịch vụ. Nợ tốt và quản trị tài
chính được chấp nhận rộng rãi dưới hình thức các công cụ ổn định kinh tế vĩ mô.
Nó đảm bảo cho việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực công và là một tiền đề cho
tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra còn có một thoả thuận rộng rãi về những gì liên quan
đến quản trị tài chính (Campos và Pradhan, 1996). Tuy nhiên, quản trị ngân sách và
tài chính không thể hoàn toàn tách rời khỏi ảnh hưởng của chính trị. Thách thức là
quản lý những cái chung giữa ngân sách và chính trị bằng cách thiết kế và thực hiện
các khuôn khổ pháp lý, việc này sẽ nâng cao chất lượng sự tham gia của chính trị và
thúc đẩy trách nhiệm tài chính. Bài nghiên cứu này tóm tắt nhiều cách tiếp cận khác
nhau được sử dụng ở những quốc gia phát triển trong các đề xuất cải cách khu vực
công của họ, và sẽ khám phá thể chế tương tự kiểm soát đến mức độ nào và các ưu
đãi có thể được tạo lập trong các nền kinh tế mới nổi. Bài tập trung vào khuôn khổ
"quản trị" hay "hiến pháp" chứ không phải quyết định "chính trị" đang diễn ra trong
những khuôn khổ này (Schick, 1998). Chính phủ của các quốc gia phát triển nên
thực hiện những bước tiến đáng kể để tăng cường cơ cấu tổ chức cho chính sách tài
khoá. Chính sách tài khoá là một công cụ chỉ đạo kiên quyết trong việc duy trì tài
chính công trong trung hạn, dựa trên các quy định khắt khe. Chính sách tài khoá này
đi cùng với chính sách tiền tệ tạo nên nền tảng của sự ổn định cần thiết cho việc đạt
được các mục tiêu của Chính phủ và các mức độ ổn định của việc làm (Rena, 2011).
Mấu chốt của quản trị tài chính công thành công là một vấn đề của quản trị nhằm
cân bằng nền kinh tế, quản lý, chính trị và tài chính công. Khi quản trị tài chính là
không tốt thì ít có cơ hội thành công các mục tiêu chính sách tài khóa.
Quản trị tài chính công chỉ mạnh khi các chính phủ có thể đưa ra các chính sách tài
khoá một cách bền vững, và các chính sách này áp dụng hiệu quả vào việc cung cấp
các hàng hoá và dịch vụ công (Rena, 2011). Các ngoại tác của một sự quản trị
Trang 3
doanh nghiệp tốt là các bộ luật, quy tắc và các tổ chức cung cấp một sân chơi lành
mạnh và đưa vào kỷ luật hành vi của các thành phần tham gia, bất kể các nhà quản
lý hay các cổ đông. Kinh nghiệm trong một nền kinh tế thị trường phát triển chỉ ra
rằng chính sách cạnh tranh hợp pháp, quyền cổ đông hợp pháp, các hệ thống kế toán
và kiểm toán, một hệ thống tài chính tốt, hệ thống phá sản và thị trường cho việc
kiểm soát công ty là những tổ chức sẽ cung cấp các chỉ dẫn đúng đắn và đưa các
công ty vào kỷ luật (Bird and Oldman, 1990).
Cách duy nhất để bảo đảm rằng những người nộp thuế nhận được giá trị thực cho số
tiền mà họ đã bỏ ra là khi Chính phủ lập mục tiêu đầu tư và cải cách thuế dài hạn.
Dịch vụ công tốt và đáng tin cậy rất quan trọng cho phát triển kinh tế, loại trừ tệ nạn
xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Đầu tư và cải cách thuế được đưa về nền
tảng cho một nền kinh tế mạnh hơn, hiệu quả hơn (Shome, 2004; Rena, 2011). Trên
thế giới, tất cả các nước có thể đối mặt với những thách thức trong việc điều chỉnh
tài chính công, đặc biệt là để đáp ứng với những cú sốc không thể dự đoán, quản lý
kinh tế yếu kém, hoặc những thay đổi cấu trúc dài hạn trong nền kinh tế. Điều chỉnh
tài chính công được thực hiện thông qua sự kết hợp của các loại chi phí cần thiết
dịch chuyển từ việc cung cấp hàng hoá ,dịch vụ và kế hoạch tập trung trực tiếp sang
việc cung cấp chọn lọc hơn hoặc tài trợ hàng hoá, dịch vụ chất lượng tốt và bảo đảm
phân phối công bằng (Bougrand, Loko và Mlachila, 2002). Các khoản ngân sách
cần phải được điều chỉnh nhanh chóng để kịp thời với sự thay đổi của nền kinh tế,
điều này cần một sự tái định hướng vai trò lớn của Chính phủ, và cần có một ảnh
hưởng rộng đến nền kinh tế làm tăng huy động vốn thu nhập, và cải thiện phân bổ
nguồn lực và năng suất, thường là thông qua cải cách thể chế và cơ cấu (Campos và
Pradhan, 1996; FitzGerald, 2003). Trong trường hợp của Ghana năm 2001, “thu
nhập thuế dưới mức 20% của tổng chi tiêu quốc nội. Lý do của sự sụt giảm này là vì
sự tuân thủ của những người nộp thuế chưa hoàn hảo”, phát biểu của Bộ trưởng
Osafo-Maafo. Do vậy, vì Chính phủ Ghana muốn dựa vào thu nhập thuế nhiều hơn
GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Trang
theo thời gian, họ đã đưa ra chính sách cải cách thuế mạnh hơn để mở rộng thu nhập
và tăng cường sự tuân thủ. Những chính sách như thế cần những lựa chọn chính trị
khó khăn hơn và tiêu tốn nguồn lực để tăng cường hiệu quả quản lý thuế, vì nó đóng
vai trò chính trong việc tăng cường thu nhập từ thuế (Thống đốc Ngân hàng Trung
Ương Ghana, 2001).
Cải cách thuế của Ghana tạo thành công cụ chính sách quan trọng cần thiết để thúc
đẩy tăng trưởng và giảm nghèo (Osei, 2006). Những thay đổi lớn của Ghana trong
chính sách tài chính quản lý thuế đóng một vai trò quan trọng trong việc cải thiện
huy động nguồn thu của đất nước và tình hình tài chính tổng thể. Những yếu tố
chính được đưa ra cho sự gia tăng doanh thu là việc mở rộng cơ sở thuế, cơ cấu
thuế, và tái tổ chức quản lý thuế. Nếu quản lý thuế là để trở nên có hiệu quả ở các
nước đang phát triển, sự kết hợp rất lớn của con người chất lượng và nguồn tài
nguyên cần thiết để thực hiện như vai trò chuyên nghiệp của các tổ chức doanh thu
(Fjeldstad, Odd-Helge, 2006; Rena, 2011). Việc thiết kế một tài chính trung hạn phù
hợp là khuôn khổ thúc đẩy một sự phân phối bền vững các dịch vụ công tốt hơn và
cơ sở hạ tầng trong khi duy trì một cam kết đáng tin cậy để sự thận trọng tài chính
phải đối mặt với nhiều thách thức. Nhiệm vụ chính của quản lý tài chính trong các
Bộ này có xu hướng hầu như phối hợp với phân bổ chi tiêu, kiểm soát của bộ phận
ngân sách.
