Tiểu luận Thực trạng chính sách ngoại thương và cán cân thương mại ở Việt Nam

Tập trung phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ cho cả ngành sản xuất sản phẩm thay thế nhập khẩu lẫn ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu để giảm áp lực nhập khẩu yếu tố đầu vào. Xem xét lại chiến lược phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ đang không đem lại hiệu quả cao để giảm tình trạng sử dụng lãng phí và thất thoát các nguồn lực. Không nên quá chú trọng đến việc sản xuất toàn bộ sản phẩm hoàn chỉnh mà có thể xác định một công đoạn trong chuỗi giá trị toàn cầu mà Việt Nam có lợi thế so sánh để đầu tư nhằm đạt đến giá trị gia tăng cao hơn. Lựa chọn ngành công nghiệp hỗ trợ đem lại giá trị gia tăng cao như các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp sáng tạo. Phải xây dựng chiến lược đầu tư khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp hỗ trợ; tạo môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn nhằm thu hút các nguồn vốn; đa dạng hóa việc hợp tác, liên kết với các nhà đầu tư nước ngoài, giữa các doanh nghiệp trong ngành để đẩy mạnh công nghiệp hỗ trợ.

pdf32 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4682 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng chính sách ngoại thương và cán cân thương mại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
N THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 11 1.1.3. Về thuế nhập khẩu M ức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong 5 – 7 năm. Cụ thể, có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô – xe máy…vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định. Thuận lợi và hạn chế trong chính sách thuế xuất nhập khẩu VN hiện nay Thuận lợi Chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành đã có nhiều thay đổi căn bản và hoàn thiện hơn nhiều so với trước đây. Cụ thể:  Biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện hành được xây dựng trên cơ sơ danh mục điều hòa (HS) 1996 của Hội đồng hợp tác hải quan thế giới, đã bước đầu tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân loại hàng hóa dựa trên cấu tạo, đặc điểm của hàng hóa...góp phần làm cho chính sách thuế xuất nhập khẩu dần dần phù hợp với thông lệ quốc tế.  Thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng được thiết kế hợp lý hơn. Hiện nay đối với phần lớn hàng xuất khẩu có thuế suất 0%, trừ một số mặt hàng như dầu thô, một số loại quặng và song mây. Thuế nhập khẩu được quy định có 3 mức: thuế suất ưu đãi, thuế suất thông thường và thuế suất ưu đãi đặc biệt để áp dụng trong những trường hợp khác nhau tùy thuộc vào mức độ quan hệ thương mại giữa VN với các nước, tạo thuận lợi trong đàm phán về thuế, phù hợp với các quy định quốc tế mà nước ta cam kết thực hiện.  Mức thuế nhập khẩu tối đa có xu hướng giảm, nhà nước còn quy định bỏ áp dụng giá tối thiểu đối với tất cả các mặt hàng nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.  Công tác quản lý thực thi chính sách thuế xuất nhập khẩu được hoàn thiện hơn. Các thủ tục hải quan tinh gọn, tạo điều kiện tốt cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hạn chế Về thuế suất thuế nhập khẩu: thuế nhập khẩu hiện nay với chức năng bảo vệ sản xuất trong nước nên thuế xuất thường xuyên được thay đổi cho phù hợp với những mặt hàng trong nước đã sản xuất được, chính điều này cũng tạo ra những lệch lạc trong định hướng đầu tư trong nước, đặc biệt là trong thu hút đầu tư nước ngoài. