TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHUYÊN NGÀNH KINH DOANH QUỐC TẾ
TIỂU LUẬN
Môn học: THUẾ VÀ HỆ THỐNG THUẾ Ở VIỆT NAM
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TẠI VIỆT NAM
A. LỜI MỞ ĐẦU
Thuế gắn liền với sự tồn tại, phát triển của Nhà nước và là một công cụ quan trọng mà bất kỳ quốc gia nào cũng sử dụng để thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình.
Trong những năm qua, việc thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân đã đem lại những kết quả nhất định. Thuế thu nhập cá nhân áp dụng đối với người có thu nhập cao góp phần tạo nguồn thu ngày càng đáng kể cho ngân sách nhà nước, góp phần đảm bảo công bằng xã hội, góp phần làm giảm khoảng cách giàu nghèo đang có xu hướng gia tăng, nhất là ở khu vực thành thị.
Bên cạnh đó, những khoản thu từ thuế, trong đó có thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, sẽ đảm bảo cho Nhà nước có khả năng cung cấp ngày càng tốt hơn các khoản chi phúc lợi xã hội, giúp cho những người nghèo cơ hội có được mức sống cải thiện hơn. Việc áp dụng thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao trong nhiều năm qua đã làm cho người dân “quen” dần với loại thuế này. Tâm lí quen thuộc cùng với những hiểu biết ngày càng nhiều hơn về thuế TNCN cũng như trách nhiệm công dân trong việc thực thi nghĩa vụ thuế sẽ góp phần đáng kể cho quá trình triển khai hiệu quả Luật thuế TNCN. Bên cạnh đó, những kinh nghiệm quý trong việc thực thi thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao sẽ giúp cho các cơ quan quản lí nhà nước trong việc quản lí thu nhập và quản lý quy trình thu nộp thuế, đảm bảo hạn chế phát sinh tiêu cực trong quá trình áp dụng Luật thuế TNCN hiện nay.
MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU 1
B. NỘI DUNG 2
I. TỔNG QUAN VỀ LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN 2
1. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân. 2
2. Sự cần thiết xây dựng luật thuế Thu nhập cá nhân. 2
3. Vai trò của thuế Thu nhập cá nhân. 3
3.1. Thuế thu nhập cá nhân là một công cụ phân phối đảm bảo công bằng xã hội 3
3.2. Thuế thu nhập cá nhân là một công cụ đảm bảo nguồn thu quan trọng cho Ngân sách nhà nước. 4
3.3. Thuế thu nhập cá nhân góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế. 4
4. Nguyên tắc và phương pháp đánh thuế Thu nhập cá nhân. 5
4.1. Nguyên tắc đánh thuế thu nhập cá nhân. 5
a/ Đánh thuế trên cơ sở thu nhập chịu thuế hiện hữu. 5
b/ Đánh thuế thu nhập cá nhân theo phương pháp lũy tiến. 5
4.2. Phương pháp đánh thuế thu nhập cá nhân. 6
a/ Đánh thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập. 6
b/ Đánh thuế trên tổng thu nhập. 6
c/ Đánh thuế hỗn hợp. 6
5. Cơ sở xây dựng luật thuế thu nhập cá nhân. 7
5.1. Xác định thu nhập chịu thuế. 7
5.2. Xác định các khoản thu nhập miễn trừ. 8
5.3. Thuế suất thuế thu nhập cá nhân. 8
5.4. Phương pháp quản lý thu nộp thuế. 9
II/ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TẠI VIỆT NAM 9
1. Những đặc trưng cơ bản của thuế thu nhập cá nhân (TNCN) hiện nay. 9
2. Thực tiễn thi hành pháp luật thuế TNCN hiện nay. 11
3. Những hạn chế của pháp luật thuế TNCN hiện hành. 13
III. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM . 15
1. Những yêu cầu có tính nguyên tắc trong việc xây dựng Luật thuế TNCN ở Việt Nam 15
2. Một số kiến nghị cụ thể đóng góp cho việc xây dựng dự thảo Luật thuế TNCN 18
C. KẾT LUẬN 22
25 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 7443 | Lượt tải: 8
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng áp dụng luật thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Thuế gắn liền với sự tồn tại, phát triển của Nhà nước và là một công cụ quan trọng mà bất kỳ quốc gia nào cũng sử dụng để thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình.
Trong những năm qua, việc thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân đã đem lại những kết quả nhất định. Thuế thu nhập cá nhân áp dụng đối với người có thu nhập cao góp phần tạo nguồn thu ngày càng đáng kể cho ngân sách nhà nước, góp phần đảm bảo công bằng xã hội, góp phần làm giảm khoảng cách giàu nghèo đang có xu hướng gia tăng, nhất là ở khu vực thành thị.
Bên cạnh đó, những khoản thu từ thuế, trong đó có thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, sẽ đảm bảo cho Nhà nước có khả năng cung cấp ngày càng tốt hơn các khoản chi phúc lợi xã hội, giúp cho những người nghèo cơ hội có được mức sống cải thiện hơn. Việc áp dụng thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao trong nhiều năm qua đã làm cho người dân “quen” dần với loại thuế này. Tâm lí quen thuộc cùng với những hiểu biết ngày càng nhiều hơn về thuế TNCN cũng như trách nhiệm công dân trong việc thực thi nghĩa vụ thuế sẽ góp phần đáng kể cho quá trình triển khai hiệu quả Luật thuế TNCN. Bên cạnh đó, những kinh nghiệm quý trong việc thực thi thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao sẽ giúp cho các cơ quan quản lí nhà nước trong việc quản lí thu nhập và quản lý quy trình thu nộp thuế, đảm bảo hạn chế phát sinh tiêu cực trong quá trình áp dụng Luật thuế TNCN hiện nay.
B. NỘI DUNG
I. TỔNG QUAN VỀ LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân
Thuế thu nhập cá nhân đã được áp dụng từ rất lâu ở các nước phát triển. Lần đầu tiên ở Anh vào năm 1799 thuế thu nhập cá nhân đã được áp dụng như một hình thức thu tạm thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc chiến tranh chống Pháp và được chính thức ban hành vào năm 1842. Sau đó thuê thu nhập cá nhân đã nhanh chóng được lan truyền sang các nước công nghiệp khác như: Nhập(1887), Mỹ (1913), Pháp (1914), Liên Xô (1922), Trung Quốc (1936)… Các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đều coi thuế thu nhập cá nhân là một trong những sắc thuế có tầm quan trọng đặc biệt trong việc huy động nguồn thu ngân sách, thực hiện phân phối công bằng xã hội và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Về nguyên tắc, bất kỳ một thể nhân hay pháp nhân nào khi nhận được thu nhập dưới bất cứ hình thái nào(hiện vât hay giá trị) và bất kể từ nguồn nào(do lao động hay đầu tư…) đều phải trích một phần từ thu nhập đó để nộp cho Nhà nước dưới dạng thuế thu nhập.
