Tiểu luận Thị trường vốn cổ phần của các công ty chưa niêm yết

Một trong những lý do quan trọng của việc gia tăng vào đầu tư ở các doanh nghiệp chưa niêm yết vào thập niên 1980 là vì hoạt động đầu tư này m ang đến doanh thu cao hơn so với đầu tư vào thị trường chứ ng khoán hay trái phiếu. Các k hoản đầu tư vào các công ty chưa niêm y ết thông thường là trung và dài hạn, vì thế thu nhập một năm được xe m là kh ông hợp lý khi dùng để đánh giá thành quả do tính biến đông trong thu nhập. Hoạt động đầu tư và o các công ty chư a n iêm y ết cho một kết quả doanh t hu cao vào những năm trước khi có cuộc khũng hoảng tín dụng. Một s ự sụt giảm đã xuất hiện ngay khi cuộc khủng hoảng diễn ra. Lĩnh vực đầu tư vốn cổ phần vào cộng ty chưa niêm yết tại Anh xem như dần trở lại kể từ năm 2010. Tổn g doanh thu hàng năm vào năm 2011, theo nghiên cứu của the BVCA là 1.5%. Giá trị này thấp hơn đầu tư vào tài sản của Quỹ hưu trí (3,6%) nhưng cao hơn s o với chỉ số FTSE All-Share Index (chỉ số này đã giảm 3,5% trong năm). (Biểu 16)

pdf21 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2380 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thị trường vốn cổ phần của các công ty chưa niêm yết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VỐN CP CHƯA NIÊM YẾT TS. HỒ VIẾT TIẾN Trang 1 Tiểu luận THỊ TRƯỜNG VỐN CỔ PHẦN CỦA CÁC CÔNG TY CHƯA NIÊM YẾT VỐN CP CHƯA NIÊM YẾT TS. HỒ VIẾT TIẾN Trang 2 LỜI MỞ ĐẦU Hoạt động của thị trường vốn cổ phần chưa niêm yết có dấu hiệu suy sụp trên phạm vi toàn cầu kể từ khi nền kinh tế bắt đầu tuột dốc. Tuy nhiên ngành công nghiệp này đang dần hồi phục và vẫn là nguồn vốn quan trọng cho các công ty mới thành lập còn non trẻ hay các công ty đang gặp khó khăn về tài chính đang tìm kiếm người mua lại. Anh được xem như là quốc gia áp dụng hình thức góp vốn cổ phần chưa niêm yết rộng rãi và phát triển nhất tại khu vực Châu Âu, xét trên phạm vi thế giới thì đứng thứ hai chỉ sau Mỹ. Cùng với New York, London là một trong hai trung tâm quốc tế dẫn đầu về việc quản lý đầu tư vốn cổ phần. Theo đánh giá của TheCityUK đã có 246 tỷ đô vốn được đầu tư vào các công ty chưa niêm yết trên toàn thế giới vào năm 2011, giảm 6% so với năm ngoái và chỉ bằng khoảng 2/3 so với giai đoạn cao điểm vào năm 2006 và 2007. Tuy nhiên các hoạt động đầu tư đã ít hơn bởi những quan ngại về kinh tế toàn cầu và khủng hoảng nợ công tại Châu Âu. Tình hình tiếp tục trì trệ khi tiến vào năm 2012, TheCityUK ước tính rằng chỉ khoảng 93 tỷ đô được đầu tư trong 6 tháng đầu năm nay. Việc mua lại vốn cổ phần các công ty chưa niêm yết chỉ chiếm 6.9% số lượng nghiệp vụ mua bán và sát nhập (M&A) năm 2011 và 5.9% trong nửa đầu năm 2012. Tỉ lệ này đã giảm sút rất nhiều so với giai đoạn cao điểm năm 2006 đạt đến 21%. Tổng số tiền từ hoạt động thoái vốn đạt 252 tỷ đô trong năm 2011, hầu như không có nhiều sự thay đổi kể từ năm trước, nhưng nó đã gia tăng so với giai VỐN CP CHƯA NIÊM YẾT TS. HỒ VIẾT TIẾN Trang 3 đoạn 2008-2009. Tuy nhiên hoạt động thoái vốn cũng đã giảm dần khi mà nó đạt đến đỉnh là 113 tỷ đô vào quý 2 năm 2011. TheCityUK ước tính giá trị thoái vốn sẽ đạt vào khoảng 100 tỷ đô vào nửa đầu năm 2012. Tình hình gia tăng vốn tương đối ổn định cho đến năm 2011 với nguồn vốn mới gia tăng đạt 270 tỷ đô vào năm 2011, giảm nhẹ s