● Tổng cầu AD giảm xuống tạo ra sự tăng lên thất nghiệp chu kỳ, trong khi việc cơ cấu lại
lại tạo ra thất nghiệp cơ cấu và thất nghiệp tự nhiên!
Trong những năm tiếp theo, ảnh hưởng của việc cơ cấu lại dần dần kết thúc, và những công
nhân mới bắt đầu làm việc trong những lĩnh vực mớ i - đường cầu lao động bắt đầu dịch
chuyển sang phải, làm giảm mức thất nghiệp tự nhiên.
● Bên cạnh đó, nền kinh tế Hoa Kỳ đang phục hồi, và xuất khẩu của chúng ta sang Hoa Kỳ
tăng mạnh, làm tăng tổng cầu.
● Tuy nhiên, giữa những năm 90, chúng ta có trưng cầu dân ý ở Quebec, điều này làm tăng
sự không chắc chắn về tương lai, và tạo áp lực đối với đồng đô la Canada và được thể hiện
bằng sự tăng lãi suất mạnh mẽ trong các năm 1994-95, điều này làm giảm tổng cầu đầu tư
do đó giảm tổng cầu.
● Hơn nữa, chính quyền liên bang và hầu hết các tỉnh bắt đầu lo lắng về thâm hụt của họ,
bắt đầu cắt giảm chi tiêu và tăng thuế - chính sách ngược chu kỳ này làm giảm tổng cầu.
● Kết quả của những yếu tố này là tổng cầu KHÔNG khôi phục lại trong những năm 90, và
thất nghiệp chu kỳ vẫn cao.
36 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3100 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thất nghiệp tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong năm 2009. Thu hẹp qui mô và
giãn sản xuất, đồng nghĩa với cắt giảm nhân công hoặc sử dụng không hết thời
gian làm việc, là những giải pháp phổ biến tại nhiều đơn vị sản xuất thời gian
qua. Ngay trong khu vực vốn tạo nên cơn sốt nhân lực trong năm 2006-2007 là
tài chính, ngân hàng, và chứng khoán cũng hình thành xu thế cắt giảm mạnh.
Nhìn vào lĩnh vực xuất khẩu, năm 2008 mức xuất khẩu của Việt Nam vẫn
tăng trưởng ngoạn mục (do tăng về số lượng và cả giá cả). Nhưng 7 tháng đầu
năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt khoảng 32,35 tỷ USD, giảm 13,4%
so với cùng kỳ năm ngoái, kém xa so với mục tiêu đề ra (mục tiêu cho cả năm là
64,75 tỷ USD). Giá dầu thô giảm 53,1%, giá cao su giảm 45,8%, giá hạt tiêu
giảm 33,2%, giá cà phê giảm 29,24%, giá gạo giảm 28,6%, giá hạt điều giảm
19,5%, giá than đá giảm 15,8%, chè giảm 9%... Ước tính sơ bộ, với việc giảm
giá xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu trên, kim ngạch xuất khẩu giảm do giá lên
tới trên 6 tỷ USD.
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 7 tăng 2,3% so với tháng 6 năm 2009
và tăng 7,6% so với cùng kỳ năm 2008. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh
thu dịch vụ tiêu dùng 7 tháng đầu năm 2009 tăng 18,3% so với cùng kỳ năm
2008
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 7 tháng đầu năm 2009 đã giảm xuống một
con số, với mức tăng 9,25% so với 7 tháng đầu năm 2008.
Đánh giá chung tình hình kinh tế 7 tháng đầu năm 2009 tuy còn nhiều khó
khăn nhưng tiếp tục phát triển theo chiều hướng tích cực. Sản xuất nông nghiệp
ổn định, ngành công nghiệp tiếp tục phục hồi và liên tục tăng trưởng trong 6
tháng qua; khu vực dịch vụ, đặc biệt là thị trường trong nước vẫn giữ được tốc
độ tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên, trong từng ngành, lĩnh vực còn nhiều khó
khăn, nhất là hoạt động xuất khẩu giảm nhiều so với cùng kỳ năm trước. Các chỉ
số tiền tệ, tín dụng đang tăng khá cao, cần có biện pháp kiểm soát chặt chẽ để
tránh gây tái lạm phát...
II. Tình hình thất nghiệp tại Việt Nam và nguyên nhân
1. Tình hình thất nghiệp
Bỏ qua bất bình đẳng xã hội, tội phạm hay bạo lực, giờ đây, nỗi sợ hãi
kinh hoàng nhất đang hoành hành trên toàn thế giới lại chính là vấn đề không
thể kiếm được việc làm và hiện tượng thất nghiệp ngày càng tăng. Thất nghiệp
trở thành mối quan tâm nóng bỏng toàn cầu, vượt xa mọi vấn đề lo lắng thông
thường khác, kể cả cái đói nghèo, nhất là khi khủng hoảng kinh tế, tài chính gõ
cửa đến từng hộ gia đình.
Năm 2008:
Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ giảm sút; tiêu thụ sản phẩm chậm, hàng hóa
ứ đọng, kể cả các vật tư quan trọng, lương thực và nhiều nông sản xuất khẩu có
khối lượng lớn; số người mất việc làm năm 2008 khoảng 667.000 người, 3.000
lao động từ nước ngoài phải về nước trước thời hạn. Theo Bộ Lao Động, tỷ lệ
thất nghiệp của Việt Nam vào khoảng 4,65%. Tức là khoảng hơn 2 triệu lao
động không có việc làm.
Danh sách các doanh nghiệp giải thể, tạm ngưng hoạt động, thu hẹp sản
xuất ngày càng dài thêm trong các báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và
Xã hội TPHCM. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu và làn sóng thất nghiệp đã lan đến
Việt Nam - khi hàng ngàn lao động ở các thành phố đã bị mất việc làm trong
những tháng cuối năm này...
Trong thông báo gửi Sở Lao động - Thương binh và Xã hội TPHCM, Công
ty TNHH Sambu Vina Sport cho biết sẽ giảm 224 lao động kể từ ngày 11-1-2009.
Trước đó, nhiều doanh nghiệp cũng đã thông báo về việc cắt giảm lao động như
Công ty Sony Việt Nam, Công ty liên doanh RSC, Công ty TNHH Castrol BP Petco,
Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Dai-Ichi Việt Nam, Công ty TNHH tư vấn thiết
kế Liên hiệp Quốc tế... với tổng số lao động bị mất việc trên 1.000 người. Hàng
ngàn lao động mất việc cuối năm 2008. Hàng vạn người bị nợ lương, không có
tiền thưởng. Nhiều người có cũng như không, vì tiền thưởng cho một năm lao
động cật lực không đủ ăn bát phở.
Thất nghiệp, bản thân người thất nghiệp không có thu nhập, ảnh hưởng
đến đời sống bản thân, gia đình họ. Doanh nghiệp cũng khổ vì cho nhân viên
nghỉ thì thương, vương thì tội. Mà cho nghỉ thì cũng phải trả các trợ cấp thôi
việc, mất việc. Trong lúc khó khăn thì những khoản này cũng đâu có nhỏ.
Ngân sách nhà nước cũng bị ảnh hưởng vì không thu được thuế thu nhập
cá nhân, lại còn phải trả các trợ cấp thất nghiệp, phải đầu tư cho các giải pháp
nhằm giảm thất nghiệp…. Khi nạ̣n thất nghiệp tràn lan thì tệ nạn xã hội: trộm
cắp, cướp giật, ma túy, mại dâm, rượu, cờ bạc,…. cũng tăng theo.
Một bộ phận rất lớn người lao động trong các khu công nghiệp là người từ
các tỉnh nông nghiệp. Họ đi lên thành thị làm công nhân vì ở quê không có việc
làm hoặc làm không đủ sống. Nhà máy ngừng sản xuất, phải đóng cửa hoặc
giảm bớt lao động nên họ phải trở về. Nợ cũ chưa trả hết lại chồng thêm nợ mới.
Họ đi kiện công ty đưa mình đi xuất khẩu lao động, nhưng xét cho cùng cũng
chẳng phải lỗi của ai. Người thất nghiệp kéo từ thành phố về nhà, cái nghèo ở
quê đã quá đủ, nay gánh nặng thêm vì số lao động thất nghiệp tăng lên.
Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động trong độ
tuổi năm 2008 phân theo vùng (Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam:
Vùng
Tỷ lệ thất nghiệp (%)
Tỷ lệ thiếu việc làm
(%)
Chung
Thành
thị
Nông
thôn
Chung
Thành
thị
Nông
thôn
CẢ NƯỚC 2,38 4,65 1,53 5,10 2,34 6,10
Đồng bằng sông Hồng 2,29 5,35 1,29 6,85 2,13 8,23
Trung du và miền núi phía
Bắc 1,13 4,17 0,61 2,55 2,47 2,56
Bắc Trung Bộ và duyên hải
miền Trung 2,24 4,77 1,53 5,71 3,38 6,34
Tây Nguyên 1,42 2,51 1,00 5,12 3,72 5,65
Đông Nam Bộ 3,74 4,89 2,05 2,13 1,03 3,69
Đồng bằng sông Cửu Long 2,71 4,12 2,35 6,39 3,59 7,11
Số người không có việc làm tại nông thôn và thành thị hiện cao hơn con số này.
Theo Tổng cục Thống kê (TCTK), chỉ tiêu tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta
những năm gần đây chỉ được tính cho khu vực thành thị, với những người trong
độ tuổi 15-60 với nam và 15-55 với nữ. Tuy nhiên, để đánh giá về tình hình lao
động, còn một chỉ tiêu khác là tỷ lệ lao động thiếu việc làm. Đây là chỉ tiêu quan
trọng được tính cho cả lao động ở khu vực nông thôn và thành thị, nhưng từ
trước đến nay chưa công bố. Ở Việt Nam, tỷ lệ lao động thiếu việc làm thường
cao hơn tỷ lệ thất nghiệp; trong đó tỷ lệ thiếu việc làm nông thôn thường cao
hơn thành thị. Với cách hiểu như vậy, tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam hiện là
4,65%, tăng 0,01% so với năm 2007. Trong khi đó, tỷ lệ lao động thiếu việc làm
hiện là 5,1%, tăng 0,2% so với năm 2007. Đáng chú ý, tỷ lệ thiếu việc làm nông
thôn tới 6,1%, trong khi tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 2,3%. 5 năm lại đây, tỷ
lệ thất nghiệp, thiếu việc làm có xu hướng giảm 0,1-0,2%/năm. Nhưng do ảnh
hưởng của biến động kinh tế thế giới, từ năm 2007 đến nay, tỷ lệ này đang tăng
dần. Việt Nam đang tích cực triển khai các giải pháp để giảm tỷ lệ thất nghiệp,
thiếu việc làm về đúng quỹ đạo giảm như các năm trước. Theo dự báo của
TCTK, tỷ lệ thiếu việc làm năm 2009 sẽ tăng lên 5,4% (2008: 5,1% ); trong đó,
khu vực nông thôn khoảng 6,4%.
Khảo sát cho thấy người lao động nhập cư đang đối mặt với tình trạng
giảm thu nhập, nhiều người lao động nhập cư tại các làng nghề và khu công
nghiệp được khảo sát đang quay lại quê nhà. Họ và làng quê họ, nơi đã từng
hưởng lợi từ tiền gửi về do làm thuê, đang gánh chịu nhiều nhất những tác động
trước mắt của khủng hoảng kinh tế. Xu thế và hướng đi của lao động di cư trong
nước và mối liên kết nông thôn - thành thị là những chỉ số quan trọng cần được
sử dụng để tiếp tục theo dõi tác động xã hội của khủng hoảng kinh tế trong thời
gian tới.
Người lao động được phỏng vấn cho biết, nếu trong năm 2007 họ có thể
có việc làm 20 ngày/tháng thì đến cuối 2008, họ chỉ có việc làm khoảng 10
ngày/tháng, trong đó số ngày làm các công việc xây dựng giảm khoảng 70%,
các công việc khác như khuân vác, chuyển đồ, thu dọn vệ sinh… giảm khoảng
30%. Tiền tiết kiệm hàng tháng trung bình giảm mạnh và hầu như không có
Tăng trưởng GDP Việt Nam giảm từ 8,5% năm 2007 xuống còn 6,23%
năm 2008. Theo các chuyên gia kinh tế, về lý thuyết, GDP giảm 2 điểm phần
trăm thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng 1%.
Theo thống kê của Bộ LĐ-TB-XH, hết năm 2008, cả nước mới có gần
30.000 lao động tại khối DN bị mất việc vì nguyên nhân kinh tế suy giảm. Bộ này
đưa ra ước tính số lao động bị mất việc vì nguyên nhân trên trong năm 2009 sẽ
vào khoảng 150.000 người. Còn theo cách tính của Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO), cứ 1% tăng trưởng GDP sẽ có thêm 0,33 - 0,34% lao động có việc làm.
Như vậy, với VN, nếu GDP giảm khoảng 2% trong năm 2008 tương ứng sẽ có
0,65% việc làm bị mất. 0,65% tương đương với số lượng khoảng 300 nghìn
người.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan Hương,thuộcViện khoa học lao động và xã hội
khẳng định, năm 2008 tổng việc làm mới được tạo ra chỉ là 800.000 so với
khoảng 1,3 triệu việc làm mới được tạo ra trong năm 2007. Nhiều ngành sử
dụng nhiều lao động có tốc độ tăng việc làm cao bị ảnh hưởng rõ rệt từ cuộc
khủng hoảng kinh tế. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa là nơi tạo ra khoảng 50%
việc làm trong hệ thống doanh nghiệp nói chung, mỗi năm tăng thêm khoảng
500.000 lao động. Tuy nhiên, thời gian qua, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn,
phải cắt giảm nhân sự.
Xuất khẩu lao động gặp khó khăn
Theo Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, năm 2008, cả nước giải quyết
việc làm cho 1,35 triệu lao động, trong đó thông qua các chương trình kinh tế xã
hội là 1,1 triệu, xuất khẩu lao động 85.000. 4 thị trường xuất khẩu lao động
trọng điểm của Việt Nam là: Đài Loan (33.000), Hàn Quốc (16.000), Malaysia
(7.800) và Nhật Bản (5.800).Malaysia là thị trường tiếp nhận nhiều lao động Việt
Nam nhất. Trong các năm 2005-2007, mỗi năm quốc gia này tiếp nhận khoảng
30.000 lao động Việt Nam. Năm 2008, do lo ngại nhiều rủi ro cũng như khan
hiếm nguồn lao động, số người Việt sang Malaysia giảm hẳn, chưa tới 10.000.
Người lao động ở nông thôn đi xuất khẩu lao động rất đông, nhiều người
vay mượn tiền để làm thủ tục đi xuất khẩu lao động, không may gặp những
nước bị ảnh hưởng suy thoái kinh tế trầm trọng, cũng đành tay trắng
về nước.
Theo báo cáo tại Hội nghị việc làm và xuất khẩu lao động (XKLĐ) năm 2008,
mục tiêu trong 2 năm 2009-2010 là giải quyết việc làm trong nước cho 3 đến 3,2
triệu lao động, duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị ở mức dưới 5%,
giảm tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp xuống dưới 50% năm
2010. Đến năm 2010, bình quân mỗi năm đưa được 100 nghìn lao động đi làm
việc ở nước ngoài, trong đó 60% lao động qua đào tạo nghề, có 5 đến 10% lao
động ở các huyện có tỷ lệ nghèo cao.
Năm 2009:
Viện Khoa học lao động và xã hội vừa công bố kết quả từ công trình nghiên cứu
“Khủng hoảng kinh tế và thị trường lao động Việt Nam”. Ở đó, t iến sĩ Nguyễn Thị Lan
Hương, viện trưởng đã công bố: nếu tăng trưởng kinh tế trong năm nay đạt từ 5 – 6%,
thì số lao động bị mất việc do khủng hoảng kinh tế là 494.000 người. Thậm chí số
người mất việc sẽ tăng lên khoảng 742.000 người vào năm 2010 nếu nền kinh tế vẫn
chưa thể phục hồi. Điều cần lưu ý, đây là số việc làm bị giảm đi so với khả năng tạo
việc làm mới của nền kinh tế do tác động của khủng hoảng tài chính, nghĩa là chừng đó
người rơi vào thất nghiệp hoàn toàn.
Các thể chế tài chính quốc tế, trong đó có Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, và
Ngân hàng thế giới dự đoán tăng trưởng của Việt Nam trong năm nay dao động
trong khoảng 4,5% cho đến 5,5 %.
Có một thực tế là từ cuối năm 2008 đến nay, nhiều doanh nghiệp trong
các khu công nghiệp đã cắt giảm lao động do suy giảm kinh tế. Tuy nhiên,
không thể nói rằng tất cả những lao động này bị thất nghiệp vì phần lớn những
người này đã trở về quê và tìm kiếm một công việc mới (có thể là công việc
không phù hợp) nhưng vẫn cho thu nhập, dù có thể là thu nhập thấp. Chính vì
vậy, cần hết sức thận trọng khi nói về tình trạng thất nghiệp hiện nay.