Như vậy, có thể khái niệm thuế Thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của mỗi cá nhân trong xã hội trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm).
2. Sự cần thiết xây dựng luật thuế Thu nhập cá nhân
Thuế thu nhập cá nhân ra đời bắt nguồn từ yêu cầu đảm bảo sự công bằng trong phân phối thu nhập. Điều này đặc biệt cần thiết trong điều kiện kinh tế thị trường vì thu nhập của một cá nhân hay tổ chức phụ thuộc chủ yếu vào việc cung cấp các yếu tố sản xuất như vốn, lao động, công nghệ… Trong điều kiện có sự phân hóa giàu nghèo khi phân phối thu nhập là điều khó tránh khỏi. Vì vậy, cần áp dụng thuế thu nhập cá nhân để thực hiện điều tiết thu nhập nhằm rút ngắn khoảng cách giàu nghèo trong xã hội. Mặc khác, trong hệ thống thuế thông thường áp dụng hai loại thuế: thuế gián thu và thuế trực thu. Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu, tức là đánh trực tiếp vào thu nhập của người nộp thuế theo khả năng của họ. Vì thế, thu nhập cá nhân đảm bảo sự công bằng theo chiều dọc. Nếu chỉ áp dụng các loại thuế gián thu thì mới thực hiện được công bằng theo chiều ngang tức là tất cả mọi người đều phải nộp thuế như nhau không phân biệt khả năng của họ. Để đảm bảo sự công bằng theo cả chiều ngang và chiều dọc trong chính sách thuế khóa thì cần thiết phải ban hành thuế thu nhập cá nhân để điều tiết thu nhập theo khả năng đóng góp của người nộp thuế.
Do nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng của Nhà nước, sự giảm dần của thuế quan do yêu cầu tự do hóa thương mại để phát triển kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa đòi hỏi phải tăng nguồn thu tài chính nhà nước thông qua các loại thuế khác như thuế hàng hóa, thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân.
Thuế thu nhập cá nhân được sử dụng như một công cụ linh hoạt đểu điều tiết vĩ mô, kích thích tiêu dùng hoặc đầu tư để phát triển kinh tế. Một trong những lý thuyết căn bản của Kenyes về tính hữu dụng giảm dần của thu nhập cho rằng mức thu nhập càng cao thì tính hữu dụng của nó càng thấp. Do vậy, để tăng phúc lợi xã hội cần thiết phải điều tiết bớt thu nhập của những đối tượng có thu nhập thấp hơn.
Bên cạnh đó, thông qua chính sách miễn giảm, ưu đãi, thuê thu nhập có thể tác động trực tiếp đến định hướng tiêu dùng và đầu tư theo hướng có lợi, thực hiện mục tiêu điều chỉnh kinh tế của Nhà nước.
3. Vai trò của thuế Thu nhập cá nhân
3.1. Thuế thu nhập cá nhân là một công cụ phân phối đảm bảo công bằng xã hội
Một trong những khiếm khuyết của kinh tế thị trường là sự phân phối không công bằng và đi liền với nó là quá trình phân hóa giàu nghèo trong xã hội. Thuế thu nhập cá nhân là một hình thức thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập nhận được của từng cá nhân. Thông qua đánh thuế thu nhập cá nhân, Nhà nước thực hiện điều tiết thu nhập của người cao, nhờ đó sang bằng tương đối sự chênh lệch về thu nhập giữa các cá nhân trong xã hội.
3.2. Thuế thu nhập cá nhân là một công cụ đảm bảo nguồn thu quan trọng cho Ngân sách nhà nước
Thuế thu nhập cá nhân là một hình thức thu quan trọng của Ngân sách Nhà nước, loại thuế này đóng vai trò rất quan trọng, đôi khi nó còn được nói so sánh hình ảnh là “nữ hoàng của các loại thuế”. Hiện nay, ở các nước phát triển tỷ trọng thu ngân sách của thuế TNCN chiếm rất cao từ 30 – 40%, có nước trên 50% như Mỹ, Nhật, Canada, Australia, Niuzilan…, các nước đang phát triển chiếm từ 15 – 30% như Thái Lan, Malaixia, Philipin…
Ở nước ta thuế thu nhập cá nhân tuy chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu NSNN, song trong điều kiện phát triển kinh tế và toàn cầu hóa, thu nhập của cá nhân có xu hướng tăng nhanh, nên tỷ trọng thuế thu nhập cá nhân trong tổng thu NSNN sẽ có khả năng tăng lên.
3.3. Thuế thu nhập cá nhân góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Thuế TNCN không chỉ là công cụ huy động nguồn thu NSNN, thực hiện công bằng xã hội, mà còn giữ vai trò điều tiết nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, ở mỗi thời kỳ phát triển kinh tế khác nhau, tùy theo yêu cầu điều tiết vĩ mô nền kinh tế mà chính sách thu nhập cá nhân ở mỗi nước được xây dựng phù hợp.
M.Keynes là nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh đã đề xướng tư tưởng can thiệp của nhà nước vào hoạt động của nền kinh tế để đạt được “cầu hiệu quả” thông qua chính sách thuế, trong đó có thuế thu nhập cá nhân. Ông cho rằng, tồn tại một quy luật tâm lý cơ bản mà theo ông, con người có xu hướng tăng tiêu dùng của mình theo tốc độ tăng của thu nhập nhưng không phải tăng theo cùng mức tăng của thu nhập. Cùng với tốc độ tăng của thu nhập thì tốc độ tiết kiệm tăng nhanh hơn. Đây chính là nguyên nhân làm cho cầu không đạt hiệu quả. Bởi vậy, cần thiết phải có chính sách thuế đánh vào thu nhập đưa vào tiết kiệm để kích thích tiêu dùng và tăng đầu tư phát triển kinh doanh. Theo ông, khuynh hướng tiêu dùng ở người có thu nhập thấp sẽ cao hơn ở người có thu nhập cao. Vì vậy, nhà nước phải đánh thuế thu nhập theo kiểu thuế suất lũy tiến để phân phối lại thu nhập của những người có thu nhập cao đưa vào tiết kiệm. Sự tiết kiệm thừa cần được thu bằng thuế để định hướng chúng vào đầu tư phát triển kinh tế.
4. Nguyên tắc và phương pháp đánh thuế Thu nhập cá nhân
4.1. Nguyên tắc đánh thuế thu nhập cá nhân
a/ Đánh thuế trên cơ sở thu nhập chịu thuế hiện hữu
Mặc dù cá nhân có nhiều nguồn thu nhập khác nhau, nhưng trong thực tế không phải toàn bộ thu nhập phát sinh đều là đối tượng điều chỉnh của thuế thu nhập cá nhân. Thuế thu nhập cá nhân chỉ điều chỉnh phần thu nhập chịu thuế. Thu nhập chịu thuế là phần thu nhập quy định cơ sở đánh thuế thu nhập. Mọi hệ thống thu nhập dù đánh trên từng loại thu nhập hay trên tổng thu nhập nói chung đều tính thuế trên thu nhập ròng để phản ánh đúng đắn khả năng kinh tế của người nộp thuế.
