Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác này, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra
mục tiêu trong những năm tới đây là phải: "Tiếp tục tạo sự chuy ển biến mạnh mẽ trong
công tác thi hành án dân sự, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án, giải quy ết căn bản
tình trạng án tồn đọng. Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án
dân sự, nâng cao vai trò trách nhiệm của các cơ quan thi hành án". Nhiều năm qua,
Chính phủ đã xác định công tác thi hành án dân sự là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm và đã đưa ra nhiều giải pháp hiệu quả nhằm tạo sự chuy ển biến cơ bản trong công tác
này. Do vậy, công tác thi hành án dân sự trong những năm qua đạt được một số kết quả
đáng khích lệ, mà kết quả nổi bật nhất theo đánh giá của Chính phủ là: "Hệ thống cơ quan
thi hành án dân sự được hình thành trong cả nước, công tác thi hành án dân sự đã được
triển khai và hoạt động có hiệu quả bước đầu".
18 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 9544 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực tiễn thi hành án dân sự ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0
Tiểu luận
Thực tiễn thi hành án dân sự ở
Việt Nam
1
Mục lục
1. Phần mở đầu ............................................................ 1
2. Phần nội dung .......................................................... 2
2.1. Thực trạng ......................................................... 2
2.2. Nguyên nhân ..................................................... 9
2.3. Giải pháp ......................................................... 12
3. Kết luận ................................................................... 15
2
PHẦN MỞ ĐẦU
Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp hành nghiêm
chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Vì vậy, hoạt động
thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ vững kỷ cương phép nước,
củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp
được thực thi trên thực tế. Hiến pháp 1992 khẳng định: "Các bản án và quyết định của
Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người
và đơn vị hữu quan nghiêm chỉnh chấp hành".
Thi hành án dân sự là một bước cuối cùng trong tố tụng dân sự . Và đây thật sự là một
giai đoạn không được chúng ta chú ý tới một cách đúng mực. Điều này có thể được lí
giải bởi rất nhiều người trong chúng ta đã nghĩ một cách đơn giản rẳng khó khăn chủ yếu
tập trung ở giai đoạn điều tra, xét xử còn thi hành án thì cứ theo bản án mà làm. Nhưng
thực tế không phải như vậy. Qua bài tiểu luận nhỏ này, tôi xin phép được trình bày một
vài vấn đề về thực tiễn thi hành án dân sự ở Việt Nam để chúng ta có một cái nhìn sâu
sắc hơn về thủ tục đặc biệt này.
3
PHẦN NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
Khi một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và được đem ra thi hành thì hầu hết
các bản án đều phải thi hành về hình phạt tiền, tịch thu tài sản,truy thu tiền, tài sản bất
chính, xử lí vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình
sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính …Như vậy, công việc của cơ quan
thi hành án quả không phải ít. Mặt khác, thi hành án là công việc liên quan trực tiếp đến
quyền lợi và nghĩa vụ của công dân vể tài sản và những giấy tờ quan trọng khác. Do đó
sẽ vấp phải chống đối của người phải thi hành án. Điều này rất khó tránh khỏi.
Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác thi hành án, Đảng và Nhà nước ta đãn
cho ban hành nhiều quy phạm pháp luật điều chỉnh như Pháp lệnh thi hành án dân sự
2004 và sau này là luật thi hành án dân sự. Qua quá trình thực hiện, chúng ta đã cơ bản
hoàn thành nhiệm vụ. Theo thống kê của Bộ Tư Pháp năm 2009, các cơ quant hi hành án
dân sự thụ lý 662961 việc, đã thi hành xong 354490 việc, đạt 81,05% số việc có điều kiện
thi hành. Tuy nhiên, tồn tại lớn nhất trong công tác thi hành án dân sự những năm qua là
tình trạng án "tồn đọng" kéo dài, với số lượng lớn ngày càng tăng, song chưa có biện
pháp hữu hiệu để giải quyết. Theo một thống kê tại Hội nghị chuyên đề triển khai công
tác thi hành án dân sự năm 2010 khu vực phía Bắc do Bộ Tư pháp tổ chức mới đây, hiện
nay cả nước còn 270.925 án tồn đọng. Trong đó, 188.000 việc chưa có điều kiện thi hành
án; hơn 89.000 việc người phải thi hành án ốm nặng, chưa xác định được nơi cư trú,
người phải thi hành án không có tài sản; 98.754 án tồn đọng vì có kháng nghị; tuyên
không rõ ràng, không phù hợp với thực tế, tài sản kê biên chưa xử lý được hoặc có khiếu
nại.