Khi suy thoái kinh tế đã kết thúc, thì tiến trình hồi phục thường phải kéo
dài trong rất nhiều năm. Do vậy, ngay trong khủng hoảng, thì việc đánh giá
chính xác tình hình để làm cơ sở xây dựng chiến lược nguồn nhân lực với DN, với
chính quyền vẫn có giá trị quyết định tới khả năng vượt qua khủng hoảng và
phát triển. Với người lao động, việc làm càng dễ mất đi, thì công việc mới càng
dễ sinh ra. Nhưng với DN, không ổn định được nguồn nhân lực thì không thể nói
tới khả năng bình ổn sản xuất
Không phải bao giờ thất nghiệp cũng có hại! - Nếu không có thất
nghiệp thì nhiều người sẽ không có động lực làm việc, đặc biệt là những lao
động chân tay. Nếu không có thất nghiệp doanh nghiệp phải trả các khoản lương
cũng như đáp ứng tất cả các đòi hỏi, đôi khi rất bất hợp lý của người lao động.
Nếu không có thất nghiệp doanh nghiệp không thực hiện được việc tái cơ
cấu tổ chức... Nếu không có thất nghiệp thì không có nhiều người đi ngoài
đường vào giờ làm việc >>> các lái xe taxi hay xe bus cũng sẽ thất nghiệp…
Vấn đề chính là ổn định tỷ lệ thất nghiệp là bao nhiêu % đễ xã hội không
bị biến động và kinh tế tăng trưởng. Theo 1 số lý thuyết kinh tế thì tỷ lệ thất
nghiệp tối ưu là từ 4-5%.
Thất nghiệp có cả ưu điểm lẫn nhược điểm chứ không phải hoàn toàn là
có hại!
Dung hòa thất nghiệp và lạm phát - Trong ngắn hạn, khi thất ngiệp
tăng thì lạm phát sẽ giảm và ngược lại. Các quốc gia luôn đau đầu để dung hòa
thất nghiệp và lạm phát. Tất nhiên là khi thất nghiệp tăng thì lạm phát giảm dần,
giá cả có xu hướng giảm dần. Khi mức giá giảm đến một mức nào đó thì nhà
nước sẽ có điều tiết, mức giá sẽ tăng nhẹ, và hình thành một mặt bằng giá mức
(tức là lạm phát), khi đó thì thất nghiệp sẽ có xu hướng giảm dần.
Cạnh đó, còn là những người 'bán' thất nghiệp.
Trên danh nghĩa họ có việc làm nhưng thu nhập không đủ. Thường họ
sống rất khó khăn, hay phải đi làm thêm nghề khác.
Để thu hút được số lao động nhàn rỗi và sinh viên mới ra trường, các
chuyên gia nhận định GDP của Việt Nam cần tăng trưởng trên 8% một năm.
Kết quả khảo sát mới đây của Viện thăm dò dư luận Gallup (Mỹ) tiến hành
cho thấy chỉ có 31% số lao động được hỏi ý kiến tại VN lo mất việc vì khủng
hoảng kinh tế. Nhưng có tới 39% số người được hỏi tỏ ra lạc quan về cơ hội
nhanh chóng tìm được việc làm mới, số người lo ngại sẽ mất nhiều thời gian hơn
chiếm 55%. Giải thích cho sự lạc quan này có thể lấy kết quả nghiên cứu của
chính các nhà nghiên cứu trong nước. Đó là do đa phần lao động VN là lao động
giản đơn và có nguồn gốc từ nông thôn, do vậy những người này có thể trở về
nông thôn khi mất việc. Mặt khác, ngay cả khi có việc làm, người lao động vẫn
không đoạn tuyệt với nguồn gốc của mình. Do vậy, mất việc không trở thành tai
họa. Từ đó, ứng xử với việc làm hiện tại cũng như nguy cơ mất việc của người
VN là tương đối... bình thản.
Từ cuối năm 2008 đến nay, Chính phủ đã có những giải pháp chống suy
giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội; giải pháp kích cầu
đầu tư, tiêu dùng… để thúc đẩy sản xuất phát triển trở lại, tạo việc làm cho
người lao động. Tuy nhiên, các chính sách này khi vào thực tế phải có thời gian.
Đơn cử, với chính sách hỗ trợ tín dụng 4% để các DN mở rộng sản xuất đang
triển khai
Nhiều nhà tài trợ cam kết hỗ trợ Việt Nam trên năm tỷ USD trong năm tài
khóa 2009. TP HCM có bốn dự án bất động sản, số vốn đăng ký có thể lên tới 20
tỷ USD. Đồng Nai cũng dự báo có thể thu hút đầu tư nước ngoài khoảng năm tỷ
USD.
Trong những ngày đầu năm mới, Bà Rịa - Vũng Tàu công bố thu hút các
dự án đầu tư mới với tổng vốn 6,6 tỷ USD… Những dự án này có thể sẽ tạo ra
khối lượng việc làm lớn trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, sản xuất và dịch vụ.
6 tháng cuối năm 2009: Thất nghiệp thấp hơn dự báo - Đây là khẳng định
của TS. Đặng Quang Điều, Phó trưởng ban chính sách kinh tế - xã hội, Tổng liên
đoàn lao động Việt Nam về dự báo tình hình lao động 6 tháng cuối năm 2009.
Về tình hình năm 2009 số người lao động mất việc làm ở quý I vẫn ở mức
cao. Tuy nhiên, sang quý II, chiều hướng giảm xuống rõ rệt.
“Trong tháng 4 – 5, đặc biệt tháng 6 vừa qua đã có nhiều doanh nghiệp
rơi vào tình trạng thiếu người lao động”. Điều này có thể giải thích một số doanh
nghiệp đã tìm được thị trường, đặc biệt là thị trường trong nước. Trước đây,
nhiều doanh nghiệp hướng ra thị trường nước ngoài để tìm đầu ra cho sản phẩm
của mình, nhưng hiện nay, các doanh nghiệp đã chuyển hướng mở rộng thị
trường trong nước để tạo công ăn việc làm
Ông Điều cũng cho hay, theo dự báo của Bộ LĐ – TB &XH trước đó, năm
2009, Việt Nam sẽ có khoảng 300.000 lao động bị mất việc làm. nhưng đến thời
điểm này, dự báo đó không chính xác. “Theo chúng tôi, số người lao động bị
mất việc trong năm 2009 sẽ giảm rất nhiều so với dự báo.
Như vậy, tình hình việc làm 6 tháng cuối năm 2009 sẽ bớt gay gắt hơn và
các doanh nghiệp cũng dần đi vào ổn định sản xuất. Đây là tín hiệu mừng đối
với người lao động
2. Nguyên nhân thất nghiệp
Thất nghiệp gia tăng do suy giảm kinh tế toàn cầu: Nguyên nhân khiến
người lao động bị mất việc chủ yếu do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn
cầu. Nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, có doanh nghiệp phải đóng cửa
hoàn toàn do sản phẩm làm ra không tiêu thụ được, nhất là những doanh nghiệp
xuất khẩu. Chính vì vậy, họ phải “dãn thở” dẫn đến lao động mất việc làm. Đây
là nguyên nhân chủ yếu. Trong năm 2008, mức lạm phát ở Việt Nam đã lên tới
gần 23%, tuy thấp hơn một ít so với mức mà người ta chờ đợi, nhưng rõ ràng
năm 2008 đã là năm mà vật giá leo thang rất nhiều.
Bên cạnh lý do lạm phát, Việt Nam còn bị ảnh hưởng bởi tình trạng suy
giảm tăng trưởng toàn cầu, nhất là vì kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc rất nhiều
vào đầu tư ngoại quốc và xuất khẩu ( đặc biệt là sang Hoa Kỳ và châu Âu ).
Danh sách các doanh nghiệp phải giải thể, ngưng hoạt động, thu hẹp sản xuất
ngày càng nhiều. Hậu quả là nạn thất nghiệp sẽ tăng cao ở Việt Nam trong năm
nay.