Tuy nhiên, như doanh thu, chính sách được thỏa hiệp và giám sát thực tế của hoạt
động doanh thu trở nên thoải mái, dẫn đến quản lý không hiệu quả và mất doanh
thu. Bougrand, Loko, và Mlachila (2002) nhận thấy rằng các khoản vay nước ngoài
vẫn là cách hấp dẫn nhất để tài trợ cho thâm hụt ngân sách, trong khi rủi ro giảm giá
đáng kể và mức độ của lãi suất trong nước cao. Nói chung, thâm hụt dẫn đến một sự
thay đổi trong tài sản thuần của chính phủ, và có thể được tài trợ bằng cách hạ thấp
giá trị tài sản hoặc phát sinh nợ mới của cả trong và ngoài nước. Sự lựa chọn giữa
Trang 5
vay nước ngoài và trong nước, phụ thuộc vào chi phí (lãi suất), cơ cấu kỳ hạn và rủi
ro.
Một yếu tố quan trọng của cải cách hành chính là để di chuyển các bộ phận doanh
thu hiện tại của Bộ Tài chính thành một cơ quan doanh thu bán tự trị được giám sát
bởi một Hội đồng quản trị độc lập. Triết lý đằng sau động thái này chủ yếu là để ưu
đãi cho các nhân viên để cải thiện hiệu suất của họ và do đó làm tăng doanh thu. Cải
cách dường như thành công trong những năm đầu xuất hiện URA (Quản trị
Doanh thu Uganda). Doanh thu báo cáo tăng mạnh - từ 7% GDP trong năm 1991
lên khoảng 12 % trong năm 1997 (Fjeldstad 2003). Tham nhũng dường như cũng
giảm. Trong thời gian này, nhiều nhà quan sát gọi URA như một mô hình cho các
nước tiểu châu Phi khác (Kaweesa, 2004).
Câu hỏi nghiên cứu
1) Chính sách tài chính ổn định nền kinh tế và giảm nợ công như thế nào?
2) Huy động nguồn thu và cải cách thuế có ảnh hưởng đến chính sách tài
khoá và loại bỏ tham nhũng?
3) Cải cách chính sách tài khoá như thế nào để tăng dòng vốn tư nhân cho
châu Phi?
Phương pháp nghiên cứu
Bài viết này được dựa trên dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các báo cáo của Ngân
hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và các báo cáo của Chính phủ các nước
châu Phi. Các nhà nghiên cứu đã cố gắng phân tích dữ liệu bằng các phương tiện
của phương pháp mô tả và nội dung phân tích. Các nhà nghiên cứu cũng xem xét
các tài liệu thích hợp trên các chủ đề đặc biệt trên khuôn khổ kinh tế vĩ mô. Bài viết
đã được chia thành 5 phần. Phần đầu tiên là giới thiệu, câu hỏi nghiên cứu và
phương pháp luận. Phần thứ hai dành cho việc đưa ra các nghiên cứu trước đó. Phần
GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Trang
ba phân tích chính sách tài khoá thông qua thuế. Phần bốn giải quyết về các chính
sách tài khoá và các vấn đề tăng trưởng kinh tế của các nước châu Phi được lựa
chọn. Phần năm tóm tắt các kết quả và phần cuối cùng đưa ra những nhận xét và kết
luận của nghiên cứu.
Tổng quan các nghiên cứu trước đây
Những ảnh hưởng tài chính về tài trợ nợ trong và ngoài nước
Tài liệu này nêu bật những vấn đề quan trọng nợ trong nước và nước ngoài của
chính phủ và cung cấp các gợi ý có thể. Một cổ phiếu nợ của Chính phủ không nên
phát triển vượt quá điểm mà tỷ lệ nợ trên GDP là quá cao đối với các khoản thanh
toán nợ được thực hiện (Rena, 2011). Tính bền vững tài chính phụ thuộc vào mức
độ hiện tại của nợ (trong nước và nước ngoài), và sự sẵn sàng đánh thuế của Chính
phủ và áp dụng các biện pháp tích cực là cần thiết để trả lãi nợ. Ở các nước đang
phát triển của châu Phi như: Ghana, Uganda và Kenya với một cơ sở thuế hạn chế,
ngân sách eo hẹp, và chi tiêu Chính phủ cao là một vấn đề nghiêm trọng và không
nên đánh giá thấp. Nói chung, các nước đang phát triển dự kiến sẽ phải đối mặt với
tình trạng khan hiếm vốn, sẽ có được một khoản vay nước ngoài để bổ sung tiết
kiệm trong nước. Tỷ suất mà họ vay ở nước ngoài, mức độ "bền vững" của vay
nước ngoài - phụ thuộc vào các liên kết giữa tiết kiệm trong và ngoài nước, đầu tư
và tăng trưởng kinh tế. Bài học chính của "tăng trưởng với nợ vay" là một quốc gia
cần vay nước ngoài càng lâu miễn là vốn do đó có được tạo ra một tỉ lệ lợi nhuận
cao hơn so với chi phí của các khoản vay này (Terkper năm 1994; IMF, năm 2006;
Rena, 2011). Trong trường hợp đó, các nước đi vay được nâng cao năng lực và mở
rộng đầu ra với sự trợ giúp của tiết kiệm nước ngoài.
Một khi vị thế tài chính của Chính phủ không bền vững có thể dẫn đến chi phí của
việc vay mượn và phân bổ tín dụng trở nên cao hơn, quá trình này tốn kém và khiến
cho việc vay mượn từ nước ngoài để tài trợ vào đầu tư của Chính phủ trở nên ít hấp
dẫn hơn. Các lý thuyết kinh tế thường ủng hộ quan điểm cho rằng đầu tư trực tiếp
Trang 7
nước ngoài (FDI) có thể giúp làm dịu đi những áp lực đè nén trong chính sách công
của các Chính phủ này bằng cách mang lại những nguồn vốn. Tuy nhiên, theo
nghiên cứu, điều này là một trong số những lý do các nhà làm chính sách phải giảm
thiểu những hạn chế của dòng vốn FDI đi vào và đưa ra được những ưu đãi đặc biệt
cho nguồn vốn FDI.