Ngoài ra, thực tế thi hành pháp luật đang tồn đọng trên dưói 30 vạn vụ việc- một con
số nhức nhối đến khó tin, tồn tại suốt nhiều năm qua, bất chấp sự hô hào, chỉ đạo quyết
liệt từ các cơ quan nhà nước. Theo thống kê của các cơ quant hi hành án thì chưa đầy
50% bản án có hiệu lực pháp luật được thi hành . Năm 2005 cả nước có 327.658 vụ tồn
đọng chiếm 58,38%, năm 2006 có 331.092 vụ tồn đọng chiếm 54,99% , năm 2007 có
4
331.433 vụ chiếm 48,04%, năm 2008 có 313.248 vụ , chuyển sang năm 2009 có 292.000
vụ việc tồn đọng .
Thanh tra Bộ Tư pháp vừa tiến hành thanh tra công tác thi hành án dân sự tại một số
địa phương. Kết quả cho thấy số án chưa có điều kiện thi hành còn nhiều, tỷ lệ hồ sơ
chưa có điều kiện thi hành trên tổng số hồ sơ còn phải thi hành ở mức cao.
Theo Quyết định 02 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, những việc chưa có điều kiện thi hành
gồm: Hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án , trả lại đơn yêu cầu thi hành án . Ngoài
ra, những việc mà bản án tuyên chưa rõ, chưa thống nhất ý kiến giữa các cơ quan liên
quan đến thi hành án , tài sản kê biên chưa xử lý được hoặc tài sản tạm dừng để giải
quyết khiếu nại cũng được xem là án chưa có điều kiện thi hành.
Số lượng không nhỏ án chưa thi hành được thuộc diện chủ động ra quyết định thi hành
án nhưng người phải thi hành án đi tù không có tài sản, không có người thân. Những hồ
sơ thuộc diện này được xếp vào dạng theo dõi riêng và sáu tháng xác minh một lần. Tuy
nhiên, việc xác minh này chỉ mang tính chiếu lệ chứ không hiệu quả thực chất vì không
thu được tiền. Khoản 2 Điều 44 Luật thi hành án qui định “Việc xác minh phải được lập
thành biên bản, có xác nhận của tổ trưởng dân phố, UBND, công an cấp xã hoặc cơ quan,
tổ chức nơi tiến hành xác minh”. Đáng nói, trong hàng nghìn vụ án tồn, không ít trường
hợp chưa thi hành được do cơ quan thi hành án chưa làm tốt việc xác minh điều kiện thi
hành án hay xác minh không đúng trình tự, thủ tục. Khi giải quyết hồ sơ người phải thi
hành án là doanh nghiệp nhưng đang làm thủ tục phá sản, giải thể, có chấp hành viên lại
chỉ dựa trên hồ sơ photo của doanh nghiệp cung cấp, mà không làm việc với cơ quan có
thẩm quyền giải quyết việc giải thể, phá sản. Có trường hợp địa phương cung cấp là
người phải thi hành án có nhà đất, nhưng chấp hành viên cho rằng, nhà đất quá lớn so
với nghĩa vụ phải thi hành án nên không xác minh tiếp nhà đất là của ai. Có trường hợp
người phải thi hành án làm nghề tự do, không có căn cứ xác định thu nhập nhưng chấp
hành viên không tiến hành xác minh phương tiện lao động mà người phải thi hành án
đang sở hữu là của ai (như người phải thi hành án là lái xe tự do, mà cơ quan thi hành án
không xác minh ôtô đó là của ai). Thậm chí, còn có trường hợp chấp hành viên không xác
minh trực tiếp tại địa phương, mà chỉ thông qua lời trình bày của người phải , thi hành án.
Qua thanh tra còn phát hiện một số hồ sơ thể hiện chậm xác minh điều kiện thi hành án
như xác minh lần đầu sau ba tháng, thậm chí sau một năm, kể từ ngày ra quyết định thi
5
hành án. Trong việc trả lại đơn yêu cầu thi hành án khi vụ việc chưa có điều kiện thi
hành, có chấp hành viên còn cho rằng đương sự không thúc giục, không có khiếu nại gì
thì… không cần phải theo dõi việc gửi quyết định trả lại đơn yêu cầu!
Có những vụ việc, chấp hành viên chỉ quan tâm tống đạt giấy tờ liên quan cho người
phải thi hành án, mà không gửi cho người được thi hành án và những người liên quan,
dẫn đến khiếu nại. “Cẩu thả” trong thi hành công vụ còn thể hiện ở việc ủy thác thi hành
án. Thanh tra Bộ đã phát hiện một số trường hợp cơ quan thi hành án dân sự nơi nhận
không nhận được hồ sơ ủy thác, nhưng trong hồ sơ thi hành án vẫn được lưu đầy đủ.
