Tiểu luận Thị trường chứng khoán quốc tế và những tác động đối với thị trường chứng khoán Việt Nam

Cơ quan quản lý là người điều phối thị trường, giữ nhịp cho thị trường phát triển nên các chính sách phải có sự ổn định. Phải giải quyết được những vướng mắc hiện nay để tạo dựng niềm tin nơi nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tâm lý nhà đầu tư đang cực thấp nên phải "tiêm" vào một "liều thuốc hồi sinh". Vấn đề quan trọng là khơi thông được nguồn tiền để đầu tư vào TTCK. TTCK phát triển mạnh lên thì nguồn vốn từ các nơi khác như bất động sản, vàng. sẽ tự động chảy về. Khi đó, thị trường bất động sản cũng sẽ tự lắng dịu mà không cần Nhà nước phải có những chính sách kiềm chế. Các thị trường như bình thông nhau nên sự điều tiết sẽ diễn ra tự nhiên hơn mà không cần cơ quan quản lý nhà nước phải can thiệp quá sâu.

pdf26 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2810 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thị trường chứng khoán quốc tế và những tác động đối với thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h Thắng Bùi Thị Bích Tuyền TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 2 A. TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN QUỐC TẾ 1. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách tự phát và rất sơ khai, xuất phát từ một sự cần thiết đơn lẻ của buổi ban đầu. Vào giữa thế kỷ 15 ở tại những thành phố trung tâm buôn bán ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để trao đổi việc mua bán trao đổi các vật phẩm hàng hoá. Lúc đầu chỉ một nhóm nhỏ, dần dần sau đó tăng dần và hình thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ 15, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu chợ trở thành “thị trường” với việc họ thống nhất các quy ước và dần dần các quy ước được sửa đổi hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia ” thị trường”. Phiên chợ riêng đầu tiên được diễn ra vào năm 1453 tại một lữ điếm của gia đình Vanber ở Bruges Bỉ, tại đó có một bảng hiệu hình ba túi da với một tiếng Pháp là “Bourse” tức là “mậu dịch thị trường” hay còn gọi là “Sở giao dịch”. Vào năm 1547, thành phố ở Bruges Bỉ mất đi sự phồn thịnh do eo biển Even bị cát lấp nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn Auvers Bỉ, ở đây thị trường phát triển rất nhanh và giữa thế kỷ 16 một quan chức đại thần của Anh quốc đã đến quan sát và về thiết lập một mậu dịch thị trường tại London Anh, nơi mà sau này được gọi là Sở giao dịch chứng khoán London. Các mậu dịch thị trường khác cũng lần lượt được thành lập tại Pháp, Đức và Bắc Âu. Sự phát triển của thị trường ngày càng phát triển cả về lượng và chất với số thành viên tham gia đông đảo và nhiều nội dung khác nhau. Vì vậy theo tính chất tự nhiên nó lại được phân ra thành nhiều thị trường khác nhau như: Thị trường giao dịch hàng hoá, thị trường hối đoái, thị trường giao dịch các hợp đồng tương lai và thị TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 3 trường chứng khoán… với đặc tính riêng của từng thị trường thuận lợi cho giao dịch của người tham gia trong đó. Quá trình các giao dịch chứng khoán diễn ra và hình thành như vậy một cách tự phát cũng tương tự ở Pháp, Hà Lan, các nước Bắc Âu, các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Các phương thức giao dịch ban đầu được diễn ra sơ khai ngay cả khi ở ngoài trời với những ký hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng. Ở Mỹ cho đến năm 1921, khu chợ này được chuyển từ ngoài trời vào trong nhà, Sở giao dịch chứng khoán chính thức được thành lập. Ngày nay, theo sự phát triển của công nghệ khoa học kỹ thuật, các phương thức giao dịch ở các Sở giao dịch chứng khoán cũng được cải tiến dần theo tốc độ và khối lượng yêu cầu nhằm đem lại hiệu quả và chất lượng cho giao dịch, các Sở giao dịch đã dần dần sử dụng máy vi tính để truyền các lệnh đặt hàng và chuyền dần từ giao dịch thủ công kết hợp \/ói máy vi tính sang sử dụng hoàn toàn hệ thống giao dịch điện tử thay cho thủ công trước kia. Lịch sử phát triển các thị trường chứng khoán Thế giới trải qua một sự phát triển thăng trầm lúc lên, lúc xuống, vào những năm 1875-1913, thị trường chứng khoán Thế giới phát triển huy hoàng cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế Thế giới lúc đó, nhưng rồi đến “ngày thứ năm đen tối ” tức ngày 29/10/1929 đã làm cho thị trường chứng khoán Tây, Bắc Âu và Nhật bản khủng hoảng mất lòng tin. Cho mãi tới chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, các thị trường chứng khoán cũng hồi phục dần và phát triển mạnh và rồi cho đến năm 1987 một lần nữa đã làm cho các thị trường chứng khoán Thế giới điên đảo với “ngày thứ hai đen tối” do hệ thống thanh toán kém cỏi không đảm đương được yêu cầu của giao dịch, sụt giá chứng khoán ghê gớm, mất lòng tin và phản ứng dây chuyền mà hậu quả của nó còn nặng hơn cuộc khủng hoảng năm 1929. Theo quy luật tự nhiên, sau gần hai năm mất lòng tin, thị trường chứng khoán Thế giới lại đi vào giai đoạn ổn định và phát triển đến ngày nay. Cứ mỗi lần khủng hoảng như vậy, giá chứng khoán của tất cả các thị trường chứng TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 4 khoán trên Thế giới sụt kinh khủng tuy ở mỗi khu vực và mỗi nước ở những mức độ khác nhau gây ra sự ngừng trệ cho thị trường chứng khoán toàn cầu và cũng ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế mỗi nước. Cho đến nay, phần lớn các nước trên Thế giới đã có khoảng trên 160 Sở giao dịch chứng khoán phân tán khắp các châu lục bao gồm cả các nước trong khu vực Đông nam Á phát triển vào những năm 1960 -1970 vào ở các nước ở Đông Âu như Balan, Hunggari, Séc, Nga, và Châu Á như Trung quốc vào những năm 1980 - đầu năm 1990. