Qua Bảng 4.4 Cho thấy các yếu tố nhiệt độ và pH của 2 bể không có sự chênh lệch
lớn và sự biến động giữa buổi sáng và chiều là không đáng kể. Nhiệt độ cao và thấp
nhất giữa sáng và chiều trong cùng một bể cũng không lớn lắm. Nên nhiệt độ ở 2 bể
là nằm trong khoảng thích hợp là (27,5 – 310C), pH cao và thấp nhất giữa sáng và
chiều trong cùng một bể cũng không lớn lắm nên pH ở 2 bể dao động trong khoảng
(7,6-8,5). Như vậy, nhiệt độ và pH trong suốt quá trình thí nghiệm phù hợp cho sự
phát triển của ấu trùng cua.
Trong tự nhiên cũng như trong điều kiện ương nuôi, các yếu tố môi trường như nhiệt
độ, pH, độ mặn, hàm lượng đạm ammonia, nitrite,. ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh
trưởng, biến thái lột xác cũng như tỉ lệ sống của các giống loài thủy sản. Chen và
Jeng (1980) nhận thấy khi nhiệt độ càng cao thì thời gian lột xác, biến thái càng
nhanh, khoảng nhiệt độ thích hợp nhất là từ 26-300C. Wormoutdt và humbert (1994)
cho rằng quá trình lột xác của giáp xác chịu ảnh hưởng của yếu tố bên trong và bên
ngoài, khi nhiệt độ đạt đến mức thích hợp sẽ tăng số lần lột xác (trích dẫn bởi
Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2004). Ian M. Ruscoe et al (2004) khi
nghiên cứu ảnh hưởng kết hợp của nhiệt độ và độ mặn lên sinh trưởng và tỉ lệ sống
của cua tiền trưởng thành cho rằng nhiệt độ và độ mặn thích hợp để đạt năng suất
tối đa của chúng là 300C và 15-20%0, tuy nhiên nhiệt độ có ảnh hưởng lớn hơn so
với độ mặn.
34 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3672 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực nghiệm ương ấu trùng cua biển giai đoạn Zoae1 đến cua 1 theo quy trình nước trong hở, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó màu xanh lục hay vàng sậm. Cơ thể
cua được chia thành hai phần: phần đầu ngực và phần bụng.
62.1.2 Phân bố
Theo Keenan et al. (1998), loài Scylla paramamosain được phân bố khắp khu vực
biển Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, từ Nam Phi đến Biển Đỏ, từ Okinnawa
đến Tahiti và xuống tận miền Bắc nước Úc, Nhật Bản, Nam Trung Quốc, Hong
Kong, Singapore, Cambodia, Indonesia và ở Việt Nam (chủ yếu là vùng
ĐBSCL) .
Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long theo Keenan et al. (1998) có hai loài chủ yếu là
Scylla paramamosain (cua sen) và Scylla olivacea (cua lửa), trước đây bị nhầm
lẫn là Scylla serrata (Hoàng Đức Đạt, 1992; Nguyễn Anh Tuấn và ctv, 1996).
Thực sự loài Scylla serrata không được tìm thấy ở Đồng Bằng Sông Cửu Long,
cũng như ở Việt Nam. Theo Le Vay et al. (2001), loài Sylla paramamosain chiếm
trên 95% trong quần thể Scylla, và loài Scylla olivacea chỉ chiếm khoảng 5%.
2.1.3 Vòng đời
Theo Nguyễn Thanh Phương và ctv. (2004), vòng đời cua biển trải qua nhiều giai đoạn và
có tập tính sống cư trú khác nhau. Ong (1964) lần đầu tiên đã mô tả các giai đoạn
của ấu trùng cua biển Scyllas pp.
Theo Sivasubramaniam và Angell (1992), trứng cua nở thành ấu trùng zoae 1
mất 16-17 ngày ở nhiệt độ 23-250C. Ấu trùng cua sau khi nở là zoae 1 trải qua 4 lần
lột xác để biến thái thành zoae 5 trong thời gian 17-20 ngày, mỗi giai đoạn mất 2-
3 ngày. Từ zoae5 biến thái thành megalopa kéo dài trong khoảng thời gian 8-11
ngày. Ấu trùng zoae có tính hướng quang và bơi ngược dòng. Giai đoạn megalopa
chỉ lột xác một lần và mất 7-8 ngày để thành cua 1 (cua con).
Cua con trải qua 16-18 lần lột xác trước khi thành thục và ít nhất khoảng 328-523
ngày. Trước mùa sinh sản, cua di cư ra vùng biển ven bờ lột xác tiền giao vĩ rồi di cư
ra biển, trong quá trình di cư, trứng sẽ phát triển và chín dần. Cua ấp trứng trong
khoang bụng, cho đến khi nở thành ấu trùng zoae1 rồi t iếp tục lặp lại vòng đời.
Nhìn chung, chu kỳ s ống của các loài cua gồm 4 giai đoạn: giai đoạn ấu trùng,
giai đoạn cua con (chiều rộng mai 20-80 mm), giai đoạn tiền trưởng thành (chiều
rộng mai 70 - 150 mm) và giai đoạn trưởng thành (chiều rộng mai 100 mm trở lên).
Đặc biệt, trong quá trình lột xác cua có thể tái sinh phần bị mất của cơ thể.
7Hình 2.2: Vòngđời của cua biển Scylla sp.
Eyespot eggs: trứng xuất hiện điểm mắt; Zoae 1: ấu trùng zoae 1; Zoae 5: ấu trùng zoae 5;
Megalopa: ấu trùng megalopa; Crab 1: giai đoạn cua con.
2.1.4 Đặc điểm cấu tạo cơ thể.
Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải (2004) mô tả cơ thể cua được phân chia
thành phần đầu ngực và phần bụng. Phần đầu ngực là sự liên hợp của 5 đốt đầu và 8
đốt ngực nằm phía dưới mai. Đầu gồm mắt anten và phần phụ miệng. Mai cua to
phía có nhiều răng, mắt có hai hốc mắt chứa mắt, cuống mắt, hai cặp râu nhỏ a1 và
râu lớn a2.
Trên mai chia thành nhiều vùng bằng những mảng trung gian, mỗi vùng là vị trí của
mỗi cơ quan. Mặt bụng của phần đầu ngực có tấm ngực và làm thành vùng lõm ở
giữa để chứa phần bụng gập vào. Phần bụng của cua gấp lại dưới phần đầu ngực.
Phần bụng phân đốt và tùy theo giới tính thì hình dạng và sự phân đốt cũng không
giống nhau. Con cái trước thời kỳ thành thục phần bụng (yếm) có hình hơi vuông,
khi thành thục yếm phùng rộng với 6 đốt bình thường. Con đực có yếm hẹp hình
chữ V, chỉ có đốt 1, 2 và 6 thấy rỏ còn các đốt 3, 4, 5 liên kết với nhau.
2.1.5 Đặc điểm dinh dưỡng
Thức ăn tự nhiên của cua gồm 50% nhuyễn thể, 21% giáp xác, 29% các mảnh vụn
8hữu cơ, ít khi có cá trong ống tiêu hóa của cua. Sheen (2000) cũng cho rằng nhu
cầu về thành phần cholesterol trong thức ăn nhằm cải thiện tỉ lệ sống và tăng trưởng
đối với cua Scylla serrata, vì thế nhu cầu choles terol trong khẩu phần ăn tối ưu là
0,5%.
Tuy nhiên tính ăn của cua sẽ thay đổi tùy từng giai đoạn phát triển của chúng: Giai
đoạn ấu trùng: cua thích ăn các loài động vật phù du. Trong điều kiện nuôi cho ăn
với nhiều loại thức ăn khác nhau như: tảo, luân trùng, Artemia và cả thức ăn viên có
kích thước nhỏ.
Giai đoạn cua con, tiền trưởng thành và trưởng thành: ăn cua nhỏ, cá, xác động
vật chết, nhuyễn thể... Cua có tập tính trú ẩn vào ban ngày và kiếm ăn vào ban đêm.
Nhu cầu thức ăn của chúng khá lớn nhưng chúng lại có khả năng nhịn đói 10 –15
ngày ở trên cạn trong điều kiện ẩm ướt (Hill, 1979).
Trong điều kiện nuôi, nhiệt độ và độ mặn là hai yếu tố có ảnh hưởng lớn đến tính ăn
và hoạt động của cua.
2.1.6 Đặc điểm sinh trưởng
Tuổi thọ trung bình của cua từ 2–4 năm. Qua mỗi lần lột xác, khối lượng cua sẽ
tăng lên 20–50%, và kích thước tối đa mà cua có thể đạt được là 19-28 cm, với khối
lượng 1-3 kg/con.
Cua biển là loài sinh trưởng không liên tục, được đặc trưng bởi sự gia tăng đột ngột
về kích thước và trọng lượng. Cua lột xác để tăng kích thước và quá trình này phụ
thuộc rất lớn vào điều kiện dinh dưỡng, môi trường và giai đoạn phát triển của cơ
thể. Khi nuôi chung cua đực và cua cái thì cua đực tăng trưởng nhanh hơn cua cái.