Người phải thi hành án không có tài sản hoặc đang đi tù, không có điều kiện thi hành án
là căn cứ để hoãn thi hành án nhưng không ít cơ quan thi hành án “quên” ra quyết định
hoãn thi hành. Thanh tra Bộ Tư pháp đã kiến nghị qui định cụ thể thời hạn xác minh với
trường hợp án chưa có điều kiện thi hành do người phải thực hiện thi hành án không có
địa chỉ, không còn nhà hoặc tài sản tại địa chỉ cư trú mà Tòa đã tuyên. Ngoài ra, dù Luật
Thi Hành Án Dân Sự đã có qui định trại giam nơi người phải thi hành án chấp hành hình
phạt tù có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án nhưng chưa qui định cơ quan
này phải thông báo nơi người phải thi hành án chấp hành hình phạt tù cho cơ quan thi
hành án biết, cũng cần được qui định cụ thể.
Trong các vụ án hình sự, có ba hình thức xử lý tang, tài vật là tòa tuyên sung công,
tuyên tiêu hủy và tuyên trả lại cho bị cáo, người liên quan.
Nhiều trường hợp việc thi hành quyết định trả tài sản của tòa đã khiến cơ quan thi hành
án phải dở khóc dở cười…ta hãy xét tình huống cụ thể sau để có cái nhìn chi tiết, sâu sắc
hơn.
Trước đây, xử vụ Bùi Thanh Chương phạm tội chứa mại dâm, TAND tỉnh Quảng Ninh
đã nhận định: “… Sau khi bị công an kiểm tra bắt quả tang, thu giữ tại chỗ một bao cao
su OK đã sử dụng. Khám xét nhà Chương, công an thu giữ 40 bao cao su OK chưa sử
dụng và 100.000 đồng là tiền mua dâm của khách”…
Trong phần quyết định của bản án, tòa này đã tuyên tịch thu sung công 100.000 đồng
nhưng trả lại cho vợ của Chương một giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và… 40 bao
cao su OK. Theo tòa, sở dĩ phải trả lại số tài sản này là vì 40 bao cao su đó vợ bị cáo
6
được trạm y tế phát để thực hiện việc kế hoạch hóa gia đình, không liên quan đến hành vi
phạm tội của Chương. Theo quy định, tòa không có quyền xử lý nào khác ngoài việc
tuyên trả lại cho chủ sở hữu là vợ của Chương.
Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, Thi hành án tỉnh Quảng Ninh đã tống đạt quyết
định thi hành án. Hơn một năm sau, đương sự đến nhận tài sản. Do nhà cách trung tâm
tỉnh khá xa nên đương sự phải mất một ngày ròng đi xe đò mới đến nơi. Theo đương sự
này, nội tiền mua vé xe từ nhà lên cơ quan thi hành án và ngược lại đã gấp khoảng bốn
lần giá trị của 40 chiếc bao cao su OK trên. Đó là chưa kể hầu hết số lượng bao cao su đó
đã không còn sử dụng được do bị… rách vỏ bao vì không được bảo quản tốt trong một
thời gian cũng tương đối dài.
Một chấp hành viên có thâm niên làm việc hơn 20 năm tại TP.HCM kể rằng những vụ
việc thật như đùa trên không phải là hiếm. Ông từng thi hành một bản án mà tòa tuyên trả
cho đương sự một… đôi dép xốp cũ. Đương sự này lại ở cách trung tâm TP.HCM hơn
100 km nên cuối cùng không đến nhận tài sản, cũng không ủy quyền cho ai đến lấy khiến
vụ việc thi hành án phải ách lại…
Rất nhiều vụ việc người liên quan đang bị giam giữ nên việc thi hành dứt điểm bản án
gây nhiều khó khăn đối với cơ quan thi hành án. Chẳng hạn trước đây, TAND quận
Thanh Xuân (TP Hà Nội) tuyên trả cho một bị cáo một máy điện thoại di động cũ và
chiếc ví trị giá khoảng 10.000 đồng. Khi chi cục thi hành án quận này làm văn bản sang
trại giam hỏi ý kiến thì nhận được bút phê của phạm nhân: “Tôi không ủy quyền cho ai vì
chờ khi nào thụ án xong tôi sẽ trực tiếp đến lấy lại tài sản”. Khổ nỗi phạm nhân phải thụ
án tới… bảy năm tù nên cơ quan thi hành án sẽ phải xếp hồ sơ, dài cổ ngồi chờ.
Theo quy định hiện hành, khi tòa tuyên trả những vật dụng dù giá trị rất nhỏ, không còn
sử dụng nhưng thi hành án vẫn phải làm các bước xác minh nơi bị cáo đang cải tạo để hỏi
ý kiến. Sau ba tháng từ ngày hỏi ý kiến mà đương sự không có ý kiến thì cơ quan thi
hành án sẽ định giá tài sản đó để sung công. Nếu không còn giá trị sử dụng thì tiêu hủy,
còn giá trị thì phải bán đấu giá, lấy số tiền đó gửi vào ngân hàng và năm năm sau mới có
thể mới sung công.