Cho mãi đến gần đây, các thị trường vốn ở Ghana, Uganda, Nigeria and Kenya đã
không thể cung cấp được sự hỗ trợ hiệu quả cho khu vực tư vì các nước này còn
nhỏ bé, kém phát triển và hoạt động bị hạn chế. Sự tồn tại của thị trường chứng
khoán ở một số những quốc gia này có thể tạo thêm những kênh mà thông qua đó,
những tác động của chính sách công có thể truyền tải đến toàn bộ nền kinh tế (theo
Dailami và Atkin năm 1990; Ademola năm 1997). Nghiên cứu này đã đề xuất một
chiến dịch nhằm thúc đẩy đầu tư và giáo dục công chúng về thị trường tài chính.
Trên thực tế, một thị trường vốn được tổ chức tốt là cốt yếu cho việc huy động vốn
trong nước và vốn quốc tế. Ở tất các các quốc gia này, thị trường vốn vẫn chưa thể
hiện được vai trò của nó trong việc huy động vốn, mặc dù nó có thể là nơi tạo
nguồn vốn nếu được tổ chức tốt. Nếu chính phủ trông chờ vào việc tài trợ thâm hụt
tài khoá bằng cách phát hành tiền quá mức, lạm phát sẽ gia tăng, đồng nội tệ mất
giá và góp phần làm thất thoát vốn. Nghiên cứu của Dailami và Atkin năm 1990 mô
tả việc cấp nguồn tài trợ cho sự hình thành nguồn vốn nội địa là yếu tố then chốt
trong triển vọng về sự tăng trưởng kinh tế trong dài hạn ở các nước đang phát triển.
Năm 2001, yếu tố mang tính quyết định đối với những khó khăn của kinh tế Ghana
là khi chi tiêu của chính phủ lớn hơn thu nhập với việc dịch vụ nợ là loại chi tiêu
lớn duy nhất. Để đảo ngược những khó khăn của nền kinh tế, chính phủ đã giới
thiệu những thước đo ngân sách khác nhau nhằm cắt giảm chi tiêu và tăng thu nhập.
Chính phủ đã đóng băng tất cả chi tiêu, ngoại trừ lương thưởng, thù lao và những
thứ có liên quan, để đạt được tình trạng tài chính và nghĩa vụ ngân sách tốt hơn,
cũng như đưa ngân sách về trạng thái thực tế hơn. Chính phủ đã cải thiện tình hình
tài chính cùng hệ thống ngân hàng với số tiền khoảng 551 tỷ USD sau nửa đầu
GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Trang
tháng 5 năm 2003. Tuy nhiên, nợ công quốc nội đã tăng khoảng 3.9% trong quý đầu
năm 2003 so với mức tăng 8.5% cùng kỳ năm 2002 (Dữ liệu cung cấp bởi Ngân
hàng Trung ương Ghana năm 2003).
Nếu tình trạng thâm hụt được tài trợ từ dự trữ ngoại tệ của quốc gia bằng cách vay
mượn, tình trạng thâm hụt đó hiển nhiên là sẽ không bền vững. Điều này sẽ ít gây ra
mối đe dọa đến khả năng thanh toán nếu được tài trợ bằng đầu tư vốn trực tiếp vì nó
mang lại lợi thế về chuyển giao công nghệ, tạo công ăn việc làm và những kỹ năng
trong quản lý điều hành. Một lựa chọn khác dành cho thâm hụt tài khoản vãng lai
bền vững là một khoản vay dài hạn với lãi suất thấp, ở hầu hết các trường hợp điều
này đã được minh chứng khá rõ, là câu trả lời phù hợp và khả dĩ đối với mối đe doạ
về thâm hụt ngân sách của họ. Ngân hàng Trung ương Uganda, một ngân hàng đối
mặt với những thách thức về cán cân thanh toán như thế, đã có những bước tiến
nhất định và nhận được một bài học rằng nợ nhiều hơn sẽ dẫn đến việc phải thanh
toán lãi ròng cao hơn, dần dần sẽ được tài trợ bằng thặng dư thương mại. Merwe
nhận định sẽ là khôn ngoan khi trung hòa thặng dư tài khoản vãng lai dựa trên
những sự cải thiện rõ rệt trong các giai đoạn mậu dịch bằng cách khuyến khích
dòng vốn đầu tư ra nước ngoài khi gặp phải những khó khăn có thể phát sinh trong
việc quản lý thanh khoản nội địa. Tình trạng thâm hụt tài khoản nặng nề của
Uganda năm 2001 đã tiếp tục được tài trợ chủ yếu bằng những dòng vốn hỗ trợ từ
nước ngoài cũng như mức độ ngày càng thấp của dòng vốn FDI (Merwe, 2002).
Việc vay mượn nước ngoài là một lựa chọn khôn ngoan miễn là nguồn vốn đó tạo ra
một tỷ suất lợi nhuận cao hơn chi phí của các khoản vay đó. Hầu hết ở các nước
đang phát triển, nguồn lực nội địa không đủ khả năng hỗ trợ những nỗ lực phát triển
đất nước. Tài trợ nước ngoài là cần thiết để bổ sung cho nguồn lực quốc nội và phải
có một mức trần nhằm tránh gặp phải mức nợ quá cao và không bền vững. Năm
2002, huy động nguồn lực bên ngoài của Nigeria đã dẫn đến việc tạo ra các gánh
nặng nợ quá sức chịu đựng, chủ yếu là do tài chính và sử dụng các nguồn tài trợ
không phù hợp (IMF 2005). Thách thức cơ bản mà Nigeria và hầu hết các quốc gia
Trang 9
châu Phi phải đối mặt là sự không đồng nhất giữa nhu cầu tăng trưởng và nguồn lực
ngày càng bị thu hẹp. Thông qua nghiên cứu và phát hiện của chúng tôi, một chiến
lược huy động nguồn lực hiệu quả là điều có thể nhận thấy được (Ademola, 1997).
Đối với trường hợp của Uganda sẽ không cần gì khác để đạt được nguồn thu cải
thiện và sử dụng nó một cách hiệu quả. Mặc dù nhiều đề xuất được đưa ra cho
Uganda và các nước đang phát triển khác liên tục gặp phải nhiều trở ngại trong việc
hoà nhập thành một chính sách chính xác và đáng tin cậy (Fjeldstad, Odd-Helge,
2006). Để khỏi phải vay nước ngoài, một quốc gia nên sống bằng chính nguồn lực
của mình, và việc đảm bảo cho tình trạng tài khoản vãng lai phù hợp với các nguồn
lực tài chính sẵn có là điều thiết yếu.
Vay nợ nước ngoài dựa trên nguồn lực nội địa
Chính phủ cũng có thể có các phương án khác theo nhận định của họ để ít nhất đạt
được một vài mục tiêu mà công cụ nợ nội địa được thiết kế ra. Không có nhiều sự
lựa chọn cho các nước đang phát triển hay các nền kinh tế mới nổi, nếu phải loại bỏ
vay nợ nước ngoài, họ phải phát triển thị trường trái phiếu chính phủ trong nước.