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 12 Hệ thống chính sách thuế hiện nay vẫn còn phức tạp và thiếu tính ổn định, làm cho chi phí quản lý thu thuế lớn, ảnh hưởng tới hiệu quả thu thuế, tạo điều kiện cho việc trốn thuế và bóp méo hệ thống thuế. Đồng thời, nó làm mất định hướng của nhà đầu tư, bóp méo sự lựa chọn của người sản xuất và vi phạm một nguyên tắc chung của thông lệ quốc tế. Hệ thống chính sách thuế được xây dựng để phục vụ nhiều mục tiêu trong từng sắc thuế, làm mất đi tính trung lập – một yếu tố dẫn tới hiệu quả trong phân bổ nguồn lực. Có nhiều mục tiêu trong chính sách thuế không thống nhất với nhau, do đó nếu đạt được mục tiêu này thì lại gây thiệt hại tới mục tiêu khác. Còn thiếu sự kết hợp hài hòa giữa các sắc thuế trong hệ thống chính sách thuế, giữa mục tiêu số thu cho ngân sách và mục tiêu kích thích sản xuất phát triển và điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua từng sắc thuế. Thuế tiêu thụ đặc biệt còn được sử dụng cho chức năng bảo hộ sản xuất trong nước, nên có sự phân biệt đối xử giữa một số mặt hàng nhập khẩu và sản xuất trong nước (như ô tô, thuốc lá…) dẫn đến vi phạm nguyên tắc của WTO. 1.2. Các biện pháp phi thuế quan 1.2.1. Hạch nghạch nhập khẩu 1.2.1.1. Trứng, muối, đường Theo Thông tư 22/2012/TT-BCT của Bộ Công Thương trong thời gian từ ngày 6/8/2012 đến hết ngày 31/12/2012. Theo đó, lượng muối nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan năm 2012 là 102.000 tấn; đường tinh luyện, đường thô là 70.000 tấn, lượng trứng gia cầm là 40.000 tá. Bộ Công Thương sẽ phân giao hạn ngạch thuế quan nhập khẩu 100.000 tấn muối công nghiệp cho các thương nhân trực tiếp sử dụng làm nguyên liệu sản xuất hóa chất và 2.000 tấn muối tinh khiết cho các thương nhân trực tiếp sử dụng làm nguyên liệu sản xuất thuốc, sản phẩm y tế. Theo Thông tư số 111/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính, muối (kể cả muối ăn và muối đã bị làm biến tính) và natri clorua tinh khiết, có hoặc không ở dạng dung dịch nước hoặc có chứa chất chống đóng bánh hoặc chất làm tăng độ chẩy; nước biển có thuế suất ngoài hạn ngạch là 50-60%. Bộ cũng phân giao hạn ngạch thuế quan nhập khẩu 50.000 tấn đường tinh luyện và đường thô cho các thương nhân trực tiếp sử dụng đường làm nguyên liệu sản xuất và 20.000 tấn đường thô cho thương nhân sản xuất đường để tinh luyện cung cấp phục vụ sản xuất, tiêu dùng. Đường thô chưa pha thêm hương liệu hoặc chất màu gồm đường của cải, các loại THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 13 đường mía khác có thuế suất thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch ở mức 80%. Đối với đường loại khác, đã pha thêm hương liệu hoặc chất màu có thuế suất thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch ở mức 100%... Các mặt hàng như trứng chim và trứng gia cầm nguyên vỏ, tươi, đã bảo quản, hoặc đã làm chín có thuế suất nhập khẩu ngoài hạn ngạch là 80%. 1.2.1.2. Thép Theo Tổng cục hải quan, trong 2 tháng đầu năm 2013, tổng lượng nhập khẩu sắt thép là 1,3 triệu tấn, tăng 9,3% trị giá 941 triệu USD, nhập khẩu từ Nhật, Trung Quốc, Đài Loan tăng so cùng kì năm 2012. Đáng chú ý là những sản phẩm thép Trung Quốc đã lợi dụng chính sách thuế của VN để cạnh tranh không lành mạnh. Lợi dụng quy định thép hợp kim được hưởng thuế suất 0% nhiều nhà nhập khẩu đã phù phép thép xây dựng sang thép hợp kim, bàn thấp hơn 300-500 nghìn / tấn so với thép trong nước, ảnh hưởng đến tiêu thụ trong nước. Ví như thép cuộn ở VN cơ cấu 20-25% nay tụt xuống 20% nghĩa là thép nước ngoài đã chiếm mất thị phần. Đã có quy định nguyên tố Bo từ 0,0008% là thép hợp kim, nếu thay đổi phải thay cả quy định