7
Nhiều chấp hành viên đã than thở rằng quy định trên là máy móc, làm khó cho cơ quan
thi hành án. Nếu không sửa lại các quy định cho hợp lý hơn thì lượng vụ việc thi hành án
tồn đọng sẽ ngày càng trầm trọng. Theo các chấp hành viên này, những tài sản giá trị nhỏ
hoặc sắp hết giá trị sử dụng… thì tòa được quyền tuyên tịch thu, tiêu hủy. Những tang, tài
vật tuyên trả cho bị cáo nhưng đến lúc thi hành không còn giá trị sử dụng nữa thì cơ
quant hi hành án có quyền tiêu hủy.
Theo Điều 55 Luật Thi hành án, chỉ được ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án
địa phương nơi người phải thi hành án cư trú. Cho nên trong trường hợp người được nhận
tài sản nhưng không phải là người phải thi hành án thì không thể ủy thác được. Vì giá trị
tài sản quá nhỏ nên người được nhận lại tài sản cũng không muốn mất công đi lấy thì cơ
quan thi hành án phải cử cán bộ trực tiếp đi tìm người này để trả lại. Như vậy sẽ rất mất
công và tốn rất nhiều ngân sách của nhà nước.
Khi thực thi các quyết định sung công tang, tài vật của tòa, cơ quan thi hành án gặp
không ít khó khăn, có khi bế tắc.
Khi quyết định tuyên sung công tài sản, cơ quan thi hành án cũng phải thông báo cho
đương sự biết. Từ chuyện này, cơ quan thi hành án gặp một vướng mắc không nhỏ là rất
khó xác định địa chỉ của đương sự. Đến khi xác định được rồi thì cũng trần ai, chưa chắc
giải quyết xong.
Luật Thi hành án dân sự quy định khi người phải thi hành án chuyển trại giam, được
miễn giảm án, miễn chấp hành hình phạt hoặc đã chết thì giám thị trại giam phải có văn
bản thông báo cho cơ quan thi hành án biết. Trên thực tế quy định này hầu như không
được thực hiện nên khi cơ quan thi hành án cần liên hệ với người được thi hành án thì rất
khó khăn.
Theo nhiều chấp hành viên, còn một thực tế là khi giải quyết án, vì thiếu kho bãi nên cơ
quan chức năng phải thuê người trông coi, bảo quản tang, tài vật. Gặp trường hợp vụ án
bị kéo dài, đến khi chuyển giao sang cơ quan thi hành án sung công thì tài sản đã hư
hỏng, mục nát, mất giá trị sử dụng. Khi phát mãi, số tiền thu được không đủ trả thù lao
cho người trông giữ, lúc đó cơ quan thi hành án lại phải lấy tiền từ ngân sách để chi trả…
8
Dù quy trình thi hành án đã được quy định khá cụ thể và chặt chẽ trong Luật Thi hành
án dân sự , nhưng nhiều khi chấp hành viên đành chịu “bó tay” khi “đương đầu” với
những “thách thức” của thực tiễn và đương sự...
Vẫn tưởng tống đạt giấy tờ là việc “dễ như chơi” vì đã được qui định rõ ràng trong luật
và các nghị định hướng dẫnthi hành. Tuy nhiên, thực tế phức tạp của công tác thi hành án
đã khiến nhiều chấp hành viên rơi vào tình trạng “dở khóc dở cười” khi không thể xác
định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc xác định được địa chỉ thì không tìm
được người phải thi hành án. Thậm chí, nhiều trường hợp chấp hành viên đã trực tiếp
tống đạt giấy tờ nhưng đương sự phủ nhận để khiếu nại, khiếu kiện chấp hành viên
nhằm... không cho thi hành án.
Thực tế hiện nay, nhiều đương sự không chỉ cư trú ở Việt Nam mà còn cư trú tại nhiều
quốc gia khác nhau nên việc tống đạt giấy tờ thi hành án phải tuân thủ các qui định liên
quan đến thủ tục tố tụng dân sự, chứ không có qui định riêng về tống đạt giấy tờ thi hành
án đối với đương sự ở nước ngoài làm mất thời gian, công sức của cơ quant hi hành án.
Đó là chưa kể đến thái độ tiêu cực của người phải thi hành án.
Vốn không mấy khi được đương sự “ưu ái”, các chấp hành viên khi thi hành nhiệm vụ
còn gặp phải không ít cản trở, nhất là khi họ phải giao tài sản quá lớn.