Vì vậy, thu nhập chịu thuế được xác định trên cơ sở các khoản thu nhập nhận được sau khi miễn trừ một số khoản chi phí của người nộp thuế.
b/ Đánh thuế thu nhập cá nhân theo phương pháp lũy tiến
Đặc trưng quan trọng nhất của thuế thu nhập cá nhân là áp dụng biểu thuế lũy tiến, tức là mức thuế tăng lên một cách lũy tiến theo mức thu nhập tăng lên. Thuế suất lũy tiến được coi là phương pháp hiệu quả nhất để đánh thuế theo “khả năng nộp thuế” của cá nhân. Tuy nhiên trong thực tế để tính được mức lũy tiến đó là điều không đơn giản.
Xung quanh vấn đề áp dụng nguyên tắc lũy tiến đối với thuế thu nhập cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, tính lũy tiến của thuế thu nhập cũng cần có giới hạn và khi áp dụng nguyên tắc lũy tiến cũng cần phân biệt nguồn gốc của các loại thu nhập để phát huy vai trò điều chỉnh của thuế thu nhập. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng làm như vậy sẽ gây phức tạp trong việc thiết kế thuế suất, vì không nên dùng các loại thuế khác nhau cho thu nhập phát sinh từ các nguồn thu nhập khác mà nên áp dụng các khoản miễn, giảm thuế để đảm bảo chức năng của thuế thu nhập hoặc áp dụng thuế lũy tiến từng phần.
4.2. Phương pháp đánh thuế thu nhập cá nhân
Về lý thuyết, tồn tại ba mô hình đánh thuế thu nhập cá nhân:
a/ Đánh thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập
Đánh thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập là phương pháp áp dụng một thuế suất tương ứng cho từng nguồn thu nhập phát sinh. Tương ứng với mỗi nguồn thu nhập khác nhau, người ta tính các chi phí được trừ của từng loại thu nhập( nhiều trường hợp chi phí có thể được trừ hoặc không được trừ) và gán cho mỗi loại thu nhập đó các mức thuế suất phân biệt. Số thuế phải nộp là tổng hợp số thuế thu nhập mà người nộp thuế phải nộp theo từng nguồn.
Các nhà kinh tế cho rằng, phương pháp này khó trốn thuế hơn, vì nó thu “theo sát từng nguồn thu nhập”.
b/ Đánh thuế trên tổng thu nhập
Phương pháp này tiến hành thuế trên tổng thu nhập, bao gồm tất cả các khoản thu nhập nhận được không phân biệt nguồn phát sinh thu nhập và chi phí tạo ra thu nhập. Tổng thu nhập và tổng chi phí sẽ được xem xét trên một tổng thể và đánh thuế trên phần chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí. Việt phân ra từng loại thu nhập không có ý nghĩa.
Do đó ưu điểm là đơn giản và có thể áp dụng được biểu thuế lũy tiến khi đánh thuế nên phương pháp này đang được áp dụng rất rộng rãi ở các nước phát triển.
c/ Đánh thuế hỗn hợp
Thuế thu nhập cá nhân có thể được đánh theo cách kết hợp cả hai phương pháp kể trên. Ban đầu đánh thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập, sau đó tổng hợp tất cả các nguồn lại và đánh trùm lên tổng thu nhập một mức thuế nữa. Phương pháp này cho phép áp dụng thuế suất lũy tiến ngoài thuế suất thông thường đánh trên từng loại thu nhập. Cách đánh thuế này đảm bảo sự chính xác nhưng lại phức tạp khi tính toán.
5. Cơ sở xây dựng luật thuế thu nhập cá nhân.
Mặc dù ở mỗi nước, Luật thuế thu nhập cá nhân được xây dựng khác nhau tùy theo tính đặc thù của từng nước. Bởi vậy, giữa các nước sẽ có sự khác nhau trong xác định thu nhập chịu thuế, thuế suất, miễn, giảm thuế… Tuy nhiên, khi xây dựng chính sách, luật thuế thuế thu nhập cá nhân các quốc gia đều quan tâm giải quyết các vấn đề sau đây:
5.1. Xác định thu nhập chịu thuế
Thu nhập chịu thuế của một cá nhân trong ký tính thuế là tổng thu nhập trừ đi tổng các khoản được giảm trừ.
Tổng thu nhập của đối tượng nộp thuế là tổng thu nhập được xác định cơ sở để tính thu nhập chịu thuế mà đối tượng nộp thuế đó kiếm được trong kỳ tính thuế. Do đó, tổng thu nhập của một đối tượng sẽ không bao gồm những khoản miễn giảm thuế. Để xác định tổng thu nhập cần phải xác định từng khoảng cấu thành tổng thu nhập theo từng loại thu nhập cụ thể, tức là xem xét tổng thu nhập được hình thành từ những nguồn nào.
Tuy nhiên, không phải mọi khoản thu nhập của người nộp thuế đều đưa vào đối tượng tính thuế. Tùy theo mục đích đánh thuế mà có khoản thu nhập không đưa vào đối tượng đánh thuế. Trong thực tế, khi xây dựng các quy định tính thuế cần xác định rõ ràng những khoản nào nằm trong tổng thu nhập chịu thuế và những khoản nào nằm trong tổng thu nhập không chịu thuế. Muốn xác định thu nhập chịu thuế chính xác cần phải xem xét các khoản sau đây:
- Nguồn gốc của thu nhập:
+ Thu nhập từ lao động
+ Phúc lợi của người làm công
+ Thu nhập từ hoạt động kinh doanh
+ Thu nhập từ vốn, tài sản hay gọi là thu nhập từ đầu tư
+ Các khoản thu nhập bất thường khác
- Đánh thuế trên cơ sở cư trú hay nguồn phát sinh thu nhập
5.2. Xác định các khoản thu nhập miễn trừ
Một trong những đặc điểm quan trọng của thuế thu nhập cá nhân là có tính tới hoàn cảnh của từng cá nhân cần phải được xem xét khi xác định thu nhập chịu thuế. Các khoản được giảm trừ có thể được thực hiện dưới hai dạng: miễn trừ cá nhân và miễn trừ tiêu chuẩn.
Miễn trừ cá nhân được thực hiện theo phương pháp kê khai chi phí thực tế phát sinh đối với các khoản được phép giảm trừ. Đối với phương pháp này, một số khoản chi phí kê khai sẽ đòi hỏi phải có chứng từ chứng minh, một số khoản được thực hiện theo phương pháp định mức và một số khoản có thể được thực hiện theo phương pháp “giới hạn tối đa”. Thông thường, có hai loại giảm trừ cá nhân là: giảm trừ có tính chất kinh tế và giảm trừ có tính chất xã hội.