Quá trình lột xác của cua mang tính đặc trưng riêng biệt từng loài, thông
thường 2–3 ngày/lần. Cua càng lớn thì chu kỳ lột xác càng kéo dài. Đặc biệt, trong
quá trình lột xác, cơ thể của chúng có thể tái sinh những phần phụ bộ đã mất. Ðối
với những con cua bị tổn thương, khi mất phần phụ bộ thì cua có khuynh
hướng lột xác sớm hơn (Trần Ngọc Hải và ctv., 1999).
Quá trình tăng trưởng của cua biển còn chịu ảnh hưởng bởi nhiệt độ. Theo Ong
(1966), tăng trưởng trung bình của cua Scylla ở điều kiện tự nhiên nhanh hơn so
với điều kiện ương nuôi trong phòng thí nghiệm, mặc dù chất lượng nước trong
phòng thí nghiệm tốt hơn.
2.1.7 Đặc điểm sinh sản
a. Tuổi thành thục
Cua biển thành thục sinh dục vào khoảng 1-1,5 tuổi. Lúc này chiều rộng của vỏ
9khoảng 10cm và khối lượng thân trên dưới 150g (Nguyễn Thanh Phương và ctv,
2004).
Thêm vào đó, không như cua đực, cua cái không bao giờ đạt đến 100% độ thành
thục ở bất cứ kích cỡ nào. Theo Le Vay (2001) s ự thành thục của cua biển tùy
theo từng loài khác nhau.
Hình 2.3: Sự thay đổi hình dạng bụng của cua biển ở các giai đoạn thành thục
(Phạm Thị Tuyết Ngân)
Theo Fielder và Heas man (1978), nhiệt độ có ảnh hưởng đến sự thành thục của cua.
Nếu nhiệt độ nước cao sẽ làm tăng tốc độ tăng trưởng, do đó sẽ rút ngắn thời gian
10
thành thục của cua.
b. Tập tính bắt cặp, đẻ trứng và ấp trứng
Đối với vùng nhiệt đới cua đẻ quanh năm. Ở Việt Nam, mùa vụ sinh sản chính của
cua từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau (Hoàng Đức Đạt, 2004). Cua biển là loài có tập
tính di cư sinh sản. Tới mùa sinh sản, cua di cư ra vùng biển ven bờ, lột xác tiền giao
vĩ.
Trước khi đẻ trứng, cua đực và cua cái sẽ bắt cặp với nhau trong thời gian 3-4 ngày,
sau đó cua cái lột xác và bắt đầu giao vĩ. Túi tinh của con đực được đưa vào túi
chứa tinh của con cái ở giữa gốc chân thứ tư và thứ năm. Túi tinh này được giữ
trong nhiều tuần để thụ tinh qua nhiều lần sinh sản, tức là một lần giao phối có thể
thụ tinh cho cua cái từ 1-3 lần đẻ trứng. Sau đó, khi cua cái đẻ trứng thì cùng lúc
tinh trùng được phóng ra để thụ tinh cho trứng.
Một con cua cái có thể đẻ từ vài trăm ngàn đến 2-3 triệu trứng mỗi lần đẻ. Trong
một năm cua đẻ từ 2-3 lần. Trứng đẻ ra được ấp trong khoang bụng của cua mẹ cho
đến khi nở. Trứng cua được ấp ở nơi nước biển có độ mặn cao, nhiệt độ ổn định.
Thời gian ấp trứng dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiệt độ nước. Nhiệt độ càng
cao thời gian ấp trứng càng nhanh. Trong điều kiện thuận lợi, trứng có thể nở
đồng loạt khoảng 3-6 giờ.
Hình 2.4. Cua cái đang mang trứng
11
Hình 2.5: Hình dạng buồng trứng khác nhau từ giai đoạn 1-4 (Phạm Thị Tuyết Ngân,
2005)
c. Sự phát triển phôi và các giai đoạn ấu trùng
Trứng cua mới đẻ có đường kính trung bình 0,3mm và có màu vàng tươi. Sự phát
triển của trứng được phân biệt theo màu sắc: từ vàng tươi sang vàng đậm, chuyển
sang xám, cuối cùng chuyển sang đen, lúc này là lúc xuất hiện mầm chân và mắt,
sau đó tim bắt đầu đập và các cơ quan khác cũng bắt đầu hình thành, khi tim đập
khoảng 200 - 240 lần/phút phôi sẽ phá vỡ vỏ và chui ra ngoài, đây là ấu trùng zoae1.
Khoảng thời gian từ lúc cua cái đẻ cho đến lúc nở ra ấu trùng zoae 1 là 17 ngày
(Trương Trọng Nghĩa, 2004).
Theo Hoàng Đức Đạt (2004), ấu trùng zoae mới nở là zoae1, ấu trùng sẽ bơi lội
được ngay do có đôi mắt kép và sắc tố đen. Ấu trùng zoae hầu hết phải trải qua 5
giai đoạn: từ zoae 1 đến zoae 4 mỗi giai đoạn 2 - 3 ngày, riêng giai đoạn zoae 5 từ
3 - 4 ngày. Ấu trùng có tính hướng quang và bơi lội ngược dòng, chúng sống
phù du, hoạt động nhờ chân hàm 1 và s ự co giãn của phần bụng.
Sau giai đoạn zoae 5, ấu trùng lột xác biến thái thành giai đoạn megalopa. Khi
chuyển sang megalopa ấu trùng có khuynh hướng chuyển sang sống bám vào giá
Giai đoan I Giai đoạn II
Giai đoạn II Giai đoạn III Giai đoạn IV
12
thể, do đó ở giai đoạn này nền đáy đối với chúng là rất quan trọng vì chúng hoạt
động tích cực và ăn tạp. Từ giai đoạn megalopa mất 7 - 11 ngày để biến thái thành
cua con (cua1).
Hình 2.6: Các giai đoạn của Ấu trùng cua
Bảng 2.1: Giai đoạn phát triển của ấu trùng cua biển (Scylla sp.)
Giai
đoạn
Thời gian
sau khi
nở (ngày)
Kích cỡ
(mm) Đặc điểm phân biệt quan trọng
Z1 0-3 1,65 Mắt chưa có cuống. Chân hàm I và II đều mang 4 lông
tơ trên nhánh ngoài. Có 5 đốt bụng
Z2 3-6 2,18 Mắt có cuống. Nhánh ngoài của chân hàm I và II mang
6 lông tơ. Có 5 đôt bụng
Z3 6-8 2,70 Nhánh ngoài của chân hàm I mang 8 lông tơ, chân
hàm II mang 9 lông tơ. Có 6 đốt bụng. Gai bên của đốt
bụng 3-5 dài hơn
Z4 8-11 3,54 Nhánh ngoài của chân hàm I mang 10 lông tơ, của
chân hàm II mang 10 lông tơ dài, 1-2 lông tơ ngắn.
Mầm chân bụng xuất hiện trên các đốt bụng 2-6
Z5 10-16 4,50 Nhánh ngoài của chân hàm I mang 11 lông dài, 1-4
lông ngắn, nhánh ngoài của chân hàm II mang 12 lông
tơ dài và 2-3 lông tơ ngắn. Chân bụng trên đốt bụng 2-
6 rất phát triển, nhánh ngoài của chân bụng có 1-2
lông tơ.
M 15-23 4,01 Mất gai lưng. Gai trán rất ngắn. Mắt to. Telson không
còn chẻ 2 mà dạng bầu và có nhiều lông trên chân
đuôi. Chân bụng rất phát triển và có nhiều lông trên
các nhánh. Ấu trùng mang 2 càng.
13
C1 23-30 2-3 CW Cua có hình dạng như cua trưởng thành, mặc dù
carapace hơi tròn.
1.1.7 Tập tính sống và khả năng thích nghi với điều kiện môi trường
Môi trường và tập tính sống
Vòng đời cua biển trải qua nhiều giai đoạn, ở mỗi giai đoạn đều có tập tính sống
và cư trú khác nhau.
Giai đoạn ấu trùng zoae và megalopa: Theo Warner (1977) ấu trùng sống trôi nổi và
nhờ dòng nước đưa vào ven bờ, s au đó biến thái thành cua con.
Giai đoạn cua con, cua tiền trưởng thành và cua trưởng thành: Theo
Sivasubramaniam và Angell (1992) trong chu kỳ sống, chúng sống trong vùng rừng
nước mặn, cửa sông, nơi có đáy bùn hoặc đất thịt, sống vùi trong bùn vào ban ngày
và di chuyển đến vùng triều thấp vào ban đêm để kiế m ăn.
Nhìn chung, ấu trùng zoae thích hợp với độ mặn từ 25-30‰ . Giai đoạn cua con và
cua trưởng thành phát triển tốt trong phạm vi 2-38‰ . Tuy nhiên trong giai đoạn đẻ
trứng, độ mặn cần được duy trì ở 22-32‰ . Theo báo cáo của Hyland (1984), cua
phân bố trong tự nhiên có liên quan đến dòng chảy với vận tốc 0,06-1,6 m/s.
2.2 Nghiên cứu sản xuất cua biển ở Việt Nam và trên thế giới
2.2.1 Nuôi vỗ cua bốmẹ
Có nhiều hệ thống được sử dụng để nuôi vỗ cua mẹ. Ở Nhật cua được nuôi trong bể
có thể tích 100 m3 đặt ngoài trời. Trong khi đó những nước khác như Úc, Đài Loan,
Ấn Độ, Malaysia và Việt Nam dùng bể từ 1 – 2 m3 để trong phòng.