o với tổng của năm trước. Khoảng 130 tỷ đô vốn mới cũng đã tăng lên trong nửa đầu năm 2012, giảm tầm 1/5 so với nửa năm đầu 2011. Nguồn vốn khả dụng của các quỹ sở hữu vốn cổ phần chưa niêm yết (còn được gọi là “dry powder”) đạt khoảng 949 tỷ đô cho đến thời điểm cuối quý 1/2012, giảm khoảng 6% so với năm trước. VỐN CP CHƯA NIÊM YẾT TS. HỒ VIẾT TIẾN Trang 4 PHẦN 1 : MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ ĐẦU TƯ VỐN CỔ PHẦN CHƯA NIÊM YẾT 1. Khái niệm về đầu tư PE Private Equity (Đầu tư vào công ty chưa niêm yết bằng hình thức góp vốn tư nhân) được định nghĩa theo nhiều cách và thay đổi theo từng quốc gia. Tuy nhiên, theo cách phổ biến nhất người ta vẫn xem xét Private Equity như một loại tài sản bao gồm các phần vốn góp vào các doanh nghiệp chưa niêm yết trong khoảng thời gian trung hạn hoặc dài hạn đề g iúp doanh nghiệp đó phát triển và thành đạt. Một số nhà đầu tư lại cho rằng Private Equity chỉ là đầu tư bằng việc mua lại cổ phần công ty, một số khác thì cho rằng Private Equity bao gồm tất cả các loại như mua lại bằng vốn vay nợ (LBO), đầu tư vốn mạo hiểm (Venture Capital), vốn phát triển (Growth Capital). Ở Anh, Private Equity ra đời vào giai đoạn cuối thế kỷ 18 với sự có mặt ban đầu của một số nhà đầu tư tư nhân lành mạnh, họ góp vốn vào các dự án đầu tư giúp chúng trở nên thành công. Vào những năm 70 – 80 của thế kỷ trước, Private Equity trở thành một ngành công nghiệp với sự ra đời của hàng loạt các công ty Private Equity. Khoảng hơn 80% các công ty này đang nằm ở Anh, hàng năm cung cấp hàng tỉ Bảng Anh cho các doanh nghiệp chưa niêm yết. Để đơn giản hóa, có thể hiểu Private Equity là một công cụ hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp, thuộc phần vốn chủ sở hữu, do một nhà đầu tư (phần lớn trong các trường hợp là một định chế tài chính) mua tạm thời một phần vốn của doanh nghiệp (đóng vai trò như một chủ sở hữu tạm thời). Các doanh nghiệp này thường là các doanh nghiệp chưa niêm yết, có tiềm năng lớn, năng động trong cách ngành có nhiều hứa hẹn với mục đích là kiếm lời bằng việc tham gia vào vốn của doanh nghiệp trong khoảng thời gian trung và dài hạn. Ưu điểm của loại hình huy động vốn này là thông thường các chủ doanh nghiệp không phải lo đến việc mất quyền làm chủ của mình (mặc dù tham gia vào vốn chủ và đứng vai trò như một chủ sở hữu doanh nghiệp nhưng chỉ trong một thời gian và trong hợp đồng giữa chủ doanh nghiệp và nhà đầu tư này, các chủ doanh nghiệp có quyền đặt ra các giới hạn về quyền lực trong doanh nghiệp), chi phí ban đầu không quá cao, không yêu cầu trả theo kỳ hạn và quy mô thông thường là đủ mức độ lớn theo nhu cầu của doanh nghiệp, đặc biệt là ổn định giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn về vốn cho các dự án đang chuẩn bị bắt đầu thực hiện hoặc các dự án tương lai. Ngoài ra doanh nghiệp còn có thể tận dụng sự hỗ trợ về các mặt khác của bên góp vốn như quản lý, kế toán, công nghệ mới. Đây có thể coi như là một công cụ tài chính huy động vốn “phái sinh” mà nhược điểm của nó là không phải nó sẵn sàng tham gia vào tất cả các doanh nghiệp, đặt ra VỐN CP CHƯA NIÊM YẾT TS. HỒ VIẾT TIẾN Trang 5 các điều kiện có thể không có lợi cho doanh nghiệp hoặc kinh nghiệm tham g ia vào các doanh nghiệp khác không thành công trong quá khứ có thể làm ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. 