Phương pháp giảm trừ tiêu chuẩn tuy không công bằng vì mức chi phí cần thiết được cân bằng giữa các đối tượng nộp thuế nhưng lại đảm bảo cho thuế thu nhập cá nhân dễ tính toán, đơn giản hơn trên cơ sở đó tiết kiệm chi phí hành thu và chi phí chấp hành, tuân thủ luật thuế.
5.3. Thuế suất thuế thu nhập cá nhân
Đối với thuế thu nhập cá nhân, thông thường người ta áp dụng biểu thuế suất lũy tiến. Có hai loại thuế suất lũy tiến là lũy tiến toàn phần và lũy tiến từng phần (còn gọi là thuế suất đơn nhất kết hợp với ngưỡng tính thuế). Mỗi loại thuế suất lũy tiến có hiệu quả điều tiết khác nhau, trong đó biểu thuế lũy tiến từng phần được coi là đảm bảo công bằng hơn và không gây ra mâu thuẫn “mức tăng của thuế lớn hơn mức tăng của căn cứ tính thuế” tại điểm tiếp giáp giữa hai bậc thuế.
5.4. Phương pháp quản lý thu nộp thuế
Thuế thu nhập có thể được thu theo phương pháp khấu trừ tại nguồn hoặc phương pháp thu trực tiếp.
- Phương pháp khấu trừ tại nguồn được áp dụng cho các khoản thu nhập phát sinh có tính chấp ổn định như thu nhập từ lương, tiền công. Theo phương pháp này, người hoặc cơ quan chi trả thu nhập phải tiến hành khấu trừ trước số thuế phải nộp của cá nhân để nộp cho cơ quan thuế, sau đó mới tiến hành chi trả phần còn lại cho người được hưởng. Cơ quan hoặc người được ủy nhiệm khấu trừ thông thường được trích lại một tỷ lệ thù lao nhất định song phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nghĩa vụ khấu trừ thuế thu nhập trước khi chi trả thu nhập.
- Phương pháp thu trực tiếp: Thuế thu nhập cá nhân là thuế đánh vào phần thu nhập của cá nhân, do đó để thuế thu được sát đúng với mức thu nhập của từng cá nhân thì cần để cho người nộp thuế tự khai thu nhập của mình. Đó là cơ sở ra đời phương pháp thu trực tiếp. Phương pháp thu trực tiếp được thực hiện trên cơ sở người nộp thuế tự kê khai thu nhập và gửi cho cơ quan thuế. Cơ quan thuế xác định số thuế phải nộp dự trên số liệu kê khai về thu nhập, về các khoản được phép khấu trừ, giảm trừ … kết hợp với sự thẩm tra, kiểm soát của cơ quan thuế. Phương pháp này tuy phức tạp nhưng đảm bảo tính chính xác vì khả năng tổng hợp nhiều nguồn thu nhập và gắn với hoàn cảnh cá nhân của người nộp thuế.
II/ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TẠI VIỆT NAM
1. Những đặc trưng cơ bản của thuế thu nhập cá nhân (TNCN) hiện nay
Thuế thu nhập là sắc thuế trực thu được ban hành nhằm phân phối một phần thu nhập của các cá nhân, doanh nghiệp cho nhà nước. Thuế thu nhập thường được phân chia thành hai loại là thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Thuế thu nhập doanh nghiệp có đối tượng chịu thuế là thu nhập từ hoạt động kinh doanh, mà chủ yếu là các loại hình doanh nghiệp. Trong khi đó, thuế TNCN là loại thuế có đối tượng chịu thuế là thu nhập của các cá nhân. Cá biệt có một số quốc gia, thuế TNCN được xác định như là một loại thuế mà chủ thể nộp thuế là hộ gia đình, hoặc nhà nước ban hành thuế thu nhập áp dụng chung cho cả doanh nghiệp và cá nhân.
Thuế TNCN ở Việt Nam hiện nay được quy định trong Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Do mục đích ban hành là chỉ nhằm điều tiết thu nhập đối với những cá nhân được coi là có thu nhập cao, nên phạm vi điều chỉnh của loại thuế này ở Việt Nam về cơ bản là hẹp hơn thuế TNCN ở những quốc gia khác. Ngoài những đặc trưng chung của một sắc thuế, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện hành có một số đặc trưng sau đây:
1.1. Thuế TNCN hiện nay hướng đến những cá nhân có thu nhập cao, với mục đích kiến tạo sự công bằng hơn là mục tiêu tăng thu ngân sách.
Ngay trong phần mở đầu của Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao năm 1991 đã nêu rõ, việc ban hành sắc thuế này là để: “góp phần thực hiện công bằng xã hội, động viên một phần thu nhập của cá nhân có thu nhập cao cho ngân sách nhà nước”. Có thể nhận thấy trong suốt thời gian qua, thuế TNCN mặc dù đã qua nhiều lần sửa đổi nhưng mục đích chỉ thu thuế đối với những người có thu nhập vượt hơn hẳn mức thu nhập bình quân của một cá nhân vẫn được duy trì.
1.2. Thuế TNCN hiện nay không áp dụng đối với thu nhập có nguồn gốc kinh doanh của cá nhân.
Hiện nay, thu nhập từ hoạt động kinh doanh của cá nhân, hộ gia đình chịu sự điều chỉnh của pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Mặc dù các chủ thể trên đây không phải là doanh nghiệp nhưng việc quy định này có ý nghĩa như là sự khuyến khích đối với hoạt động kinh doanh của cá nhân vì thuế thu nhập doanh nghiệp không đánh thuế theo thuế suất luỹ tiến.
2. Thực tiễn thi hành pháp luật thuế TNCN hiện nay
Thời gian qua, việc thực thi pháp luật thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã đem lại những kết quả nhất định. Một là, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao góp phần tạo nguồn thu ngày càng đáng kể cho ngân sách nhà nước. Theo số liệu dự toán ngân sách năm 2007, số thu từ thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao nhiều gấp 3 lần tổng số thu các loại thuế về đất. Hai là, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Quy định về ngưỡng chịu thuế suất dương (tức là mức thu nhập bắt đầu phải đóng thuế với mức thuế suất lớn hơn 0%) được đánh giá là phù hợp với sự gia tăng mức thu nhập bình quân, nên thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã góp phần làm giảm khoảng cách giàu nghèo đang có xu hướng gia tăng, nhất là ở khu vực thành thị.