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trên Thế giới cho thấy thời gian đầu, thị trường hình thành một cách tự phát, đối tượng tham gia chủ yếu là các nhà đầu cơ, dần dần về sau mới có sự tham gia ngày càng đông đảo của công chúng. Khi thị trường bắt đầu xuất hiện sự trục trặc và bất ổn, chính phủ buộc phải can thiệp bằng cách thành lập các cơ quan quản lý nhằm bảo vệ quyền lợi của công chúng đầu tư và sau đó dần dần hệ thống pháp lý cũng bắt đầu được ban hành. Kinh nghiệm đối với những thị trường mới hình thành về sau này cho thấy thị trường sau khi thiết lập chỉ có thể hoạt động có hiệu quả, ổn định và nhanh chóng nếu có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt về hàng hoá, luật pháp, con người, bộ máy quản lý và đặc biệt sự giám sát và quản lý nghiêm ngặt của Nhà nước. Song cũng có một số thị trường chứng khoán có sự trục trặc ngay từ ban đầu như thị trường chứng khoán Thái Lan, Inđônêsia, hoạt động trì trệ một thời gian dài do thiếu hàng hoá và do không được quan tâm đúng mức, thị trường chứng khoán Philippine kém hiệu quả do thiếu sự chỉ đạo và quản lý thống nhất hoạt động của 2 Sở giao dịch chứng khoán Makita và Manila, thị trường chứng khoán Balan, Hungari gặp trục trặc do việc chỉ đạo giá cả quá cao hoặc quá thấp, … Có thể nói, Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường và nhất là những nước đang phát triển đang cần thu hút luồng vốn lớn dài hạn cho nền kinh tế quốc dân. TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 5 Trong giới hạn của đề tài, nhóm tác giả sẽ trình bày qua những biến động chính của các thị trường chứng khoán lớn trên thế giới như Mỹ, Anh, Nhật, Singapore, Trung Quốc, Hongkong trong khoản thời gian là năm 2007 và những tháng đầu năm 2008. 2. Một số chỉ số chứng khoán cơ bản trên các thị trường:  Thị trường chứng khoán Mỹ: Chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones, Chỉ số dành cho các công ty công nghệ cao Nasdaq, Chỉ số Standard & Poor’s 500  Thị trường chứng khoán Nhật: chỉ số Nikkei  Thị trường chứng khoán Anh:  Thị trường chứng khoán Trung Quốc: Chỉ số Shanghai Composite và Shenzhen 300  Thị trường chứng khoán Hongkong: chỉ số Hang Seng, HIS  Thị trường chứng khoán Singapore: chỉ số Straits Times 3. Những biến động trên thị trường chứng khoán thế giới: Theo nhận định của TBKT Việt Nam: “chứng khoán thế giới – một năm sóng gió” Chứng khoán Trung Quốc: Sau 4 năm liên tục sụt giảm, thị trường chứng khoán Trung Quốc đã tăng trưởng trở lại từ đầu 2005. Đầu năm 2006, thị trường chứng khoán Trung Quốc đạt trên 1.100 điểm và tới cuối năm 2006 đạt 2.500 điểm, tăng gấp hơn 2 lần. Hầu hết nhà kinh tế đều dự đoán, chứng khoán Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng cao, có thể đạt 2.800 điểm, thậm chí 3.000 điểm Khi 4 ngân hàng thương mại lớn của Trung Quốc là Ngân hàng Giao thông, Ngân hàng Trung Quốc, Công thương, Kiến thiết lần lượt lên sàn và đều thu được lợi nhuận đáng kể, các nhà đầu tư càng có nhiều hy vọng vào thị trường này Đến nửa đầu tháng 1/2007, số nhà đầu tư mới đăng ký thêm kinh doanh chứng khoán lên đến trên 154.000 hộ. Và tính riêng trong tháng 1/2007, có đến TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 6 341.000 nhà đầu tư, bao gồm các thành phần hưu trí, nội trợ, công chức, sinh viên... mở tài khoản mới. Ngày 27/2/2007, sau khi chính phủ Trung Quốc thông báo sẽ quyết tâm truy quét các hoạt động đầu tư bất hợp pháp từng giúp đẩy các chỉ số chứng khoán lên cao kỷ lục thì chỉ số giá chứng khoán bất thình lình sụt giảm nghiêm trọng, đây là đợt "rơi thẳng đứng" mạnh nhất trên TTCK Trung Quốc kể từ tháng 2/1997. Sự sụt giảm giá chứng khoán nhanh chóng lan sang Mỹ, châu Âu và nhiều nước châu Á, trong nỗi lo về tốc độ phát triển kinh tế trì trệ trên toàn cầu, đặc biệt là Mỹ. Cho đến nay, chưa có lý do chính xác về vụ chao đảo thị trường chứng khoán lần này, song có một số ý kiến cho rằng các nguyên nhân chủ yếu là tình trạng chứng khoán “bong bóng” ở Trung Quốc; chính phủ Trung Quốc nỗ lực hạ nhiệt nền kinh tế; khả năng kinh tế Mỹ suy thoái; nợ khó đòi gia tăng tới mức báo động ở Mỹ… Tuy nhiên yếu tố quan trọng “Khởi nguồn sóng gió cho thị trường chứng khoán thế giới là thị trường Mỹ:  Bắt đầu từ tình hình nhà đất đang trở nên tồi tệ hơn mức dự báo tại Mỹ. Nguồn gốc là từ thời “hồ hởi, phấn khởi” của giới tài chính về cuộc cách mạng thần kỳ công nghệ thông tin. Đầu tư vào công nghệ thông tin ồ ạt, nhiều người làm giàu nhanh chóng, chứng khoán của các công ty liên quan đến công nghệ tăng từ 1.000 điểm ngày 17-7-1975 lên cao điểm 5.132 vào ngày 10-3-2000 và sau đó tụt xuống điểm thấp nhất là 1.108 ngày 10-10-2002. Đây là thời điểm khủng hoảng toàn diện của thị trường chứng khoán khi các công ty công nghệ thông tin thất bại hàng loạt.  Để đối phó, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) giảm lãi suất, từ trên 6,5% năm 2000 xuống còn dưới 1,75% năm 2001, chạm 1% suốt những năm 2002, 2003 cho đến giữa cuối năm 2004, nhằm vực dậy nền kinh tế đang suy thoái sau sự sụp đổ của các ngành công nghiệp. Năm 2005 lãi suất vẫn còn ở mức khá thấp nhưng bắt đầu tăng dần để đối phó với lạm phát.  Giai đoạn 2001-2005, lãi suất thấp đã khuyến khích người dân mua nhà từ nguồn vay cầm cố, đẩy giá nhà liên tục leo thang, tăng 10% năm 2002 và tăng bình quân trên 25%/năm giai đoạn 2003-2005. Sự bùng nổ giá nhà giai đoạn này là một yếu tố quan trọng đóng góp vào sự phục kinh tế của Mỹ do lãi suất giảm làm giảm TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 7 giá trị các khoản thanh toán cầm cố hàng tháng của người dân trong khi giá nhà tăng giúp họ có được những khoản vay mới lớn hơn để chi tiêu tiêu dùng, thực hiện khẩu hiệu “đi mua sắm theo yêu cầu của Tổng thống và vì lòng yêu nước”, từ đó kích thích tăng trưởng.  Tuy nhiên, sự phục hồi kinh tế của Mỹ cùng với nguy cơ lạm phát gia tăng bởi cả những yếu tố từ cung, cầu thúc đẩy Cục Dự trữ liên bang Mỹ tăng lãi suất trở lại, đến tháng 8/2005 lãi suất liên ngân hàng định hướng của Mỹ (Fed Fund Rate) đạt mức 3,75%/năm, và dự kiến còn tiếp tục tăng nên không còn là mức lãi suất hấp dẫn đối với người mua nhà, thị trường nhà đất bắt đầu sụt giảm. từ tháng 8/2006 thị trường sụt giảm mạnh, lãi suất tăng đưa đến việc người có lương thấp mất khả năng chi trả tiền vay mua nhà, đồng thời hãm phanh việc giá nhà tăng, giá nhà giảm và tiếp tục giảm.  Tình hình này làm người đi vay mua nhà mất khả năng chi trả, mà lại không bán được nhà vì giá nhà xuống. Người có chứng khoán bán tháo đẩy giá xuống theo. Các công ty môi giới đi vay để cho vay không còn khả năng chi trả. Những người bỏ tiền vốn vào các quỹ đầu tư rủi ro cao (nhằm mua chứng khoán nhà cửa) đòi tiền lại, dẫn đến tình trạng nhiều quỹ lớn mất khả năng chi trả.  