2. Các chiến lược trong hoạt động đầu tư PE 2.1 Đầu tư: Đầu tư Private Equity là hình thức huy động vốn của các doanh nghiệp thông qua phương thức đầu tư mạo hiểm, các thương vụ mua lại và các hình thức huy động vốn khác. Đầu tư mạo hiểm : là việc đầu tư vào các công ty chưa phát triển hoặc đang trong quá trình phát triển. Hình thức đầu tư này có thể được phân loại thành:  Giai đoạn hạt giống: Là giai đoạn tài trợ vốn cho việc nghiên cứu, tiếp cận và phát triển một sản phẩm ban đầu trước khi một doanh nghiệp đạt đến giai đoạn khởi động.  Giai đoạn khởi tạo(tài trợ vốn mồi/ ươm mầm): Tài trợ vốn cho việc phát triển sản phẩm và tiếp thị ban đầu.  Giai đoạn mở rộng: Tài trợ vốn nhằm mục đ ích tăng trưởng và mở rộng hoạt động của công ty. Tuy nhiên việc tài trợ vốn này có thể s ẽ chưa mang lại lợi nhuận cho công ty.  Thay thế vốn: Mua lại cổ phần của các nhà đầu tư khác hoặc thông qua việc tái cấp vốn bằng việc vay nợ để giảm tỷ trọng vốn của các cổ đông này. Các Quỹ mua lại: nhằm mục đích mua lại cổ phần các công ty và nâng cao giá trị công ty đó. Mục tiêu là nhắm đến mua lại một phần đáng kể hoặc kiểm soát phần lớn các doanh nghiệp, theo đó thường đòi hỏi một sự thay đổi trong quyền sở hữu. Đây thường là những sự đầu tư vào các công ty lớn hơn. Trường hợp đặc biệt: bao gồm một loạt các khoản đầu tư nợ xấu, cổ phiếu chuyển đổi, tài trợ dự án và cho thuê tài chính. Thể loại này bao gồm việc đầu tư vào khoản nợ thứ cấp (nợ có thứ tự thanh toán thứ yếu), thường thấy như là việc đầu tư vào cổ phần ưu đãi. 2.2 Huy động thêm vốn : Chiến lược này đề cập đến số tiền nhà đầu tư đã cam kết sẽ tài trợ cho các quỹ sở hữu cổ phần công ty chưa niêm yết trong một năm bất kỳ. 2.3 Thoái vốn: Chiến lược này là sự rút vốn ra khỏi một thương vụ đầu tư. Chiến thuật thoái vốn mang tính quyết định trong việc đầu tư vốn mạo hiểm. Những hình thức chính của VỐN CP CHƯA NIÊM YẾT TS. HỒ VIẾT TIẾN Trang 6 thoái vốn: bán đứt doanh nghiệp, phá sản doanh nghiệp hoặc đưa công ty ra thị trường chứng khoán. Sơ đồ cơ bản về một nghiệp vụ mua lại bằng vốn vay nợ (leveraged buyout transaction) Ví dụ: Một quỹ đầu tư vốn cổ phần chưa niêm yết (ABC Capital II) sử dụng 2 tỷ đô từ nguồn vốn của mình (nguồn vốn đến từ phần vốn góp các thành viên của quỹ hay từ các định chế tài chính như quỹ hưu tr í và các cá nhân giàu có), đồng thời vay thêm 9 tỷ đô từ ngân hàng (hoặc từ những người cho vay khác). Với 11 tỷ đô đang có,quỹ đầu tư mua toàn bộ cổ phần của một công ty hoạt động kém hiệu quả (công ty B). Sau khi nắm quyền quản lý ABC Capital II tiến hành một loạt những thay thế (như cách giảm nhân sự, bán đi các máy móc cũ kỹ, thay đổi lãnh đạo…) cũng như đưa ra các chính sách mục tiêu nhằm sắp xếp và hồi phục lại công ty B. Tất cả các hoạt động này chỉ nhằm mục tiêu là gia tăng giá trị công ty B trong thời gian nhanh nhất. Sau hai năm công ty B được bán đi với mức giá 13 tỷ đô, quỹ đầu tư đã kiếm được doanh thu 2 tỷ đô từ nghiệp vụ này. Và sau khi thanh toán hết phần tiền lãi vay do vay nợ đầu tư ban đầu (giả sử lãi vay này là 0.5 tỷ đô) thì ABC Capital II vẫn còn lợi nhuận 1,5 tỷ đô. Số tiền lời này sẽ được chia đều cho các thành viên góp vốn vào quỹ. VỐN CP CHƯA NIÊM YẾT TS. HỒ VIẾT TIẾN Trang 