Nếp nghĩ có từ lâu trong thanh niên là thói quen đề cao việc học để "làm thầy"
mặc dù nếu bản thân học "làm thợ" sẽ tốt hơn hay "thích làm Nhà nước, không thích
làm cho tư nhân"; như vậy là thiếu thực tế bởi không dựa trên khả năng của bản thân
và nhu cầu xã hội. Một bộ phận LĐ trẻ có biểu hiện ngộ nhận khả năng bản thân; một
bộ phận khác lại tự ti, không đánh giá hết năng lực thực sự của mình. Chọn nghề theo
"nếp nghĩ" sẽ dễ mắc những sai lầm. Rất nhiều LĐ trẻ "nhảy việc" để tìm kiếm thu nhập
cao nên dẫn đến tình trạng dễ bị mất việc.
Lao động Việt Nam có trình độ tay nghề thấp, chưa đáp ứng được yêu
cầu mới, tính chuyên nghiệp chưa cao. Việc kỹ năng không đáp ứng yêu cầu và
sự thiếu phối hợp giữa hệ thống đào tạo và giáo dục, các nhu cầu thị trường LĐ
và quan niệm lạc hậu về vai trò và trách nhiệm giới. Tỷ lệ lao động được đào tạo
nghề rất thấp, chỉ khoảng 26%. Lao động của chúng ta đúng là dồi dào thật
nhưng vẫn không tìm được việc làm, hoặc có việc làm nhưng không ổn định một
phần do trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu. Do đó, lao động vẫn trong tình
trạng bán chuyên nghiệp, công việc chắp vá, không ổn định.
Theo thống kê, cả nước hiện có 1.915 cơ sở dạy nghề (CSDN) trong đó có
1.218 CSDN công lập (chiếm 64%), bao gồm: 262 trường dạy nghề, 251 trường
ĐH, CĐ, TCCN và 803 cơ sở khác có dạy nghề. Trong đó đáng chú ý là khoảng
355 CSDN thuộc các doanh nghiệp. Trong những năm qua, bình quân mỗi năm
các trường nghề thuộc doanh nghiệp đào tạo khoảng 90.000 đến 100.000 học
sinh nghề dài hạn và hàng trăm ngàn học sinh hệ ngắn hạn. Tuy nhiên, thực tế
hiệu quả của công tác dạy nghề vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Bằng chứng
là, hầu hết các doanh nghiệp FDI khi đầu tư vào Việt Nam đều gặp khó khăn
trong việc tuyển dụng lao động, nhất là lao động có tay nghề. Hay như các DN
XKLĐ luôn phải “loay hoay” với các đơn hàng tuyển dụng lao động có tay nghề.
III. Hướng cải thiện
Hạ thấp tỉ lệ thất nghiệp theo lý thuyết:
- Đối với loại thất nghiệp tự nguyện:
+ Cấu tạo ra nhiều công ăn việc làm và có mức tiền lương tốt hơn để tại
mỗi mức lương thu hút được nhiều lao động hơn.
+ Tăng cường hoàn thiện các chương trình dạy nghề, đào tạo lại, tổ chức
tốt thị trường lao động.
- Đối với loại thất nghiệp chu kỳ: Cần áp dụng chính sách tài khoá, tiền tệ
để làm gia tăng tổng cầu nhằm kích thích các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản
xuất, theo đó thu hút được nhiều lao động.
Để xảy ra một tình trạng thất nghiệp tràn lan sẽ ảnh hưởng rất nặng nề đến
phát triển kinh tế xã hội. Nền kinh tế sẽ phải từ bỏ những sản phẩm, dịch vụ mà những
người công nhân bị thất nghiệp làm ra. Hơn nữa, đó còn là sự lãng phí to lớn nguồn
nhân lực đang ở độ tuổi lao động và để tồn tại một lượng lớn người mất việc làm, để
họ rơi vào t ình cảnh nghèo khó sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Do đó,
cần phải có những chính sách, kế hoạch bài bản hơn để ngăn ngừa nguy cơ nạn thất
nghiệp tiếp tục lan rộng.
Việc đầu tư hay nói đúng hơn là kích cầu nhắm vào các doanh nghiệp vừa và
nhỏ là trọng tâm đã được xác định. Việc “bơm vốn” và áp dụng các chính sách ưu đãi
cho khu vực doanh nghiệp này trước hết là nhằm kích thích sản xuất, từ đó tạo ra việc
làm. Bên cạnh đó, kích cầu bằng việc đầu tư vào phát triển và hoàn thiện cơ sở hạ tầng
đang được đánh giá là giải pháp tối ưu hơn cả. Đây cũng là giải pháp mà các quốc gia
đã từng áp dụng trước đây. Việc đẩy nhanh tiến độ các công trình đang thi công và làm
mới, cải tạo, nâng cấp các công t rình đã xuống cấp trên phạm vi rộng không chỉ giải
quyết bài toán yếu kém về cơ sở hạ tầng của nước ta như “phàn nàn” của nhiều nhà
đầu tư nước ngoài, mà hơn thế là sẽ tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, giải
quyết vấn đề lao động dôi dư do mất việc làm từ ảnh hưởng của suy thoái. Một khi vấn
đề yếu kém của cơ sở hạ tầng được giải quyết, cộng hưởng các chính sách kinh tế vĩ
mô khác thì việc thu hút nhà đầu tư nước ngoài sẽ trở nên khả quan hơn khi nền kinh
tế thế giới hồi phục trở lại.
Tạo mọi điều kiện cho lao động mất việc
Lao động bị mất việc cũng có tác động không nhỏ đến đời sống kinh tế xã hội.
Trước tình hình lao động của quý I/2009, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đã đưa ra
ba giải pháp chủ yếu để hỗ trợ lao động mất việc làm.
Thứ nhất, Tổng liên đoàn lao động các t ỉnh, thành phố giúp đỡ người lao động
sớm t ìm được việc làm mới. Hiện nay Tổng liên đoàn có hệ thống t rung tâm giới thiệu
việc làm (31 trung tâm). Theo báo cáo của Tổng liên đoàn lao động các tỉnh, thành thì
đã có 80% lao động mất việc t ìm được việc làm trở lại. Tổng liên đoàn lao động cũng
chỉ đạo các sang cả các doanh nghiệp các tỉnh lân cận.
Thứ hai, các trường dạy nghề của tổ chức công đoàn có nhiệm vụ nâng cao tay
nghề cho người lao động hoặc thu hút người lao động vào học nghề, tranh thủ lúc
không có việc. Bên cạnh việc giải quyết việc làm thì đầu tư cho công tác dạy nghề cũng
là b iện pháp kích cầu không kém phần quan trọng. Trong bối cảnh lực lượng lao động
mất việc làm tăng nhanh như hiện nay, hằng năm chúng ta phải giải quyết tối thiểu cho
khoảng 1,2 triệu việc làm mới, khoảng trên 1 triệu lao động chuyển từ khu vực nông
thôn ra thành thị thì sức ép giải quyết việc làm càng trở nên nặng nề hơn. Trong khi
đó, nếu chỉ t iêu tăng trưởng kinh tế năm 2009 không đạt được mức 6,5% thì t ỉ lệ thất
nghiệp tăng cao sẽ càng ảnh hưởng nghiêm trọng hơn đến an sinh xã hội và làm “mất
an toàn xã hội” theo cách đánh giá của ILO. Đấy là chưa tính đến việc số hộ nghèo,
người nghèo sẽ tăng cao nếu chúng ta áp dụng chuẩn nghèo mới.
Thứ ba, cho vay vốn từ quỹ quốc gia của Tổng liên đoàn. Những người lao động
mất việc do suy thoái kinh tế sẽ được vay vốn để họ có thu nhập giải quyết khó khăn
trước mắt. Ngoài ra, ở một số t ình, thành phố con có thêm quỹ trợ vốn cho lao động
nghèo. Quỹ này cũng cho người lao động mất việc làm vay vốn để tạo công việc. Điều
này đã mang lại hiệu quả tương đối tốt, giúp người lao động ổn định cuộc sống.
Hoàn thiện hệ thống bảo hiểm thất nghiệp: Bảo hiểm thất nghiệp ra đời sẽ góp
phần ổn định đời sống và hỗ trợ cho người lao động được học nghề và tìm việc làm,
sớm đưa họ trở lại làm việc. Bên cạnh đó bảo hiểm thất nghiệp còn giảm gánh nặng
cho ngân sách Nhà nước và doanh nghiệp.
Những biện pháp khác
- Trợ cấp một tỷ lệ nhất định trong quỹ lương ở các doanh nghiệp. Họ cũng có
thể hỗ trợ doanh nghiệp trong nghĩa vụ nộp bảo hiểm xã hội, quỹ lương hưu
v.v… mà mục đích không gì khác ngoài việc giúp doanh nghiệp cắt giảm được
chi phí nhân lực liên quan mà không cần phải sa thải nhân công.