Nếu chính phủ vay nợ nước ngoài quá mức, lãi suất trong nước sẽ giảm sâu, và
chính sách tài khóa sẽ trở nên vô hiệu (Montiel, và Reinhart, 1999). Điều này sẽ làm
giảm sút các quỹ (luồng vốn chảy ra ngoài), đây là nguyên nhân làm tăng vay nợ
nước ngoài để tăng nguồn dự trữ ngoại tệ tại Ngân hàng Trung ương. Nếu nợ nước
ngoài vượt 20-25% theo tỷ lệ GDP, nó có thể phản tác dụng, theo tiêu chuẩn quốc
tế yêu cầu tỷ lệ vay nợ nước ngoài 9% so với GDP (IMF năm 2006; Rena, 2011).
Hơn nữa vay nợ nước ngoài sẽ là vấn đề ảnh hưởng đến tình hình tín dụng của đất
nước đó, sẽ tăng trả nợ nước ngoài và phải chịu bất kỳ cú sốc nào của nền kinh tế.
Mục tiêu quan trọng vay nợ dài hạn là khắc phục vấn đề thuế bị bóp méo nhiều
bằng cách huy động nguồn lực tài chính từ kinh tế trong nước. Vay nợ nước ngoài
hấp dẫn nếu tỷ lệ tiết kiệm thấp và tránh sự lấn át của việc sử dụng tiết kiệm trong
nước có sẵn trong khu vực tư nhân. Như đánh giá ở phần trên, sự lựa chọn giữa vay
nước ngoài và vay trong nước phụ thuộc vào chi phí (lãi suất), kỳ hạn và rủi ro. Vay
GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Trang
nợ trong nước có thể được sử dụng để đạt mục tiêu chính sách tiền tệ. Điều này đặc
biệt đúng ở các nước có thặng dư cán cân thanh toán, thặng dư từ nguồn viện trợ và
xuất khẩu dầu. Trong trường hợp các luồng ngoại hối chảy vào làm tăng thanh
khoản, có thể làm suy yếu ổn định kinh tế vĩ mô và các Ngân Hàng Trung Ương
thường xuyên đưa ra quyết định can thiệp bằng cách bán trái phiếu Chính phủ hoặc
tín phiếu Ngân hàng Trung Ương để hạn chế áp lực lên lạm phát do thanh khoản
cao (Dieterich, 2004). Dòng vốn ngoại hối được tiếp nhận ở những nước đang phát
triển nhưng cũng tạo ra những thách thức cho các nhà hoạch định chính sách ở
trong nước. Nhờ dòng vốn nước ngoài nên đầu tư không còn bị giới hạn bởi hạn chế
nguồn vốn trong nước. Đặc biệt, các nền kinh tế quá độ có mức thu nhập thấp và
giới hạn trung bình phạm vi tiết kiệm trong nước nhưng triển vọng cao về lợi nhuận
đầu tư của dòng vốn vào. Dòng vốn đầu tư cho phép các nền kinh tế có mô hình tiêu
thụ đồng nhất theo thời gian (smooth the consumption pattern over time). Đối với
những nền kinh tế quá độ, gia đoạn đầu thường mang một chi phí lớn của quá trình
chuyển đổi. Tăng tiêu thụ ở thời kỳ này có thể giúp duy trì sự ủng hộ cấp thiết cải
cách kinh tế. Cuối cùng, dòng vốn xuyên biên giới có thể làm giảm rủi ro đầu tư
thông qua đa dạng hóa nguồn vốn (Montiel và Reinhart, 1999).
Chính sách tài khóa thông qua thuế
Để thiết lập một hệ thống thuế hiệu quả và công bằng ở những nước đang phát triển
không đơn giản, trừ khi nền kinh tế này được liên thông với nền kinh tế quốc tế.
Thuế là công cụ duy nhất tăng thu nhập để chi tiêu Chính phủ đối với hàng hóa và
dịch vụ. Ở các nước, hệ thống thuế tuyệt đối (absolute tax system) cần tăng nguồn
thu cần thiết mà không cần vay quá mức, và làm trì trệ các hoạt động kinh tế (Rena,
2011). Hầu hết công nhân ở Châu Phi cận Sahara được sử dụng trong ngành nông
nghiệp hoặc ở các doanh nghiệp nhỏ, vì tăng thu nhập, thuế thu nhập và thuế tiêu
dụng giảm sút vai trò trong nền kinh tế. Ở các nước đang phát triển chính sách thuế
gây lo ngại thể hiện ở các chỉ số như doanh thu/GDP thấp so với những nền kinh tế
phát triển. Thuế thu nhập cá nhân (labour income) đóng vai trò thấp và các nước
Trang 11
nghèo/đang phát triển thu nhập bình quân chỉ có 2/3 hoặc ít hơn doanh thu thuế của
các nước giàu, như một phần của GDP (Gordon và Li, 2005; Rena, 2011).
Cải cách quản lý thuế một cách hiệu quả không phải quá trình dễ dàng cho nền kinh
tế mới nổi, khi tiền lương của cán bộ thuế thấp, không có hiệu quả khi quản lý trên
hệ điều hành máy vi tính và nhân viên được đào tạo tốt. Ngoài ra thị trường tài
chính trong nước rất quan trọng trong việc giảm các vấn đề thông tin trong quyết
định đầu tư. Nhiều tiềm năng của khu vực châu Phi vẫn còn bị đóng, bởi vì chúng ta
không thể phát triển đủ nhanh và đủ mạnh so với các hệ thống cơ sở hạ tầng cần
thiết, đặc biệt là phương tiện vận tải và thông tin liên lạc. Kết quả là, hầu hết các
Chính phủ Châu Phi cận Sahara buộc phải có một hệ thống cho phép họ khai thác
những gì có sẵn, hơn là thiết lập một hệ thống hợp lý, hiện đại và hiệu quả. Thặng
dư hoăc thâm hụt của của Chính phủ (the Magnitude of goverment surplus or defict)
là số liệu thống kê quan trọng nhất đánh giá tác động của chính sách tài khóa của
Chính phủ vào nền kinh tế. Vấn đề là nhiều Chính phủ đang chìm sâu trong cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu và tìm kiếm vô vọng những chiến lược giảm các
ràng buộc chi tiêu (Seidman, 2003). Một kết quả là luân chuyển doanh thu thường
không đều hoặc thấp dưới mức phân cấp chi tiêu, dẫn đến sự trì trệ tài chính nghiêm
trọng trong mức độ khu vực (the local level). Ngoài ra, những kênh truyền dẫn mà
thông qua đó các tác động của các chính sách được dẫn truyền vào nền kinh tế có
thể có vài mối liên hệ với tầm quan trọng liên quan của một chính sách với chính
sách khác. Ngoài ra để tăng cường luận chứng này, đối tượng nộp thuế ít dự kiến sẽ
đóng thuế dựa vào kết cấu thuế phức tạp và chế độ thuế đơn giản cần phải được
thiết lập. Đây là nguồn gốc của ý tưởng về "chế độ thuế đơn nhất", xuất hiện chủ
yếu ở hầu hết các vùng tiểu Sahara, mặc dù ý tưởng chắc chắn không được giới hạn
trong phần đơn lẻ này của thế giới. Trong một khuôn khổ như vậy, người nộp thuế ít
sẽ phải trả chỉ một loại thuế, kết hợp từ các loại thuế mà người nộp thuế nhiều hơn
sẽ phải trả riêng. Vì sự phát hành của một loại thuế phức tạp này, các nhà quản trị
thuế cho rằng trong số người trốn thuế trong những người nộp thuế ít sẽ giảm
GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Trang
xuống. Tuy nhiên, cũng có tranh luận rằng những người trốn thuế này giảm xuống
là do các chế độ đơn giản có xu hướng cần ít doanh thu hơn từ những người này so
với thu nhập tiềm năng của họ (Shome, 2004).