7 PHẦN 2: TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CỦA HOẠT ĐỘNG PE TRÊN TOÀN CẦU VÀ TẠI ANH 1. Xu hướng toàn cầu 1.1 Tình hình đầu tư các thương vụ PE Theo ước tính của TheCityUk, 246 tỷ đô vốn đã được đầu tư vào các công ty chưa niêm yết trên toàn cầu trong năm 2011, giảm 6% so với năm trước và khoảng 2/3 so với đỉnh điểm trong khoảng năm 2006 và 2007 (biểu đồ 1). Từ sau sự khỏi đầu mạnh mẽ, hoạt động đầu tư đã giảm tốc lại trong nửa cuối năm 2011 do những lo ngại về nền kinh tế toàn cầu và cuộc khủng hoảng nợ quốc gia châu Âu. The CityUk ước tính rằng có 93 tỷ đô đã được đầu tư trong nửa đầu năm nay, và tiếp tục suy giảm đến hết năm 2012. Số lượng này giảm 1/4 so với cùng kỳ năm trước. Bất kỳ sự phục hồi trong nửa cuối của năm 2012 phần lớn sẽ phụ thuộc vào các yếu tố như ổn định tình hình nợ công ở châu Âu và việc phục hồi tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Các vụ mua bán trong mảng cổ phần của các công ty chưa niêm yết đạt khoảng 6.9% khối lượng nghiệp vụ M&A toàn cầu trong năm 2011 và 5.9% trong nửa đầu năm 2012. Chỉ số này giảm 7.4% trong năm 2010 và thấp hơn mức cao nhất là 21% trong năm 2006. Các thị trường nợ thuận lợi trong nửa đầu năm 2011 đã làm cho các quỹ sở hữu cổ phần chưa niêm yết có thể bảo đảm tài chính trên nhiều điều khoản thuận lợi hơn trước đó. Trái phiếu có lợi tức cao và các khoản vay nợ để đầu tư đạt mức độ cao nhất kể từ khi bắt đầu của suy thoái kinh tế trong nửa đầu 2011 (Biểu đồ 2). VỐN CP CHƯA NIÊM YẾT TS. HỒ VIẾT TIẾN Trang 8 Tuy nhiên, việc thắt chặt các khoản nợ trong khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (euro) đã góp phần vào sự gia tăng chi phí của nợ. Đòn bẩy tài chính toàn cầu trong nửa đầu năm 2012 ở mức 692 tỷ đô thấp hơn 23% cùng kỳ năm trước. Các gói cứu trợ đã được đưa ra từ khi suy thoái kinh tế bắt đầu. Tỉ lệ giữa mua lại bằng vốn góp và mua lại bằng tài trợ nợ đã tăng từ 1/3 đến hơn 1/2 trong giai đoạn năm 2007 và 2009, trước khi giảm lại còn 42% vào năm 2011. Giá doanh nghiệp đã tăng lên trong suốt năm 2011, với giá mua tăng nhiều lần cho năm thứ hai liên tiếp lên đến mức 8,4 lần so với EBITDA, tăng từ 8,1 lần vào năm 2010 (Biểu đồ 3) VỐN CP CHƯA NIÊM YẾT TS. HỒ VIẾT TIẾN Trang 9 Các phương thức tài trợ: Việc đầu tư vào cổ phần chưa niêm yết có thể được phân loại theo các phương thức, bao gồm: vốn đầu tư mạo hiểm; việc mua lại và phương thức đặc biệt khác. Việc mua lại thường chiếm số lượng lớn các khoản đầu tư theo giá trị do kích thước lớn hơn đáng kể của những giao dịch như vậy so với các khoản đầu tư khác. Tài khoản đầu tư mạo hiểm chiếm phần lớn các khoản đầu tư theo số lượng. Việc mua lại cổ phần đạt 78% tổng vốn đầu tư PE năm 2011 (biểu đồ 4), thực tế không thay đổi so với năm trước nhưng lại giảm hơn 90% trong năm trước khủng hoảng. Việc mua lại trong những năm gần đây đã được tập trung ở khu vực thị trường cỡ vừa với giá trị từ 500 triệu đô đến 5 tỷ đô. Đầu tư vốn mạo hiểm toàn cầu đạt khoảng $ 55 tỷ trong năm 2011, tăng nhẹ so với năm trước nhưng giảm 474 tỷ so với đỉnh cao trong năm 2008 (biểu đồ 5) VỐN CP CHƯA NIÊM YẾT TS. HỒ VIẾT TIẾN Trang 10 1.2 Tình hình các giao dị ch PE trên thị trường 1.2.1 Thị trường thứ cấp: Suy thoái kinh tế gần đây đã đưa ra một thúc đẩy thị trường thứ cấp cho các