Bên cạnh đó, những khoản thu từ thuế, trong đó có thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, sẽ đảm bảo cho Nhà nước có khả năng cung cấp ngày càng tốt hơn các khoản chi phúc lợi xã hội, giúp cho những người nghèo cơ hội có được mức sống cải thiện hơn. Ba là, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao là sự chuẩn bị cần thiết trước khi triển khai thuế TNCN một cách toàn diện. Việc áp dụng thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao trong nhiều năm qua đã làm cho người dân “quen” dần với loại thuế này. Tâm lí quen thuộc cùng với những hiểu biết ngày càng nhiều hơn về thuế TNCN cũng như trách nhiệm công dân trong việc thực thi nghĩa vụ thuế sẽ góp phần đáng kể cho quá trình triển khai hiệu quả Luật thuế TNCN trong tương lai không xa. Bên cạnh đó, những kinh nghiệm quý trong việc thực thi thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao sẽ giúp cho các cơ quan quản lí nhà nước trong việc quản lí thu nhập và quản lý quy trình thu nộp thuế, đảm bảo hạn chế phát sinh tiêu cực khi Luật thuế TNCN được triển khai thực hiện (khi đó, sẽ có số lượng chủ thể nộp thuế đông đảo hơn hiện nay, do vậy việc quản lý thuế sẽ phức tạp hơn).
Bên cạnh những thành tựu đạt được, trong thời gian qua việc thực hiện pháp luật thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao còn bộc lộ nhiều bất cập:
- Thứ nhất, những quy định pháp luật hiện hành về thuế TNCN còn nhiều bất cập. Những bất cập này sẽ được đề cập trong phần sau của bài viết này.
- Thứ hai, việc quản lí thu nhập của cá nhân hiện nay còn nhiều hạn chế, do đó cơ quan thuế không có khả năng kiểm soát tốt TNCN, dẫn đến có nhiều trường hợp trốn, lậu thuế.
Một trong những nguyên nhân cơ bản là hiện nay nước ta chưa có hệ thống các quy định pháp lí cần thiết để minh bạch thu nhập. Với những cố gắng rất lớn của cơ quan lập pháp, Luật phòng, chống tham nhũng ngày 9/12/2005 đã ra đời và có hiệu lực ngày 01/6/2006, gần đây được cụ thể hoá bằng Nghị định số 37/2007/NĐ-CP ngày 9/3/2007. Những văn bản này đã tạo cơ sở pháp lí để một số chủ thể phải có nghĩa vụ kê khai tài sản, góp phần kiểm soát thu nhập. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, các văn bản này nhằm kiểm soát và ngăn chặn những thu nhập không hợp pháp chứ không phải nhằm quản lí nguồn thu nhập hợp pháp để xác định nghĩa vụ nộp thuế. Do đó, những chủ thể có nghĩa vụ kê khai thu nhập rất hẹp, chỉ bao gồm những chức danh quan trọng trong bộ máy nhà nước. Từ đó có thể khẳng định, hệ thống những quy định nhằm quản lí thu nhập chịu thuế thu nhập hiện còn rất sơ sài.
- Thứ ba, ý thức của nhân dân về thuế TNCN vẫn còn thấp. Ở những quốc gia phát triển, thuế TNCN đã có lịch sử hàng trăm năm và do đó người dân cảm thấy quen với nghĩa vụ đóng thuế. Ở Việt Nam, mặc dù thuế lợi tức cá nhân đã từng được chính quyền Bảo Đại và sau đó là chính quyền Việt Nam cộng hoà áp dụng (đối với khu vực phía nam) nhưng sau đó bị bãi bỏ nên hiện nay người dân chưa quen với tâm lí là người nộp thuế. Chính vì vậy, trừ những trường hợp khấu trừ thuế tại nguồn được các tổ chức chi trả thu nhập thực hiện đối với thu nhập của những người làm công ăn lương hoặc người cung cấp dịch vụ, còn lại những cá nhân hành nghề tự do thường không thực hiện nghĩa vụ kê khai và nộp thuế. Bên cạnh đó, thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán của người Việt Nam được coi là một trở ngại đáng kể cho công tác hành thu thuế nói chung và đối với thuế TNCN nói riêng. Việc sử dụng tiền mặt phổ biến làm cho công tác giám sát thu nhập của cơ quan chức năng bị hạn chế, đồng thời tạo cơ hội cho các chủ thể che giấu nguồn thu nhập hoặc dịch chuyển tài sản, từ đó không khai báo để nộp thuế theo quy định.
3. Những hạn chế của pháp luật thuế TNCN hiện hành
- Thứ nhất, pháp luật thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện nay có phạm vi điều chỉnh tương đối hẹp.
Phạm vi điều chỉnh của thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao là áp dụng cho những thu nhập phi kinh doanh của những người có thu nhập cao, do vậy số chủ thể thuộc diện chịu thuế không nhiều. Điều này không những ảnh hưởng đến hiệu quả thu ngân sách mà còn làm cho thuế TNCN mất cơ hội phổ biến rộng rãi đến nhân dân, tạo tiền đề cần thiết cho việc áp dụng Luật thuế thu nhập cá nhân sau này.
Qua nhiều lần sửa đổi, quy định về ngưỡng chịu thuế suất dương, người viết nhận thấy tốc độ gia tăng mức khởi điểm chịu thuế suất dương trong những lần sửa đổi gần đây còn nhanh hơn mức độ gia tăng bình quân của thu nhập quốc dân.([iv]) Chính vì vậy, số lượng cá nhân đóng thuế thu nhập có xu hướng giảm và tỉ trọng thuế thu nhập trên tổng thu ngân sách hầu như không tăng trong suốt những năm qua. Đây là một thực tế cần suy ngẫm bởi lẽ trong giai đoạn hiện nay, có nhiều lí do để ngân sách nhà nước phải kì vọng vào thuế TNCN hơn trước đây.
- Thứ hai, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện hành chưa thật sự công bằng.
Công bằng là tiêu chuẩn, đồng thời là mục tiêu mà một hệ thống thuế phải đạt tới. Hiện nay, nhiều quy định của Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao chưa thực sự công bằng, làm ảnh hưởng đến hiệu quả thu thuế và dễ tạo ra tâm lí “phản kháng” của chủ thể nộp thuế.
+ Một là, còn phân biệt biểu thuế áp dụng đối với công dân Việt Nam và người nước ngoài.
Hiện nay, biểu thuế luỹ tiến từng phần áp dụng cho công dân Việt Nam có mức khởi điểm chịu thuế suất dương thấp hơn, đồng thời độ dốc luỹ tiến lại cao hơn so với người nước ngoài. Điều đó có nghĩa, với cùng một mức độ thu nhập, công dân Việt Nam phải nộp thuế nhiều hơn người nước ngoài. Quy định này đã từng được giải thích là nhằm khuyến khích người nước ngoài đến làm việc tại Việt Nam để mang theo kinh nghiệm quản lí, kĩ thuật tiên tiến, v.v.. Tuy nhiên, những lí do này không đủ thuyết phục vì nó làm mất đi sự công bằng đối với công dân Việt Nam, đồng thời cho thấy Nhà nước đã “làm thay” doanh nghiệp trong việc thu hút nguồn lực từ bên ngoài. Nhà nước đã chính thức xoá bỏ những quy định “hai giá” để phân biệt mức giá chi tiêu giữa người Việt Nam và người nước ngoài thì cũng đã đến lúc phải xoá bỏ sự phân biệt thuế suất giữa hai nhóm chủ thể này.