Điều hành kinh tế trong các nền kinh tế mở phụ thuộc bị chi phối bởi chính sách
bình ổn và điều chỉnh cơ cấu. Thị trường vốn không thích bất ngờ. Họ đánh giá cao
các chính sách kinh tế vĩ mô lành mạnh và minh bạch và sự ổn định chính trị.
Những nước đang phát triển một mặt phải đương đầu với một hệ thống giá thế giới
ngoại sinh và luôn thay đổi và những danh mục của cầu, mặt khác lại phải đương
đầu với các thị trường tín dụng toàn cầu bị hạn chế mà động lực của chúng được
xác định bởi những chu kỳ tài chính trong các nền kinh tế cốt lõi. Hậu quả là việc
ổn định cầu để đáp ứng với những cú sốc bất ngờ tạm thời và việc điều chỉnh nguồn
cung cho những cú sốc thường xuyên quyết định hướng phát triển, hơn là quá trình
tối ưu hóa liên thời gian bởi khu vực tư nhân và công cộng (FitzGerald, 2005).
Chúng ta tranh luận rằng chi tiêu thấp như vậy ở các nước đang phát triển là kết quả
của các mô hình thuế. Nếu mô hình thuế thay đổi, chi tiêu cũng sẽ thay đổi. Các
lĩnh vực chủ chốt của thước đo chi tiêu công là y tế và giáo dục. Với một ngân sách
hạn chế, rất khó để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu công. Điều này rất phổ biến ở các
nước nghèo/đang phát triển. Từ đó phát sinh một đòi hỏi đối với chính sách tài khóa
không chỉ bằng cách giảm chi phí, mà còn bởi cải cách thuế. Chúng tôi cũng chỉ ra
rằng hệ thống thuế ở nhiều nước châu Phi vừa cồng kềnh, vừa không thể là một
nguồn thu hiệu quả, và đã làm cho nó hầu như không thể phục hồi từ nền kinh tế
đang đi xuống. Một sự thiếu hụt nguồn thu liên tục phát sinh là một hệ quả thường
thấy từ một hệ thống thuế yếu kém. Nếu chỉ đơn giản bằng cách cắt giảm chi tiêu
mà không phát triển một hệ thống thuế hiệu quả sẽ làm suy yếu sự phát triển và cấu
trúc của các cơ quan Nhà nước có hiệu quả. Để thúc đẩy tiềm lực trong một nền
kinh tế nội địa mạnh mẽ và ổn định, một đồng tiền ổn định là điều cần thiết cho sự
ổn định giá thông qua những cơ chế điều hành khác nhau (FitzGerald, 2003,
Gordon và Li, 2005).
Trang 13
Kinh nghiệm của các nước Châu Phi
Cấu trúc thuế của Kenya
Cấu trúc thuế hiện hành bao gồm hai loại thuế trực thu chính (thuế thu nhập cá nhân
và thuế doanh nghiệp) và ba loại thuế gián thu chính (thuế giá trị gia tăng, tiêu thụ
đặc biệt và thuế hải quan). Một xem xét công dụng tương đối của các công cụ trên
theo thời gian cho thấy tầm quan trọng của thuế thu nhập đã giảm, mặc dù nó vẫn
đóng một vai trò quan trọng trong tổng doanh thu thuế (Rena, 2011). Theo những
khảo sát kinh tế khác nhau, thuế thu nhập chiếm trung bình 44.6% trong thời kỳ
1968/69-1972/73, nhưng đã giảm tới mức trung bình 35.8% trong thời kỳ 2001/02-
2005/06. Thuế doanh nghiệp chiếm một tỷ lệ lớn hơn so với thuế thu nhập cá nhân
cho đến năm 1997/98, khi thuế thu nhập cá nhân trở nên quan trọng hơn. Ví dụ,
trong năm 2005/06, thuế thu nhập chiếm 38.5% tổng doanh thu thuế, trong đó
54.4% là thuế thu nhập cá nhân, trong khi thuế doanh nghiệp chiếm 45.6%. Thuế
giá trị gia tăng ngày càng trở nên quan trọng, trong khi vai trò của các loại thuế
thương mại đã ngày một giảm. Trong thời kỳ 2001/02-2005/06, thuế giá trị gia tăng
chiếm trung bình là 27.5%, thuế tiêu thụ đặc biệt chiếm 20.1%, trong khi thuế hải
quan chiếm khoảng 13%. Các loại thuế này đã tiến hóa theo thời gian từ một cấu
trúc thuế ban đầu được thừa hưởng từ hệ thống của Anh (Wanjala1 & Bernadette,
2006).
Hệ thống thuế của Uganda
Hệ thống thuế của Uganda vào thời kỳ 1990-2004 đã trải qua những cải cách năng
động hơn cả về chính sách và quản lý. Trước năm 1991, việc quản lý những loại
thuế Trung ương là một chức năng trực tiếp của Bộ tài chính (Kaweesa, 2004). Khu
vực công lớn hơn nhiều so với khu vực tư nhân nhưng đóng góp rất ít vào thuế. Khu
vực tư nhân có suất thu nhập thấp, bị chi phối bởi nền nông nghiệp chỉ vừa đủ ăn
(khoảng 60% GDP). Hơn nữa, khu vực thương mại phần lớn là không chính thức và
GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Trang
khó đánh thuế. Cơ sở thuế của Uganda vẫn rất hẹp từ khi độc lập dẫn đến doanh thu
thuế không tương xứng. Đến nay tỷ lệ doanh thu thuế trên GDP chỉ khoảng 13% so
với mức trung bình 18 -20% của khu vực tiểu Sahara. Cho đến năm 1989 tỷ lệ
doanh thu thuế trên GDP chỉ đạt 4%. Ngoài ra thành phần của doanh thu thuế chủ
yếu phụ thuộc nhập khẩu. Hơn 60% của tổng doanh thu thuế là từ thuế nhập khẩu
và chưa tới 40% từ các loại thuế nội địa (Bird và Oldman, 1990; Wanjala1 &
Bernadette, 2006; Seidman, 2003). Kịch bản này được cho là do một số yếu tố.