giao dịch vốn cổ phần chưa niêm yết, nơi h iện các cổ phần được mua và bán giữa các công ty. Trên 50 tỷ đô vốn đã được nâng lên trong hơn ba năm qua trên thị trường này, theo sự kỳ vọng của nhà đầu tư về một thị trường thứ cấp mạnh mẽ như là một kết quả của sự suy thoái kinh tế (biểu đồ 6). Tuy nhiên, các ghi nhận về việc tăng nguồn quỹ thông qua các giao dịch trên thị trường thứ cấp chỉ đạt trong mức 49 tỷ đô trong hai năm 2010 và 2011. Điều này một phần là kết quả của một thị trường thứ cấp với tính thanh khoản thấp. Trước đó, những người bán tiềm năng không muốn xử lý tài sản của họ ở mức thấp hơn giá mà họ đã VỐN CP CHƯA NIÊM YẾT TS. HỒ VIẾT TIẾN Trang 11 mua. Ngân hàng và các công ty bảo hiểm cũng chịu trách nhiệm một phần cho sự gia tăng trong hoạt động giao dịch mua bán do cần miễn phí vốn thực hiện theo quy định mới của Basel 3 và Solency 2 ở Châu Âu, và quy tắc Volcker ở Mỹ. Dự báo rằng các hoạt động giao dịch tại thị trường thứ cấp có khả năng tiếp tục mạnh mẽ trong năm 2012. 1.2.2 Các cuộc giao dịch lớn nhất Các giao dịch lớn nhất công bố trên toàn cầu trong năm 2011 bao gồm 9.0 tỷ đô mua lại Centro Group Properties của BlackGroup, 6.3 tỷ đô mua lại Kinetic Concepts Inc bởi Apax Partners . Tuy nhiên, các giá trị giao dịch đã nhỏ hơn nhiều so với một số vụ mua lại lớn trong những năm trước đó (Bảng 2). Kể từ khi nền kinh tế sa sút, các nhà quản lý hoạt động mua lại công ty phải phân bổ nguồn vốn sao cho hợp lý để ngăn ngừa nợ rủi ro, nguy cơ phá sản cũng như đầu tư vào các công ty chưa niêm yết, thị trường mới nổi và các định chế tài chính. Tuy nhiên, các thương vụ lớn hơn đang bắt đầu cho thấy dấu hiệu trở lại của thị trường. Một hiệp hội của các nhà đầu tư dẫn đầu bởi Apollo Global Management đã giành được quyền mua các tài sản khai thác, sản xuất dầu và khí đốt tự nhiên của El Paso Corp vào tháng Hai năm nay với mức giá 7.2 tỷ đô. Gần đây hơn, vào 06/2012, công ty cổ phần tư nhân KKR bán 45% cổ phần của hãng công ty dược phẩm lớn nhất Châu Âu Alliance Boosts cho công ty Mỹ Wagreens với mức giá khởi điểm là 6.7 tỷ đô. 1.2.3 Sự suy giảm theo khu vực Một phân tích về sự suy giảm theo khu vực của hoạt động đầu tư vào công ty chưa VỐN CP CHƯA NIÊM YẾT TS. HỒ VIẾT TIẾN Trang 12 niêm yết cho thấy rằng trong năm 2011, Bắc Mỹ chiếm một nửa số đầu tư này (Biểu đồ 7), đánh dấu một sự giảm nhẹ trong thập kỷ qua. Phần đầu tư vào khu vực châu Âu tăng 3% trong suốt thời gian này, lên mức 33%. Mặc dù việc đầu tư có giảm ở hầu hết các khu vực trong những năm gần đây, tuy nhiên ta cũng nhận thấy rằng đã có một sự gia tăng trong tầm quan trọng của khu vực châu Á-Thái Bình Dương và các thị trường mới nổi, đặc biệt là Trung Quốc, Singapo, Hàn Quốc, Brazil và Ấn Độ. Điều này một phần là do tác động với mức độ nhỏ hơn của cuộc khủng hoảng kinh tế ở các nước này và triển vọng khả quan hơn trong tăng trưởng kinh tế. Thị trường cổ phần chưa niêm yết của Anh là thị trường phát triển nhất bên ngoài nước Mỹ và là thị trường lớn nhất châu Âu. Các Quỹ đầu tư vào công ty chưa niêm yết có trụ sở tại Vương quốc Anh chiếm đến 11% các khoản đầu tư toàn cầu và 9% của các quỹ huy động trong năm 2011. Các trung tâm lớn khác ở châu Âu bao gồm Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Hà Lan và Tây Ban Nha (Bảng 3). New York và London là những địa điểm hàng đầu cho các công ty chưa niêm yết. Trong số 50 công ty đầu tư vốn cổ phần chưa niêm yết lớn nhất thì đã có tới 12 công ty có trụ sở ở NewYork và tới 6 công ty có trụ sở ở Luân Đôn. Các công ty có trụ sở ở NewYork chiếm đến 35% các quỹ huy động được trong khoảng thời gian 5 năm (tính đến năm 2011). Các công ty ở Luân Đôn chiếm 11% (Bảng 8). 