+ Hai là, không khấu trừ chi phí sinh hoạt, các chi phí khác để tạo ra thu nhập.
Việc không khấu trừ chi phí tạo ra thu nhập là đặc điểm khác biệt rất quan trọng giữa việc xác định thu nhập chịu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao với thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Mặc dù việc khấu trừ thu nhập đối với cá nhân là việc làm không đơn giản, nhưng rõ ràng, nếu không khấu trừ chi phí thì sẽ làm ảnh hưởng đến tính công bằng của thuế. Ví dụ: Hai người có mức thu nhập bình quân tháng bằng nhau nhưng một người phải nuôi người phụ thuộc sẽ có mức chi phí cao hơn trong khi vẫn phải nộp thuế giống như người sống độc thân. Mặc dù pháp luật hiện hành đã khấu trừ chi phí cho một số đối tượng nhưng như thế lại làm cho sự công bằng càng bị ảnh hưởng vì những chủ thể khác không được hưởng ưu đãi này.
+ Nhiều khoản thu nhập bị “bỏ qua”, không bị đánh thuế.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, rất nhiều khoản thu nhập của cá nhân đã bị bỏ qua, không đưa vào diện thu nhập chịu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao như: Các khoản thu nhập từ đầu tư vốn, chuyển nhượng tài sản, quà biếu, quà tặng, thừa kế… Về mặt lí luận, thuế TNCN phải được đánh trên toàn bộ thu nhập của cá nhân mới đảm bảo tính công bằng của thuế. Về thực tiễn, hiện nay có rất nhiều cá nhân có thu nhập cao từ những hoạt động kể trên mà không bị đánh thuế nên gây lãng phí nguồn thu cho ngân sách.
- Thứ ba, việc quy định thu thuế tại nguồn đã gây ra những khó khăn trong việc xác định chính xác số thuế phải nộp.
Để đảm bảo khả năng điều tiết thu nhập, thuế TNCN thường quy định thuế suất lũy tiến áp dụng cho tổng thu nhập chịu thuế. Bên cạnh đó, để đảm bảo việc thu thuế, pháp luật quy định tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập có trách nhiệm khấu trừ thuế thu nhập đối với khoản thu nhập được chi trả để nộp cho cơ quan thuế. Riêng đối với những khoản chi phí mua ngoài như thù lao tư vấn, tiền công sửa chữa v.v., việc khấu trừ được xác định là 10% trên khoản thu nhập từ 500 ngàn đồng trở lên. Quy định như vậy có ưu điểm là đảm bảo thu được thuế, tránh việc trốn thuế, lậu thuế. Tuy nhiên, hiện nay việc thực hiện đăng kí, kê khai nộp thuế thu nhập đối với từng cá nhân chưa được áp dụng rộng rãi và triệt để, thì cách thu thuế như vậy sẽ không chính xác.
III. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM
1. Những yêu cầu có tính nguyên tắc trong việc xây dựng Luật thuế TNCN ở Việt Nam
- Thuế TNCN phải được quy định phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng IX và X đã xác định: “Áp dụng thuế TNCN thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát triển” và “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ… Điều chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lí thu nhập”.
Như vậy, Luật thuế TNCN cần xác định phạm vi điều chỉnh rộng hơn nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc công bằng, bình đẳng trong đánh thuế thu nhập theo hướng mọi cá nhân có thu nhập đều phải chịu thuế. Việc đánh thuế TNCN sẽ không phân biệt cá nhân kinh doanh hay không kinh doanh, cá nhân là người nước ngoài hay công dân Việt Nam.
- Luật thuế TNCN phải là công cụ hữu hiệu để Nhà nước tăng thu ngân sách, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội Đảng, Bộ Chính trị đã thông qua Chiến lược cải cách thuế đến năm 2010, trong đó đặt ra yêu cầu: “Cần sớm xác định các bước đi thích hợp để tăng tỉ trọng các nguồn thu trong nuớc cho phù hợp với tiến trình hội nhập. Mở rộng diện thuế trực thu và tăng tỉ lệ thu từ thuế trực thu”. Ở các quốc gia phát triển, tỉ trọng thuế TNCN trên tổng thu ngân sách là khá cao, trong khi đó tại Việt Nam số thu này là không đáng kể. So với các sắc thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì thuế TNCN đảm bảo công bằng tốt hơn, vì vậy, việc tăng nguồn thu từ thuế trực thu là yêu cầu hợp lí và cần thiết. Bên cạnh việc mở rộng đối tượng điều chỉnh, Luật thuế TNCN cần bao quát được các nguồn thu của cá nhân, đồng thời hạn chế hiện tượng tránh thuế, lậu thuế. Bên cạnh đó, cần xác định một mức thuế suất hợp lí để vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhưng đồng thời cũng không gây áp lực lên chủ thể nộp thuế.
- Luật thuế TNCN phải là công cụ để đảm bảo công bằng xã hội.
Thực hiện công bằng xã hội là nhiệm vụ của bộ máy nhà nước nói chung và pháp luật luôn được coi là công cụ hữu hiệu. Luật thuế TNCN cần phải đảm bảo khả năng điều tiết thu nhập hợp lí đối với cá nhân có thu nhập. Về lí thuyết, pháp luật càng cá thể hoá nghĩa vụ nộp thuế bao nhiêu thì càng có thể đảm bảo công bằng bấy nhiêu. Tuy nhiên, vấn đề này cũng có tính hai mặt, bên cạnh việc đảm bảo công bằng tốt hơn, việc cá thể hoá nghĩa vụ nộp thuế cũng có thể làm sai lệch bản chất công bằng.
Luật thuế TNCN còn phải đảm bảo việc khấu trừ những chi phí một cách hợp lí để duy trì cuộc sống có chất lượng của cá nhân nộp thuế và tiếp tục tạo ra thu nhập. Để thuận tiện cho việc áp dụng, những chi phí này khó có thể cá thể hoá đến từng cá nhân nộp thuế nên việc khấu trừ khống là cần thiết cho công tác hành thu thuế. Tuy nhiên, khấu trừ những khoản chi phí nào, mức khấu trừ bao nhiêu, phương thức khấu trừ như thế nào là những vấn đề lớn cần được cân nhắc, tính toán kĩ trên cơ sở những số liệu điều tra cụ thể, chính xác, không nên thiết kế một cách áp đặt hoặc chung chung khó áp dụng. Về nguyên tắc, những khoản chi phí sau đây cần được khấu trừ:
+ Chi phí sinh hoạt bình quân của người nộp thuế;
+ Chi phí nuôi dưỡng người phụ thuộc;
+ Chi phí tạo ra thu nhập: Tiền đầu tư vốn, chi phí kinh doanh, v.v..