Hệ thống thuế của Ghana
Hai bước thiết thực đã được thực hiện ở Ghana năm 1985 để tăng cường quản lý
nguồn thu trong nước. Đó là việc thành lập Văn Phòng Quản Lý Thu Nhập Quốc
Gia (NRS) và thành lập hai tổ chức lớn: Hải quan, Dịch vụ tiêu thụ đặc biệt và
phòng ngừa (CEPS) và Sở Thuế Vụ (IRS), là những tổ chức tự quản nằm ngoài các
dịch vụ dân sự. Thuế thu nhập đã được giới thiệu ở Ghana theo Pháp lệnh thuế thu
nhập trong năm 1943 (Terkper, 1994). Ba yếu tố chủ yếu được đưa ra cho sự gia
tăng nguồn thu là: việc mở rộng trong những căn cứ đánh thuế như một kết quả của
tự do hóa nền kinh tế, những thay đổi cấu trúc của thuế và việc tổ chức lại rộng rãi
của các tổ chức quản lý thuế trong nước. Những cải cách trong quản lý thuế đã được
thừa nhận rộng rãi là có liên quan hoặc hầu như không thể thiếu cho quá trình cải
cách hiệu quả của cấu trúc thuế ở bất cứ nước nào.
Các nước có mức thu nhập thấp và trung bình sẽ có mức phân phối lại thấp. Các
nước có thu nhập vượt quá mức trung bình sẽ có mức phân phối lại cao, trong đó
các nền kinh tế có thu nhập cao sẽ có mức phân phối lại lớn nhất. Phân phối lại thu
nhập từ khu vực tư nhân cho đến Chính phủ là một sự gia tăng trong lĩnh vực
thuế. Phối hợp với sự chi tiêu của Chính phủ là sự gia tăng trong hình thành vốn
(Bird và Oldman, 1990; Rena, 2011). Khi một quốc gia cải thiện chính sách tài kháo
bằng cách giảm các mức thuế hay các rào cản khác đối với thương mại, sẽ thúc đẩy
Trang 15
tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Một số nước đang phát triển thì một nửa
ngân sách quốc gia phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài và do đó sự hình thành vốn ở
các nước này sẽ rất khó khăn. Một trong những lý do gây nên những trở ngại trong
việc mở rộng và đa dạng hóa xuất khẩu của các nước này, đó là mức thuế suất cao
và thất bại trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đáp ứng kịp thời với những
thay đổi của nhu cầu quốc tế. Tác động tiêu cực của sự thâm hụt tài chính một cách
dai dẳng đối với các nền kinh tế mới nổi, hiện nay có một sự đồng thuận giữa các
bên liên quan về sự cần thiết để giải quyết vấn đề một cách hiệu quả (Seidman,
2003; Gordon và Li, 2005). Các tài liệu đã đưa ra ba phương pháp tiếp cận cho mục
đích này: gia tăng doanh thu, giảm chi tiêu, hoặc là kết hợp cả hai. Hầu hết, việc
đánh giá về quá trình lập ngân sách cho thấy rằng chi tiêu hàng năm luôn được neo
trên doanh thu dự kiến, do đó tính chính xác của dự báo doanh thu là một điều kiện
cần thiết cho việc đề ra một khuôn khổ phù hợp để quản lý thâm hụt ngân sách
trong bất kỳ quốc gia nào. Điều đó cũng cho thấy rằng việc giảm đáng kể trong chi
tiêu công và quản lý thận trọng của các nguồn lực tài chính là những giải pháp khả
thi nhất đối với vấn đề thâm hụt ngân sách. (Ariyo, 1997).
Trong trường hợp của Ghana, trong những năm 1990, tình hình tài khóa của Chính
phủ đã được củng cố đáng kể. Các hoạt động kinh tế tiếp tục được cải thiện ở
Ghana trong nửa đầu năm 2006, được hỗ trợ bằng cách thực hiện mạnh mẽ các
chính sách ổn định kinh tế vĩ mô và một môi trường bên ngoài thuận lợi. Tăng
trưởng kinh tế tương đối mạnh, lạm phát đang giảm, và thế mạnh đã tăng cường
đáng kể, tích lũy các nguồn dự trữ quốc tế nhằm chống lại những cú sốc. Thực hiện
chương trình của Ghana trong chương trình hỗ trợ PRGF đã được thỏa đáng. Trong
những năm 1990, thâm hụt ngân sách tổng thể (bao gồm cả viện trợ) trung bình
khoảng 9% GDP, nhưng nó đã giảm đều đặn đến khoảng 3½% GDP trong năm
2004. Sự cải thiện này một phần là do tăng trưởng kinh tế mạnh, và các chính sách
thuế mới, đã tăng cường quản lý doanh thu, chi tiêu (Thống đốc Ngân hàng của
GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Trang
Ghana (2001). Doanh thu thuế ở mức cao nhất vào khoảng 24% GDP, và điều này
đã cho phép chi thường xuyên tăng lên hơn 20% GDP. Dựa trên ước tính hiện tại,
chính phủ đạt được mục tiêu trung hạn được nêu trong Chiến lược Giảm nghèo
Ghana, giảm một nửa tỷ lệ nợ trong nước so với GDP từ cuối năm 2002 đến cuối
năm 2005 (khoảng 11½% GDP) (IMF, 2006). Chính sách tài khóa xuất hiện vào
năm 2006 cung cấp các mục tiêu cắt giảm tỷ lệ nợ trong nước so với GDP. Việc
củng cố tài chính trong chương trình hỗ trợ PRGF đã dẫn đến một sự giảm đáng kể
trong dịch vụ nợ trong nước và khuyến khích đẩy mạnh đầu tư khu vực tư nhân
thông qua việc tiếp tục giảm lãi suất, và tăng chi tiêu hỗ trợ giảm nghèo.