Tác động của cuộc khủng hoảng lan cả ra ngoài lĩnh vực nhà đất và làm gián đoạn thị trường tài chính toàn cầu do các nhà đầu tư, chủ yếu là các quỹ bảo hiểm trong nước và nước ngoài, đã buộc phải đánh giá lại rủi ro mà họ đang nắm giữ và những người tiêu dùng mất khả năng tài trợ hơn nữa cho chi tiêu tiêu dùng của mình, gây ra sự biến động mạnh trên các thị trường trái phiếu, cổ phiếu và phái sinh.  Thực tế ngày 15/82007, chỉ số Dow Jones giảm xuống dưới mức 13.000 từ mức 14.000 đạt được hồi tháng 7, chỉ số S&P 500 sụt giảm ở mức chưa từng có. Tình trạng tương tự cũng xảy ra ở hầu khắp các thị trường trên toàn thế giới, trong đó thị trường Brazil và Hàn Quốc bị tác động mạnh nhất. Hiện tượng chỉ số chứng khoán có mức giảm lớn trong ngày trở thành phổ biến, chẳng hạn KOSPI giảm khoảng 7% chỉ trong 1 ngày.  Lo sợ sẽ xuất hiện chính thức một cuộc khủng hoảng tài chính, giới đầu tư đã tìm cách tháo chạy, bán đổ bán tháo cổ phiếu, tạo tâm lý đầy bi quan ở hầu khắp các thị trường khu vực châu Á. Vào lúc 16h00 chiều 28/8, chỉ số châu Á - Thái Bình TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 8 Dương của Morgan Stanley Capital International giảm 0,2%, xuống còn 149,69 điểm. Chỉ số Nikkei 225 tại Nhật giảm 0,1%, xuống còn 16.292,07 điểm.  Những thông tin “xấu” của các công ty lớn có thể kể ra ở thời điểm này: Công ty Đầu tư cầm cố nhà Mỹ (American Housing Mortgage Investment Corporation, Melvil le, New York) đệ đơn xin phá sản vào 6/8/2007, sau khi sa thải hàng hoạt công nhân trong tuần trước đó. Báo cáo ngày 10/8 của Accredited Home Lenders cho biết công ty dự kiến có thể thua lỗ tới 60 triệu USD trong quý I /2007. Ngày 8/8/2007, MGIC (Mortgage Guaranty Insurance Corporation, Milwaukee, Wisconsin) thông báo không thể tiếp tục khoản mua lại Radian Group (Philadenphia, Pennsylvania) sau khi thu lỗ 1 tỷ USD trong vụ đầu tư vào C-BASS (Credit-Based Asset Servicing and Securitization, New York City). C-BASS đang tìm kiếm đối tác để tái cơ cấu các khoản tài trợ. Thương vụ MGIC-Radian có thể đạt tới 4,9 tỷ USD. Sau đó, ngày 9/8, ngân hàng BNP Paribas của Pháp chấm dứt hoạt động của 3 quỹ và đình chỉ việc rút tiền của các nhà đầu tư sau khi tai họa về cho vay cầm cố dưới tiêu chuẩn của Mỹ gây ra “sự bay hơi hoàn toàn về thanh khoản”. Quỹ bảo hiểm lớn nhất trị giá 8 tỷ USD của Goldman Sach - Global Alpha – thông báo lỗ 26% trong năm 2007. Đồng thời, Citigroup cũng báo cáo thua lỗ 700 triệu USD trong hoạt động tín dụng tháng 7 và tháng 8/2007.  Ngày 15/8, cổ phiếu của Countrywide Financial, công ty cho vay cầm cố lớn nhất ở Mỹ, giảm khoảng 13% trên sàn chứng khoán New York, mức giảm trong ngày lớn nhất kể từ khủng hoảng thị trường chứng khoán năm 1987  Sự sụt giảm của thị trường chứng khoán toàn cầu đã buộc ngân hàng trung ương các nước đồng loạt phải can thiệp. Lần đầu tiên kể sau cuộc tấn công khủng bố 11/9/2001, các NHTW Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản đồng loạt can thiệp, tổng số tiền bỏ ra gần 350 tỷ USD để mua chứng khoán của các tập đoàn tài chính môi giới TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 9 chứng khoán địa ốc nhằm ngăn chặn tâm lý “tháo chạy” khỏi thị trường, tuy nhiên kết quả vẫn không mấy khả quan  Thị trường chỉ bắt đầu khôi phục trở lại sau khi Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) quyết định giảm lãi suất chiết khấu 0,5 điểm phần trăm xuống 5,75%/năm ngày 16/8 nhằm phát tín hiệu sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng.  Ngày 18/09/2007 Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) cắt giảm lãi suất đồng USD từ 5,25% xuống 4,75% , chỉ số công nghiệp Dow Jones đã tăng điểm mạnh, và tiếp theo đó ngày 19/9/2007 thị trường chứng khoán châu Á và châu Âu đồng loạt lên điểm.  Tại châu Á, chỉ số Nikkei 225 của Nhật Bản tăng vọt thêm 579,74 điểm, tương đương 3,7%, đóng cửa ở mức 16.381,54 điểm points. Chỉ số Hang Seng của Hồng Kông còn tăng mạnh hơn - 977,79 điểm (3,98%) lên 25.554,64 điểm.  Sự thất thoát vì nợ xấu cho lĩnh vực cho vay cầm cố tăng nhanh và chưa có dấu hiệu kết thúc. Trong 3 tháng cuối năm 2007, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã cắt giảm lãi suất cơ bản đối với đồng USD thêm 2 lần nửa (31/10: 4,75% -> 4,5%, giảm 0,25 điểm; 11/12: giảm 0.25 điểm từ 4,5% -> 4,25%) còn 4,25%. Đến nay FED tiếp tục chính sách này thêm 2 lần nửa (22/01/2008: giảm 0.75 điểm từ 4,25% -> 3,5% và 31/01/2008: giảm từ 3,5% -> 3%) và bơm thêm tiền vào nền kinh tế, dự kiến cuộc họp vào 18/03 tới FED có thể cắt giảm lãi suất thêm 0.5 điểm nửa. Đây thực sự là cố gắng của FED để vực dậy nền kinh tế của Mỹ.  Ứng với mỗi lần điều chỉnh lãi suất của FED, thị trường chứng khoán châu Á, Âu đều có những phản ứng khởi sắc, tuy nhiên thị trường chứng khoán Mỹ đã không phản ứng tích cực sau lần cắt giảm lãi suất mạnh ngày 22/01, chỉ số chứng khoán tiếp tục giảm và lan sang các thị trường châu Á, Âu. Theo thống kê, sự “lao dốc” của thị trường chứng khoán thế giới đã làm giảm của các thị trường tổng số tiền 7.300 tỷ USD (tính đến ngày 23/01/2008). Tóm lại với tình hình hiện nay, theo nhận định của các chuyên gia, hoạt động kinh tế Mỹ khó có thể khởi sắc dù FED tiếp tục tung tiền cứu các quỹ đầu tư rủi ro và giảm lãi suất để bảo vệ thị trường địa ốc, tuy nhiên giảm lãi suất sẽ ảnh hưởng đến chính sách chống lạm phát và khả năng thu hút tiền từ nước ngoài để bù đắp cán cân TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 10 thanh toán. Đồng tiền Mỹ tiếp tục mất giá so với các đ6òng tiền mạnh khác.. Điều này là một câu hỏi khó cho xu hướng TTCK thế giới năm 2008. B. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN THẾ GIỚI Từ những năm 90, nhằm tạo ra một kênh huy động vốn mới cho nền kinh tế, phục vụ đầu tư phát triển, Nhà nước đã định hướng xây dựng và phát triển TTCK Việt Nam. Bắt đầu từ việc Chính phủ thành lập Ban soạn thảo Pháp lệnh về chứng khoán và TTCK (1994), Ban Chuẩn bị tổ chức TTCK (1995) và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (1996); kế đến, 2 Trung tâm Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, đã lần lượt được khai trương và chính thức đi vào hoạt động từ năm 2000 và 2005. Đến nay, sau hơn 7 năm hoạt động, hoạt động của TTCK Việt Nam đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên đề tài chỉ xin điểm qua tình hình của TTCK VN năm 2007 và những ngày đầu năm 2008. I. Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2007 Trải qua nhiều thăng trầm TTCK VN năm 2007 vẫn đạt mức tăng trưởng vượt bậc. Giá trị vốn hóa thị trường đạt 43.7% GDP-một con số không nhỏ so với thị trường còn non trẻ như VN. 1. Chủ thể tham gia thị trường: Năm 2007, TTCK VN đạt những thành công đáng kể, quy mô hoạt động của thị trườn không ngừng mở rộng, nhiều loại cổ phiêu và trái phiếu mới được niêm yết trên thị trường, các tổ chức niêm yết, các cty CK, các nhà đầu tư đã thực sự thích nghị với môi trường hoạt động của một thể chế tài chính bậc cao. 1.1 Cơ quan quản lý Trung tâm giao dịch CK TP.HCM đã chuyển thành Sở giao dịch CK TP.HCM vào giữa năm 2007 và thực hiện giao dịch khớp lệnh liên tục từ 30/07/2007 và từng TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 11 bước triển khai giao dịch nhập lệnh từ xa để đáp ứng tình hình phát triển của thị trường. Luật chứng khoán hiệu lực từ 01/7/2007 đã làm lành mạnh hóa và minh bạch hóa hơn cho môi trường đầu tư chứng khoán tại VN. Công tác kiểm soát việc công bố thong tin trên TTCK, thanh tra giám sát thị trường đã có những bước tiến so với năm 2006. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế của các cơ quan quản lý: đó là sự thiếu đồng bộ về điều tiết cung cầu giữa Bộ Tài chính và NHNN. Trong khi lượng cung tăng mạnh do việc phát hành cổ phiếu mang tính tràn lan, IPO các DN lớn có phần dày đặc thì cầu bị kiềm hãm bởi chỉ thị 03, ảnh hưởng tâm lý về việc thong qua luật thuế thu nhập cá nhân đánh vào hoạt động KDCK. 1.2 Công ty chứng khoán (CTCK) Đến cuối 2006 thị trường có 22 CTCK và đến 31/12/2007 có 80 CTCK đã được UBCKNN cấp giấy phép hoạt động trong đ1o có 69 CTCK chính thức đi vào hoạt động (59 công ty cổ phần và 10 cty TNHH trực thuộc các ngân hàng). Trong bối cảnh các CTCK ngày càng gia tăng, thị phần ngày càng bị chia nhỏ và sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, hoạt động của các CTCk phần lớn đều đi vào ổn định, luôn tuân thủ quy định của pháp luật trong lĩnh vực CK và sự định hướng chỉ đạo của UBCKNN và SGD CK TP.HCM. Năm 2007 các CTCK mở rộng địa bàn hoạt động ở TP.HCM, Hà Nội và các tỉnh. Vế kết quả hoạt động kinh doanh, doanh thu từ các hoạt động, môi giới, tự doanh đều có những tiến bộ đáng kể và đạt mức tăng trưởng cao so với năm trước. Tính đến 15/12/2007 tổng vốn điều lệ của 69 CTCK đạt 10.425 tỷ đồng. Dịch vụ của các CTCK ngày càng hoàn thiện và phát triển trên cơ sở ứng dụng công nghệ thong tin hiện đại: đặt lệnh qua điện thoại, traing online, tra cứu kết quả qua SMS… Điều này đã thu hút sự tham gia nhiệt tình của các nhà đầu tư. Vì vậy, trong năm qua, các CTCK có vai trò rất lớn trong việc tạo cầu và kích cầu cho TTCK. TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 12 1.3 Công ty niêm yết Tính đến 31/12/2007, TTCK VN có 253 CK niêm yết tr6en sàn TP.HCM và Hà Nội. Theo báo cáo sơ bộ kết quả kinh doanh của các cty niêm yết quý 4/2007 và lũy kế cả năm 2007 hầu kết các cty niêm yết đều đạt và vượt kế hoạch năm đề ra. 1.4 Nhà đầu tư Đến cuối năm 2006 số lượng tài khoản của nhà đầu tư mở tại các CTCK đạt 86.184 tài khoản nhưng đến 31/12/2007 toàn thị trường đả có 327.000 tài khản giao dịch CK mở tại các CTCK tăng 240.816 tài khoản tương đương 279% so với cuối năm 2006. Bên cạnh sự tham gia ngày càng đông đảo của các nhà đầu tư cá nhân, TTCK VN còn nhận được sự quan tâm lớn của các tổ chức tài chính lớn trong khu vu75cva2 trên thế giới như JP morgan, Merrill Lynch, Citygroup… Số lượng tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài mở tại các CTCK tính đến 31/12/2007 là 7.900 (cá nhân 7.400 và tổ chức 500). Sự gia tăng số lượng tài khoản GDCK là một dấu hiệu khả quan về sự quan tâm và tham gia TTCK của công chúng. Hơn nữa, các nhà đầu tư cũng đã trưởng thành hơn và ngày càng chuyên nghiệp hơn. Trình độ hiểu biết và nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức ngày một tăng. Tâm lý đầu tư theo phong trào đã giảm đán kể góp phần tạo sự ổn định cho thị trường. 2. Xu hướng thị trường Năm 2007 TK VN bùng nổ trong 3 tháng đầu năm, hạ nhiệt và điều chỉnh vào 5 tháng giữa năm tiêp đến là một đơt phục hồi trước khi đi vào thoái trào trong 4 tháng cuối năm. TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 13 Biểu đồ VNINDEX 0 200 400 600 800 1000 1200 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Tháng Đ iể m Series1 2.1 Giai đoạn thị trường bùng nổ 3 tháng đầu năm 2007: Ba tháng đầu năm thị trường phát triển mạnh mẽ và đạt tốc độ tăng trưởng vượt bậc trên tất cả các khía cạnh: chỉ số thị trường, giá trị vốn hóa thị trường, giá cả các loại CK, giá trị, khối lượng giao dịch và đặc biệt là sự tham gia đông đảo của các nhà đầu tư nước ngoài. Giai đoạn này, chỉ số của cả 2 thị trường đều đạt mức đỉnh là Vn-Index đạt 1.170,67 điểm và HASTC Index lập mức đỉnh 459.36 điểm. Đây là giai đoan thi trường đạt mức tăng trưởng với tốc độ cao nhất 126% chỉ trong vòng 3 tháng giao dịch. Nhờ sự tăng trưởng về gí của các cổ phiếu, giá trị vốn hóa của thị trường giai đoạn này lên đến 398.000 tỷ đồng do giá cổ phiếu tăng mạnh. So với giá trị 492.900 tỷ đồng của cả năm 2007, con số này chiếm tỷ trọng 4/5. Trong giai đoạn này giá tất cả các cổ phiếu đều tăng trên 50% giá trị so với mức giá giao dịch đầu năm. Yếu tố quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng nóng giai đoạn này là do sức cầu trên thị trường tăng đột biến khiến giá trị giao dịch trung bình mỗi phiên lên đến hàng ngàn tỷ đồng. Tại sàn TP.HCM trung bình mỗi phiên giá trị giao dịch đạt trên 1.000 tỷ đồng và sàn Hà Nội là 300 tỷ đồng. BIỂU ĐỒ VNINDEX NĂM 2007 TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 14  Nguyên nhân tăng trưởng của thị trường giai đoạn này do các yếu tố sau:  Việc VN chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO khiến giới đầu tư quốc tế quan tâm đến cơ hội đầu tư vào hoạt động kinh doanh ở VN  Luật chứng khoán hiệu lực từ 01/7/2007 và các văn bản hướng dẫn ban hành cụ thể đã làm lành mạnh hóa và minh bạch hóa hơn cho môi trường đầu tư chứng khoán tại VN.  Lượng hàng hóa có gia tăng do có nhiều công ty cổ phần niêm yết mới trên 2 sàn giao dịch, các cty niêm yết tiến hành tăng vốn qua các đợt phát hành cổ phiếu…  Quý 1/2007 là thời điểm các cty công bố kết quả kinh doanh năm 2006 và phần lớn các công ty niêm yết đều đạt tốc độ tăng trưởng cao về doanh thu và lợi nhuận so với năm trước.  