Rất nhiều trường hợp cơ quan thi hành án chuẩn bị cưỡng chế mới nhận được yêu cầu
hoãn hoặc kháng nghị của TANDTC, VKSNDTC hay do người phải thi hành án khiếu
nại, người có thẩm quyền giải quyết yêu cầu dừng . Việc cưỡng chế đương nhiên phải
dừng, tốn kém về kinh phí không nhỏ, nhưng không bằng việc hình thành nên “thái độ
coi thường pháp luật” từ phía người phải thi hành án.
Vấn dề kê biên tài sản cũng gặp không ít khó khăn. Chẳng hạn như khi đối tượng kê
biên là một căn nhà mua nhiều lần chưa trả hết tiền hay đất canh tác bị bỏ hoang hóa
nhiều năm hay đối với những trường hợp bảo lãnh thương mại rất khó áp dụng biện pháp
kê biên. Theo cơ chế luôn bảo vệ khách hàng, ngân hàng sẽ cho rằng, tài sản đã được thế
chấp nợ vay, khách hàng không vi phạm hợp đồng nên không tích cực hợp tác với cơ
9
quan thi hành án. Thậm chí, có hiện tượng không ký được hợp đồng định giá xuất phát từ
sự “không thống nhất giá giữa chấp hành viên và đương sự”.
Ngoài ra, còn rất nhiều trường hợp đương sự do không có đủ tài sản để thi hành án nên
phạm tội . Điều này gây ra những tiêu cực trong xã hội và phải chăng cơ quant hi hành án
của chúng ta phải mang điểu tiếng?. và cũng không hiếm trường hợp không có sự thống
nhất giữa tòa án và cơ quan thi hành án. Sự khác nhau giữa thực tế sự việc và bản án mà
tòa đã tuyên gây nên những tình huống “dở khóc dở cười” mà người hứng chịu không
phải ai khác mà chính là coq quant hi hành án.
Từ thực tiễn thi hành Luật THADS 9 tháng qua, ta mới thấm thía lưu ý của Bộ Tư
pháp Hà Hùng Cường rằng, “Luật THADS chưa phải “cây gậy thần” để giải quyết hết
những vướng mắc trong công tác THADS”. Dù có luật thì từ bản án đến thực tiễn hóa ra
là một chặng đường khá xa.
10
II. NGUYÊN NHÂN CỦA VẤN ĐỀ
Vậy đâu là nguyên nhân cho những bất cập trên?
Mỗi năm Cơ quan thi hành án trong cả nước đưa ra thi hành hàng chục nghìn bản án,
quyết định dân sự đã có hiệu lực của Tòa án. Trong đó phần lớn việc thi hành án là thuận
lợi, đương sự tự nguyện thi hành. Nhưng cũng còn số lượng không nhỏ các vụ án mà Cơ
quan thi hành án còn gặp nhiều khó khăn khi thi hành án. Những khó khăn đó thể hiện ở
nhiều dạng khác nhau, nhiều lý do khác nhau như:
1. Do bên phải thi hành án không có khả năng để thi hành án, không có tài sản để thi
hành án.
2. Do bên phải thi hành án không chịu thi hành án, mặc dù quyết định của bản án là đúng
pháp luật và đương sự có khả năng thi hành án. Nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức
pháp luật của đương sự không cao, họ nêu lý do việc xét xử của Tòa án là không đúng
nên còn đang khiếu nại để không chịu thi hành án, có trường hợp Tòa Dân sự Tòa án
nhân dân tối cao đã có công văn trả lời khiếu nại của họ, nhưng họ vẫn tiếp tục khiếu nại
và cố tình tìm mọi cách để không chịu thi hành án, Cơ quan thi hành án báo nhưng không
đến để thi hành án, có trường hợp chống lại việc thi hành án. Có một số cơ quan, đoàn thể
nhận đơn khiếu nại, thậm chí đơn kêu cứu khẩn cấp của đương sự lại hiểu nhầm là việc
xét xử của Tòa án là không đúng, gây oan sai cho đương sự nên đã có ý kiến can thiệp
việc thi hành án. Có những vụ án chính quyền địa phương không ủng hộ việc thi hành án,
hoặc gây khó khăn cho việc thi hành án mặc dù việc xét xử của Tòa án là đúng pháp luật.