Cua bố mẹ nuôi vỗ thường có CW từ 9 – 10 cm. Nếu cua mẹ không mang trứng, con
đực và con cái được thả chung với mật độ 1 – 3 con/m2 hoặc dùng cua cái ngoài tự
nhiên đã giao vĩ để nuôi vỗ. Thời gian đẻ của cua sau khi giao vĩ rất khác nhau: Ở
Đài Loan cua cái đẻ khoảng 4 tháng sau khi giao vĩ: Ở Ấn Độ sau khoảng 4 – 6 tuần;
Ở Úc sau khoảng 21 – 32 ngày vào mùa đông và 10 – 13 ngày vào mùa xuân
(Heasman và Fielder, 1983). Cua cái thả trong những bể riêng biệt có thuận lợi là
tránh ăn nhau do bản năng hung hăng của chúng trong suốt thời gian nuôi.
Ở Nhật, người ta dùng những bể đáy cát để nuôi vỗ cua bố mẹ và thấy rằng cát là
chất nền tốt cho cua bố mẹ. Thức ăn thường dùng trong giai đoạn nuôi vỗ cua mẹ là
thịt của các loài hai mảnh vỏ (nghêu, sò), tôm và cá. Thành phần protein trong khẩu
phần ăn của cua mẹ rất quan trọng, nó là nguồn năng lượng hỗ trợ tích cực cho quá
trình phát triển phôi (Wang, 1995), đặc biệt, tỷ số acid béo không no ( w3/ w6) trong
14
khẩu phần ăn giữ vai trò rất quan trọng trong sự phát triển buồng trứng cua biển (Lin
và Li, 1994).
Ở Nhật người ta thích dùng hai mãnh vỏ tươi sống hơn các loại thức ăn khác vì hạn
chế được sự nhiễm bẩn của môi trường do thức ăn thừa gây ra, hơn nữa chúng còn
có vai trò lọc sinh học. Hệ thống nuôi vỗ có thể là hệ thống thay nước và tuần hoàn.
Ở Úc trong suốt thời kỳ nuôi vỗ nước được luân chuyển với vận tốc 500 lít/giờ bằng
hệ thống tuần hoàn. Trong khi đó các hệ thống nuôi vỗ ở Nhật thường được thay
nước 200% mỗi ngày. Việc cắt mắt cua nhằm kích thích tuyến sinh dục phát triển và
có thể rút ngắn thời gian thành thục còn 10 ngày (Heasman và ctv, 1983). Áp dụng
phương pháp cắt mắt có thể tạo được đàn cua ôm trứng quanh năm, ông đã dùng
phương pháp cắt mắt hai bên. Ngoài ra trong thí nghiệm ông còn dùng chế độ
sáng/tối là 14/10 giờ.
Theo Trương Trọng Nghĩa và ctv (2001) khảo sát sự ảnh hưởng của mùa vụ, ánh
sáng và sự cắt mắt lên đặc điểm sinh sản của cua biển (Scylla paramamosenin) kết
quả cho thấy, trong điều kiện nuôi dưỡng cua cắt mắt có thời gian đẻ dài trong năm
và cắt mắt có khả năng ảnh hưởng lớn hơn ảnh hưởng của mùa vụ. Cắt mắt trái hay
mắt phải ảnh hưởng không khác nhau. Trong điều kiện cắt mắt, cua có tỷ lệ đẻ cao
mà không cần che chắn bể nuôi và không có ảnh hưởng đến sự thụ tinh của trứng.
Những nghiên cứu về sinh sản nhân tạo cua biển đã được bắt đầu từ những năm 50
trong đó phải kể đến công trình nghiên cứu của Ong (1964) ở Malaysia đã mô tả chi
tiết các giai đoạn biến thái và tập tính sinh học của ấu trùng cua.
Ở Ấn Độ, Đài Loan và Úc những thí nghiệm về sinh sản nhân tạo cua biển cũng đạt
hiệu quả cao trong những năm 80, tỷ lệ sống từ Zoae1 - Cua1 là 10% - 20%. Trong
khi đó ở Việt Nam, theo nghiên cứu của Trần Ngọc Hải (1997) cua cắt mắt nuôi vỗ
trong bể 1m3, sau 5 ngày có thể đẻ trứng. Tuy nhiên, có trường hợp đền 111 ngày
cua mới đẻ và một số con không đẻ. Cua có thể đẻ bất kỳ ngày nào trong tháng vào
bất cứ lúc nào, có thể vào ban đêm, buổi sáng hay buổi chiều. Cua cái tham gia sinh
sản thường có kích cỡ 200 – 300 g, cua có thể đẻ lại 2 – 3 lần sau 20 – 30 ngày đẻ
trước đó. Hiện tượng cua đẻ chải thường xảy ra trong điều kiện nuôi vỗ.
Theo Trương Trọng Nghĩa và ctv (2004) cho biết sự cắt mắt cua trong nuôi vỗ giúp
cua có thể đẻ quanh năm. Cua luôn luôn đẻ theo chu kỳ trăng trong tháng hay thời
điểm nhất định trong ngày. Cua có thể đẻ trên 2 lần nhưng sức sinh sản sẽ giảm đi.
Hamasaki và ctv, (2002) sử dụng fomaline 25ppm để khử sự nhiểm nấm của trứng
cua, kết quả cho thấy đã gây độc cho trứng một ngày sau khi đẻ và độc với cả cua
mẹ nếu giữ cua một thời gian lâu hơn. Vì vậy ông đề nghị xử lý nấm bằng formaline
ở các giai đoạn đầu của ấu trùng tốt hơn ở giai đoạn cua ôm trứng. Mặc dù cua mẹ
15
có thể sống 1 thời gian dài trong không khí khi ra khỏi nước nhưng những trứng thụ
tinh mà cua đang mang bị chết chỉ sau 1 giờ tiếp xúc với không khí bên ngoài.
Khi khối trứng có màu nâu đen thì chuyển cua mẹ đến những bể riêng (1con/bể) cho
trứng nở (Baylon và Failaman, 2001). Làm như vậy có thể giảm được hiện tượng ăn
nhau của ấu trừng từ các đợt khác nhau cuả những cua mẹ khác nhau trong thời gian
ương nuôi. Tùy thuộc vào điều kiện môi trường nước, đặc biệt là nhiệt độ và độ mặn
mà thời gian ấp trứng khác nhau.
Theo nghiên cứu của Marichamy và Rajapackiam (1991) ở nhiệt độ 23 – 250C, độ
mặn 34 – 35 %o thì thời gian ấp trứng từ 7 – 10 ngày. Tuy nhiên, ở nhiệt độ 23 –
250C thì thời gian ấp trứng từ 16 – 17 ngày, trứng thường nở vào khoảng 4 – 5 giờ
sáng và tỷ lệ nở đạt gần 100% (Cowan, 1984) cho biết Zoae3 được cho ăn rotifer
(mật độ 40con/lít) thì tỷ lệ sống tính đến Zoae4 là hơn 80% nhưng điều này lại
không xảy ra ở thí nghiệm khác trong cùng điều kiện (Zoae3 cũng được cho ăn với
mật độ rotifer 40con/lít). Điều này chứng tỏ chất lượng của cua mẹ có ảnh hưởng
đến tỉ lệ sống của ấu trùng.
2.2.2 Ương ấu trùng cua biển
Hệ thống bể ương ở các quốc gia trên thế giới rất phong phú và đa dạng với thể tích
bể ương cũng như mật độ ương khác nhau. Ở Ấn Độ dùng bể nhỏ 300 lít với mật độ
ương 25 – 75 con/lít. Ở Đài Loan dùng bể ương 0.5m3 cho giai đoạn Zoae và 1 – 10
m3 cho giai đoạn Megalopa (10 con/lít).
Ở Việt Nam, theo nghiên cứu Trần Ngọc Hải và Trương Trọng Nghĩa (2004) về ảnh
hưởng của mật độ ương lên sự phát triển và tỷ lệ sống của ấu trùng cua biển (Scylla
paramamosain) trong mô hình nước xanh, tiến hành ương với 3 mật độ khác nhau
50 con/lít, 75 con/lít, và 100 con/lít. Kết quả cho thấy rằng ở mật độ 100 con/lít cho
tỷ lệ sống cao hơn so với mật độ 50 con/lít và 75 con/lít.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Cơ Thạch (1998) về ảnh hưởng độ mặn lên sự phát
triển của giai đoạn phôi và ấu trùng cua biển (Scylla paramamosain), độ mặn tốt
nhất cho quá trình phát triển phôi là từ 30 - 35‰ và cho giai đoạn ấu trùng Zoae là
30‰. Trong ương ấu trùng cua, quản lý môi trường ương là vấn đề rất quan trọng.
Nếu kiểm soát được chất lượng nước một cách chặt chẻ sẽ cải thiện được tỷ lệ sống
của ấu trùng (Brick, 1974 ; Heasman và Fielder, 1983). Nhiệt độ và độ mặn là hai
yếu tố môi trường quan trọng trong ương ấu trùng cua biển.