- Cắt giảm thuế tiêu thụ cũng giúp giảm gánh nặng chi tiêu cho người tiêu dùng
với hy vọng rằng tổng cầu sẽ được duy trì ở mức khả dĩ, tác động tích cực ngược
lại đến doanh nghiệp và do đó giảm thiểu được nạn sa thải nhân lực do sản xuất
kinh doanh đình đốn.
- Thông qua các tổ chức công đoàn thuyết phục người lao động và chủ doanh
nghiệp chấp nhận một mức cắt giảm trong tiền lương để duy trì số công ăn việc
làm trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, biện pháp này cũng lại chỉ được áp dụng
được ở những nơi có tổ chức công đoàn và vẫn còn hoạt động.
- Đào tạo nghề cho bà con ở nông thôn đặc biệt là con cái của họ, khi diện tích
đất sản xuất của họ bị thu hồi thì có thể dể dàng chuyển sang làm những ngành
nghề khác.
- Mở rộng thị trường xuất khẩu lao động là nơi mà không những giải quyết được
tình trạng thất nghiệp ở trong nước mà còn thu được nguồn ngoại tệ không nhỏ
cho quốc gia.
- Chú trọng đầu tư cho giáo dục và đào tạo.
- Hạn chế tăng dân số.
Một khoản tiền lớn, có thể từ gói kích cầu 5 - 6 tỉ USD
như Chính phủ đã công bố để tăng cường đầu tư, kích
thích phát triển sản xuất ở những lĩnh vực dễ tạo nhiều
công ăn, việc làm, cùng các hoạt động xúc tiến mở rộng
thị trường, hỗ trợ sản xuất ở nông thôn… có thể sẽ làm tỷ
lệ thất nghiệp vẫn dừng lại ở mức hợp lý. Còn nếu không,
rất có thể, Chính phủ sau này sẽ lại bỏ ra những khoản
lớn hơn để giải quyết những hậu quả về kinh tế - xã hội
do tình trạng thất nghiệp cao, kéo dài gây ra.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh tình hình kinh tế cũng như chính trị việt nam hiện nay thì
chúng ta có rất nhiều vấn đề cần được quan tâm. Song có lẽ vấn đề nóng bỏng
nhất hiện nay không chỉ có Việt nam chúng ta quan tâm, mà nó được cả thế giới
quan tâm đó là vấn đề thất nghiệp.Với khả năng nhận thức cũng như hạn chế
của bài viết, chính vì thế mà bài viết này chúng ta không phân tích kỹ từng vấn
đề cụ thể .
Như vậy từ những lý do phân tích ở trên,cũng như tình hình thực tế hiện
nay ở Việt Nam ta có thể thấy được tầm quan trọng của việc quản lý Nhà nước
đối với các chính sách như ngày nay.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, vấn đề đầu tiên cũng là cuối
cùng quyết định sức sống của một nền kinh tế, quyết định mức độ giàu nghèo
của xã hội vẫn là con người. Nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã trở nên giàu
mạnh nhờ có chiến lược đào tạo nghề, bồi đắp nguồn nhân lực một cách bài
bản, lâu dài. Từ đó, họ chuyển dịch nền kinh tế theo cơ cấu hiện đại, lấy dịch vụ
làm động lực để tăng nhanh thu nhập, đặc biệt là từ đó tạo điều kiện cho sức lao
động có thêm giá trị gia tăng.
Nước ta còn nghèo nàn, vốn đầu tư còn phải đi vay, kỹ thuật - công nghệ
còn phải đi mua. Nhưng ta lại có nguồn lực lao động khá dồi dào, giá rẻ. Đây là
những vấn đề cần được phân tích, trên cơ sở khắc phục những mặt tồn tại, phát
huy thế mạnh, để lực lượng lao động mang lại hiệu quả kinh tế lớn nhất, đồng
thời góp phần bình ổn xã hội. Thực tế đang thu hút và yêu cầu sự quan tâm từ
phía Nhà nước, các ngành kinh tế cũng như mỗi người lao động.
Trong các vấn đề quan trọng hàng đầu, nổi cộm nhất là việc sử dụng lao
động và thất nghiệp - 1 trong 5 đỉnh của “ngũ giác mục tiêu” (tăng trưởng kinh
tế cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, tỉ lệ nghèo thấp, cán cân thanh toán có số
dư). Thất nghiệp không chỉ là sự lãng phí mà còn làm cho thu nhập, sức mua có
khả năng thanh toán của dân cư thấp, ảnh hưởng tới sự tăng trưởng kinh tế
trong nước, cũng như việc “gọi” các nhà đầu tư nước ngoài. Thất nghiệp làm cho
tỉ lệ nghèo cao và sự phân hóa giàu nghèo tiếp tục gia tăng.
Tác giả: Đỗ Văn Tính
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay với sự phát triển v ượt bậc của khoa học kỹ thuật đã không ít tạo ra nhũng sự nhảy vọt về mọi mặt, đã
đưa nhân loại tiến xa hơn nữa. Trong những năm gần đây chúng ta đã đạt được một số thành tựu phát triển rực rỡ về khoa
học kỹ thuật, các ngành như du lịch, dịch vụ, xuất khẩu, lương thực thực phẩm sang các nước ... Đằng sau những thành
tựu chúng ta đã đạt được, thì cũng có không ít vấn đề mà Đảng và nhà nước ta cần quan tâm như: Tệ nạn xã hội, lạm
phát,thất nghiệp ...Song với hạn chế của bài viết mà chúng ta không thể phân tích kỹ từng vấn đề đang xảy ra trong xã hội
như hiện nay được. Nhưng có lẽ vấn đề được quan tâm hàng đầu ở đây có lẽ là thất nghiệp.
Thất nghiệp, đó là vấn đề cả thế giới cần quan tâm. Bất kỳ một quốc gia nào dù nền kinh tế có phát triển đến đâu
đi chăng nữa thì vẫn tồn tại thất nghiệp đó là vấn đề không tránh khỏi chỉ có điều là thất nghiệp đó ở mức độ thấp hay cao
mà thôi. Với thời gian không cho phép chính vì thế mà bài v iết này chúng ta chỉ đề cập đến tỷ lệ thất nghiệp ở Việt
Nam.Thất nghiệp , nó còn kéo theo nhiều vấn đề đằng sau:Sẽ dẫn đến tình trạng làm giảm nền kinh tế,sự gia tăng của các
tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, làm sói mòn nếp sống lành mạnh, phá vỡ nhiều mối quan hệ tạo ra sự lo lắng cho toàn
xã hội .
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
I. CÁC KHÁI NIỆM
1. Thất nghiệp là gì ?
2. Các loại thất nghiệp
II. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THỰC TẾ HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
III. TÁC HẠI CỦA THẤT NGHIỆP
IV. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT THẤT NGHIỆP
V. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN TRONG VÀI NĂM TỚI
Chương 10: Thất nghiệp
Harvey B. King
Dịch viên: Võ Hồng Long
1)Lực lượng Lao động và Thất nghiệp Tự nhiên
Trong phần trước chúng ta đã nói về việc cân bằng được xác định như thế nào trong thị
trường lao động, nhưng chưa thực sự thảo luận về vị trí của thất nghiệp trong bức tranh
này.
● Chúng ta sẽ bắt đầu bằng phân tích tại điểm cân bằng đầy đủ.
● Hãy nhớ lại rằng lực lượng lao động (LF) = số người có việc làm + số người không có việc
làm.
● Lực lượng lao động bao gồm những người đang làm việc và những người đang kiếm việc
làm, và chúng ta có thể giả định rằng con số này tăng lên khi mức lương thực tế tăng -
chúng ta có thể xây dựng một đường lực lượng lao động (LF) dốc đi lên như trong Hình 1
dưới đây.
● Số lượng người có việc làm được xác định bởi điểm mà ở đó LD = LS.
● Số lượng người không có việc làm được xác định bằng sự chênh lệch giữ lực lượng lao
động và điểm cắt nhau giữa LD và LS, như được chỉ ra trong Hình 1.
Như hình trên chỉ ra, thậm chí tại mức việc làm đầy đủ chúng ta vẫn có một số người thất
nghiệp, chúng ta gọi đó là thất nghiệp tự nhiên.
● Điều quan trọng là cần nhận thức được rằng khi cầu về lao động = cung về lao động, vẫn
có một mức thất nghiệp tự nhiên phát sinh từ luân chuyển thị trường lao động tự nhiên.