3. Có những vụ án cơ quan thi hành án đang tiến hành thi hành án, có trường hợp đang
làm các thủ tục chuẩn bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án thì lại có công văn yêu
cầu cơ quan thi hành án ra quyết định tạm hoãn thi hành án trong thời hạn 3 tháng (năm
1998 là 159 vụ; năm 1999 là 122 vụ; năm 2000 là 149 vụ; năm 2001 là 186 vụ và 5 tháng
đầu năm 2002 là 66 vụ. Số liệu này của Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng chỉ xấp xỉ số
liệu của Tòa án nhân dân tối cao). Ngoài ra, việc kiểm sát thi hành án và cơ quan quản lý
thi hành án cấp trên rút hồ sơ từ cơ quan thi hành án cấp dưới để xem xét khiếu nại của
đương sự về thi hành án, số lượng những việc này tuy không nhiều so với tổng số hàng
chục nghìn vụ án phải thi hành.
11
4. Có một số bản án, quyết định dân sự mà việc xét xử chưa chính xác, còn sai sót hoặc
tuyên án không rõ ràng nên đương sự còn khiếu nại, cơ quan thi hành án không thi hành
được.
5. Việc tổ chức thi hành án của cơ quan thi hành án cũng có sai sót, không thực hiện đúng
thủ tục do pháp luật quy định về thi hành án (ví dụ việc yêu cầu tổ chức thi hành bản án
dân sự sơ thẩm số 06/DSST ngày 20 tháng 12 năm 1995 của Tòa án nhân dân huyện Sơn
Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi của bà Trần Thị Xanh), hoặc kê biên tài sản thuộc sở hữu chung
của vợ chồng mà một trong hai bên vợ hoặc chồng không có nghĩa vụ phải thi hành án
dẫn đến phản ứng trong nhân dân nên hiệu lực thi hành án của cơ quan thi hành án cũng
bị ảnh hưởng tạo ra những khó khăn trong công tác thi hành án.
Nguyên nhân án tồn đọng những năm qua có nhiều, đó là những hạn chế bất cập
trong trình tự thủ tục thi hành án , trách nhiệm, cơ chế phối hợp của các cơ quan, tổ chức
có liên quan trong thi hành án , bản án tuyên không rõ, không khả thi ; người phải thi
hành án không rõ địa chỉ , không có điều kiện thi hành án , không có ý thức tự giác tuân
thủ pháp luật ; việc hoãn thi hành án , kháng nghị thi hành án còn chưa chính xác; sự
chỉ đạo của các ban chỉ đạo thi hành án chưa kịp thời, có khi chưa đúng luật gây ra ảnh
hưởng lớn đến tiến độ thi hành án ; trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức , tác phong lề
lối làm việc của đội ngũ cán bộ chấp hành viên còn chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm
vụ . Việc quan tâm của Đảng, nhà nước về cơ chế chính sách , về xây dựng thể chế pháp
luật, về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc đã có nhiều đổi mới nhưng vẫn chưa thu hút
được nhân lực có trình độ cao, các cử nhân luật được đào tạo chính qui vào cơ quan thi
hành án dân sự rất ít , nhất là ở Thành phố lớn ( nơi có nhiều án và loại án phức tạp ).
Hiện tượng chảy máu chất xám tại cơ quan này đang diễn ra, bất chấp việc Cục thi hành
án có qui định phải có thời gian công tác nhất định mới cho chuyển khỏi nghành .
Nguyên nhân quan trọng là nội tại các cơ quan thi hành án , mà yếu tố con người - yếu
tố quyết định cần phải xem xét . Với biên chế khoảng 8.000 người , trong đó có 3.000
Chấp hành viên hàng năm thi hành xong hàng trăm ngàn bản án và cũng để lại bao mất
mát cán bộ (mỗi năm có khoảng 40 trường hợp bị kỷ luật , bị truy tố về hình sự do cố ý
làm trái , ra quyết định thi hành án trái pháp luật, nhận hối lộ …) mà hậu quả là những
12
khiếu kiện gay gắt bức xúc rất khó giải quyết, là xói mòn lòng tin của người dân đối với
các cơ quan thi hành án .
Những khó khăn chung mà chấp hành viên gặp phải như: Trong chuyên môn nghiệp
vụ, số việc chưa có điều kiện thi hành còn cao . Trong số đó chủ yếu là các khoản tiền
phạt trong các vụ án liên quan đến ma túy người phải thi hành án đang chấp hành hình
thức phạt tù, không có tài sản để thi hành. Bên cạnh đó, kinh phí hoạt động của Bộ Tư
pháp cấp cho các cơ quan thi hành án hiện nay còn chưa đáp ứng với nhu cầu thực tế. Do
đặc thù của tỉnh miền núi, đường giao thông đi lại khó khăn nên các đơn vị phải hạn chế
các khoản chi để tập trung kinh phí chi công tác phí cho công chức đi thi hành án.