Theo Ong (1964) nhiệt độ thích hợp nhất trong ương ấu trùng là 24,4 – 31,5oC và
29 – 33‰; Brick (1974), 21 – 23oC và 33 – 34,5‰. Chen và Jeng (1980), Zeng và
Li (1992), cho rằng nhiệt độ càng cao thì thời gian biến thái càng nhanh, khoảng độ
16
mặn và nhiệt độ thích hợp nhất là 25 – 30‰ và 26 – 30oC. Nhiệt độ thấp là nguyên
nhân chính gây ra tình trạng tỷ lệ sống của ấu trùng thấp. Tỷ lệ bắt mồi của ấu trùng
Zoae giảm khi nhiệt độ thấp dưới 20oC. Heasman (1983) nhận thấy ở nhiệt độ
19,2 – 23oC, tất cả ấu trùng đều chết hết ở giai đoạn Zoae3, chúng sống được 15
ngày. Hill (1974) cho rằng ở nhiệt độ 25oC và độ mặn 17,5‰ ấu trùng Zoae bị tử
vong trong điều kiện không cho ăn. Wang (1997) thấy rằng độ mặn thích hợp nhất
trong ương ấu trùng cua biển (Scylla pramamosain) ở giai đoạn đầu (Zoae1 –
Zoae3) là 27 – 35‰ và ở giai đoạn sau (Zoae4 – Magalopa) là 23 – 31‰.
Độ mặn thích hợp trong suốt quá trình phát triển của ấu trùng là 27‰. Nhiệt độ
không những ảnh hưởng đến tỷ lệ sống mà còn kéo dài các giai đoạn phát triển của
ấu trùng. Giai đoạn ấu trùng cua có thể kéo dài 28 – 35 ngày ở nhiệt độ 25 – 27oC,
trong khi đó nó chỉ mất 26 – 30 ngày ở 28 – 30oC (Marichamy, 1991). Hiện tượng
sốc nhiệt độ là một trong những nguyên nhân chính gây ra hiện tượng chết hàng loạt
của ấu trùng từ đó làm giảm tỷ lệ sống của quá trình ương. Đặc biệt khi biên độ dao
động của nhiệt độ trong ngày từ 5oC trở lên thì hiện tượng này xảy ra (David Mann
et al, 1998) và ctv.
Vũ Ngọc Út (2003) cho biết cua giống (Scylla paramamosain) tăng trưởng và phát
triển kém ở độ mặn 5‰, tỉ lệ chết sẽ tăng dần nếu kéo dài thời gian duy trì cua trong
độ mặn này. Trong khi đó cua tăng trưởng tốt hơn với số lần lột xác nhiều hơn, thời
gian lột xác ngắn hơn và tỉ lệ sống cao hơn ở độ mặn 15 – 25‰. Bên cạnh hai yếu tố
nhiệt độ và độ mặn thì ánh sáng cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình
biến thái của ấu trùng.
Theo Wormhoutdt và Humbert (1994), đối với giáp xác mức độ sáng tối không ổn
định, nhiệt độ giảm và sự đói ăn đều làm chậm tần số lột xác. Cường độ chiếu sáng
ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các men tiêu hoá và đến sinh trưởng của cua.
Theo nghiên cứu về ảnh hưởng của ánh sáng đến sự phát triển của ấu trùng cua với
các nghiệm thức che tối hoàn toàn và dưới mái nhựa trong suốt, ấu trùng được ương
trong môi trường nước xanh và cho ăn luân trùng cho thấy chu kỳ chiếu sáng 12 - 24
giờ/ngày và cường độ ánh sáng 4500 - 5000 lux (dưới mái che trong suốt) cho kết
quả biến thái và tỉ lệ sống của ấu trùng cao nhất (Trần Ngọc Hải, 1997). Vật bám có
vai trò rất quan trọng, nó không chỉ là nơi để cua trốn địch hại, tạo không gian cho
cua hoạt động mà còn là nơi tích tụ các sinh vật thức ăn tự nhiên. Vì vậy treo những
chùm dây nylon hoặc lưới nhựa làm giá thể cho ấu trùng Megalopa của loài Scylla
serrata bám vào có thể làm tăng tỷ lệ sống của ấu trùng Megalopa (được trích dẩn
bởi Trần Ngọc Hải và ctv, 1999).
17
Theo Hoàng Đức Đạt (1992) cho biết khi ương ấu trùng cua biển (Scylla
paramamosain) sử dụng thức ăn là tảo Chlorella, rotifer (Brachionus plicatilis) ở
giai đoạn Zoae1 – Zoae3 và ấu trùng Artemia từ giai đoạn Zoae4 trở về sau thì tỉ lệ
sống cao nhất ở giai đoạn cua 1 là 24%. Ting và Lin (1980) đã sử dụng luân trùng,
Chlorella và Spirulina để ương ấu trùng Zoae và dùng Artemia cho các giai đoạn
ương sau. Trước đó Ong (1964) chỉ sử dụng Artemia làm thức ăn cung cấp cho ấu
trùng cua trong suốt thời gian ương và thấy rằng ấu trùng Artemia dường như qua
lớn và bơi lội quá nhanh đối với ấu trung cua nên ấu trùng cua khó bắt mồi. Tuy
nhiên ấu trùng Artemia lại là thức ăn tốt nhất ở giai đoạn sau của ấu trùng cua biển.
Trương Trọng Nghĩa và ctv (2001) đã thử nghiệm các hệ thống ương khác nhau:
nước trong thay nước, nước trong tuần hoàn, nước xanh thay nước và nước xanh
tuần hoàn với các loại thức ăn tươi sống được sử dụng như luân trùng, tảo Chlorella
sp, Chaetoceros Caleitrans, Artemia được giàu hoá và không được giàu hoá, kết quả
cho thấy thức ăn thích hợp cho giai đoạn Zoae1, Zoae2 là luân trùng.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Cơ Thạch (1998) về ảnh hưởng của các loại thức ăn
khác nhau lên tỷ lệ sống của cua biển (Scylla paramamosain), cho thấy luân trùng là
loại thức ăn phù hợp ở giai đoại Zoae1, Zoae2 và ấu trùng Artemia là loại thức ăn
thích hợp nhất cho giai đoạn tiếp theo. Sự kết hợp 3 loại thức ăn luân trùng + tảo
Chaetoceros.sp và Artemia kết quả cho tỷ lệ sống cao nhất (25.2 ± 6.7%) ở giai
đoạn Zoae5 và (16.1 ± 6.2) ở giai đoạn Megalopa. Tuy nhiên, Chlorella.sp là nguồn
dinh dưỡng tốt cho sự phát triển của luân trùng, còn men bánh mì khi luân trùng ăn
lại thiếu hụt nguồn acid béo thiết yếu (n – 3) HUFA. Vì vậy phải nâng dinh dưỡng
của luân trùng (giàu hoá) trước khi cung cấp cho ấu trùng cua ăn (Cowan, 1984).
Theo Yunus và ctv, (1992) nhằm cải thiện tỷ lệ sống của ấu trùng cua biển, đặc biệt
là giai đoạn Zoae1 và Zoae2 thông qua việc giàu hoá luân trùng bằng hỗn hợp 10g
dầu cá gan tuyết, 20g lòng đỏ trứng gà và 5g men hoà tan trong 100 lít luân trùng
được nuôi trong khoảng 2 giờ. Ấu trùng cua được cho ăn luân trùng sau khi giàu hoá
với mật độ 15 – 20 con/ml nước ương. Kết quả cho tỷ lệ sống ở giai đoạn Zoae1 là
74,1%. .
Theo Lương Đức Phẩm (2007) chế phẩm sinh học được sử dụng có tác dụng điều
chỉnh hệ vi sinh vật thủy sinh theo hướng hạn chế các sinh vật gây bệnh, tăng cường
phân hủy các chất hữu cơ do thức ăn thừa, do vật nuôi bài tiết, do xác động thực vật
chết bị thối rữa...để cải thiện môi trường, đồng thời làm tăng cường khả năng miễn
dịch của vật nuôi với sinh vật gây bệnh.
18
CHƯƠNG III
PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian: Từ 15/3/2010 đến 15/5/2010
Địa điểm: Trại sản xuất giống ĐĂNG KHOA, P. An Bình – Q. Ninh Kiều – TP. Cần
Thơ.
3.2 Vật liệu và trang thiết bị
Bể xử lý nước và bể chứa nước
Bể ương ấu trùng
Hệ thống sục khí: Ống dẫn khí, val điều chỉnh, đá bọt.
Bình ấp Artemia.
Kính hiển vi, lame.
Các dụng cụ khác như: Cân điện tử, máy bơm chìm, ống xi phon, thau nhựa, vợt, túi
lọc, cốc thủy tinh…
3.2.1 Thuốc và hóa chất thí nghiệm
Chlorine, EDTA, NaHCO3, Natri thiosulphate, Formaline
Bộ test: NO2, NH4, NH3, pH và độ kiềm
3.2.2 Nguồn nước
Nước ngọt lấy từ nguồn nước máy của thành phố pha với nước ót (lấy từ Vĩnh Châu
có độ mặn 80‰ – 120‰) thành nước 30‰, xử lý bằng chlorine 60 ppm, sục khí
mạnh, liên tục. Sau 48giờ cho chlorine bay hơi, kiểm tra lại hàm lượng chlorine
bằng bộ test, nếu thấy còn chlorine thì trung hòa chlorine bằng Na2S2O3, sau đó
điều chỉnh pH bằng NaHCO3 10 ppm, tiếp tục trung hòa độ kiềm bằng CaCO3 10
ppm và dùng EDTA 10 ppm để kết tủa kim loại nặng, các khí độc. Sục khí mạnh,
sau 6h có thể sử dụng, trước khi sử dụng ozone 0,3ppm.