+ Chi phí phục hồi sức lao động hoặc bồi thường: Tiền khám chữa bệnh không do bảo hiểm chi trả, tiền bồi thường thiệt hại…
Để đảm bảo việc áp dụng được chính xác và thuận tiện, việc quy định các khoản chi phí được khấu trừ phải hết sức cụ thể, chính xác và minh bạch.
- Luật thuế TNCN cần quy định phù hợp với thực tiễn nền kinh tế quốc dân.
Hiện nay, mức thu nhập bình quân trên đầu người của Việt Nam còn thấp nên việc quy định mức thuế suất cần dựa trên nguyên tắc đảm bảo khuyến khích lao động sản xuất, tạo thu nhập ổn định và làm giàu chính đáng. Do đó, mức thuế suất phải được quy định dựa trên các nguyên tắc sau đây:
+ Mức thuế suất phải đảm bảo, sau khi nộp thuế, người nộp thuế vẫn phải có được mức thu nhập không thấp hơn mức thu nhập bình quân chung.
+ Khoảng cách giữa các mức thuế suất và khoảng cách về mức thu nhập chịu thuế của hai mức thuế suất cần xác định hợp lí, không quá xa nhằm đảm bảo công bằng và không gây xáo trộn về nghĩa vụ thuế.
- Luật thuế TNCN phải đảm bảo nguyên tắc hội nhập quốc tế.
Luật thuế TNCN phải thể hiện được tinh thần của các hiệp định tránh đánh thuế hai lần hoặc chí ít cũng cần quy định các nguyên tắc áp dụng những hiệp định này trong việc xác định nghĩa vụ thuế của người nước ngoài có thu nhập tại Việt Nam hoặc thu nhập của công dân Việt Nam ở nước ngoài. Nguyên tắc này cũng cho phép áp dụng biểu thuế thống nhất đối với tất cả các cá nhân, không kể đó là công dân Việt Nam hay người nước ngoài.
2. Một số kiến nghị cụ thể đóng góp cho việc xây dựng dự thảo Luật thuế TNCN
- Nếu quy định đánh thuế đối với thu nhập từ thừa kế và quà tặng thì phải đánh vào tất cả các tài sản chứ không nên chỉ áp dụng đối với tài sản là cổ phiếu, trái phiếu, quyền sở hữu doanh nghiệp, bất động sản như theo quy định của dự thảo. Nếu không, việc chuyển đổi tài sản hoặc chuyển dịch tài sản ảo sẽ xảy ra nhằm tránh thuế. Việc đánh thuế thừa kế đối với bất động sản là tài sản thừa kế khi người được thừa kế đã có nhà ở sẽ gây nhiều tranh cãi, vì không có chuẩn mực thế nào là “nhà ở”. Mặt khác, có thể trước khi nhận thừa kế, người được thừa kế sẽ chuyển nhượng nhà ở của mình cho người khác. Do vậy, cần xác định việc đánh thuế đối với bất động sản thừa kế cũng giống như các tài sản thừa kế khác. Nếu đánh thuế vào tất cả các loại quà tặng thì thu nhập từ kiều hối cũng nên thuộc diện chịu thuế. Hiện nay, pháp luật chưa hề có định nghĩa nào về kiều hối, ngay cả trong Pháp lệnh ngoại hối 2005. Về bản chất, kiều hối là ngoại hối do người Việt Nam định cư, sinh sống ở nước ngoài gửi về cho thân nhân trong nước nên nó là một dạng quà tặng. Mặc dù chính sách của Nhà nước là khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài góp phần xây dựng quê hương nhưng sự bình đẳng trong nghĩa vụ thuế cũng rất cần được tôn trọng.
- Việc dự thảo Luật thuế TNCN quy định đánh thuế vào lãi góp vốn, cổ tức được chia là không hợp lí. Những khoản thu nhập này là phần còn lại được chia sau khi doanh nghiệp đã chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Về bản chất, khoản thu nhập từ lãi góp vốn, cổ tức được chia khác với lãi gửi ngân hàng, vì lãi gửi ngân hàng là khoản chi phí được khấu trừ khi xác định thu nhập chịu thuế của tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, nếu nhà làm luật muốn điều tiết thu nhập, thì cần xác định những khoản thu nhập này vào thu nhập thường xuyên, chứ không phải thu nhập không thường xuyên như dự thảo quy định vì đây là khoản thu nhập có được theo định kì (thường là một năm).
- Không nên quy định thu nhập từ lãi mua trái phiếu Chính phủ, tín phiếu kho bạc nhà nước vì như vậy sẽ không công bằng với những hình thức đầu tư khác như mua trái phiếu công ti, kì phiếu ngân hàng… Bởi lẽ, Nhà nước trong mối quan hệ với những người nắm giữ trái phiếu cũng giống như những tổ chức phát hành khác, đây là quan hệ dân sự nên không thể có đặc quyền dành riêng cho Nhà nước. Thiết nghĩ, Nhà nước cần thu hút nguồn vốn thông qua uy tín và niềm tin từ nhà đầu tư, chứ không phải là tạo ra vị thế cao hơn so với những tổ chức khác trong việc phát hành các công cụ vay nợ.
- Việc đánh thuế vào lãi cho vay nhưng không đánh thuế đối với lãi tiền gửi tiết kiệm là không hợp lí, bởi lẽ lãi tiền gửi tiết kiệm về bản chất cũng là lãi cho vay. Tuy tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng có quy chế pháp lí riêng nhưng không có khác biệt gì lớn so với các loại tiền gửi khác của cá nhân. Nếu quy định như vậy, chắc chắn việc đánh thuế với lãi tiền gửi ngân hàng đối với cá nhân sẽ không có hiệu quả, vì người dân sẽ chỉ sử dụng hình thức gửi tiền tiết kiệm. Không những thế, đây là sự không bình đẳng trong quy định về quyền huy động vốn của tổ chức tín dụng so với các loại hình doanh nghiệp khác. Chúng tôi ủng hộ việc không đánh thuế với lãi bảo hiểm nhân thọ nhằm khuyến khích người dân tham gia loại hình dịch vụ rất hữu ích này. Mặt khác, trong nhiều trường hợp, lãi bảo hiểm nhân thọ cũng tương tự như cổ tức, nghĩa là phần lợi nhuận được chia sau khi doanh nghiệp bảo hiểm đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Trong trường hợp nộp thuế TNCN của cá nhân kinh doanh chưa đủ điều kiện áp dụng chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ (mà hiện nay nhóm chủ thể này rất phổ biến), theo chúng tôi, việc nộp thuế khoán là giải pháp hợp lí. Tuy nhiên, không nên giao quyền cho cơ quan thuế ấn định cả hai căn cứ tính thuế là doanh thu, chi phí và thuế suất mà chỉ nên ấn định doanh thu, chi phí để đảm bảo cho việc áp dụng biểu thuế luỹ tiến từng phần đối với nhóm chủ thể này. Bên cạnh đó, việc dự thảo chỉ đánh thuế vào chủ hộ kinh doanh mà không đánh thuế theo mức bình quân của từng cá nhân trong hộ sẽ dẫn đến tình trạng các thành viên khác (thường là người thân trong gia đình) sẽ được hưởng mức lương cao để làm giảm thu nhập nhằm tránh thuế.