Công việc vất vả, khó khăn nhưng việc thụ hưởng chưa tương xứng, vì vậy đã nảy sinh
một thực tế: rất khó khăn trong việc tuyển dụng cán bộ, công chức ngạch chuyên viên. Số
lượng cán bộ nguồn để bổ nhiệm các chức danh thẩm tra viên, chấp hành viên còn hạn
chế. Trong khi đó, số lượng công chức thi hành án xin chuyển công tác hàng năm khá
nhiều. Tình trạng cơ quan này thiếu nguồn bổ nhiệm chức danh Phó Chi cục trưởng còn
chiếm khá cao . Ngay cả đội ngũ chấp hành viên cũng thiếu và yếu dẫn đến tình trạng quá
tải trong công việc.
Mặt khác, một phần xuất phát từ nguyên nhân: ý thức tuân thủ pháp luật của một số bộ
phận nhân dân nói chung và một số cơ quan, tổ chức, các nhà quản lý doanh nghiệp và cá
nhân (kể cả chính quyền địa phương) còn yếu kém. Và do chưa có sự phối hợp đồng bộ,
chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, cũng như cơ quan hữu quan trong quá trình
thi hành án; cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự chưa được hoàn
thiện, hệ thống các văn bản pháp lý về thi hành án dân sự chưa đầy đủ, chậm được bổ
sung, sửa đổi kịp thời; cơ chế quản lý và cơ chế thi hành án hiện nay không hợp lý, gây
cản trở và làm giảm hiểu quả công tác thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói
riêng.
Như vậy, có rất nhiều lí do dẫn đến mặt tiêu cực trong công tác thi hành án.
13
III. GIẢI PHÁP
Thực trạng đã xảy ra như vậy, liệu chúng ta sẽ làm gì?
Trước hết, muốn giải quyết tình trạng "án tồn đọng", nâng cao hiệu quả thi hành án
dân sự cần phải nghiên cứu đề ra các giải pháp đồng bộ về nhiều mặt: Kinh tế, pháp luật,
chính sách xã hội, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ….
Cái chúng ta cần chú ý là vai trò của luật sư đối với hoạt động thi hành án.
Luật sư là lực lượng có trình độ pháp lý cao, đang phát triển rất nhanh và đang được xã
hội khẳng định và tôn vinh ; Luật sư có chức năng xã hội cao cả là tham gia bảo vệ công
lý, góp phần bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của cá nhân, tổ
chức, bảo vệ pháp chế Xã Hội Chủ Nghĩa; thông qua việc tham gia quá trình tố tụng ,
thực hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác .
Luật luật sư và luật Trợ giúp pháp lý cũng qui định và khuyến khích luật sư tham gia
trợ giúp pháp lý cho người nghèo, các đối tượng chính sách và các đối tượng được trợ
giúp pháp lý khác theo cam kết của các tổ chức quốc tế tài trợ kinh phí theo dự án hỗ trợ
pháp lý cho đối tượng là vị thành niên, phụ nữ bị bạo lực gia đình, người mới ra tù tái trở
lại cộng đồng , người bị nhiễm HIV…
Thi hành án dân sự là một loại việc được trợ giúp pháp lý .Thế nhưng việc truyền
thông còn hạn chế, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hữu quan chưa được quan tâm nên
thi hành án là khoảng trống về pháp luật của những người kém may mắn này, họ thường
không có trình độ nên dễ mắc vào vòng lao lý ; khi đó họ không biết kêu ai, dựa vào ai
mà họ chỉ biết âm thầm chờ đợi kết quả thi hành án từ cơ quan thi hành án trong tâm
trạng như người ngồi chờ sung rụng . Chính sự thiếu hiểu biết pháp luật là nguyên nhân
sâu xa dẫn đến kết quả thi hành án kém hiệu quả . Người được thi hành án , người phải
thi hành án và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không hiểu pháp luật về thi hành
án nên không biết bảo vệ quyền lợi hợp pháp, không tự giác chấp hành pháp luật, nên
các cơ quan thi hành án thường tuỳ tiện đưa ra rất nhiều lý do không thuyết phục về việc
dây dưa trì hoãn thi hành án mà nguyên nhân bắt đầu từ cơ quan thi hành án , từ Chấp
hành viên .
14
Cũng cần xem xét khía cạnh luật sư; luật sư cũng là một nghề nên họ có quyền lựa
chọn cho mình dịch vụ pháp lý phù hợp với khả năng và cuộc sống của họ vậy nên trong
thực tế có rất ít luật sư quan tâm đến thi hành án (‘‘nghề đòi nợ thuê’’, nghề khô,
khó, khổ );
Sẽ là rất ý nghĩa khi 5300 luật sư trong cả nước và hơn 2000 người đang tập sự hành
nghề luật sư quan tâm và đóng góp cho công tác thi hành án để góp phần nâng cao ki
cương, bảo vệ quyền hợp pháp của đương sự , những khách hàng mà các luật sư đã bỏ
bao công sức để bảo vệ quyền lợi của họ trước cơ quan tố tụng, góp phần đưa thành quả
của luật sư không chỉ dừng lại trên gíây mà bằng kết quả thi hành án .