1.3 Nguồn vốn tài trợ 1.3.1 Huy động mới Môi trường gây quỹ ổn định cho năm thứ ba với khoảng 270 tỷ đô trong các quỹ mới được huy động vào năm 2011, giảm nhẹ về mức độ của năm trước. Mức gia tăng VỐN CP CHƯA NIÊM YẾT TS. HỒ VIẾT TIẾN Trang 13 này thấp hơn một nửa so với mức huy động hàng năm trong năm 2007 và 2008. Khoảng 68% các quỹ đóng cửa trong năm 2011 được dự kiến sẽ được phân bổ cho các vụ mua lại. TheCityUK ước tính rằng trong nửa đầu năm 2012 sẽ có 130 tỷ bảng được huy động, giảm 1/5 so với nửa đầu năm 2011. Thời gian trung bình cho các quỹ đóng cửa đã giảm từ 18,5 tháng trong năm 2011 (Bảng 11) xuống còn 16,7 tháng trong nửa đầu năm 2012. Trước khi xảy ra suy thoái kinh tế, thị trường chứng kiến một sự cạnh tranh khốc liệt trong lĩnh vực đầu tư vốn cổ phần chưa niêm yết. Trong suốt ba năm tính đến năm 2009, ta nhận thấy một s ố lượng lớn chưa từng có các hoạt động đầu tư, theo đó hơn 1.4 nghìn tỷ đô đã được huy động. Các công ty đầu tư trong hầu hết các trường hợp, vẫn giữ vững vị thế dẫn đầu của họ kể từ thời điểm bắt đầu của suy thoái kinh tế (Bảng 4). VỐN CP CHƯA NIÊM YẾT TS. HỒ VIẾT TIẾN Trang 14 Công ty có mức huy động vốn lớn nhất từ năm 2006 đến năm 2011 là TPG, theo sau là Khu vực đầu tư chính của Goldman Sachs và Tập đoàn Carlyle. 1.3.2 Các quỹ có sẵn Các nguồn vốn có sẵn dành để đầu tư Các quỹ đầu tư có sẵn khoảng 949 tỷ đô để đầu tư vào cuối Q1-2012, giảm khoảng 6% so với năm trước đó (Biểu đồ 10). Hơn một nửa nguồn vốn sẵn có cho đầu tư được quản lý ở Mỹ, 26% ở châu Âu và phần lớn trong 20% còn lại ở Châu Á. Nếu tính luôn phần quỹ mà các công ty chưa niêm yết còn đang nắm giữ, lượng vốn mà các quỹ đầu tư quản lý có thể vượt quá con số 2,0 nghìn tỷ USD. VỐN CP CHƯA NIÊM YẾT TS. HỒ VIẾT TIẾN Trang 15 Những thay đổi trong quy chế tài chính có thể đặt ra các yêu cầu mới cho các công ty đầu tư chưa niêm yết. Tại Mỹ, các nhà lập pháp đã thông qua một dự luật cải cách tài chính vào 07/2010. Theo đó, các quỹ đầu tư với giá trị tài sản hơn 150 tỷ đô phải thực hiện việc đăng ký với Ủy ban Chứng khoán và Hối đoái. Ở Châu Âu, Chỉ thị về các nhà quản lý Quỹ thay thế sẽ mang lại một số thay đổi bao gồm các yêu cầu về công bố thông tin mới, các tiêu chuẩn quản trị được đ iều chỉnh hài hòa, và các giới hạn về đòn bẩy. 1.4 Tình hình thoái vốn của các thương vụ PE Công ty đầu tư vốn cổ phần chưa niêm yết thực hiện việc mua các công ty để bán chúng và thu lại lợi nhuận trong giai đoạn sau. Hoạt động thoái vốn đạt tổng cộng 252 tỷ đô trên phạm vi toàn cầu trong năm 2011. Con số này thực tế không thay đổi so với năm trước, nhưng vẫn còn có xu hướng tăng lên trong năm 2008 và 2009 khi mà các công ty cổ phần chưa niêm yết trông chờ vào việc tận dụng lợi thế từ việc các điều kiện thị trường được cải thiện vào đầu năm 2011. Hoạt động thoái vốn tuy nhiên đã bị mất đà sau khi đạt tới điểm cao nhất là 113 tỷ bảng trong quý thứ hai của 