Yêu cầu quản lý nợ
Nghiên cứu này nhằm mục đích thảo luận về mối quan tâm chung của quản lý nợ
trong và ngoài nước, và việc ứng dụng các chuẩn mực kiểm toán trong việc đánh
giá những tác động của các biện pháp cải cách, sửa đổi. Chi phí của các khoản nợ
dùng để đạt được những mục tiêu này là để tạo ra một dữ liệu định lượng để đo
lường kết quả và mục tiêu phát triển quốc gia. Những nguyên nhân chính của cuộc
khủng hoảng nợ là do yếu kém về kinh tế, dự báo doanh thu và chi tiêu không chính
xác, các chính sách về thuế và chi tiêu (Thống đốc Ngân hàng của Ghana (2001,
IMF, 2006). Cải cách quản lý nợ đã được thực hiện trong các chương trình nghị sự
của các nước đang phát triển và các tổ chức tài chính quốc tế trong nhiều năm, với
một số thành công trong việc loại bỏ biến dạng kinh tế (Terkper, 1994). Tuy nhiên,
nhiều vấn đề vẫn chưa được giải quyết do việc thay đổi cấu trúc, như phân cấp, có
thêm phần mới để giải quyết những vấn để khó khăn của tài chính công. Cắt giảm
chi tiêu để tập trung vào các chương trình đầu tư và các dịch vụ xã hội không những
không bền vững mà còn là một mối đe dọa cho tính hiệu quả của các chính sách
công. Trong trường hợp của các chương trình xã hội, điều này cũng có thể làm tổn
hại đến khả năng thực hiện vai trò quản lý nợ của chính phủ (Fiszbein,
Trang 17
1997). Những gì chúng ta cần phải làm ở châu Phi là để đảm bảo rằng các dịch vụ
tài chính của chính phủ, các doanh nghiệp và hộ gia đình được thực hiện theo
phương pháp hiệu quả nhất và được xem xét điều chỉnh phù hợp. Thị trường tài
chính và vốn phát triển tốt giúp giảm chi phí vay vốn của khu vực tư nhân và công,
thực hiện chiến lược vay ngắn hạn hiệu quả và dễ dàng hơn để tài trợ trong dài hạn.
Điều đó có một ý nghĩa đặc biệt trong việc xác định các vấn đề quan trọng và khó
khăn của quản lý tài nguyên và đề xuất các khuyến nghị để cải thiện. Sự khan hiếm
nguồn nhân lực có trình độ, sự nhất quán trong các chính sách, quy trình lập kế
hoạch quản lý nợ và sự quan tâm của các cấp chính quyền chưa đâyd đủ là thách
thức bên ngoài cơ bản (IMF, 2006). Sự chậm trễ trong thông tin tài chính và không
sẵn lòng để cung cấp các báo cáo thi hành đã gây ra khó khăn để đánh giá hiệu quả
của việc quản lý nợ.
Chính sách tài khóa thông qua phân cấp
Phân cấp quản lý tài chính là chiến lược tiếp theo của nhiều nước trong nỗ lực để
khuyến khích phát triển kinh tế bên ngoài các khu vực đô thị lớn. Mục tiêu chính
của phân cấp tài chính là để di chuyển quản lý gần gũi hơn với mọi người, và điều
này đòi hỏi phải tăng cường tài chính của chính quyền địa phương. Đưa thêm cho
chính quyền địa phương quyền lực thuế và quản lý chi phí, và cho phép họ quyết
định mức và cơ cấu ngân sách chi tiêu. Bằng cách này, người dân ở mức thấp nhất
tích cực tham gia quản lý nhà nước bằng cách lựa chọn các chính quyền mà họ
muốn. Kết quả cử tri hài lòng hơn và một chính quyền địa phương tốt hơn. Phân cấp
quản lý tài chính đòi hỏi chính quyền địa phương với một số quyền tự chủ để đưa ra
quyết định tài chính độc lập (Fiszbein, 1997). Phân cấp quản lý tài chính cũng được
định nghĩa là một chuyển giao trách nhiệm, nguồn lực và giải trình đối với cộng
đồng địa phương, nâng cao mức độ tham gia của công dân trong quản trị. Khi chính
quyền địa phương đã có thể đưa ra quyết định sáng tạo, tích cực trên vốn chủ sở
GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Trang
hữu là một trong những hiệu ứng đáng chú ý của việc phân cấp chi tiêu. Mô hình
tương tự của phân cấp được quan sát trong phần hai của nghiên cứu bao gồm -
Philippines, Ghana, Uganda và Zambia. Philippines có mức độ phân quyền quyết
định cao nhất một phần do năng lực thể chế của đất nước cũng như các hình thức
phân cấp. Quan trọng nhất là đầy đủ nguồn nhân lực để phân cấp và đầy đủ năng
lực theo yêu cầu của từng chính quyền địa phương, đặc biệt về khía cạnh kỹ thuật
khi phân cấp chức năng và nâng cao doanh thu. Việc chuyển giao nhân viên có kỹ
năng để LGs dễ dẫn đến xung đột lợi ích đối với các cán bộ giữa các trung tâm, nơi
họ đã triển khai và nơi đưa ra quyết định nhân sự và các địa phương nơi họ phục vụ
(Fiszbein và Campbell, 1997).
Thảo luận và kết luận
Các phân tích đã xem xét về hiệu quả của quản lý thuế và chính sách tài khóa ở các
nước đang phát triển. Nhìn chung, kết quả phản ánh tác động của độ trễ hành chính
và sai sót trong việc thực hiện các chính sách tài chính và thuế. Do tác động tiêu cực
tài chính không bền vững và thâm hụt lâu dài đối với các nước đang phát triển nhất
ở châu Phi, và cần giải quyết vấn đề này một cách hiệu quả. Các tài liệu cho thấy ba
cách tiếp cận cho mục đích này: gia tăng doanh thu, giảm chi phí, hoặc cả hai. Việc
đánh giá về quy trình ngân sách ở hầu hết các quốc gia cho thấy rằng đề xuất chi
tiêu hàng năm luôn được neo trên doanh thu dự kiến, do đó độ chính xác của dự báo
doanh thu là một điều kiện cần thiết cho việc xây dựng một khuôn khổ phù hợp để
quản lý thâm hụt ngân sách. Trong bất kỳ cách nào, môi trường chính trị, kinh tế và
xã hội định hình bối cảnh thể chế khu vực công, bao gồm chính phủ, các cơ quan
lập pháp, tư pháp, dịch vụ dân sự, và một loạt các tổ chức bán chính phủ. Có 2 loại
yếu tố bên ngoài tác động. Đầu tiên, một số yếu tố, chẳng hạn như điều kiện tài
chính và kinh tế, xác định tính khả thi của các lựa chọn bằng cách phân định mức
độ của "nguồn cung cấp vốn”. Thứ hai, các yếu tố khác hạn chế hoặc khuyến khích
Trang 19
các nhà cung cấp sử dụng các nguồn lực sẵn có một cách hiệu quả nhất và hiệu quả.
Chúng bao gồm các hệ thống chính trị, hành chính và khuôn khổ pháp lý, bản chất
của xã hội dân sự, và bản chất của sự tương tác khu vực tư nhân. Việc đánh thuế tài
sản và thu nhập tài sản vẫn còn là một thách thức. Thuế tài sản và thu nhập tài sản là
một trong những cách phân phối lại thu nhập.