Xã hội hoá là quan điểm lớn của Đảng, Nhà nước, sự tham gia của các tổ chức chính
trị, tổ chức chính - xã hội nghề nghiệp, sự tham gia của tư nhân vào công tác thi hành án
là rất cần thiết và là bước tiến mới trong giải pháp nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công
tác.
Đối với từng loại án thi hành thì có cách giải quyết khác nhau. Vấn đề trên được hiểu
như thế nào?
Theo bà Lê Thị Thu Ba, Chủ Nhiệm Ủy Ban Tư Pháp của Quốc Hội, án tồn đọng
chiếm hơn 30% hiện nay cần phân loại là án có điều kiện thi hành và không có điều kiện
thi hành. Với án không có điều kiện thi hành quả là nhức nhối, hiện cũng chưa có giải
pháp nào khả thi.
Chúng ta cần đưa ra một giới hạn về thời hạn nhất định để việc trả tài sản cho bị cáo để
đạt hiệu quả. Cần quy định rằng nếu trong một khoảng thời gian nào đó mà người được
nhận tài sản không đến nhận hoặc không ủy quyền cho người nhà nhận thì cần thiết phải
sung công hoặc tiêu hủy nếu không còn giá trị sử dụng. Nếu không làm như vậy thì sẽ
gây khó khăn rất lớn cho các chấp hành viên và lượng án tồn đọng cứ còn kéo dài mãi,
không bao giờ giải quyết xong.
15
Với án có điều kiện thi hành mà chấp hành viên vẫn dây dưa thì là lỗi của chấp hành
viên. Quốc hội và Ủy ban Tư pháp đã phê bình Bộ Tư pháp để cho án có điều kiện thi
hành vẫn tồn đọng nhiều, chưa thi hành xong.
Với án chưa hoặc không có điều kiện thi hành, cơ quan thi hành án phải tiếp tục theo
dõi, đôn đốc. Bên cạnh đó, việc áp dụng các biện pháp bắt buộc như cưỡng chế thi hành
án cũng cần được làm nghiêm hơn để đảm bảo quyền lợi cho các bên. Dự luật này cũng
đưa ra một số giải pháp để khắc phục tình trạng tồn đọng trên như xã hội hoá, tăng cường
năng lực cán bộ thi hành án dân sự, giáo dục phẩm chất đạo đức cho họ...
16
KẾT LUẬN
Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác này, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra
mục tiêu trong những năm tới đây là phải: "Tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong
công tác thi hành án dân sự, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án, giải quyết căn bản
tình trạng án tồn đọng. Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án
dân sự, nâng cao vai trò trách nhiệm của các cơ quan thi hành án". Nhiều năm qua,
Chính phủ đã xác định công tác thi hành án dân sự là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm và đã đưa ra nhiều giải pháp hiệu quả nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản trong công tác
này. Do vậy, công tác thi hành án dân sự trong những năm qua đạt được một số kết quả
đáng khích lệ, mà kết quả nổi bật nhất theo đánh giá của Chính phủ là: "Hệ thống cơ quan
thi hành án dân sự được hình thành trong cả nước, công tác thi hành án dân sự đã được
triển khai và hoạt động có hiệu quả bước đầu". Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác thi hành
án dân sự hiện vẫn đang đứng trước những khó khăn, thử thách to lớn với nhiều vấn đề
tồn tại, bất cập đang đặt ra cần được giải quyết. Hiệu quả công tác thi hành án dân sự
chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, và sự quan tâm, mong mỏi của Đảng,
Nhà nước và nhân dân; hoạt động thi hành án chưa thật sự đảm bảo được tính công bằng
và nghiêm minh của pháp luật.
Vì vậy, công tác thi hành án cân được quan tâm hơn nữa để chúng ta không những có
những bản án hợp tình hợp lí mà còn tạo ra một “hậu cưỡng chế” nhanh gọn, hợp lòng
người.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Thi Hành Án Dân Sự
2. VietNam.Net thứ 3, ngày 25 tháng 1 năm 2011
3. Báo pháp luật và đời sống ngày 2 tháng 6 năm 2010
4. Lê Lanh, cục thi hành án dân sự, thành phố Tuy Hòa, Phú Yên.
5. Báo tuổi trẻ ngày 25 tháng 5 năm 2010
6. Tạp chí khoa học pháp lý số 03/2003
7. Báo thanh niên ngày 16 tháng 1 năm 2010
8.
9. Luatsuhanoi.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thi_hanh_an_dan_su_9389.pdf