Đầu năm lượng vốn đổ vào thị trường có xu hướng tăng mạnh do nguồn kiều hối chuyển về nước thường gia tăng vào dịp tết Nguyên đán, nguồn vốn trong dân cư có xu hướng dịch chuyển rõ rệt từ các lĩnh vực vàng, bất động sản sang TTCK. Một yếu tố không kém phần quan trọng là luồng vốn của nhà ĐTNN đổ vào VN ngày càng mạnh và tỷ lệ sở hữu của nhà ĐTNN trong các DN niêm yết vẫn còn một tỷ lệ khá lớn. 2.2 Giai đoạn thị trường điều chỉnh từ tháng 4/2007 đến tháng 9/2007 Sự tăng trưởng quá nóng của TTCK VN trong quý 1/2007 đã tạo nên nỗi lo sợ về “Thị trường bong bong” các cơ quan quản lý nhà nước và chính phủ đã vào cuộc để giảm nhiệt thị trường bằng các biện pháp kiểm soát thị trường chặt chẽ. Phản ứng trước điều này, TTCK đã có những đợt điều chỉnh rõ rệt. Tuy nhiên, đợt điều chỉnh giảm của thị trường đã diễn ra trong một thời gian rất dài từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 9/2007. Giai đoạn này giao dịch trên cả 2 sàn TP.HCM và Hà Nội đều trầm lắng, tất cả các yếu tố của thị trường đều giảm sút nghiêm trọng. Chỉ trong vòng 1 tháng, ngày 24/4/2007 VNIdex chỉ còn 905.53 điểm, giảm 22.6% so với mức đỉnh vào tháng 3 và HASTCIndex giảm 30% còn 321.44 điểm. TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 15 Trong giai đoạn này, thị trường có một đợt phục hồi vào tháng 5/2007 khi VNIdex quay về mốc 1107.52 điểm vào ngày 25/7/2007.nhưng do tác động tâm lý quá mạnh của chỉ thị 03, luật thuế thu nhập cá nhân … thị trường đã nhanh chóng trở lại trạng thái mất cân bằng và lien tục sụt giảm mạnh khiến giai đoạn đầu tháng 8 thị trường xác lập mức 883.9 điểm cho VNIdex (6/8/2007) và 247.37 điểm của HASTC-Index (23/8/2007).  Nguyên nhân ảnh hưởng đến TTCK giai đoạn này:  Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN quy định về giới hạn dư nợ cho vay chứng khoán ở mức 3% tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng được ban hành trong thời điểm TTCK đang trong giai đoạn điều chỉnh mạnh nên càng làm thị trường trở nên suy yếu.  Dự thảo luật thuế thu nhập cá nhân được thong qua và đưa thu nhập từ hoạt động kinh doanh chứn khoán vào diện chịu thuế đã làm ảnh hưởng đếm tâm lý nhà đầu tư.  Hoạt động kinh doanh của các cty niêm yết không có gì đột biến do vậy không có động lực thúc đẩy thị trường.  Tỷ lệ sở hữu của nhà ĐTNN tại phần lớn các mã cổ phiếu blue-chip đều đạt ngưỡng 49%. Mặc dù giai đoạn này đã có nhiều ý kiến đề xuất mở room cho các nhà đầu tư nhưng không được thông qua chính vì vậy một lượng vốn lớn của các nhà ĐTNN vẫn chưa được giải ngân vì bị hạn chế về tỷ lệ nắm giữ. 2.3 Giai đoạn thị trường phục hồi vào những tháng cuối năm. Khi các kỳ vọng và niềm tin về sự phục hồi của TTCK bắt đầu mạnh dần lên vào những tháng cuối năm. TTCK VN bước vào giai đoạn phục hồi từ đầu tháng 9/2007 đến cuối tháng 10/2007. Giai đoạn này, giá các cổ phiếu phục hồi nhanh chóng. VNIndex có những phiên giao dịch đã vượt 1.100 điểm (1.106,6 điểm ngày 3/10/07) và HASTC-Index chạm ngưỡng gần 400 điểm (393.59 điểm ngày 1/10/07). Tuy nhiên, thị trường sau một đợt hồi phục đã nhanh chóng điều chỉnh giảm vào 2 tháng cuối năm. Trong giai đoạn này, thị trường thỉnh thoảng cũng có các đợt TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 16 phục hồi giá với sự tăng lên mạnh mẽ của tất cả các yếu tố. Tuy nhiên sự phụ hồi này không duy trì được lâu, thậm chí có dấu hiệu giảm chỉ sau 1 phiên tăng điểm. Chính điều này đã dẫn tới viêc các nhà đầu tư bị đong vốn, bán ra thì không muốn nhưng mua vào thì nguồn tiền đã cạn. Trong khi nguồn cầu có xu hướng cạn kiệt thì nguồn cung vẫn tiếp tục tăng. Tương quan cung cầu mất cân bằng khiến thị trường ngày càng tuột dốc cả về giá lẫn khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch. VN-Index giảm xuống dưới ngưỡng 1.000 điểm và chỉ xaoy quanh mốc 900 điểm với lượng CK chuyển nhượng rất hạn chế.  Nguyên nhân sụt giảm của thị trường giai đoạn này:  Sự suy giảm nghiêm trọng của TTCK toàn cầu cuối năm 2007 đã tạo ra hiệu ứng sụt giả của TTCK VN và gây bất ổn cho giới đầu tư trong nước.  Sự khởi sắc của thị trường bất động sản, thị trường vàng vào cuối năm đã tạo sự dịch chuyển vốn từ TTCK sang 2 thị trường đang nóng này.  Chỉ thị 03 của NHNN chính thức đưa vào thực thi khiến dòng vốn đầu tư vào CK bị hạn chế. Đặc biệt đến cuối năm 2007, sự đẩy nhanh thanh lý các hơp đồng để kịp về đích theo chỉ thọ 03 của các NHTM khiến cho nguồn vốn đổ vào thị trường ngày càng cạn kiệt.  IPO VCB diễn ra vào những ngày cuối năm 2007 đã hút một lượng vốn khổng lồ gần 10.000 tỷ đồng ra khỏi thị trường.niêm yết.  Lạm phát tăng cao khiến NHNN hạn chế mua USD khiến kênh vốn quan trọng cho TTCK đến từ các nhà ĐTNN gặp bế tắc do gặp khó khăn khi chuyển đổi thành đồng VN. Tuy nhiên, nếu xét về mưc tăng trưởng, index không giảm so với đầu năm. Phiên giao dịch ngày 28/12/2007 VN-Index đạt 927.02 điểm, HASTC Index đạt 323.55 điểm. Như vậy, sau 1 năm hoạt đông VN Index tăng 23.3% và HASTC Index tăng 33.2%. Con số này cho thấy thị trường cổ phiếu không còn nóng như năm 2006 nhưng vẫn tăng trưởng ổn định mặc dù diễn biế giao dịch trên thị trường không ngừng dậy sóng trong cả năm 2007 nhưng điều quan trọng là thị trường luôn vận hành theo quy luật cung cầu và thị trường có những giai đoạn điều chỉnh phù hơp… TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 17 II. Thị trường chứng khoán Việt Nam những ngày đầu năm 2008 Kết thúc năm 2007, chỉ số VN-Index giảm mạnh và vẫn tiếp tục xu hướng này vào những ngày đầu năm, đặc biệt là sau tết Nguyên đán. Sau một chuỗi ngày giảm thê thảm từ tháng 10/2007, thị trường đã có dấu hiệu ấm trở lại vào dịp giáp Tết Nguyên đán (cuối tháng 1/2008), trong hơn 1 tuần, thị trường tăng 6 phiên liên tục, đưa chỉ số vượt lên gần 100 điểm, để đạt đến 859,62 điểm vào phiên cuối cùng trong năm. Tổng khối lượng giao dịch 15 triệu đơn vị, trị giá 1.274 tỷ đồng là một con số đã lâu rồi không nhìn thấy và hôm nay đã xuất hiện trở lại. Nhà đầu tư sau bao ngày tháng chật vật lo âu đã có thể hưởng một cái Tết vui vẻ, tràn đầy hy vọng cho một năm tới thị trường khởi sắc. Có thể nói nền kinh tế Việt Nam và thế giới đã có sự liên thông rõ nét khi chính quyền Tổng thống Bush vừa