3.2.3 Nguồn cua bố mẹ
Cua mẹ mang trứng được mua từ trại nuôi vỗ cua mẹ.
3.2.4 Thức ăn
Tùy theo giai đoạn phát triển mà cung cấp thức ăn khác nhau để phù hợp với kích cỡ
miệng ấu trùng.
19
Artemia
Artemia có nguồn gốc từ Vĩnh Châu. Artemia được ấp ở độ mặn 15‰ trong khoảng
thời gian 14-15 giờ, sục khí liên tục, mật độ 2 – 5 g/lít. Artemia bung dù trước khi
cho ăn được khử trùng bằng formaline nồng độ 200 – 500 ppm và rửa sạch bằng
nước ngọt.
Thức ăn chế biến
Bảng 3.1 Công thức thức ăn chế biến cho ấu trùng cua
Thành phần Hàm lượng
Lòng trứng gà
Sữa bột giàu canxi
Thịt tép
Dầu mực
Lecithin
20 trứng
50g
200g
5%
2%
Các nguyên liệu trên được cho vào máy xay sinh tố để xay nhuyễn. Sau đó, đem hỗn
hợp hấp cách thủy với thời gian nước sôi khoảng 15 – 20 phút. Thức ăn sau khi hấp
có thể bảo quản trong tủ lạnh để sử dụng dần trong một tuần.
Trước khi cho ăn, cần ép thức ăn qua sàn với kích cỡ mắt lưới 1000 µm
3.3. Kỹ thuật ương ấu trùng cua biển
3.3.1 Thí nghiệm 1:
Ương ấu trùng cua biển theo quy
trình nước trong hở gồm 2 bể ương
có sục khí liên tục, từ giai đoạn
zoae 1 – zoae5 được bố trí với mật
độ ương 300 ấu trùng/lít, thể tích bể
ương là 1m3, mực nước ương là 800
L
Từ khi bố trí ấu trùng hằng ngày xem
ấu trùng cua trên kính hiển vi xác
định tỷ lệ các giai đoạn trong bể
ương, nhiệt độ và pH đo: 2 lần/ngày
8giờ sáng và 14giờ chiều.
Hình 3.1: Bể ương
20
Thức ăn cho giai đoạn
Zoae1 – Zoae2 là Artemia
Vĩnh Châu bung dù và giai
đoạn Zoae3 – Zoae5 là ấu
trùng Artemia. Cho ăn 4
lần/ngày vào lúc 6 giờ, 12 giờ,
18 giờ và 0 giờ. Trước khi cho
ăn thì dùng cốc thủy tinh mút
ấu trùng quan sát để điều
chỉnh lượng thức ăn cho thích
hợp.
Thay nước: 5 ngày/lần mỗi lần
thay 30% lượng nước mới.
Khi thấy nền đáy dơ thì siphon cặn bả và xác ấu trùng (trước khi siphon thì tắt sục
khí).
3.3.2 Thí nghiệm 2:
Tiến hành bố trí thí nghiệm 2 ương ấu trùng cua biển từ Zoae 5 – Cua1 theo quy
trình nước trong hở có sục khí liên tục, từ giai đoạn Zoae 5 – Cua1 với mật độ ương
30 ấu trùng/lít, thể tích bể ương là 1m3, mức nước ương là 500 L
Từ khi bố trí ấu trùng hằng ngày xem ấu trùng cua các giai đoạn trong bể ương,
nhiệt độ và pH đo: 2 lần/ngày 8giờ sáng và 14giờ chiều.
Thức ăn cho giai đoạn Zoae 5 là ấu trùng Artemia mới nở, khi khoảng 80% ấu trùng
chuyển sang giai đoạn megalopa thì cho ăn thức chế biến cho đến khi chuyển hoàn
toàn sang cua 1. Thức ăn chế biến cho cua ấu trùng cua ở giai đoạn megalopa và cua
con gồm thịt tép, Lecithin, mực và lòng đỏ trứng gà xay nhuyễn, trộn đều và đem đi
hấp cách thủy. Cho ăn 4 lần/ngày vào lúc 6 giờ, 12 giờ, 18 giờ và 0 giờ, thức ăn chế
biến được rây qua lưới, trước khi cho ăn thì quan sát ấu trùng có bắt mồi hay không
để điều chỉnh lượng thức ăn cho thích hợp.
Thay nước: 3 ngày/lần mỗi lần thay 30% lượng nước mới. Do giai đoạn này sử dụng
thức ăn chế biến.
Khi thấy nền đáy dơ thì siphon cặn bả và xác ấu trùng (trước khi siphon thì tắt sục
khí), Dùng khăn thắm nước lau xung quanh thành bể khi dơ.
3.3.3 Chuẩn bị hệ thống ương ấu trùng và chăm sóc
Chuẩn bị vệ sinh và cấp nước vào bể, bố trí 2 bể với thể tích 1m3/bể.
Hình 3.2: Lưới lan
21
Sau khi cua đẻ xong thì dùng vợt bắt cua mẹ ra ngoài, quan sát thấy ấu trùng khỏe
bơi lội nhanh nhẹn thì tiến hành thu ấu trùng để bố trí
Trước khi thu ấu trùng phải tắt sục khí, trông đèn cho ấu trùng hướng quang. Dùng
vợt vớt ấu trùng cho vào xô riêng có sục khí. Sau đó dùng Formaline 25 ppm trong
10 phút tắm cho ấu trùng rồi tiến hành định lượng và bố trí ấu trùng vào bể ương.
Ương ấu trùng cua biển từ giai đoạn zoae 1 – zoae5 được bố trí với mật độ ương
400 ấu trùng/lít, theo quy trình nước trong hở, có sục khí liên tục, thể tích bể ương là
1m3, mực nước ương là 800 L
Mỗi ngày xem ấu trùng cua trên kính hiển vi xác định tỷ lệ các giai đoạn trong bể
ương.
Thức ăn cho giai đoạn Zoae1 – Zoae2 là Artemia bung dù, thức ăn cho giai đoạn
Zoae3 – Zoae5 là ấu trùng Artemia. Cho ăn 4 lần/ngày vào lúc 6 giờ, 12 giờ, 18 giờ
và 0 giờ, lượng thức ăn thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của ấu trùng.
Siphon khi cặn bả và xác ấu trùng chết quá nhiều (trước khi siphon thì tắt sục khí)
Bảng 3.2: Thức ăn cho ấu trùng cua biển
Thức ăn
Giai đoạn Liều lượng
Z1 Z2 Z3 Z4 Z5 M
Cho ăn theo nhu cầu
Artemia Vĩnh châu
bung dù
xxx xxx
Ấu trùng Artemia xxx xxx xxx
Thức ăn chế biến xxx
Ấu trùng được bố trí từ giai đoạn zoae5 và có cùng một nguồn gốc.Thức ăn cho ấu
trùng tùy thuộc vào giai đoạn và được trình bày trong Bảng 3.2
Thức ăn cho giai đoạn Zoae5 – Megalopa – Cua 1 là Artemia bung dù và bổ sung
thêm thức ăn tự chế: Cho ăn 4 lần/ngày vào lúc 6 giờ, 12 giờ, 18 giờ và 0 giờ, lượng
thức ăn thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của ấu trùng.
3.3.4 Thu mẫu
Kiểm tra yếu tố thủy – lý hóa môi trường:
Đo nhiệt độ bằng nhiệt kế
Kiểm tra pH: 2 lần/ngày (sáng 8 giờ và chiều 14 giờ) bằng test kit (Bạch Yến)
Các chỉ tiêu (buổi sáng): NO2-, NO3- , NH4+ được kiểm tra định kỳ 4 ngày/lần bằng
test kit (Sera – Đức). Riêng đối với NH4+, sau khi xác định bằng testkis, kết hợp với
kết quả nhiệt độ và pH để xác định NH3 (Boyd, 1990).
22
3.3.5 Sinh trưởng và tỉ lệ sống
Sự biến thái của ấu trùng: Hằng ngày phải quan sát ấu trùng ở các bể ương, xác
định ngày ấu trùng bắt đầu lột xác chuyển giai đoạn và ngày kết thúc ở mỗi giai
đoạn Zoae ở các bể ương.
Tỉ lệ sống của ấu trùng: Được xác định ở giai đoạn Zoae5, Megalopa và cua1
Tổng số Zoae5 thu được
Tỉ lệ sống ấu trùng (%) = x 100%
Tổng số Zoae1 bố trí
Tổng số cua thu được
Tỉ lệ sống cua con (%) = x 100%
Tổng số Zoae 5 bố trí
3.4 Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu thu thập được tính toán các giá trị trung bình cao nhất, thấp nhất.... bằng
phần mềm Excel.
23
CHƯƠNG IV
KẾT QUẢ - THẢO LUẬN
1. Thí nghiệm 1
1.1 Các yếu tố môi trường
Bảng 4.1: Các yếu tốmôi trường thủy lý hóa trong thí nghiệm 1.
1.1.1Nhiệt độ
Nhiệt độ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của ấu trùng thủy sản.