2011 (Biểu đồ 12). TheCityUK ước t ính hoạt động thoái vốn sẽ đạt khoảng 100 tỷ USD trong nửa đầu của 2012, giảm so với cùng kỳ năm trước. VỐN CP CHƯA NIÊM YẾT TS. HỒ VIẾT TIẾN Trang 16 2. XU HƯỚNG Ở ANH: Anh Quốc là trung t âm lớn nhất Châu Âu về việc quản lý đầu tư vốn cổ phần ch ưa niêm yết và quỹ công trái nhà nước (Bảng 3). Các công ty ở Anh thu hút tỷ lệ lớn nhất Châu Âu về đầu tư vốn cổ phần chưa niêm yết tro ng những năm gần đây. Có nhiều yếu tố tạo nên sự hấp dẫn của thị trường Anh với tư cách là một trung tâm của hoạt động đầu tư như quỹ đầu tư đa dạng, nhiều cơ hội đầu tư, con người với các kỹ năng cần thiết để quản lý nguồn lực, thương lượng, cơ cấu và quản lý đầu tư và một thị trường rộng lớn có tính thanh khoản cao. VỐN CP CHƯA NIÊM YẾT TS. HỒ VIẾT TIẾN Trang 17 2.1 Tình hình đầu tư các thương vụ PE: Xu hướng đầu tư toàn cầu của các công ty ở Anh phần lớn đi sánh đô i cùng xu hướng chung của toàn cầu, tổng cộng 18.6 tỷ bảng Anh đã được đầu tư vào năm 2011 theo British Venture Capital Association’s (BVCA) khảo sát từ các thành viên (Biểu đồ 13). Điều này đã g iảm 9% so với năm trước và 40% so với mức cao điểm vào năm 2007. Các khoản đầu tư được thực hiện vào 1,048 công ty, tạo việc làm cho khoảng 300.000 người, trong đó 130.000 lao động ở Anh. Về dài hạn, trong hai thập kỷ qua, ngành công nghiệp đầu tư vào vốn cổ phần chưa niêm yết của Anh đã góp vốn gần 200 tỷ bảng Anh vào khoảng 28.000 công ty trên toàn thế giới. Trong giai đoạn đầu trong năm số lượng đầu tư tăng 2% nhưng đã giảm 4% nếu xét về mặt giá trị của nó. Việc mua lại cũng giảm từ 16.5 tỷ bảng (2010) còn lại 14.5 tỷ bảng vào năm 2011. Ngược lại, vốn góp vào quỹ tăng 5% đạt đến giá trị 3.7 tỷ bảng. Theo thống kê từ Centre for Management Buyout Research cho thấy năm 2012 đã bắt đầu khá tốt với các thương vụ mua lại trị giá 8.0 tỷ bảng được ghi nhận trong VỐN CP CHƯA NIÊM YẾT TS. HỒ VIẾT TIẾN Trang 18 sáu tháng đầu năm, cho thấy có một sự gia t ăng 38% so với nửa cuối năm 2011 và tăng 16% so với cùng kỳ năm trước. Ngành hàng Công nghệ cao, hàng tiêu dùng, thông tin và lĩnh vực dịch vụ đã thu hút một tỷ lệ lớn các khoản đầu tư cổ phần trong thập kỷ qua. Các dịch vụ tiêu dùng giảm từ 30% trong năm 2010 chỉ còn chiếm khoảng 23% tổng đầu tư trong năm 2011.Dịch vụ tài chính, công nghiệp và kỹ thuật theo sau với mỗi khoản chiếm tầm 15% của tổng số. Ngành công nghiệp đầu tư vào vốn cổ phần chưa niêm yết của Anh đã trở nên toàn cầu hóa trong suốt thập kỷ qua. Trong năm 2011, các công ty của Anh đã đầu tư gần 2/3 nguồn vốn của họ vào các doanh nghiệp nằm ở nước ngoài. Khoảng 75% trong đó được đầu tư vào các nước châu Âu, và hầu hết phần còn lại ở Mỹ. Ảnh hưởng của các công ty Anh ở nước ngoài là đáng kể, bất kể là đầu tư trực tiếp từ các công ty ở Anh hay thông qua các văn phòng đại điện của họ ở nước ngoài. Sự sụt giảm khu vực từ hoạt động đầu tư ở Anh chỉ ra rằng đầu tư vào các công ty nằm ở Luân Đôn đạt khoảng 2.9 tỷ bảng trong năm 2011, giảm 16% so với năm trước, nhưng gần gấp đôi số tiền đầu tư hai năm trước đó. London chiếm 44% các khoản đầu tư của Anh, tăng từ 42% của năm trước. Phân bổ các khoản đầu tư ở khu vực Tây Nam tăng lên từ 14% lên 17% so với năm trước. London có xu hướng thu hút đầu tư lớn hơn như được chỉ ra bởi cổ phiếu của