● Trong thị trường lao động luôn có một dòng người lao động có/mất việc làm, gia
nhập/thoát ra khỏi lực lượng lao động.
● Ngày nay ở Regina, tỷ lệ thất nghiệp khoảng 6%, nhưng nếu bạn đi vòng quanh thành
phố bạn sẽ thấy rất nhiều doanh nghiệp đăng quảng cáo tìm người - vẫn chưa có sự phù
hợp hoàn hảo về công việc của những người lao động.
● Hình 2 dưới đây cho chúng ta thấy những luồng cơ bản chảy ra và chảy vào thị trường lao
động.
Những dòng lao động này luôn tồn tại, thậm chí là trong thời kỳ kinh tế bùng nổ.
● Phần chính của dòng lao động trên là những người thay đổi công việc, những người
không bị thất nghiệp trong bất kỳ một khoảng thời gian nào.
● Tuy nhiên, cũng có những người đi ra và gia nhập lực lượng lao động, những người đôi khi
mất việc làm.
● Những người này tạo ra mức thất nghiệp tự nhiên.
● Hình 3 dưới đây chỉ ra những dòng lao động này trong khoảng thời gian từ 1975-1994.
● Như chúng ta có thể thấy, thậm chí trong giai đoạn việc làm đầy đủ như 1980 và 1989, có
một dòng lớn những người đi ra và gia nhập thị trường lao động và tạo nên mức thất nghiệp
tự nhiên.
● Chúng ta thường tập trung vào ba nhóm cơ bản của thất nghiệp tự nhiên - thất nghiệp do
thay đổi nghề, thất nghiệp theo mùa và thất nghiệp do cơ cấu.
● Chúng ta hãy xem xét từng nhóm một.
Hình 3[1]
2. Thất nghiệp do Thay đổi Công việc và Thất nghiệp do Mùa
Thất nghiệp vì thay đổi công việc xảy ra khi có sự luân chuyển thị trường lao động thông
thường, dòng lao động đi ra và vào thị trường lao động như chỉ ra trong Hình 2 ở trên.
● Những người thay đổi công việc thường có xu hướng thất nghiệp tạm thời, và thường kiếm
được công việc trong cùng một lĩnh vực.
● Ví dụ, bạn rời bỏ Hãng Sear bởi vì bạn ghét thời giờ làm việc, và cuối cùng bạn có được
một công việc tương tự tại hãng Bay, nhưng với thời giờ làm việc như bạn mong muốn.
● Nhóm này bao gồm những người tốt nghiệp đại học, người làm việc gia đình, những người
rời bỏ/mất công việc.
● Đây là một phần thông thường của nền kinh tế, như Hình 3 trên đây chỉ ra.
Thất nghiệp theo mùa cũng là một phần của nền kinh tế, và thường do thực tế là một số
công việc chỉ thực hiện được theo mùa nhất định - đánh cá, làm nông nghiệp, xây dựng..
Giải pháp của thị trường để giải quyết thất nghiệp theo mùa và thất nghiệp do thay đổi công
việc bao gồm việc tìm việc tư nhân, quảng cáo của các doanh nghiệp cũng như người tìm
việc, và các trung tâm tìm việc tư nhân.
Các biện pháp của chính phủ bao gồm: trung tâm dịch vụ việc làm của chính phủ, và cố
gắng giảm việc tăng thêm những khoản Bảo hiểm Thất nghiệp.
● Bảo hiểm thất nghiệp ở Canada rộng rãi hơn so với ở Hoa Kỳ từ năm 1971, đặc biệt là
trong việc đối đãi với những người thất nghiệp theo mùa.
● Cho đến những cuộc cải tổ vài năm gần đây, người ta có thể làm việc 10 tuần ở Atlantic
Canada, và nhận một khoản bảo hiểm thất nghiệp bằng 67% mức lương của bạn trong 40
tuần.
● Việc cung cấp bảo hiểm thất nghiệp này có xu hướng tăng mạnh về thời gian mọi người bỏ
ra để tìm kiếm việc làm, và hỗ trợ những ngành làm việc mùa vụ.
● Và người ta cho rằng đây là một trong những nguyên nhân chính làm cho mức thất nghiệp
tự nhiên ở Canada cao hơn ở Hoa Kỳ.
● Gần đây, bảo hiểm việc làm (tên mới của bảo hiểm thất nghiệp) đã được cải tổ làm cho nó
trở nên khó hơn để nhận được, thời gian làm việc được rút ngắn hơn, và các điều kiện khắt
khe hơn.
● Sự thay đổi này làm giảm mức thất nghiệp do thay đổi công việc và mùa vụ.
3) Thất nghiệp do Cơ cấu.
Thất nghiệp do cơ cấu kà sự mất việc kéo dài trong các ngành hoặc vùng có sự giảm sút
kéo dài về nhu cầu lao động do thay đổi cơ cấu nền kinh tế.
● Ví dụ kinh điển là sự dịch chuyển từ lực lượng lao động chiếm đa số trong nông nghiệp
(70% số lao động) năm 1900 đến hiện nay chỉ chiếm 3%.
● Khi chúng ta có sự thay đổi về cơ cấu trong nền kinh tế, chúng ta thường có các ngành
phát triển cùng với sự tăng lên về nhu cầu lao động cũng như các ngành có sự suy giảm.
● Tuy nhiên, số lao động không có việc làm có xu hướng ở không đúng khu vực hoặc có kỹ
năng không phù hợp cho công việc mới - chúng ta chỉ cần suy nghĩ về những người ngư dân
nở Newfoundland với trình độ giáo dục lớp 8.
● Họ sẽ không trở thành những người lập trình máy tính, mặc dù có một sự thiếu hụt lớn
những lập trình viên ở cả nước.
● Để có được một công việc mới, bạn phải tự thân cố gắng đào tạo lại, tự thân thay đổi chỗ
ở, hoặc bạn chỉ có thể nghỉ hưu.
● Điều này có thể khó khăn đối với những người lao động, đặc biệt là nếu họ không trang
trải được việc đào tạo lại, hoặc nếu họ già hơn.
Nguồn gốc của những thay đổi trong cơ cấu bao gồm:
● Sự dịch chuyển các ngành nghề xuất khẩu và nhập khẩu do thương mại quốc tế tự do hơn
- trong 10 năm qua cả xuất khẩu và nhập khẩu của chúng ta đã tăng lên đáng kể trong
phần trăm của nền kinh tế, báo hiệu một sự dịch chuyển lớn trong thị trường lao động trong
các ngành xuất khẩu và ngành nhập khẩu cạnh tranh.
● Những vi mạch máy tính rẻ dẫn đến sự nở rộ về tự động hoá và robot hoá. (Ví dụ như có
một sự sụt giảm lớn trong nhu cầu đối với nghề hướng dẫn trong ngân hàng và người trực
điện thoại, nhưng có sự tăng lớn nhu cầu về lập trình viên máy tính, nhân viên nhập dữ
liệu,.v..)
● Những vấn đề trong các ngành dựa trên nguồn lực như là đánh cá và đốn gỗ.
● Những thay đổi trong thị trường thế giới đối với các sản phẩm nông nghiệp.
Lưu ý rằng trong một nền kinh tế năng động, một mức độ thất nghiệp lại tỏ ra hiệu quả.
● Có những lợi ích kinh tế của thất nghiệp do chuyển đổi nghề đối với cá nhân và xã hội.
● Những công nhân trẻ đang trải qua thất nghiệp sẽ cố gắng tìm kiếm những công việc phù
hợp với khả năng và lợi ích của họ.
● Lợi ích của kết quả do thay đổi công việc làm thoả mãn hơn và làm việc hiệu quả hơn.
● Lợi ích xã hội do thay đổi công việc kèm theo với quá trình tìm kiếm công việc cho phép
những người lao động tìm kiếm được những công việc mà họ làm hiệu quả hơn.
● Do đó, tổng sản xuất hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế tăng lên. (So sánh trường hợp
này với trường hợp của những người tốt nghiệp ở Trung Quốc tăng lên đến những năm 90.
Họ được giao những công việc khi tốt nghiệp, với sự đóng góp rất ít về loại công việc và nơi
làm việc)
Mặt khác, những công nhân thất nghiệp do cơ cấu sẽ không tìm được công việc mới nếu họ
không đào tạo lại hoặc thay đổi nơi ở.
● Thực tế này có nghĩa là một chi phí lớn hơn đối với người lao động và xã hội - ví dụ, những
công nhân thất nghiệp do cấu trúc không có việc làm trong nhiều giai đoạn.