Trong quá trình thực hiện thí nghiệm, nhiệt độ giữa các bể không có sự biến động
lớn, nhiệt độ cao và thấp nhất giữa sáng và chiều trong cùng một bể cũng không lớn
lắm. Nên nhiệt độ ở 2 bể là nằm trong khoảng thích hợp là (27,5 – 310C). Sự ít biến
động này là do thí nghiệm được tiến hành vào mùa khô, đồng thời thí nghiệm được
bố trí tại khu vực có chắn kín gió và lưới lan che giảm cường độ ánh sáng nên không
có sự biến động về nhiệt độ.
Theo Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải (2004), cho rằng nhiệt độ là yếu tố
ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ sống và phát triển của ấu trùng cua. Khi nhiệt độ vượt mức
giới hạn cho phép thì dẫn đến ấu trùng cua bị rối loạn sinh lý và chết. Katsuyuki
Hamasaki (2002) khi ương ấu trùng cua biển S. Serrata ở mật độ 30con/L trong cốc
thủy tinh có thể tích 1 L với khoảng nhiệt độ thí nghiệm từ 17 - 350C thì tỉ lệ sống
đến giai đoạn cua 1 đạt cao nhất ở nhiệt độ 290C và ông cho rằng nhiệt độ thích hợp
cho sự phát triển của ấu trùng nên nằm trong khoảng 23 - 320C. Chen Và Cheng
(1985) khi ương ấu trùng cua biển ở 3 nhiệt độ 22, 26 và 300C thì cho rằng nhiệt độ
thích hợp cho ấu trùng cua nên nằm trong khoảng 26 - 300C. Zeng và Li (1992) đề
nghị nhiệt độ thích hợp cho ấu trùng cua nên nằm trong khoảng 26 - 300C. Zing và
Li (1992) bố trí thí nghiệm về nhiệt độ trong ương ấu trùng Cua và cho rằng nhiệt độ
tốt nhất trong khoảng 25 - 300C. Nguyễn Cơ Thạch và ctv (2006) cho rằng nhiệt độ
thích hợp cho sự phát triển của ấu trùng cua là 26 - 310 C. Như vậy, mặc dù có sự
Các yếu tố môi trường Thời gian đo Bể 1 Bể 2
Nhiệt độ (0C)
Sáng 28 - 29 27.5 - 28,5
Chiều 30 - 31 30 - 31
pH
Sáng 7.6 - 8 7.7 – 8.2
Chiều 7.7 - 8.5 7.7 – 8.2
24
biến động nhiệt độ của các nghiệm thức trong thí nghiệm nhưng nhiệt độ vẫn nằm
trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của ấu trùng cua.
1.1.2 pH
pH là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự phát triển của ấu trùng thủy
sản thông qua tính độc của các khí độc hay sự mất cân bằng ion trong nước. Bảng
4.1 cho thấy pH ở các bể không có sự chênh lệch lớn, dao động giữa sáng và chiều
là 7,6 – 8,5. Theo Trương Quốc Phú (2006) cho biết pH thích hợp cho các đối tượng
thủy sản nằm trong khoảng (6,5 - 9,0) nhưng phát triển tốt nhất từ 7,5 - 8,6. Như vậy
pH của các nghiệm thức trong thí nghiệm đều nằm trong khoảng thích hợp cho sự
phát triển của ấu trùng.
1.1.3 TAN (Total Amonia Nitogene)
Bảng 4.2: Các yếu tốmôi trường thủy lý hóa thí nghiệm 1
Các chỉ tiêu Bể 1(mg/l) Bể 2(mg/l)
NH4 0 – 4 0 – 4
NO2 0 – 0.5 0 – 1
NO3 0 – 5 0 – 5
TAN được sinh ra do quá trình phân hủy của protein, sản phẩm bài tiết của động vật,
thức ăn dư thừa,....Trong điều kiện nhiệt độ, pH của nước cao thì tính độc của TAN
tăng và sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của ấu trùng. Bảng 4.2 cho thấy, hàm lượng
trung bình của TAN tăng dần theo thời gian ương và tăng nhanh vào cuối chu kỳ
ương. Có thể nhận thấy rằng, hàm lượng TAN ở bể 1 và bể 2 bằng nhau. Nguyên
nhân có thể là do bể ương với mật độ cao (300/L) nên Artemia trong bể ương được
sử dụng hiệu quả dẫn đến hàm lượng TAN trong bể thích hợp cho ấu trùng. Tuy
nhiên, hàm lượng TAN giữa các bể không có sự chênh lệch nhau lớn và lần lượt bể
1 và bể 2 là (0 – 4)ppm. Trương Quốc Phú (2006) cho rằng hàm lượng TAN thích
hợp cho các loài thủy sản nên dao động trong khoảng 0,2 - 2ppm.
Trương Trọng Nghĩa (2005) cho rằng hệ thống lọc tuần hoàn dùng để ương ấu trùng cua ở
Việt Nam thì hàm lượng TAN có thể lên đến 5mg/L nhưng ấu trùng vẫn phát triển tốt. Tuy
nhiên, theo khuyến cáo của nhiều nghiên cứu trong sản xuất giống tôm biển thì hàm lượng
TAN tốt nhất nên duy trì ở mức nhỏ hơn 1ppm. Ngược lại, Nguyễn Cơ Thạch và ctv (2004)
cho rằng khi ương ấu trùng cua biển thì hàm lượng TAN nên nhỏ hơn 0,1mg/L. Trong thí
nghiệm này, hàm lượng cao hơn mức khuyến cáo, nhưng ấu trùng vẫn phát triển tốt.
1.1.4 N-NO2 (Nitrite)
Qua Bảng 4.2 cho thấy, hàm lượng N-NO2 trong môi trường nước ương ở bể 1 là
(0 – 0.5) ppm và bể 2 là (0 – 1)ppm. Có thể thấy rằng, bể 2 có mật độ cao hơn thì
25
hàm lượng đạm NO2 sẽ tăng hơn so với bể 1 có mật độ thấp. Tuy nhiên sự chênh
lệch này không đáng kể.
Theo Trương Quốc Phú (2006) cho biết, hàm lượng N-NO2 thích hợp cho ao nuôi
cũng như trong ương ấu trùng tôm cá nên nhỏ hơn 0,1ppm. Nguyễn Thanh Phương
và Trần Ngọc Hải (2004) cho biết đối với giáp xác nói chung, hàm lượng nitrite
được khuyến cáo không nên vượt quá 0,1mg/L. Nguyễn Cơ Thạch và ctv (2004) cho
rằng hàm lượng nitrite tốt nhất trong ương ấu trùng cua nên duy trì ở mức nhỏ hơn
0,1mg/L. Hàm lượng N-NO2 trong thí nghiệm cao hơn khuyến cáo nhưng ấu trùng
cua vẫn phát triển tốt do tính độc của N-NO2 còn tương tác với các yếu tố thủy lý,
hóa khác như nhiệt độ, pH và hàm lượng oxy hòa tan.
1.1.5 N-NO3 (NiTrate)
Qua Bảng 4.2 cho thấy, hàm lượng N-NO3 trung bình trong môi trường nước ương ở
bể 1 và bể 2 là (0 – 5) ppm. Như vậy thì kết quả của bể 1 và bể 2 bằng nhau, hàm
lượng N-NO3 chỉ báo trước sự phát triển của tảo và những ảnh hưởng của môi
trường cho nên hàm lượng N-NO3 trên không gây độc đến ấu trùng.
1.2 Tỉ lệ chuyển đoạn
Ấu trùng sau khi nở là zoae1 trải qua 5 lần lột xác trở thành zoae5 trong khoảng 9
ngày.
Bảng4.3: Tỉ lệ chuyển giai đoạn (zoae1-zoae5)
Theo mô tả của Ong (1964) ấu trùng cua biển trải qua 5 giai đoạn Zoae (Zoae1 –
Zoae5 ) với 5 lần lột xác vào khoảng thời gian 17 - 20 ngày. Như vậy, so với kết quả
bố trí thí nghiệm trước thì ấu trùng Zoae (Zoae1 - Zoae5 ) phát triển sớm hơn.
Ngày Giai đoạn chuyển (%)
1 100% Zoae 1
2 75% Zoae 2
3 100% Zoae 2
4 70% Zoae 3
5 100% Zoae 3
6 30% Zoae 4
7 100% Zoae 4
8 30% Zoae 5
9 100% Zoae 5
12 Xuất hiện Megalopa
26
1.3 Tỉ lệ sống
Qua Hình 4.1 cho thấy, tỉ lệ sống ở bể 2 là 24,5% cao hơn so với bể 1 là 16,3%. So
sánh về kết quả thu được cho thấy hiệu quả từ thí nghiệm thu được khá cao đạt năng
suất 48,9 – 73,5 ấu trùng zoae 5/L.
Nguyễn Thị Diễm (2002) khi ương ấu trùng cua Scylla paramamosain ở mật độ 50,
70 và 100 con/L với các loại thức ăn khác nhau cho tỉ lệ sống đến giai đoạn Zoae 5
của nghiệm thức sử dụng thức ăn tảo, rotifer và Artemia là 66% cao hơn so với
nghiệm thức sử dụng thức ăn đơn lẻ.
Trần Ngọc Hải và Trương Trọng Nghĩa (2004) khi nghiên cứu ảnh hưởng của mật
độ ương lên sự phát triển và tỉ lệ sống của ấu trùng cua biển Scylla paramamosain
trong mô hình nước xanh ở các mật độ 50, 70 và 100con/L cho kết quả tỉ lệ sống đến
giai đoạn Zoae-5 ở mật độ 100con/L là 66 ± 15,42% cao hơn so với 2 mật độ còn lại.