nó nhỏ hơn, 26% số lượng các khoản đầu tư Vương quốc Anh. Các khu vực khác cho thấy sự gia tăng trong phân bổ đầu tư của Anh theo giá trị trong năm 2011 bao gồm Tây Bắc, Scotland, Đông Anh, miền trung du phía đông nước Anh và xứ Wales (Bảng 6). VỐN CP CHƯA NIÊM YẾT TS. HỒ VIẾT TIẾN Trang 19 2.2 Tình hình hoạt động các quỹ PE: Vốn góp quỹ t ăng thêm ở Anh đạt 4.5 tỷ bảng trong năm 2011, giảm so với con số 6.6 tỷ bảng trong năm trước nhưng tăng từ 3.0 tỷ bảng trong năm 2009 (Biểu đồ 13). Quỹ hưu trí và quỹ công trái chiếm khoảng 1/4 trong tổng số (Biểu đồ 14). Chính phủ góp 9%, tiếp theo là cá nhân 7%. Phần vốn góp của ngân hàng cổ phần đã giảm từ 11% còn 4% trong năm. Các quỹ góp vốn đầu tư vào công ty chưa niêm yết ở Anh hiện đang trở lại khoảng 3.800 công ty, sử dụng khoảng 1,2 triệu người trên toàn thế giới. Trong đó khoảng 515.000 người đang làm v iệc ở Anh. VỐN CP CHƯA NIÊM YẾT TS. HỒ VIẾT TIẾN Trang 20 Các nhà đầu tư nước ngoài tạo ra 69% vốn huy động trong năm 2011, cao hơn tỷ lệ đóng góp 56% trong năm trước. Nguồn vốn gia tăng có những dấu hiệu chững lại so với ba năm trước đây, đây là kết quả của việc tích lũy nguồn vốn tại các quỹ đầu tư tại thời gian trước khi xảy ra khủng hoảng chứ không phải chỉ là kết quả của sự suy thoái của nền kinh tế. Trong tổng số vốn tăng lên ở Anh năm 2010, 79% vốn được đầu tư trong các vụ mua lại, giảm từ 88% so với năm trước. Hầu hết các phần còn lại được giao cho liên doanh vốn đầu tư. 2.3 Tình hình thoái vốn của các thương vụ PE: Kết thúc dữ liệu từ Anh Quốc cho thấy trong năm 2011 thoái vốn đạt 11.9 tỷ bảng Anh (Biểu đồ 15), từ 9.7 tỷ bảng trong năm trước đó. Chiếm tỷ lệ lớn nhất thoái vốn đến từ write-offs (28% của tổng số), bán công ty (22%), và bán cho công ty đầu tư cổ phần chưa niêm yết khác (19%). VỐN CP CHƯA NIÊM YẾT TS. HỒ VIẾT TIẾN Trang 21 KẾT LUẬN Một trong những lý do quan trọng của việc gia tăng vào đầu tư ở các doanh nghiệp chưa niêm yết vào thập niên 1980 là vì hoạt động đầu tư này mang đến doanh thu cao hơn so với đầu tư vào thị trường chứng khoán hay trái phiếu. Các k hoản đầu tư vào các công ty chưa niêm y ết thông thường là trung và dài hạn, vì thế thu nhập một năm được xem là không hợp lý khi dùng để đánh giá thành quả do tính biến đông trong thu nhập. Hoạt động đầu tư vào các công ty chưa n iêm y ết cho một kết quả doanh t hu cao vào những năm trước khi có cuộc khũng hoảng tín dụng. Một sự sụt giảm đã xuất hiện ngay khi cuộc khủng hoảng diễn ra. Lĩnh vực đầu tư vốn cổ phần vào cộng ty chưa niêm yết tại Anh xem như dần trở lại kể từ năm 2010. Tổng doanh thu hàng năm vào năm 2011, theo nghiên cứu của the BVCA là 1.5%. Giá trị này thấp hơn đầu tư vào tài sản của Quỹ hưu trí (3,6%) nhưng cao hơn so với chỉ số FTSE All-Share Index (chỉ số này đã giảm 3,5% trong năm). (Biểu 16) Doan h thu từ các khoản đầu tư vào các công ty chưa niêm y ết trong dài hạn tương đối ổn định. Thu nhập ròng từ hoạt động đầu tư này tại Anh vào cuối năm 2011 đạt vào khoảng 8.6% (kỳ hạn 3 năm); 8.0% (kỳ hạn 5 năm) và 14.3% (kỳ hạn 10 năm). Kể cả trung hạn và dài hạn đều thể hiện doanh thu vượt trội của hình thức đầu tư này so với các loại tài sản khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthi_truong_von_co_phan_cong_ty_chua_niem_yet_794.pdf
Luận văn liên quan