● Những người lao động này chiếm một chi phí lớn trong việc cơ cấu lại nền kinh tế của
chúng ta, mặc dù xã hội thu được lợi ích về dài hạn trong việc dịch chuyển đến những
ngành mới này.
Giải pháp của thị trường để giải quyết loại thất nghiệp này là khuyến khích tư nhân đào tạo
lại.
● Các biện pháp của chính phủ bao gồm trợ cấp đào tạo lại, trợ giúp việc phân bổ lại theo
vùng.
4) Thị trường Lao động trong Thời kỳ Suy thoái: Thất nghiệp
theo Chu kỳ.
Nhiệm vụ cuối cùng của chúng ta là giải thích điều gì gây nên sự thất nghiệp tăng thêm
trong thời kỳ khủng hoảng mà chúng ta có thể quan sát trong Hình 3 - có một sự tăng
mạnh những người mất việc làm trong khoảng vài tháng thuộc thời kỳ suy thoái - lưu ý rằng
các đoạn uốn vào năm 1982 và 1991 theo hướng lồi lên.
● Đây là một ví dụ của thất nghiệp chu kỳ, nó bằng không trong thời kỳ kinh tế bùng nổ,
nhưng mang số dương trong thời kỳ suy thoái, khi số người phải nghỉ việc tăng vọt.
● Nó được bắt đầu bằng sự sụt giảm nhu cầu lao động, phát sinh từ việc giảm tổng sản
phẩm trong nền kinh tế.
● Tuy nhiên, vấn đề này lại được gia tăng bởi thực tế là mức lương có xu hướng ít thay đổi,
và giảm xuống dần dần - mức lương thực tế trở nên quá cao trong thời kỳ suy thoái.
● Mức lương qúa cao này tạo nên sự thất nghiệp chu kỳ.
● Chúng ta hãy xem thất nghiệp chu kỳ xảy ra như thế nào.
Xem xét một nền kinh tế bắt đầu với cân bằng việc làm đầy đủ như trong Hình 4 (a) dưới
đây, với mức thất nghiệp tự nhiên, và mức lương thực tế .
● Bây giờ, giả sử rằng xảy ra suy thoái, và AD giảm, như trong Hình 4 (b).
● Trong ngắn hạn, mức lương thực tế được cố định tại W0.
● Do đó, khi tổng cầu giảm xuống làm gảm mức giá, chúng ta có mức lương thực tế tăng lên
.
● Trong ngắn hạn, thị trường lao động không ở trong cân bằng tại LD = LS!
● Với mức lương thực tế tăng lên, doanh nghiệp thuê ít lao động đi - chúng ta di chuyển
đường LD trong phần (a) của Hình 4, với L1 lao động được thuê.
● Số việc làm giảm đi có nghĩa là sản xuất giảm xuống thể hiện qua hàm tổng sản xuất -
điều này có nghĩa là GDP thực tế cung ứng ra thấp hơn - đây là sự dịch chuyển xuống đường
SAS như trong phần (b) của Hình 4.
● Doanh nghiệp thuê ít lao động hơn có nghĩa là thất nghiệp tăng lên - tổng thất nghiệp
tăng lên, qua sự tăng lên trong thất nghiệp chu kỳ chúng ta có thể thấy được trên đồ thị.
● Chú ý rằng thất nghiệp chu kỳ xảy ra là do trên thực tế cung lao động lớn hơn cầu lao
động.
Làm thế nào chúng ta thoát ra khỏi tình trạng này?
● Các biện pháp của thị trường cho thất nghiệp chu kỳ bao gồm việc đàm phán lại mức
lương cuối cùng ở một mức thấp hơn - đường SAS cuối cùng điều chỉnh lại sang phải khi
mức lương danh nghĩa giảm, làm giảm mức lương thực tế về với giá trị cân bằng.
● Nhiều nhà kinh tế cho rằng sự khôi phục nền kinh tế quá chậm nên cần các biện pháp can
thiệp của chính phủ, bằng cách tăng chi tiêu của chính phủ nên hiệu ứng số nhân sẽ dẫn
đến tăng nhu cầu về lao động.
● Chính phủ cũng cần thực hiện chính sách tài chính ngược chu kỳ và chính sách tiền tệ
ngược chu kỳ để dịch chuyển đường tổng cầu AD sang phải, và làm giảm mức lương thực tế
bằng cách tăng giá lên.
● Như chúng tôi đã đề cập ở phần đầu của khoá học, một trong những tranh luận chủ yếu
của kinh tế học vĩ mô là sự tranh luận về mức lương điều chỉnh chậm như thế nào.
● Các nhà kinh tế học tân cổ điển cho rằng mức lương điều chỉnh nhanh chóng, nên hầu hết
thất nghiệp đều là tự nhiên, và chính sách của chính phủ ít đóng vai trò ở đây.
1. Các nhà kinh tế học Keynes mới cho rằng mức lương điều chỉnh chậm chạp, và do đó yêu
cầu sự can thiệp của chính phủ bằng chính sách ngược chu kỳ.
2. Chúng ta hãy dành những tranh luận này trong Kinh tế học 302.
5) Nghiên cứu tình huống: Suy thoái 1990-91 và Sự hồi phục
chậm chạp những năm 90.
Hãy xem xét những dữ liệu sau đây về sự suy thoái 1990-91.
Mức lương thực
tế
Thất nghiệp
(Tỷ đô la theo
giờ)
Mức thất
nghiệp
GDP thực
tế
(tỷ đô la)
1990, quý I $13.65 23 7.5% 710.5
1992, quý
II
$14.65 21.6 11.3% 697.1
Điều gì xảy ra ở Canada trong những năm 90.
● Hầu hết các nhà kinh tế học đều cho rằng có nhiều yếu tố xảy ra cùng một lúc.
● Trước hết, chúng ta đã thấy trong chương 6, có sự giảm mạnh trong tổng cầu tại những
năm đầu của thập kỷ 90 do
1. Chính sách tiền tệ chống lạm phát của Ngân hàng Canada, làm tăng lãi suất thực tế và
giảm nhu cầu đầu tư.
2. Chi tiêu tiêu dùng giảm, do sự giảm lòng tin người tiêu dùng trong tương lai.
3. Giảm xuất khẩu ròng, do sự suy thoái ở Hoa Kỳ và tỷ giá hối đoái cao bất thường.
● Thứ hai, có một sự giảm sút về nhu cầu lao động do việc cơ cấu lại rộng khắp trong toàn
bộ nền kinh tế Canada ảnh hưởng bởi Hiệp định Tự do Thương mại, sự ra đời của GST, và
thay đổi kỹ thuật mạnh mẽ trong ngành công nghiệp máy tính.
● Tổng cầu AD giảm xuống tạo ra sự tăng lên thất nghiệp chu kỳ, trong khi việc cơ cấu lại
lại tạo ra thất nghiệp cơ cấu và thất nghiệp tự nhiên!
Trong những năm tiếp theo, ảnh hưởng của việc cơ cấu lại dần dần kết thúc, và những công
nhân mới bắt đầu làm việc trong những lĩnh vực mới - đường cầu lao động bắt đầu dịch
chuyển sang phải, làm giảm mức thất nghiệp tự nhiên.
● Bên cạnh đó, nền kinh tế Hoa Kỳ đang phục hồi, và xuất khẩu của chúng ta sang Hoa Kỳ
tăng mạnh, làm tăng tổng cầu.
● Tuy nhiên, giữa những năm 90, chúng ta có trưng cầu dân ý ở Quebec, điều này làm tăng
sự không chắc chắn về tương lai, và tạo áp lực đối với đồng đô la Canada và được thể hiện
bằng sự tăng lãi suất mạnh mẽ trong các năm 1994-95, điều này làm giảm tổng cầu đầu tư
do đó giảm tổng cầu.
● Hơn nữa, chính quyền liên bang và hầu hết các tỉnh bắt đầu lo lắng về thâm hụt của họ,
bắt đầu cắt giảm chi tiêu và tăng thuế - chính sách ngược chu kỳ này làm giảm tổng cầu.
● Kết quả của những yếu tố này là tổng cầu KHÔNG khôi phục lại trong những năm 90, và
thất nghiệp chu kỳ vẫn cao.
Vậy, điều gì xảy ra cuối những năm 90?
● Sự cơ cấu lại nền kinh tế hầu như đã kết thúc (ngoại trừ một số lĩnh vực như nông trại và
đánh cá), và "Nền kinh tế Mới" đang tăng trưởng mạnh, với nhu cầu về lao động lớn - mức
thất nghiệp tự nhiên dường như đang giảm ở Canada, và giảm rõ rệt ở Hoa Kỳ.