Phát triển kinh tế của châu Phi và ổn định chính trị là rất quan trọng đối với cả công
dân của mình và cho phần còn lại của thế giới. Thành công của nó dường như phụ
thuộc chủ yếu vào hành động mà người châu Phi tự làm để thành lập tổ chức và
chính sách kinh tế, luật pháp và chính trị mạnh mẽ. Quyền tự chủ về doanh thu là
yếu tố quan trọng của cải cách hành chính phải được thực hiện trong tất cả các nước
được nghiên cứu. Tuy nhiên, nâng cao hiệu quả khu vực công cộng, quản lý khả
năng tài chính và giám sát ngân sách có thể đóng một vai trò quan trọng trong các
nền kinh tế. Trong khi cần ưu tiên cho khu vực doanh thu, việc thực hiện thuế hoặc
các biện pháp tài chính phải được xem là cốt lõi của chính sách tài khóa. Các nước
đang phát triển đã ngày càng phát triển để nhận được dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài tạo ra một cơ sở hạ tầng quan trọng, nhưng họ phải có khả năng quản lý
và ứng phó biến động kinh tế quốc tế. Chúng tôi đồng ý về nguyên tắc rằng một
chính sách tiền tệ là công cụ chính để ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, một chính
sách tài khóa có khả năng có thể đóng một vai trò ổn định trong thời kỳ suy thoái
nghiêm trọng và khi lạm phát là rất thấp. Nghèo về tài chính và công khai hoạt động
các doanh nghiệp đặt ra các yêu cầu chính phủ vay, và áp đặt cả một gánh nặng tài
chính và kinh tế đối với nền kinh tế. Trong khi đó, giải quyết các nghĩa vụ thanh
toán một cách kịp thời, nâng cao thu nhập đầy đủ, và giám sát các biện pháp ngân
sách có thể giúp ngăn chặn những tổn thất tài chính. Nói chung, không có khả năng
nâng cao doanh thu đầy đủ làm cho nó không thể đạt được trạng thái cân bằng.
Tăng cường hệ thống thuế, lao động và thu nhập vốn, thuế nhập khẩu và các loại
GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Trang
thuế khác của nước ngoài, cũng sẽ đóng một vai trò tiềm năng trong việc phát triển
nền kinh tế của châu Phi.
Tài liệu tham khảo
Ademola A., 1997, Productivity of the Nigerian tax system: 1970–1990 AERC
Research Paper 67 African Economic Research Consortium, Nairobi.
Bank of Ghana, 2003, Press release of Monetary Policy Committee, available at
www.bog.gov.gh/privatecontent/File/MPAFSD/MPC%20Press%20Releas e
%20May%202003.pdf retrieved on 28 November 2009.
Bird, R M., and O. Oldman, (eds.) 1990, Taxation in developing countries,
Baltimore: Johns Hopkins UP.
Bougrand, L., and Mlachila, 2002, The choice between external and domestic debt
in financing budget deficits - The case of Central and West African countries, IMF
working paper No. 02/79.
Campos and Pradhan, 1996, Budgetary institutions and expenditure outcomes:
Binding governments to fiscal performance a product of the Public Economics
Division, Policy Research Department, available at
dec/Publications/Workpapers/wps1646- abstract.html retrieved on 25 November
2009.
Dailami and Atkin, 1990, Policy, research, and external affairs financial policy and
systems WPS 515 – Stock Markets in Developing Countries, World Bank's
Financial Policy and Systems Division.
Dieterich, C., 2004, Capital inflows sterilization, and commercial bank speculation
policy options for managing foreign exchange inflows, African Department, IMF
Working Paper No. 04/218 (November).
Fiszbein, A., 1997, Decentralization and local capacity: Some thoughts on a
controversial relationship, Technical Consultation on Decentralization by SD
Diminstion publication.
Fiszbein, A. and Campbell, T., 1997, Local government capacity: Beyond technical
assistance”, World Development, 25(7):10-31.
FitzGerald, V., 2003, Global markets and the developing economy, Basingstoke:
Palgrave.
FitzGerald, V., 2005, Stabilisation policy and structural adjustment, available at
Trang 21
retrieved on 29 November
2009.
Fjeldstad, and Odd-Helge, 2006, Corruption in tax administration - Lessons from
institutional reforms in Uganda, In Susan Rose-Ackerman ed. (2006) International
handbook on the economics of corruption. Cheltenham, UK/Northampton MA,
USA: Edward Elgar: 484-511.
Gordon, R H. and Li Wei, 2005, Puzzling tax structures in developing countries: A
comparison of two alternative explanation, NBER Working Paper No. W11661.
Governor of Bank of Ghana, 2001, Memorandum of economic and financial
policies of the government of Ghana for 2001, Ghana on IMF, (June).
IMF, 2005, Nigeria: Poverty reduction strategy paper - National economic
empowerment and development strategy, IMF Country Report No. 05/433.
IMF, 2006, IMF Executive Board completes sixth and final review under Ghana's
PRGF arrangement and approves US$39 Million Disbursement”, Press Release No.
06/234, available at
retrieved on 22 November 2009.
Kaweesa, C. K., 2004, Taxation and investment in Uganda structure and trends,
Speech by Assistant Commissioner for Tax Education/Spokesperson Uganda
Revenue Authority.
Montiel, P. and Reinhart, C. M., 1999, The dynamics of capital movements to
emerging economies during the 1990s. In Griffith-Jones, Montes (eds.), Short-term
capital movements and balance of payments crises, Oxford: Oxford University
Press.
Osei, A., 2006, Speech delivered By The Commissioner Of Internal Revenue, At
The Re-Launch Of The Tax Stamp, Thursday, 28th September 2006 available at
retrieved on 25 November 2009.
Rena, R., 2006, Financial institutions in Eritrea, Dar-es-Salaam (Tanzania): New
Africa Press.
Rena, R., 2011, Public finance and taxation, Windhoek: Center for Lifelong
Learning, Polytechnic of Namibia.
Schick, A., 1998, A contemporary approach to public expenditure management,
Economic – ‘Prioritization and fiscal responsibility: How to involve politicians in
expenditure management.
GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Trang
Seidman, LS., 2003, Automatic fiscal policies to combat recessions, Armonk, NY:
M.E. Sharpe.
Shome, P., 2004, Tax administration and the small taxpayer IMF Policy Discussion
Paper PDP/04/2 – presented at the workshop of Fiscal Affairs Department.
Siegel, J.J., 1979, Inflation-induced distortions in government and private saving
statistics, Review of Economics and Statistics, 61(1):83-90.
Terkper, S. E., 1994, Ghana: Tax administration reforms (1985-1993) Presented by
the Author who is an Advisor to the National Revenue Secretariat, Ghana and a
Research Fellow at the International Tax Program, Harvard University.
Van der Merwe, 2002, Policy applications of balance of payments and IIP statistics
prepared by the Bank of Uganda, BOPCOM-03/37 Sixteenth Meeting of the IMF
Committee on Balance of Payments Statistics Washington D.C., December 1–5,
2003.
Kiringai J., Wanjala B. and Mathenge N., 2006, Feminisation of poverty in Kenya:
Is fiscal policy panacea or Achilles’ heel?, 5th PEP Research Network General
Meeting, June 18-22, Addis-Ababa, Ethiopia.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- h_6591.pdf