Trương Trọng Nghĩa (2004) khi ương ấu trùng cua Scylla paramamosain ở mật độ
từ 50-100con/L cho thấy, đến ngày thứ 15 sau khi ương thì tỉ lệ sống của ấu trùng ở
nghiệm thức mật độ 100con/L là 45 ± 8% cao hơn so với nghiệm thức mật độ
200con/L (30 ± 5%) 150con/L (28 ± 10%) và 50con/L (28 ± 12%). Tác giả này cho
rằng trong giai đoạn 6 ngày đầu luân trùng nên được cung cấp với mật độ 45con/L
và Artemia là 20con/L từ ngày thứ 6 trở về sau.
16.33
24.50
0
5
10
15
20
25
30
Bể 1 Bể 2
T
ỉ l
ệ
số
n
g
(%
)
Hình 4.1: Tỉ lệ sống ở giai đoạn Zoae-5 ở thí nghiệm 1
Trong ương ấu trùng thủy sản nói chung cũng như ấu trùng cua biển thì tỉ lệ sống là
kết quả của nhiều sự tác động của nhiều yếu tố từ khâu chuẩn bị nước ương, thức ăn
cho ấu trùng, kỹ thuật quản lý, chăm sóc, điều kiện môi trường và tính mùa vụ..
2. Thí nghiệm 2
27
2.1 Các yếu tố môi trường
Bảng 4.4: Các yếu tốmôi trường thủy lý hóa trong thí nghiệm 2.
2.1.1
Nhiệt độ, pH, Oxy
Qua Bảng 4.4 Cho thấy các yếu tố nhiệt độ và pH của 2 bể không có sự chênh lệch
lớn và sự biến động giữa buổi sáng và chiều là không đáng kể. Nhiệt độ cao và thấp
nhất giữa sáng và chiều trong cùng một bể cũng không lớn lắm. Nên nhiệt độ ở 2 bể
là nằm trong khoảng thích hợp là (27,5 – 310C), pH cao và thấp nhất giữa sáng và
chiều trong cùng một bể cũng không lớn lắm nên pH ở 2 bể dao động trong khoảng
(7,6-8,5). Như vậy, nhiệt độ và pH trong suốt quá trình thí nghiệm phù hợp cho sự
phát triển của ấu trùng cua.
Trong tự nhiên cũng như trong điều kiện ương nuôi, các yếu tố môi trường như nhiệt
độ, pH, độ mặn, hàm lượng đạm ammonia, nitrite,... ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh
trưởng, biến thái lột xác cũng như tỉ lệ sống của các giống loài thủy sản. Chen và
Jeng (1980) nhận thấy khi nhiệt độ càng cao thì thời gian lột xác, biến thái càng
nhanh, khoảng nhiệt độ thích hợp nhất là từ 26-300C. Wormoutdt và humbert (1994)
cho rằng quá trình lột xác của giáp xác chịu ảnh hưởng của yếu tố bên trong và bên
ngoài, khi nhiệt độ đạt đến mức thích hợp sẽ tăng số lần lột xác (trích dẫn bởi
Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2004). Ian M. Ruscoe et al (2004) khi
nghiên cứu ảnh hưởng kết hợp của nhiệt độ và độ mặn lên sinh trưởng và tỉ lệ sống
của cua tiền trưởng thành cho rằng nhiệt độ và độ mặn thích hợp để đạt năng suất
tối đa của chúng là 300C và 15-20%0, tuy nhiên nhiệt độ có ảnh hưởng lớn hơn so
với độ mặn.
Theo Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải (2004) cho rằng pH thích hợp trong
bể ương nên dao động trong khoảng 7,0-8,5. Nguyễn Thị Ngọc Diễm (2000) thì cho
biết ấu trùng cua có thể chịu đựng được pH thấp hơn 6,5.
Các chỉ tiêu môi trường Thời gian đo Bể 1 Bể 2
Nhiệt độ (0C)
Sáng 27.5 - 29 28.5-29
Chiều 30 - 31 29-31
pH
Sáng 7.6 - 8 7.6-8.2
Chiều 7.7 - 8,2 7.7-8.5
28
2.1.2 TAN (Total Amonia Nitogene)
Bảng 4.5: Các yếu tố môi trường thủy lý hóa.
Các chỉ tiêu môi trường Bể 1 Bể 2
NH4 2 – 5 2 – 5
NO2 0.2 – 0.5 0.2 – 0.5
NO3 0.3 – 0.5 0.3 – 0.5
Qua Bảng 4.5 cho thấy, hàm lượng TAN ở thí nghiệm 2 của bể 1 và bể 2 là (2 –
5mg/L). Nguyên nhân là do bố trí lại thí nghiệm 2 thì dùng 50% nước cũ lại nên
hàm lượng TAN tích tụ trong bể vẫn còn so với thí nghiệm 1.
Theo khuyến cáo của nhiều tài liệu sản xuất giống tôm biển thì hàm lượng TAN
trong bể ương nên thấp hơn 1mg/L. Trương Quốc Phú (2006) thì hàm lượng TAN
trong môi trường nên dưới mức 2ppm. Điều này cho thấy, hàm lượng TAN trong thí
nghiệm vẫn chưa vượt quá mức giới hạn ảnh hưởng đến sự phát triển của ấu trùng.
Tuy nhiên trong điều kiện thí nghiệm môi trường thuận lợi nên thích hợp cho ấu
trùng phát triển.
2.1.3 N-NO2 (Nitrte)
Qua Bảng 4.5 cho thấy, hàm lượng N-NO2 ở thí nghiệm 2 ở bể 1 và bể 2 là (0.2 –
0.5mg/L) và hàm lượng này tăng dần theo thời gian. Trong giai đoạn này, khi ấu
trùng Zoae 5 chuyển sang Megalopa thì thức ăn cung cấp gồm có Artemia, thức ăn
chế biến. Với các loài thức ăn này thì sẽ dẫn đến tích lũy hàm lượng N-NO2 cũng
như hàm lượng đạm khác trong bể ương tăng nhanh. Tuy nhiên trong ương ấu trùng
cua chưa có tài liệu nên mức giới hạn cho phép hàm lượng N-NO2 chỉ khuyến cáo
đối các loài ấu trùng giáp xác nói chung nên khống chế hàm lượng N-NO2 dưới mức
0,3 mg/L. Như vậy, hàm lượng N-NO2 trong thí nghiệm 2 không chênh lệch quá lớn
so với mức khuyến cáo.
Nhìn chung, các yếu tố môi trường ương trong thí nghiệm này là tương đối phù hợp
cho ấu trùng phát triển.
2.1.4 N-NO3 (NiTrate)
Qua Bảng 4.5 cho thấy, hàm lượng N-NO3 ở thí nghiệm 2 ở bể 1 và bể 2 là (0.3 –
0.5)mg/L và hàm lượng này tăng dần theo thời gian. Dự báo trước sự phát triển của
tảo và ảnh hưởng của môi trường, cho nên hàm lượng N-NO3 không có tính năng
gây độc trong ương ấu trùng cua biển.
29
2.2 Tỉ lệ chuyển đoạn
Bảng 4.6: Tỉ lệ chuyển giai đoạn (zoae5-cua1)
Trong quá trình bố trí thí nghiệm, ngày thứ 9 là 100% cua1. Ấu trùng Zoae5 biến thái
thành megalop (M) và giai đoạn này kéo dài 8-11 ngày, sau đó ấu trùng trở thành
cua con (Ong, 1964). Như vậy, kết quả bố trí thí nghiệm từ zoae5 đến megalop phát
triển sớm hơn.
2.3 Tỉ lệ sống từ Zoae 5-Cua1
Qua Hình 4.2 cho thấy, mật độ ương 30con/L bể 1 là 5,29% cao hơn so với bể 2 là
4,65%. Trong quá trình ương ấu trùng cua biển, tỉ lệ sống giảm dần qua mỗi giai
đoạn biến thái. Sự thấy rỏ nhất là quá trình chuyển giai đoạn Zoae5 sang Megalopa.
4.65
5.29
4.2
4.4
4.6
4.8
5
5.2
5.4
Bể 1 Bể 2
Tỉ
lệ
s
ốn
g
(%
)
Hình 4.2: Tỉ lệ sống ở giai đoạn Cua 1 ở thí nghiệm 2
Điều này có thể do đây là giai đoạn biến thái lớn nhất trong các giai đoạn ấu trùng vì
ấu trùng chuyển từ bơi lội thụ động sang chủ động và chuyển từ bắt mồi thụ động
sang bắt mồi chủ động. Sự hình thành các phụ bộ như càng, sự gia tăng kích thước
đã đòi hỏi ấu trùng tích lũy đầy đủ dinh dưỡng về chất và lượng, đồng thời môi
trường sống phải phù hợp cho sự biến thái. Do đó, sự hao hụt thường lớn ở giai đoạn
này và việc tìm kiếm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tỷ lệ sống trong giai đoạn
biến thái này là rất cần thiết.