này vì liên quan đến quy chuẩn thế giới. M ặt khác do chính sách quản lý hàng nhập khẩu còn khá lỏng lẻo, chưa bảo vệ được hàng sản xuất trong nước. Do đó về chính sách, Nhà nước cũng cần điều chỉnh lại, bản thân các doanh nghiệp cũng cần nổ lực đổi mới công nghệ, tiết kiệm chi phí nhằm nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh để có thể vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay 1.2.2. Trợ cấp xuất khẩu Việt Nam trợ cấp một số mặt hàng sau:  Gạo: Hỗ trợ lãi suất thu mua lúa gạo trong vụ thu hoạch, hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo, hỗ trợ lãi suất xuất khẩu gạo trả chậm, bù lỗ cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo, thưởng xuất khẩu.  Cà phê: Hoàn phụ thu, bù lỗ cho tạm trữ cà phê xuất khẩu, bù lỗ cho doanh nghiệp xuất khẩu cà phê, hỗ trợ lãi suất tạm trữ, thưởng xuất khẩu.  Rau quả hộp: Hỗ trợ xuất khẩu cho dưa chuột, dứa hộp, thưởng xuất khẩu.  Thịt lợn: Hỗ trợ lãi suất mua thịt lợn, bù lỗ xuất khẩu thịt lợn, thưởng xuất khẩu.  Đường: Hỗ trợ giá, hỗ trợ giống mía, giảm thuế 50% VAT, hỗ trợ giảm lãi suất đầu tư, bù chênh lệch tỷ giá, hỗ trợ lãi suất thu mua mía trong kì thu hoạch, hỗ trợ phát triển vùng mía nguyên liệu. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 14  Chè, lạc nhân, thịt gia súc, gia cầm các loại, hạt tiêu, hạt điều: Thưởng theo kim ngạch xuất khẩu.  Sản phẩm, phụ tùng xe 2 bánh, gắn máy: Thuế suất nhập khẩu ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hóa.  Xe đạp, quạt điện: Ưu đãi về tín dụng, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế xuất khẩu, miễn thuế nhập khẩu linh kiện, phụ tùng, vật tư, thiết bị, hỗ trợ lãi suât vay vốn ngân hàng.  Tàu biển 11.500 tấn, động cơ đốt trong dưới 30CV, máy thu hình màu, máy vi tính: Miễn thuế nhập khẩu, ưu đãi về thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.  Sản phẩm phần mềm: Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi về thuế giá trị gia tăng,miễn thuế xuất khẩu, miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu, ưu đãi về tín dụng, ưu đãi về sử dụng đất và thuê đất.  Sản phẩm cơ khí: Ưu đãi vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước  Sản phẩm dệt may: Ưu đãi vốn tín dụng, ưu đãi đầu tư, bảo lãnh của Chính phủ, cấp lại tiền sử dụng vốn để tái đầu tư, hỗ trợ kinh phí xúc tiến thương mại.  Gốm sứ, đồ mỹ nghệ, mây tre lá: Thưởng theo kim ngạch xuất khẩu. Hỗ trợ bằng tín dụng giúp cho nhà sản xuất có đủ điều kiện tài chính để mua hàng hóa phục vụ sản xuất xuất khẩu. Một số ví dụ về tài trợ xuất khẩu  Trợ cấp tín dụng xuất khẩu: Theo thông tin từ VDB (Ngân hàng phát triển Việt Nam), trong 3 năm qua tín dụng đầu tư nhà nước qua ngân hàng phát triển đã có mứa tăng bình quân 78%/năm. VDB quản lý cho vay trên 3260 dự án đầu tư với tổng mức đầu tư khoảng 430000 tỷ đồng, trong đó vốn do VDB cho vay khoảng 160.000 tỷ đồng. Trong lĩnh vực hỗ trợ xuất khẩu, hiện VDB có khoảng 390 doanh nghiệp là những khách hàng truyền thống và kim ngạch xuất khẩu hàng đầu trong cả nước. Tổng giải ngân là 76.000 tỷ, riêng 2009 VDB giải ngân 31.000 tỷ. Vốn tín dụng xuất khẩu VDB cho vay thương xuyên chiếm đến 35-60% kim ngạch xuất khẩu mặt hàng thủy sản, 35-55% mặt hàng tàu biển, 15-25% mặt hàng cà phê. Hiện có trên 60% DN XK thủy sản hàng đầu của Việt Nam có quan hệ tín dụng với VDB.  Thưởng xuất khẩu: đã được áp dụng từ năm 1998, số tiền thưởng đều tăng qua mỗi năm. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 15 1.2.3. Các biện pháp hành chính kỹ thuật hạn chế nhập khẩu Hiện nay các hệ thống rào cản kỹ thuật mà tiêu biểu là TBT (rào cản kỹ thuật) và SPS (biện pháp kiểm dịch động thực vật) ở Việt Nam được bổ sung khá nhiều nhưng thực tế chúng ta chưa sử dụng chúng như những hàng rào bảo hộ giống như các nước phát triển. Tình trạng hàng hoá kém chất lượng vẫn tràn lan trên thị trường Việt Nam đã làm xôn xao dư luận đặc biệt từ sau khi gia nhập WTO. Các bộ tiêu chẩn TCVN được ban hành hầu như không còn phù hợp với xu thế phát triển nhanh về công nghệ , về yêu cầu bảo vệ môi trường. Ví như trong ngành dệt có gần 200 tiêu chuẩn, thì có tới 72 tiêu chuẩn cần phải xem xét hoặc thay thế, 49 tiêu chuẩn cần được xây dựng mới, tập trung vào các phương pháp xác định tồn dư kim loại và hoá chất có tác động đến con người… 1.2.4. Giấy phép nhập khẩu Nhập khẩu xe theo diện hồi hương: Tổng cục Hải quan vừa điều chỉnh tăng thời hạn cấp giấy phép nhập khẩu ô tô, xe máy dạng tài sản di chuyển của Việt kiều hồi hương, thêm 5 ngày làm việc. tức là không quá 7 ngày ( không bao gồm ngày nghỉ và nghỉ lễ), thay vì 2 ngày so với quy định hiện hành. Việc điều chỉnh này giúp công tác thẩm định hồ sơ, thực hiện đúng trình tự, thủ tục, và các điều kiện trước khi cấp giấy phép, qua đó tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các loại tài sản, phương tiện nhập khẩu theo hình thức này. Theo đó, Việt kiều hồi hương được phép mang về nước 1 xe ô tô đang sử dụng theo chế độ nhập khẩu tài sản di chuyển của người Việt định cư ở nước ngoài, đã hoàn tất thủ tục đăng kí thường trú tại Việt nam, xe này được miễn thuế nhập khẩu, thuế VAT. Năm Số doanh nghiệp Số tiền thưởng (tỷ) 1998 66 4,685 1999 106 6,210 2000 158 10,595 2001 196 12,744 2002 222 16,368 2003 232 19,532 2004 349 29,408 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 16 2. Thực trạng cán cân thương mại Việt Nam và nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó 2.1. Thực trạng cán cân thương mại ở Việt Nam Sau 3 năm gia nhập tổ chức thương mại (WTO), hoạt động ngoại thương nói chung, đặc biệt hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam nói riêng có nhiều thuận lợi để phát triển. Các nhà xuất khẩu Việt Nam có điều kiện tiếp cận thị trường thế giới dễ dàng hơn, những hạn chế và rào cản thuế đối với hàng hoá Việt Nam được cắt giảm. Năm 2008, kinh tế-xã hội nước ta diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp, khó lường. Giá dầu thô và giá nhiều loại nguyên liệu, hàng hoá khác trên thị trường thế giới tăng mạnh trong những tháng giữa năm kéo theo sự tăng giá ở mức cao của hầu hết các mặt hàng trong nước, từ đó cũng ảnh hưởng đến kim ngạch xuất nhập khẩu nước ta. Về xuất khẩu: Tính chung cả năm 2008, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá ước đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 34,9 tỷ USD, tăng 25,7%, chiếm 49,7% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực kinh tế trong nước đạt 28 tỷ USD, tăng 34,7%, chiếm 50,3%. Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, tuy kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm 2008 tăng khá cao so với năm 2007 nhưng nếu loại trừ trị giá tái xuất sắt, thép, vàng và yếu tố tăng giá của 8 mặt hàng chủ yếu (dầu thô, than đá, gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều, chè) thì kim ngạch hàng hoá xuất khẩu chỉ tăng 13,5%. Về nhập khẩu: Trong 5 tháng đầu năm, nhập siêu tăng mạnh, cao hơn gần 3,4 lần so với cùng kỳ năm 2007, lên tới 14,4 tỷ USD. Nhưng liên tiếp trong 7 tháng còn lại, nhập siêu được kiềm chế ở mức thấp; một trong những nguyên nhân chính là do giá hàng nhập khẩu trên thị trường thế giới giảm mạnh, đặc biệt là xăng dầu. Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính 80,4 tỷ USD, tăng 28,3% so với năm 2007, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 51,8 tỷ USD, tăng 26,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 28,6 tỷ USD, tăng 31,7%. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá của một số mặt hàng thì kim ngạch nhập khẩu năm nay chỉ tăng 21,4% so với năm 2007. Năm2009, do những hậu quả còn tồn đọng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, nên cán cân thương mại Việt Nam vẫn nằm trong tình trạng thâm hụt cao. Tuy nhiên, con số thâm hụt đã giảm hơn so với năm trước. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 17 Về xuất khẩu: Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2009 đạt khoảng 56,6 tỷ USD, giảm 9,7% so với năm 2008 và bằng 87,6% kế hoạch (kế hoạch điều chỉnh tăng 3% của Quốc hội). Kim ngạch của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 29,85 tỷ USD, chiếm 52,8% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giảm 13,5% so với năm 2008; của khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 26,7 tỷ USD, chiếm 47,2%. giảm 5,1%, so với năm 2008. Về nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá năm 2009 khoảng 68,8 tỷ USD, giảm 14,7% so với năm 2008 (năm 2008 so với 2007 tăng 28,7%), trong đó khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 24,87 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 36,1% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước, giảm 10,8%; Kim ngạch nhập khẩu của khối doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 43,96 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 63,9%, giảm 16,8% so với năm 2008. Năm 2009, Trung Quốc vẫn là thị trường dẫn đầu về cung cấp hàng nhập khẩu cho nước. Tiếp theo là N hật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia … Cán cân thương mại nước ta luôn nằm trong tình trạng thâm hụt, đặc biệt đang có xu hướng tăng nhanh vào những năm gần đây. Và thực tế cho thấy các mặt hàng xuất khẩu chưa có giá trị cao, giá cả cũng không ổn định. Đó là một điều đáng báo động cho nền kinh tế nước ta. Năm 2012-2013 Tuy còn nhiều thách thức, nhưng năm 2012 vẫn để lại một vài điểm sáng: xuất khẩu tăng 18,3% dù nhu cầu bên ngoài vẫn còn yếu; cán cân thương mại thặng dư sau 19 năm nhập siêu. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 18 Cán cân thương mại hàng hoá của cả nước trong 2 tháng năm 2013 thặng dư 782 triệu USD. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tháng 2/2013 đạt gần 14,39 tỷ USD, giảm 35,1% so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu đạt gần 7,15 tỷ USD, giảm 37,7% và nhập khẩu là 7,24 tỷ USD, giảm 32,3%. Cán cân thương mại hàng hoá tháng 02/2013 thâm hụt 94 triệu USD. Tính đến hết tháng 2/2013, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá cả nước đạt 36,59 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2012; trong đó, xuất khẩu là gần 18,69 tỷ USD, tăng 22% và nhập khẩu là 17,91 tỷ USD, tăng 14,1%. Cán cân thương mại hàng hoá của cả nước trong 2 tháng năm 2013 thặng dư 782 triệu USD. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại giữa Việt Nam và ASEAN 6 tháng đầu năm 2008 – 2012: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 19 Cán cân thương mại Việt Nam-Ấn Độ sắp cân bằng Cũng theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong năm 2012 Việt Nam nhập khẩu hàng hóa có xuất xứ từ Ấn Độ đạt 2,16 tỷ USD, trong khi xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này đạt 1,78 tỷ USD. Thâm hụt thương mại hàng hóa của Việt Nam từ thị trường này đã được giảm xuống còn 378 triệu USD, chưa bằng một nửa mức thâm hụt thương mại của năm 2011. Với xu hướng này, cán cân thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và Ấn Độ đang được kỳ vọng sẽ cân bằng trong năm 2013. Thâm hụt thương mại của Việt Nam từ Ấn Độ đã giảm xuống đáng kể trong những năm gần đây là nhờ xuất khẩu tăng trưởng rất mạnh (năm 2010 và 2011 tăng lần lượt là 236%, 157%). Trong đó, hai mặt hàng chính xuất khẩu sang thị trường này tăng mạnh gồm: điện thoại các loại và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện. Tổng kim ngạch của hai nhóm hàng này chiếm lần lượt là 30% và 35% trong tổng trị giá hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang Ấn Độ trong năm 2011 và 2012. Cùng chung xu hướng với tình hình nhập khẩu của cả nước, nhập khẩu hàng hóa từ Ấn Độ giảm 7,9% trong năm 2012, đạt trị giá 2,16 tỷ USD. Trong đó, Ấn Độ dẫn đầu về xuất khẩu ngô vào Việt Nam, đứng thứ 2 về xuất khẩu dược phẩm, nguyên phụ liệu dược phẩm và đứng thứ 3 về xuất khẩu bông, nguyên phụ liệu dệt may. Nhóm hàng thức ăn gia súc năm 2011 dẫn đầu về nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam nhưng lại giảm mạnh trong năm 2012, chủ yếu do giảm nhập khẩu khô dầu đậu tương. Ngược lại nhập khẩu ngô hạt từ thị trường này lại tăng mạnh và vươn lên dẫn đầu trong năm 2012. Số liệu thống kê hải quan mới nhất cũng cho thấy, trong tháng đầu tiên của năm 2013, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và Ấn Độ đạt gần 420 triệu USD, tăng 114,5 % so với tháng 12-2012, trong đó, nhập khẩu đạt 246 triệu USD, tăng 14,5% và xuất khẩu là 173 triệu USD, tăng 14,4%. Cán cân thương mại hàng hóa với Ấn Độ vì vậy thâm hụt hơn 73 triệu USD, tăng 14,9% so với tháng 12-2012. Việt Nam có cán cân thanh toán cân bằng nhất châu Á - Theo TTVN/ANZ Theo ANZ, cán cân tài khoản vãng lai hàm ý rằng so với Trung Quốc và Ấn Độ, Việt Nam vẫn là một thị trường mang lại nhiều cơ hội đầu tư và lợi nhuận hơn. Báo cáo tháng 3/2012 của ANZ về tình hình kinh doanh tại các nền kinh tế mới nổi cho thấy những kết quả trái ngược, đặc biệt là với những nền kinh tế lớn của khu vực. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 20 Các nền kinh tế mới nổi tại châu Á vốn nhiều năm nay luôn duy trì thặng dư cán cân thanh toán lớn do mô hình kinh tế với tỷ lệ tiền tiết kiệm trên thu nhập ở mức cao. Một mức thặng dư cao tại khu vực này đòi hỏi thâm hụt từ các khu vực khác, chủ yếu là từ nền kinh tế Mỹ, nhằm đạt được cân bằng toàn cầu. Thật vậy, dữ liệu công bố bởi ANZ ngày 2/4 cho thấy thặng dư tài khoản vãng lai của khu vực đã sụt giảm đáng kể từ con số 533 tỷ USD trong năm 2007 xuống còn 333 tỷ USD trong năm 2011. Tỷ lệ thặng dư trên GDP thậm chí còn ấn tượng hơn, từ 7% năm 2007 xuống còn 2,5% trong năm 2011. Năm vừa qua cũng là một năm ấn tượng với Việt Nam khi cán cân tài khoản vãng lai được duy trì ở mức khá cân bằng, thặng dư 200 triệu USD, và chỉ chiếm 0,1% GDP, con số thặng dư thấp nhất trong số các nền kinh tế được báo cáo. Trong báo cáo, ANZ loại bỏ các yếu tố liên quan tới dòng thu nhập từ việc đầu tư ra nước ngoài hay dòng vốn tài trợ giữa các chính phủ. Vì vậy, để đơn giản, nhóm thực hiện báo cáo đã sử dụng công thức cán cân thương mại để chỉ cán cân tài khoản vãng lai. CA = X - M = S - I Trong đó: CA: cán cân tài khoản vãng lai X: xuất khẩu THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 21 M: nhập khẩu S: tiết kiệm trong nền kinh tế I: đầu tư ra nước ngoài Nếu tiếp cận cán cân thanh toán từ phía