đặt vấn đề sẽ giảm thuế 150 tỷ USD là lập tức TTCK Việt Nam rục rịch tăng giá. Và khi giải pháp trọn gói của ông Bush chính thức ban ra, chỉ số VN-Index của Việt Nam ngay phiên hôm sau đã tăng mãnh liệt và tăng đến phiên cuối cùng của năm Đinh Hợi. Một bầu không khí lạc quan lan tỏa trên thị trường. Giá cổ phiếu sau một thời gian dài bị tụt giảm quá sâu, quá ngưỡng kháng cự, đã hấp dẫn vì quá thấp. Khá nhiều công ty niêm yết đã bắt đầu có thông tin báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh năm 2007 và sẽ chia cổ tức dịp sau Tết. Trái ngược với diễn biến trong các phiên giao dịch giáp Tết Nguyên đán, trong những ngày mở đầu năm mới chứng khoán ồ ạt giảm giá rất mạnh. Kết thúc phiên giao dịch sáng 13/2/2008-phiên giao dịch đầu tiên sau Tết Nguyên đán, chỉ số VN- Index của TTCK tập trung của Việt Nam giảm mạnh 23,37 điểm (tương đương giảm 2,77%) xuống 817,86 điểm. Trước đó, trong phiên giao dịch đầu tiên của năm mới Mậu Tý, chỉ số này đã mất 18,39 điểm. Khối lượng giao dịch cũng đứng ở mức thấp là 7,4 triệu đơn vị (gần 567 tỷ đồng), thấp hơn khoảng 30-40% so với 3 phiên giáp Tết. TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 18 Diễn biến lên xuống bất thường của TTCK Việt Nam được cho là xuất phát từ tâm lý không yên tâm về mặt dài hạn của hầu hết các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Các nhà đầu tư đều đánh giá thị trường hiện nay rất nhạy cảm và không thể đưa ra được một dự đoán nào về xu hướng thị trường. Gần đây nhất là phiên giao dịch ngày 26/02/2008, niềm hy vọng của các nhà đầu tư đột ngột vụt tắt khi Vn-Index phá vỡ ngưỡng 700 và 136/153 mã đỏ sàn. Đứng trước nhiều thử thách lớn, những bất ổn tác động đến thị trường vốn rất nhạy cảm này là:  Thứ nhất, giá xăng, dầu đồng loạt tăng mạnh, tạo quan ngại thực sự đối với nhà đầu tư ở cả hai phía: Lạm phát sẽ tăng theo và tạo áp lực đối với chính sách tiền tệ; chi phí đầu vào đội lên dẫn tới khả năng lợi nhuận của nhiều doanh nghiệp niêm yết bị chia sẻ.  Thứ hai, ngay trong ngày giao dịch đầu tuần, thị trường ngân hàng chứng kiến sự đổ xô rút tiền của người dân từ ngân hàng có lãi suất thấp đến gửi ngân hàng có lãi suất cao. Diễn biến này đã lôi kéo nhiều nhà đầu tư cá nhân trên sàn quyết định bảo toàn vốn có lãi suất cao trong bối cảnh chứng khoán suy giảm kéo dài.  Thứ ba, mặc dù những định hướng chính sách tiếp tục được kiến nghị, nhưng thiếu tính hiện thực; trong khi niềm tin và sự chờ đợi của nhà đầu tư đã bị kéo dãn trong suốt thời gian qua. Chính điều này đã làm cho Vn-Index giảm mạnh 22,13 điểm (tương đương giảm 3,09%) xuống còn 692,91 điểm. Như vậy một lần nữa ngưỡng 700 điểm của chỉ số này lại bị phá vỡ. Tổng số cổ phiếu và chứng chỉ quỹ có mặt trên sàn hiện nay là 153 (bao gồm cả cổ phiếu mới DXV của Công ty cổ phần Xi măng Vật liệu Xây dựng Xây lắp Đà Nẵng). Trong đó có 13 mã tăng, 4 mã đứng giá và còn lại 136 mã nối tiếp nhau giảm giá. Tổng khối lượng giao dịch đạt hơn 13,4 triệu đơn vị và giá trị giao dịch đạt 894,5 tỷ đồng. TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 19 Màu xanh tập trung ở một số cổ phiếu: VIS, VNM, PPC, DMC,... nhưng mức tăng không đáng kể, tăng cao nhất là TSC tăng 2.500 đồng/cp, DMC và VNM cùng tăng 2.000 đồng/cp... Hầu hết các cổ phiếu lớn đều nằm trong danh sách giảm giá tiêu biểu như: cổ phiếu SJS giảm 10.000 đồng xuống còn 190.000 đồng/cp; FPT giảm 7.000 đồng xuống 152.000 đồng/cp; SSI và PVD cùng giảm 5.000 đồng xuống tương ứng là 102.000 đồng/cp và 114.000 đồng/cp, DPM giảm 2.500 đồng còn 56.500 đồng/cp;... kéo theo SBT mới chào sàn hôm qua cũng giảm 1.200 đồng xuống còn 22.800 đồng/cp và DXV giảm 8.400 đồng xuống 33.600 đồng/cp so với giá tham chiếu là 42.000 đồng/cp. Trên sàn Hà Nội, nhiều nhà đầu tư cũng tranh thủ bán ra “gỡ gạc” ít vốn sau khi thị trường bất ngờ có phiên tăng điểm khá khởi sắc trong phiên hôm qua. Sau 2 phiên tăng với tổng số điểm là 8,95 điểm. Kết thúc phiên giao dịch sáng nay, chỉ số HASTC-Index của sàn Hà Nội đảo chiều giảm mạnh 17,28 điểm (tương đương giảm 7%) đóng cửa ở mức 229,56 điểm. Như vậy, sự mất cung cầu trong những tháng cuối năm 2007 đầu năm 2008 đã buộc các cơ quan quản lý vào cuôc để có những điều chỉnh nhất định trong chính sách của mình. Tuy nhiên sẽ cần một khoảng thời gian nhất định để các chính sách này phát huy tác dụng trong thực tiễn. Do đó, thị trương có những điều chỉnh giảm đầu năm 2008 là điều tất yếu dẫu cho nó trái ngược với kỳ vọng tâm lý chung của các nhà đầu tư. Tron thời gian tới sẽ có sự tham gia niêm yết của nhiều tập đoàn lớn, nên cơ cấu tính VN Index năm 2008 sẽ có những thay đổi đáng kể so với năm 2007. Sức bậc của các doanh nghiệp lớn chưa thể có ngay được sau cổ phần hóa. Do đó, kỳ vọng về sự tăng trưởng giá cổ phiếu của các doanh nghiệp này là không nhiều. Điều này sẽ phần nào ảnh hưởng đến Index. Tuy nhiên khả năng tăng trưởng của TTCK VN luôn được nhìn nhận. mặt dù có những khởi đầu không thuận lợi từ đầu năm nhưng TTCK vẫn hứa hẹn là một kênh đầu tư hiệu quả cho các nhà đầu tư trong năm 2008. TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 20 III. Những khó khăn của Thị trường chứng khoán Việt Nam Theo các chuyên gia, TTCK của Việt Nam hiện còn đang đối mặt với nhiều yếu tố tiềm ẩn có khả năng kéo thị trường đi xuống. Trước hết vẫn là yếu tố mất cân bằng cung-cầu. Trong năm 2007 và đầu năm 2008, lượng chứng khoán được đưa ra bán đấu giá lần đầu (IPO), phát hành thêm và được đưa vào giao dịch trên 2 sàn rất lớn, gấp nhiều lần so với năm 2006. Một loạt IPO đã hút một lượng vốn khổng lồ từ túi tiền của người dân như Đạm Phú Mỹ, PVFC, Vietcombank… Và sắp tới đây, theo kế hoạch, sẽ còn một loạt đơn vị lớn nữa tiến hành IPO mà gần nhất là Habeco. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng như nhiều nước khác trong khu vực đang đối mặt với giá nguyên nhiên liệu đầu vào tăng cao mà theo đó là các doanh nghiệp bị ảnh hưởng về mặt kết quả kinh doanh. Lạm phát của Việt Nam đứng ở mức rất cao trong năm 2007 và dự kiến sẽ tiếp tục đứng ở mức cao trong năm 2008. Riêng trong tháng 1/2008, lạm phát đứng ở mức 2,38% và theo các số liệu thống kê hàng năm cho thấy, tốc độ tăng giá tiêu dùng của tháng 2 (tháng có Tết Nguyên đán) đều tăng cao hơn tốc độ tăng của tháng 1, thậm chí có năm còn tăng cao gấp đôi, gấp ba tốc độ tăng của tháng 1. Do vậy, theo một số dự đoán, tốc độ tăng giá tiêu dùng tháng 2 năm nay sẽ không dưới 2,5%, có thể trên 3%. Đây là yếu tố sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sự tăng trưởng của TTCK bởi việc kiềm chế lạm phát là ưu tiên hàng đầu của Chính phủ. Trước tình hình lạm phát gia tăng, Chính phủ đã áp dụng một loạt giải pháp mạnh về thắt chặt tiền tệ vào cuối năm 2007 và đầu năm 2008 ... Các giải pháp này dường như đang "gây sốc" đối với thị trường tiền tệ và rộng hơn là TTCK Việt Nam. Hiện người ta đang lo ngại về sự "đình trệ" của không những khu vực tiền tệ mà cả TTCK Việt Nam. Trong đó các giải pháp về tiền tệ là đáng chú ý nhất vì nó là "liệu pháp sốc" và tác động mạnh đến thị trường tiền tệ và TTCK. Năm 2007, NHNN tăng mức dự trữ bắt buộc lên mức gấp đôi đối với các loại tiền gửi ngân hàng; khống chế mức cho vay thế chấp chứng khoán 3% tổng dư nợ (Chỉ thị 03) và sau đó là khống chế dư nợ cho vay chứng khoán theo hướng tiếp tục thắt TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 21 chặt (theo mức 20% vốn điều lệ của ngân hàng thương mại, Quyết định 03); Tăng các lãi suất chủ chốt của ngân hàng trung ương (lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu); hạn chế bơm tiền mua ngoại tệ; phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại mua để hút 20.300 tỷ d0ồng về NHNN... Tuy nhiên, việc điều hành thị trường chứng khoán, cần cân nhắc việc bắt buộc các ngân hàng thương mại mua tín phiếu Ngân hàng Nhà nước vào một thời điểm thích hợp để tránh tác động "sốc" đến thị trường; đồng thời điều chỉnh chính sách tiền tệ theo hướng tránh tập trung nhiều biện pháp cùng lúc, ảnh hưởng đến tâm lý chung của nhà đầu tư. Hiện tại, rõ ràng thị trường đang phản ứng khá "mãnh liệt" với các chính sách mạnh của Nhà nước. Trong đó, thị trường tiền tệ và chứng khoán phản ứng mạnh mẽ nhất. Đối với Việt Nam, các giải pháp của Chính phủ nhằm cố gắng chặn đứng lạm phát là đúng nhưng rõ ràng phản ánh năng lực dự báo còn hạn chế của các cơ quan có liên quan trước các diễn biến phức tạp hiện nay. Sự phản ứng chính sách "gấp gáp", "đuổi theo thị trường" dường như đang tác động ngược lại với các mục tiêu lớn và nhất là có thể càng tạo nên những "cú sốc" đối với thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán và cả nền kinh tế. Với diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ và chứng khoán hiện nay, các chính sách của Chính phủ cần ưu tiên ổn định tiền tệ và phải đảm bảo đồng thời kích thích được TTCK và không làm đình trệ thị trường tiền tệ. Phản ứng của thị trường vừa qua cho thấy, Chính phủ không nên dựa quá nhiều vào chính sách tiền tệ (bằng cách sử dụng các liệu pháp quá mạnh thắt chặt tiền tệ) mà cần có sự phối hợp với các chính sách khác và có các giải pháp cẩn trọng phù hợp thực hiện đồng bộ. Việc đưa ra chính sách thắt chặt tiền tệ (như sửa đổi Quyết định 03 hay công cụ chính sách tiền tệ khác) cần đảm bảo sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách thuế cũng như đi kèm với các giải pháp thúc đẩy từ phía các DN (vi mô) nhằm đảm bảo thị trường không bị "sốc" mà vẫn đi lên ổn định. Một khó khăn khác đối với TTCK Việt Nam là việc Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục mạnh tay cắt giảm 0,5% lãi suất đồng USD, sẽ là một diễn biến mới. Nếu lãi suất đồng USD lại ở một mức quá thấp, có khả năng sẽ xảy ra tình trạng lạm phát đồng USD. Và như vậy, Việt Nam lại sẽ phải tiếp tục đối mặt với tình trạng dư thừa USD trong thời gian tới, tức lại phải tiếp tục đối mặt với khả năng lạm phát. Mà chống lạm phát thì lại phải chấp nhận khó cứu TTCK bởi đồng tiền nội tệ bị giới hạn lưu thông. TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 22 Một yếu tố cũng đã và có thể sẽ góp phần kéo chứng khoán đi xuống là sự nóng lên rất mạnh của thị trường bất động sản và giá vàng. Đây là 2 lựa chọn hấp dẫn của nhiều nhà đầu tư trong vài tháng qua. Hơn nữa, khi chính quyền Tổng thống Bush quyết định chi 150 tỷ để cứu nền kinh tế đồng thời Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (Fed) cắt giảm đến 0,75% lãi suất đồng USD, thị trường chứng khoán Mỹ đã có dấu hiệu tăng trưởng trở lại, và đó là điểm để nhà đầu tư Việt Nam lạc quan. Tuy nhiên mới đây, Fed tiếp tục mạnh tay cắt giảm 0,5% lãi suất đồng USD, sẽ là một diễn biến mới. Nếu lãi suất đồng USD lại ở một mức quá thấp, có khả năng sẽ xảy ra tình trạng lạm phát đồng USD. Và như vậy, Việt Nam lại sẽ phải tiếp tục đối mặt với tình trạng dư thừa USD trong thời gian tới, tức lại phải tiếp tục đối mặt với khả năng lạm phát. Mà chống lạm phát thì lại phải chấp nhận khó cứu TTCK bởi đồng tiền nội tệ bị giới hạn lưu thông. Việc Ngân hàng Nhà nước quyết định tăng lãi suất để thu đồng tiền về, trong khi dự trữ bắt buộc lại tăng lên, là một khó khăn cho TTCK bởi sắp tới đây sẽ giảm một lượng lớn tiền trong lưu thông. Sau phút đầu tiên phấn khởi, nhà đầu tư đã nhận ra rằng sắp tới đây họ sẽ càng bị khó khăn trong việc vay cầm cố chứng khoán để mua cổ phiếu. Việc sửa đổi chỉ thị 03 đã không những không mở ra mà còn đóng sập cánh cửa vay cầm cố chứng khoán trước mặt nhà đầu tư. Một lượng tiền rất lớn đã đổ vào vàng và đặc biệt là bất động sản. Năm 2007, lượng sản phẩm nhà đưa ra thị trường chưa nhiều, có nghĩa là đồng tiền vẫn tiếp tục đưa vào thị trường theo hợp đồng trả tiền từng giai đoạn. Còn theo các chuyên gia về lĩnh vực chứng khoán, với kinh nghiệm thế giới chu kỳ suy thoái 8 năm một lần thì 2008 sẽ chính là năm rơi vào chu kỳ này. Mặc dù TTCK Việt Nam chưa có thời gian dài để kiểm nghiệm và vì vậy chưa thể khẳng định TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 23 có đi ra ngoài quy luật chung hay không, nhưng đây cũng là thông tin để các nhà đầu tư kiểm nghiệm trong năm tới. IV. Giải pháp cho Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2008 Có thể nhận định, năm 2008 TTCK vẫn sẽ tiếp tục tăng trưởng bởi nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, song con đường đi lên vẫn chật vật. TTCK năm 2008 sẽ không phát triển như năm qua (không lên quá và cũng không xuống quá). Cũng có sự tác động một phần từ TTCK thế giới nhưng Việt Nam chưa hoàn toàn kết nối với kinh tế toàn cầu nên ảnh hưởng trực tiếp sẽ không nhiều. Năm nay, nền kinh tế Mỹ được dự