Ngày Giai đoạn chuyển (%)
1 Xuất hiện Megalopa
3 100 % Megalopa
5 Xuất hiện cua1
9 100% cua 1
30
Tóm lại: Qua kết quả thí nghiệm 1 và thí nghiệm 2 cho thấy, theo quy trình nước
trong hở, có sục khí liên tục, hoàn toàn có thể ương mật độ cao từ Zoae 1 – Zoae 5
và khi chuyển sang giai đoạn Megalopa thì nên ương ở mật độ thưa.
So sánh với kết quả nghiên cứu trước đây của Nguyễn Thị Diễm (2000) ương ở mật
độ 100con/L thì tỉ lệ sống đến giai đoạn Cua – 1 đạt 9,1%; Trương Trọng Nghĩa
(2004) ương với mật độ từ 50 – 200 con/L cho tỉ lệ sống đến ngày ương thứ 22 ở
mật độ 100-200 con/L là 5% và 50 con/L là 4%; Trần Ngọc Hải và Trương Trọng
Nghĩa (2004) ương ấu trung cua ở mật độ từ 50 – 100 con/L cho tỉ lệ sống ở mật độ
100 con/L tốt nhất 9,11%. Như vậy, tỉ lệ sống đạt được trong nghiên cứu này ở 2 thí
nghiệm là triển vọng tích cực cho ứng dụng theo quy trình sản xuất trên quy mô
rộng hơn.
31
Chương V
KẾT LUẬN – ĐỀ XUẤT
1. KẾT LUẬN
- Ương ấu trùng cua biển theo quy trình nước trong hở có sục khí liên tục, từ giai
đoạn zoae 1 – zoae5 có thể bố trí với mật độ ương 300 ấu trùng/lít, tỉ lệ sống đạt
được từ 16,3 - 24,5 %.
- Ương ấu trùng cua biển theo quy trình nước trong hở có sục khí liên tục, từ giai
đoạn zoae5 – cua1 có thể bố trí với mật độ ương 30 ấu trùng/lít, tỉ lệ sống đạt được
từ 4,65 - 5,29 %.
- Có thể ương ấu trùng cua biển với mật độ cao (đến 300 cá thể /l) ở giai đoạn Zoae
1-Zoae 5 sau đó sang thưa nhằm giảm chi phí sản xuất.
- Tổng thời gian ương từ khi bố trí thí nghiệm Zoae1 (Z1) đến khi kết thúc thí
nghiệm là 21 ngày (100% ấu trùng biến thái thành cua con).
2. ĐỀ XUẤT
- Cần nghiên cứu sâu hơn kỹ thuật sản xuất giống ương ấu trùng cua biển theo quy
trình nước trong hở từ giai đoạn zoae 1 – cua1 để nâng cao tỷ lệ sống của ấu trùng.
- Cần nghiên cứu sâu hơn nhằm nâng cao tỉ lệ sống của ấu trùng cua biển đặc biệt từ
giai đoạn Zoae5 – cua1.
32
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Baylon, J.C., and Failaman, A.N. 2001. Effect of salinity on survival and
metamorphosis from Zoea to Megalopa of Scylla serrata. Forskal (Crustacea:
Portunidae) Asian Fish. Sci 14, 143-152.
2. Boyd, C. E. 1990. Water Quality in Ponds for Aquaculture, Alabama Agri-
cultural Experiment Station, Auburn University, Alabama, U.S.A., 83 pp.
3. Chen, H.C. and Jeng, H.K. Study on the larval rearing of mud crab Scylla
serata. Chine Fisheries Monthy, 329, 3-8.
4. Cowan, L. 1984. Crab farming in Japan and the Philippine. Queensland
department of indutries.
5. Đạt, Đ.H.,(1992). Biology and culture of the mud crab. A training course on
Aquaculture in Mekong Delta, Vietnam.
6. Dunstan G.A., Volkman, J.K., Barrett, S.M. and Garland, C.D. 1993.
Changes in the lipid composition and maximisation of the polyunsaturated
falty acid content of three microalgae grown in mass culture. Journal of
Applied Phycology, 5, 71-83.
7. Hải, N.T., Nghĩa, T.T., Effect of rearing densities on development and survival of
mud crab (scylla paramamosain) larvae in green-water system in Vietnam. In:
Scientific magazine of Can Tho University – Aquaculture section, pp. 187-192.
8. Heasman, M.P, and Fielder, D.R, 1983 . Laborraatory spawing mas larval rearing
of the mangrove crab Scylla serrata, from list Zoea: from crab stage Aquaculture.
34. 303 – 316.
9. Hill, BJ., 1984. Aqualculture of mud crab the potential for Aqualculture in
the Queenland. Development of Primary Industries Publication, pp. 29 – 45
10.Hoàng Đức Đạt (2005) Kỹ thuật nuôi cua biển.
11.Hoàng Đức Đạt., (1992) Biology anh culture of the mud crad. A training course
on Aquaculture in Mekong Delta, Vietnam.
12.
13.
14. Jones, D.A., Kanazawa, A.and Ono, K. 1997. Studies on the nutritional
requrememts of the larval stages of penaeus japonicus using micro
encapsulated diets. Marine Biology, 54,261
33
15.Keenan C.P and Blackshaw A. (1997). Mud crab aqualculture and biology.
Proceeding of an international scientific forum. Darwn, Australia, 21-24 April
1997 ACIAR proceeding No 78,95-98.
16.Keenan C.P and Blackshaw A. (Eds). Mud crab aqualculture and biology.
Proceeding of an international scientific forum. Darwn, Australia, 21-24
April 1997 ACIAR proceeding No 78,95-98.
17.Le Vay, L. 2001. Ecology and management of mud crab Scylla Spp. Asian
Fisheries Science, pp: 101-111. Cowan, L. 1984. Crab farming in Japan, Taiwan,
and the Philippines, Queensland department of industries.
18.Li, S, Wang, G, Tang, H ,and Lin, Q. 1995. Comparative studies on the
hydrolytic enzyme activities for the mud crab, Scylla serrata, during
embryonic development. Journal of Xiamen University(Natural Science), 34,
970-974(In Chinese)
19. Lin, Q, Li, S. And Wang, G.Z. 1994. Studies on biochemical compositions
during ovarian development of mud carb, Scylla serrata. Journal of Xiamen
University (Natural Science),33(sup.),116-120(In Chinese)
20.Nguyễn Cơ Thạch (2007) Sản xuất giống và nuôi cua xanh thương phẩm ở Việt
Nam.
21.Nguyễn Cơ Thạch, 1998. Quy trình sản xuất cua giống Scylla serrata phù hợp ở
vùng có điều kiện sinh thái khác nhau. Trung tâm nghiên cứu thủy sản III
22.Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải (2004). Giáo trình kỹ thuật sản xuất
giống và nuôi giáp xác. Khoa thủy sản - Đại Học Cần thơ.
23.Nguyễn Thanh Phương, 1999. Giáo trình chuyên môn “Kỹ thuật nuôi hải sản”.
24.Nguyễn Thị Ngọc Diễm ,2000. Thực nghiệm ương nuôi ấu trùng cua biển
trong môi trường nước xanh. Luận văn tốt nghiệp Đại học, ĐHCT
25. Ong, K.S., 1964. The early developmental stages of Scylla serrata Forskal (Crustacea:
Portunidae) reared in the laboratory. p. 429-443 In: Indo-Pacific Fishery Council, 11 (2).
26. Ong, K.S., 1966. Observation the postlarval life history of Scylla serrata Forskal reaed
in the laboratory. Malaysian Aquaculture Journal 45 (4) 429-443.
27.Phạm thị Tuyết Ngân (2005), ảnh hương của chế độ dinh dưỡng lên chất lượng
bố mẹ và ấu trùng cua biển, Báo cáo đề tài cấp bộ.
28.Prasd, P.N et al, 1989. Maturity anh breeding of the mud Crad, Scylla serrata
(Forskal), pp 341-349.
29.Trần Ngọc Hải, Nguyễn Thanh Phương và Trương Trọng Nghĩa, 1999. Bài giảng
kỹ thuật sản xuất giông thuỷ sản nước lợ. Khoa Thủy sản. 125 trang.
34
30.Trần Ngọc Hải, Trương Trọng Nghĩa (2004). Ảnh hưởng của mật độ ương lên sự
phát triển và tỷ lệ sống của ấu trùng cua biển trong mô hình nước xanh. Tạp chí
khoa học ĐHCT, 2004.
31. Trino, A.T, O.M. Milliamena and C. Keenan. 1998. Commerial evaluation of
monosex pond culture of the mudcrab Scylla species at three stocking densities in
the Philippines. Aquaculture 174: 109-118.
32.Trương Quốc Phú, Nguyễn Lê Hoàng Yến và Huỳnh Trường Giang (2006). Giáo
trình quản lý chất lượng nước nuôi trồng thủy sản. Khoa thủy sản - Đại Học Cần
thơ.
33.Vũ Ngọc Út (2003), ảnh hưởng của mật độ mặn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của
cua biển (Scylla paramamosain) tạp chí khoa học – Đại Học Cần Thơ, quyển 1,
tháng 4/2006 số đặc biệt chuyên đề thủy sản, trang 250-260.
34.Zeng, C and S. Li. 1992. Experimental ecology study on the larvae of the mud
crab Scylla serrata. Effects of diets on survival and development of larvae.
Transaction of Chinese CrustaceanSociety. 3: 85-94 (in Chinese).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tlmavancanh_5951.pdf