● Chính phủ đã kết thúc việc cân bằng ngân sách, và do đó chính sách của họ không còn
kéo nền kinh tế tụt xuống.
● Kinh tế Hoa Kỳ vẫn tăng trưởng mạnh, do đó xuất khẩu tăng trưởng mạnh.
● Lãi suất thực tế thấp và nền kinh tế đang tăng trưởng làm cho các doanh nghiệp đầu tư
nhiều hơn vào hàng hoá - cầu đầu tư cũng tăng.
● Kết quả của những yếu tố này là tổng cầu đã tăng mạnh trong những năm qua, và GDP
thực tế cũng tăng mạnh, và gần đạt đến mức sản xuất tự nhiên.
Viễn cảnh của nền kinh tế có vẻ tốt trong đầu năm 2000 - để trích dẫn tựa đề bài báo mà
tôi đã nhắc đến ở Phần III, B, "Chúng ta đang có tiền".
[1] Trích từ Globe and Mail "Những hiện tượng kỳ lạ: Những khu vực thất nghiệp nhưng tỷ
lệ lại không đổi", tháng Mười một. 28, 1994.
Ti u lu n: TH C TR NG TH T NGHI P VI T NAM G i lên b i tuannghia vào Wed, 10/13/2010 - 17:58
Đăng b i: Nguy n Tu n Nghĩa Post date: 30-03-2011 Xem: 6416
th%E1%BA%A5t-nghi%E1%BB%87p-%E1%BB%9F-vi%E1%BB%87t-nam
A – M Đ U
Sau h n 20 năm th c hi n công cu c đ i m i n c ta đã đ t đ c nh ng thành t u đáng k :
kinh t có nhi u b c kh i s c, thu nh p ng i dân đ c c i thi n, cho nên đ i s ng c a ng i dân cũng
đ c nâng cao,… Đ ng th i công cu c đ i m i kinh t đ t n c cũng đã t o thêm nhi u c h i vi c làm
cho ng i lao đ ng, nâng cao hi u qu s d ng ngu n nhân l c. Tuy nhiên, m t trong nh ng v n đ n i
c m nh t hi n nhay là tình tr ng th t nghi p, thi u vi c làm còn chi m t tr ng cao. M c dù v y, Đ ng
và Nhà n c đã có nhi u bi n pháp nh m gi m t l th t nghi p, th c t đã ch ng minh r ng trong
nh ng năm g n đây t l th t nghi p n c ta đang có xu h ng gi m d n. Tìm hi u v th t nghi p chúng
ta s th y rõ h n v nó, nguyên nhân n i t i vì sao d n đ n th t nghi p đ c bi t là nh ng bi n pháp hi u
qu c a Nhà n c nh m gi m t l th t nghi p.
B – N I DUNG
I – CÁC KHÁI NI M
Đ tìm hi u khái ni m th t nghi p thì tr c tiên chúng ta c n tìm hi u m t s khái ni m liên
quan:
“Vi c làm”: Theo B lu t lao đ ng n c ta thì vi c làm đ c xá đ nh là “ m i ho t đ ng lao đ ng t o ra
ngu n thu nh p không b pháp lu t ngăn c m” ( Đi u 13 – B lu t lao đ ng).
Trong vi c làm chúng ta c n tìm hi u 2 khái ni m:
“Vi c làm đ y đ ”: là hi n t ng ng i lao d ng có vi c làm và đ c làm vi c liên t c.
“Vi c làm h p lý”: là s phù h p v m t s l ng và ch t l ng c a các y u t con ng i và v t
ch t c a s n xu t, là b c phát tri n cao h n c a vi c làm đ y đ .
“ Ng i lao đ ng”: là ng i n m trong l c l ng lao đ ng có đ trí l c và th l c đ tham gia vào
quá trình kinh t .
“L c l ng lao đ ng”: là toàn b s ng i lao đ ng tham gia vào quá trình kinh t c a m t qu c gia.
“ Ng i th t nghi p”: là ng i n m trong l c l ng lao đ ng, có kh năng lao đ ng nh ng không có vi c
làm và mu n tìm ki m vi c làm.
V y “Th t nghi p” là gì? Th t nghi p là m t hi n t ng kinh t - xã h i trong đó m t b ph n lao đ ng
mu n tìm ki m vi c làm nh ng không tìm đ c vi c làm.
II – PHÂN LO I TH T NGHI P
Th t nghi p là m t hi n t ng ph c t p chính vì v y đ bi t rõ h n v nó chúng ta c n phân lo i
nh m d dàng h n trong vi c ti p c n tìm hi u.
1. Phân lo i theo hi n t ng
Khi phân lo i theo hi n t ng g m có 3 lo i:
Th t nghi p c h c: do s d ch chuy n lao đ ng gi a các vùng, các ngành v i nhau.
Th t nghi p c c u: là s m t vi c kéo dài trong các ngành ho c vùng có s gi m sút kéo dài v nhu c u
lao đ ng do thay đ i c c u n n kinh t .
Nguyên nhân chính c a s thay đ i đó là do:
+ do s d th a lao đ ng c a m t ngành nào đó.
+ do s suy gi m s n xu t c a m t ngành nào đó.
Th t nghi p th i v : Đây là hi n t ng th ng g p các khu v c kinh t nông nghi p khi mà t
l th i gian s d ng lao đ ng ch a đ c s d ng h t.
2. Phân lo i theo thái đ ng i lao đ ng bao g m có 2 lo i:
Th t nghi p t nguy n: do ng i lao đ ng t nguy n th t nghi p khi không mu n làm vi c
m c l ng hi n hành.Có th nói th t nghi p t nguy n là bao g m s ng i th t nghi p t m th i và s
ng i th t nghi p c c u. Vì đó là nh ng ng i ch a s n sàng làm vi c m c l ng t ng ng đ ng th i
h mu n tìm ki m nh ng vi c làm và c h i tôt h n.
Th t nghi p không t nguy n: là khi ng i lao đ ng mu n tìm ki m vi c làm m c l ng hi n
t i mà không tìm đ c.
III. NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH TRẠNG THÂ T NGHIÊ ̣P Ở VIỆT NAM.
Thất nghiệp có nhiều nguyên nhân và những nguyên nhân đó đều làm cho câù về lao động không ăn
khơ ́p vơ ́i cung về lao động gây ra hiện tượng thâ ́t nghiệp
Nguyên nhân đầu ên của nh trạng này là sức ép của việc tăng dân số: dân số nước ta hiện nay khá
đông, có khoảng 86 tri ệu ngươ ̀i, đư ́ng thư ́ 6 trong khu vực, hàng năm mức tăng dân số ở vào khoảng cao.
Điều này gây áp lực đôi vơ ́i phát triển kinh tế xã hội và gia ̉i quyê ́t việc làm cho ngươ ̀i lao động. Mă ̣t khác
cơ câú dân số đang chuyển dâ ̀n sang cơ câú dân số già do việc gia ̉m ̉ lê ̣ sinh tự nhiên và gia tăng tuổi
thọ, do vậy số ngươ ̀i trong độ tuô ̉i lao động tăng ta ̣o ềm năng to lớn cho sự phát triển cu ̉a đất nước.
Đồng thơ ̀i đây cũng là áp lực đỗi với vâ ́n đề việc làm và gia ̉i quyê ́t việc làm. Hơn nữa, việc phân bố dân sô ́
không đều, tâ ̣p trung chủ yếu ở vùng đôǹg bă ̀ng, đô thị ta ̣o áp lực lớn đối với vâń đề việc làm, gây tăng
phí trong sử du ̣ng lao độngNguyên nhân thư ́ hai do thay đô ̉i cơ câ ́u kinh tế ngành, vùng. Điều này tạo ra
sự mât́ cân đôí giư ̃a cung và câù lao động giư ̃a các vùng kinh tế vơ ́i nhau
Thư ́ ba là do ca ̣nh tranh giư ̃a các doanh nghiê ̣p vơ ́i nhau dâñ đến hiện tượng các doanh nghiệp không đu ̉
khả năng đư ́ng vư ̃ng trên thị trươ ̀ng và gây nên nh trạng phá sản của nhiê ̀u doanh nghiệp, tât́ yếu gây ra
việc nhiêù công nhân bị sa thải, tù đó làm cho việc thâ ́t nghiệp gia tăng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- that_nghiep_9036.pdf