báo vẫn tiếp tục xấu đi nếu các biện pháp của chính phủ nước này không đạt được kết quả tốt. Điều đó cũng sẽ tác động đến sự phát triển của TTCK ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Nhưng tác động mạnh nhất là những yếu tố bên trong của chúng ta. Thuế thu nhập chứng khoán nên xem xét có lộ trình phù hợp. Ví dụ thời gian đầu thu thấp sau đó sẽ tăng dần lên. Việc huy động vốn thông qua TTCK của doanh nghiệp phải được giám sát kỹ hơn. Đó là hiệu quả sử dụng nguồn vốn huy động như thế nào? Nếu vốn huy động mà không được đầu tư vào lĩnh vực chính của doanh nghiệp thì sự phát triển bền vững của nền kinh tế sẽ không đạt được. Một số thông tin nội gián vẫn còn nên bộ phận giám sát của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước phải được tăng cường để hoạt động chặt chẽ hơn. Hơn nữa, các mức xử phạt về hành vi vi phạm cũng cần được tăng lên. Bên cạnh đó, những chính sách ổn định tiền tệ, kiềm giữ lạm phát của NHNN là vấn đề cực kỳ quan trọng trong năm 2008 vì nó sẽ góp phần làm cho nhà đầu tư (NĐT) tin tưởng vào sự tăng trưởng của công ty niêm yết và TTCK. Bản thân các nhà đầu tư cá nhân cũng cần nâng cao kiến thức của mình về TTCK. Đừng nên mua bán theo tâm lý hay theo đám đông. Đồng thời, nhà đầu tư đừng đặt kỳ vọng làm giàu nhanh chóng từ TTCK vì điều đó dễ đem đến rủi ro trong quá trình đầu tư. TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 24 TTCK Việt Nam còn mới và nhỏ, vì thế vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng trong việc hỗ trợ, kiểm soát, và định hướng để thị trường phát triển lành mạnh và bền vững. Về mặt kiểm soát, trong năm qua, Chính phủ đã có một số biện pháp nhằm ngăn ngừa nguy cơ phát triển quá nóng của thị trường. Để hỗ trợ thị trường phát triển, một là Chính phủ có thể xem xét cho lùi thời hạn áp dụng thuế thu nhập cá nhân đối với lợi nhuận từ đầu tư chứng khoán và có lộ trình ưu đãi thuế. Đối với NĐT, ưu đãi thuế sẽ khuyến khích họ đầu tư vào thị trường vốn. Đối với doanh nghiệp, ưu đãi thuế gián tiếp giảm chi phí vốn, tăng hiệu quả, tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, và kích thích kinh tế nước nhà tăng trưởng. Kinh tế tăng trưởng thì nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp và các loại thuế khác nhờ đó sẽ bù đắp, thậm chí còn lớn hơn nhiều so với khoản thu tạm thời mất đi từ ưu đãi thuế thu nhập chứng khoán. Hai là vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, việc chọn thời điểm và xác định giá chào bán cổ phần ra công chúng thường được tính toán làm sao có lợi nhất cho doanh nghiệp hay cổ đông hiện tại. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp nhà nước, lợi ích của doanh nghiệp và mục tiêu phát triển kinh tế chung cần được cân đối. Để đạt được điều đó, Chính phủ cần quyết tâm thực hiện lộ trình cổ phần hóa đã vạch ra. Giá chào bán cổ phần ra công chúng cần được tính toán hợp lý hơn, căn cứ vào khả năng sinh lợi thực sự của doanh nghiệp, để khuyến khích người dân tham gia. Nguồn vốn nhàn rỗi trong dân nhờ đó sẽ được huy động tối đa vào phát triển kinh tế thay vì chảy vào những kênh khác kém hiệu quả, không có lợi cho phát triển kinh tế và xã hội. Quyết định 03 xiết chặt cho vay chứng khoán giúp tăng an toàn tín dụng có thể cần thiết nhưng lại thiếu các chính sách huy động vốn trong dân tham gia vào TTCK. Kết quả là ngân hàng bị "xiết" cho vay CK thì tăng cho vay bất động sản và tiêu dùng, khiến mức rủi ro tín dụng không giảm mà góp phần gây sốt bất động sản cũng như tăng giá cả hàng tiêu dùng. TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 25 Thuế thu nhập cá nhân chỉ luôn bảo vệ quan điểm điều tiết thu nhập mà quên vai trò đòn bẩy kinh tế. Do đó, không phân biệt tầm quan trọng khác nhau giữa TTCK (là thị trường vốn rất cần cho nền kinh tế đang tăng trưởng nóng) và thị trường bất động sản (là thị trường đầu tư s inh lời). Điều này làm chùn tay những người muốn tham gia TTCK. Việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước có nhiệm vụ quan trọng là chuyển đổi cơ chế sở hữu và quản lý sang công ty cổ phần còn việc bán để thu vốn cho ngân sách không nhất thiết phải thu ngay một lượng lớn. Do vậy, nếu việc IPO chỉ bán một phần nhỏ (dưới 10%) và lộ trình bán có thể kéo dài nhiều lần trong 3 - 5 năm thì nguồn cung cũng không tăng đột biến mà nhiệm vụ chuyển đổi doanh nghiệp cũng hoàn thành. Ngân hàng Nhà nước chưa dự báo tốt về nguồn ngoại tệ đổ vào TTCK và lúng túng trong mối quan hệ với lạm phát. Nếu có bước dự đoán trước thì NHNN có thể phát hành trái phiếu thu tiền đồng để mua USD của nhà đầu tư nước ngoài, điều này giúp nhà đầu tư có tiền để mua chứng khoán mà không tăng lượng cung tiền gây lạm phát... Từ đó có thể nói rằng, việc TTCK phát triển như thế nào là tùy thuộc vào các cơ quan hoạch định chính sách. Cơ quan quản lý là người điều phối thị trường, giữ nhịp cho thị trường phát triển nên các chính sách phải có sự ổn định. Phải giải quyết được những vướng mắc hiện nay để tạo dựng niềm tin nơi nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tâm lý nhà đầu tư đang cực thấp nên phải "tiêm" vào một "liều thuốc hồi sinh". Vấn đề quan trọng là khơi thông được nguồn tiền để đầu tư vào TTCK. TTCK phát triển mạnh lên thì nguồn vốn từ các nơi khác như bất động sản, vàng... sẽ tự động chảy về. Khi đó, thị trường bất động sản cũng sẽ tự lắng dịu mà không cần Nhà nước phải có những chính sách kiềm chế. Các thị trường như bình thông nhau nên sự điều tiết sẽ diễn ra tự nhiên hơn mà không cần cơ quan quản lý nhà nước phải can thiệp quá sâu. Quy mô TTCK Việt Nam vẫn còn nhỏ thì việc cổ phần hóa các doanh nghiệp lớn, đưa các công ty này lên sàn sẽ tạo nên một thị trường lớn hơn. Khi TTCK có đủ TTCK quốc tế và những tác động đến TTCK Việt Nam Nhóm 12 lớp ngân hàng đêm 2 K16 26 độ lớn, đủ tính thanh khoản thì các quỹ đầu tư nước ngoài sẽ đưa vào danh mục đầu tư của mình theo nguyên tắc phân chia rủi ro theo địa lý, ngành nghề... Tất nhiên việc định giá khi bán cổ phần phải được tính toán hợp lý chứ không nên đưa giá bán lên quá cao sẽ là "lợi bất cập hại". Lộ trình thực hiện cũng phải được xem xét kỹ hơn để thị trường không có phản ứng tiêu cực với điều đó.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfttck_quoc_te_va_tac_dong_den_vn_7544.pdf
Luận văn liên quan