tiết kiệm – đầu tư, thặng dư tài khoản vãng lai có thể giảm nhờ 2 lý do: tiêu dùng tăng cao (điều cần thiết cho hầu hết các nền kinh tế châu Á) hoặc tăng đầu tư ra nước ngoài (một kịch bản ít được mong đợi hơn). Trung Quốc và Ấn Độ tuy đều có thặng dự thương mại, song đầu tư ra nước ngoài lại tăng mạnh hơn tiêu dùng trong nước, cho thấy ngày càng ít cơ hội đầu tư và tạo lợi nhuận tại 2 nước này. Báo cáo của ANZ chỉ ra rằng việc có những lệch lạc trong thay đổi tài khoản vãng lai của hai nền kinh tế lớn của khu vực cho thấy còn rất nhiều điều cần làm để đưa tăng trưởng kinh tế khu vực theo hướng ổn định, an toàn và bớt phụ thuộc hơn, dựa trên cơ sở tiêu dùng nội địa. 2.2. Nguyên nhân 2.2.1. Chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư Căn nguyên gốc rễ của thâm hụt thương mại là sự chênh lệch tiết kiệm - đầu tư trong nước chưa được giải quyết triệt để. Chừng nào chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư còn chưa được thu hẹp thì vấn đề nhập siêu chắc chắn sẽ tiếp tục kéo dài. Trong thời gian, do tiết kiệm trong nước thấp không đủ đáp ứng nhu cầu đầu tư tăng cao nhưng kém hiệu quả, không sử dụng hết các nguồn lực làm tăng trưởng kinh tế dưới mức tiềm năng, nhất là nguồn vốn nhà nước. Đầu tư tăng, làm nhập khẩu tăng theo, nhưng kém hiệu quả đã không bù đắp nỗi nhập khẩu dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại. Kèm theo đó là tình trạng độc quyền, bảo hộ, bao cấp, chính sách thương mại chưa minh bạch, khó tiên liệu, phân biệt đối xử dẫn đến tình trạng tham nhũng, gian lận làm hiệu quả đầu tư kém, lãng phí, tăng giá hàng nhập khẩu. 2.2.2. Do lạm phát cao và chính sách tỷ giá “cố định linh hoạt” của Việt Nam gắn với đồng Đô La Mỹ Với chính sách tỷ giá được coi là “cố định linh hoạt” của Việt Nam gắn với đồng đôla Mỹ, diễn biến tỷ giá một số thời điểm chưa theo kịp với thực tế của thị trường trong điều kiện chính sách tiền tệ nới lỏng, tỷ giá hầu như cố định đã góp phần làm giảm kim ngạch xuất khẩu, tăng kim ngạch nhập khẩu. Mặc dù tỷ giá danh nghĩa USD/VND có xu hướng tăng lên theo thời gian và biên độ giao động được điều chỉnh linh hoạt tùy từng hoàn cảnh kinh tế cụ thể. Tuy nhiên, diễn biến tỷ giá thực RER và REER có xu hướng giảm dần trong THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 22 những năm gần đây do chênh lệch tốc độ lạm phát của Việt Nam so với Mỹ và các nước đối tác thương mại chính đã góp phần làm giảm sức cạnh tranh về giá hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới. Thực tế này một phần lý giải tình trạng thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam trong thời gian qua trở nên lớn hơn 2.2.3. Do cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam 2.2.3.1. Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu Hiện nay các mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu hàng đầu của Việt nam vẫn là các mặt hàng sử dụng tài nguyên thiên nhiên sử dụng lao động rẻ mạt, như các mặt hàng nông lâm sản, công nghiệp nặng và khoáng sản, công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp (TTCN), các mặt hàng mà nước ta xuất khẩu là những mặt hàng có khả năng thu ngoại tệ không cao, giá cả biến động phụ thuộc rất nhiều vào giá của thế giới. Các mặt hàng như gạo, cà phê, cao su, hàng may mặc, giày dép là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. Tuy nhiên những mặt hàng này ngày càng bị đánh giá khắt khe hơn, đòi hỏi chất lượng cao hơn, và còn phụ thuộc vào thời tiết khí hậu. Các mặt hàng thuỷ sản của nước ta vẫn tiếp tục bị đánh thuế bán chống phá giá, gây tổn