- Đối với những khoản thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền thương mại, chuyển giao công nghệ, quà tặng, khuyến mại, trúng thưởng xổ số và các trò chơi có thưởng, không nên quy định mức khởi điểm là 10 triệu đồng mới đánh thuế nhằm hạn chế tình trạng tránh thuế, do việc đánh thuế trong những trường hợp này là đánh thuế từng lần. Ví dụ: Chia nhỏ giá trị chuyển giao công nghệ, nhượng quyền thương mại, quà tặng thành nhiều phần, mỗi phần là một hợp đồng có giá trị thấp hơn 10 triệu đồng thì sẽ không bị đánh thuế.
- Việc phân biệt đối tượng cư trú và không cư trú chỉ nên giới hạn trong việc xác định các thủ tục hành chính thuế, không nên phân biệt về nghĩa vụ thuế, vì sẽ không đảm bảo sự bình đẳng giữa đối tượng cư trú và không cư trú đối với cùng một loại thu nhập (ví dụ: Thu nhập từ hoạt động kinh doanh phải cùng xác định trên thu nhập bằng doanh thu trừ chi phí, không thể áp dụng trên doanh thu đối với riêng đối tượng không cư trú). Do đó, trừ những quy định nhằm đảm bảo tránh đánh thuế hai lần thì việc xác định nghĩa vụ thuế đối với những khoản thu nhập phát sinh ở Việt Nam của người không cư trú cần phải quy định bình đẳng với người cư trú. Bên cạnh đó, về kĩ thuật lập pháp, nếu việc đánh thuế đối với người cư trú và không cư trú là như nhau thì không cần phải quy định nhắc lại làm cho văn bản luật dài dòng, chỉ cần dẫn chiếu trong một điều luật là được.
- Cần quy định việc áp dụng các hiệp định tránh đánh thuế hai lần làm cơ sở đảm bảo quyền lợi đối với các đối tượng có thu nhập từ nhiều quốc gia khác nhau, không nên quy định chung chung về việc áp dụng điều ước quốc tế như trong Điều 10 của dự thảo.
- Không nên quy định giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác định theo nguyên tắc: theo giá hợp đồng, nếu giá hợp đồng thấp hơn giá đất do UBND tỉnh quy định thì xác định theo giá đất của UBND tỉnh. Quy định như vậy tất yếu dẫn đến các bên tham gia hợp đồng chỉ ghi mức giá bằng với giá đất của UBND tỉnh đã công bố trong các lần chuyển nhượng và kết quả là Nhà nước không thu được thuế. Theo chúng tôi, việc xác định giá quyền sử dụng đất cũng cần phải dựa vào nguyên tắc thị trường như đối với các bất động sản khác và Chính phủ cần có những quy định cụ thể hướng dẫn việc xác định giá chuyển nhượng trong trường hợp giá chuyển nhượng ghi trong hợp đồng thấp hơn giá phổ biến trên thị trường.
- Quy định về mức chiết trừ gia cảnh cần lưu ý đến mặt bằng chi tiêu thực tế của các địa phương. Hiện nay, rõ ràng có những chênh lệch về chi phí khá lớn giữa các địa phương, ví dụ như giữa Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh với những tỉnh thành khác. Nếu mức thu nhập chịu thuế và mức chiết trừ gia cảnh giống nhau thì nơi nào có chi phí bình quân cao hơn thì người nộp thuế sẽ bị thiệt về thuế. Thiết nghĩ, dự thảo nên quy định việc tham gia quyết định của chính quyền cấp tỉnh trong việc xác định mức chiết trừ gia cảnh. Ví dụ: Nên quy định Hội đồng nhân dân tỉnh có quyền điều chỉnh trong giới hạn nhất định theo quy định của Chính phủ về mức chiết trừ gia cảnh để phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.
- Để quản lý việc thuế thu nhập cá nhân phải xây dựng được một hệ thống công nghệ thông tin… Với các chính sách về giảm trừ gia cảnh, kê khai giảm trừ gia cảnh, giữa quyết toán thuế, khai thuế, việc đối chiếu gia cảnh của từng người nộp thuế đảm bảo đúng quy định, để không bị trùng giữa những người nộp thuế có chung gia cảnh, có chung người phụ thuộc thì hệ thống dữ liệu của người nộp thuế phải được nhập vào hệ thống thông tin, được xử lý và đối chiếu tập trung… bằng cách đó mới có thể quản lý được.
- Ngoài ra, trong vấn đề cấp mã số thuế, từ trước đến nay, việc quản lý mã số thuế của người đóng thuế thu nhập đã được quản lý tương đối tốt, tuy nhiên, khi chuyển sang thuế thu nhập cá nhân này, với số lượng người nộp thuế lớn, đối tượng quản lý thuế rất lớn và rộng thì ngành thuế cũng đang triển khai xây dựng hệ thống quản lý mã số thuế để phục vụ cho hoạt động này.
C. KẾT LUẬN
Thuế thu nhập cá nhân là một loại thuế cơ bản giữ vai trò quan trọng trong hệ thống của các nước phát triển. Thuế thu nhập cá nhân không chỉ là công cụ phân phối thu nhập đảm bảo sự công bằng xã hội, mà còn là công cụ hữu hiệu động viên nguồn thu to lớn cho ngân sách nhà nước, góp phần quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Ở nước ta, Luật thuế thu nhập cá nhân mặc dù đã được ban hành và đưa vào áp dụng nhưng nó đã bộc lộ nhiều nhược điểm và hạn chế, trong đó nổi lên vấn đề thuế chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phân phối thu nhập công bằng và chưa đảm bảo được tính hiệu quả về kinh tế - xã hội. Trong điều kiện hội nhập tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực, nhiều quy định trong chế độ thuế đối với người có thu nhập cao tỏ ra không phù hợp với thông lệ quốc tế. Vì vậy, Nhà nước cùng các cơ quan chức năng cần đổi mới và xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân cho phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay.
MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “Thuế và hệ thống thuế ở Việt Nam” – GS.TS Bùi Xuân Lưu (chủ biên), ĐHNT
2. Luật thuế Thu nhập cá nhân của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 2, số 04/2007/QH12 ngày 21/11/2007
3. Thông tư số 02/2010/TT-BTC ngày 11 tháng 1 năm 2010 của Bộ tài chính hướng dẫn bổ sung thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/09/2008 của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 8/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân.
4. Dự thào Luật thuế thu nhập cá nhân – Bộ tài chính (2006).
5. Hỏi- đáp về thực hiện Luật Thuế thu nhập cá nhân - ông Đinh Nam Thắng, Phó trưởng Ban quản lý thuế thu nhập cá nhân- Tổng Cục thuế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận- Thực trạng áp dụng luật thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam.doc