hại lớn cho nền kinh tế. Bởi thế ngoại tệ thu được của các ngành hàng này không ổn định. M ặt khác, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu cho thấy hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam không có gì nổi trội so với các quốc gia trong khu vực, cơ cấu mặt hàng của Việt Nam giống với các nước khác trong ASEAN. Có rất nhiều mặt hàng trong nhóm hàng công nghiêp nhẹ tiểu thủ công nghiệp phải nhập khẩu nguyên liệu, nhập khẩu dây chuyền sản xuất. Đây cũng là tình trạng chung của nhiều ngành ngề sản xuất trong nước. Không chỉ vậy, nhiều mặt hàng xuất khẩu khả năng gia tăng sản lượng khi giá cả có lợi, chẳng hạn như tỷ giá hối đoái tăng thì nhiều mặt hàng xuất khẩu không thể tăng sản lượng vì hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đã phát huy hết công suất sản xuất và không thể khai thác tiếp nhằm đảm bảo tính bền vững dài hạn (như dầu thô, than đá,...) hay một số nhóm hàng phụ bị tác động quá nhiều của thời tiết (như nông sản, thủy sản…) 2.2.3.2. Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu Về nhập khẩu, chúng ta nhập khẩu một lượng hàng lớn nhóm hàng tư liệu sản xuất, đặc biệt là phục vụ cho dệt may, da giày. Nguyên vật phụ liệu đã chiếm trên 50%, chưa kể công mà chúng ta làm ra, rồi lại mang đi bán. Ngoại tệ thực sự cũng chẳng bao nhiêu. Nguyên nhân sâu xa chính là chất lượng của hàng Việt Nam không thể đáp ứng được yêu cầu khắt khe của thế giới. Bởi vậy ngay cả những nguyên liệu có thể sản xuất được trong THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 23 nước, chúng ta vẫn phải nhập khẩu nhiều. Chẳng hạn, lượng gạo của Việt Nam chỉ đứng sau Thái Lan nhưng chúng ta lại phải chịu mức giá thấp hơn rất nhiều. Hàng loạt người dân nuôi cá tra, cá ba sa dư cá, trong khi nguồn nguyên liệu cho các doanh nghiệp lại thiếu hụt. Chất lượng cà phê, cao su của Việt Nam bị phản ánh trong những năm gần đây, chất lượng gạo không tốt, chứa quá nhiều độc tố, cá nuôi có quá nhiều dư chất... chính chất lượng hàng hoá của Việt Nam đã dẫn đến việc nhập khẩu quá nhiều nguyên vật liệu không cần thiết. Quá trình công nghiệp hoá đang diễn ra mạnh mẽ nên nhu cầu thay thế thiết bị lạc hậu bằng cách nhập khẩu công nghệ từ các nước phát triển góp phần làm gia tăng nhu cầu nhập khẩu chung. Ngoài ra, lộ trình tự do hoá thương mại của Việt Nam nhất là kể từ năm 2007 - năm Việt Nam trở thành thành viên WTO đã thu hút một nguồn vốn FDI khá lớn hàng năm và kèm theo đó là nhu cầu nhập khẩu trang thiết bị, dây chuyền sản xuất phục vụ đầu tư. Ngoài những nguyên nhân làm gia tăng việc nhập khẩu như đã nêu trên, nguyên nhân nhập khẩu tăng cao còn phải kể đến:  Tỷ lệ nhập khẩu trong sản phẩm xuất khẩu ở mức khá cao dẫn tới thực tế là nếu xuất khẩu muốn tăng lên thì nhất thiết nhập khẩu sẽ tăng.  Thu nhập ở Việt Nam tăng lên sẽ tạo thêm nhu cầu đối với hàng tiêu dùng và xa xỉ phẩm.  Đầu cơ bất động sản và các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn cũng là lý do dẫn tới nhập khẩu gia tăng trong những năm gần đây.  Sự biến động trong giá hàng hoá thế giới dẫn tới hoạt động đầu cơ hàng hoá, nên nhiều hàng hoá được nhập khẩu để tích trữ trước khi giá tăng. 2.2.4. Chính sách giảm thuế nhập khẩu thực hiện theo các cam kết trong thỏa thuận thương mại khu vực và trong WTO Bên cạnh những tác động thuận lợi khi mở cửa hội nhập, nới lỏng các rào cản thương mại, và đặc biệt là gia nhập WTO, Việt Nam cũng gặp phải những thách thức. Việt Nam đang trong thời kỳ thực hiện các cam kết về giảm thuế quan và các hạn chế thương mại, mở cửa thị trường theo các cam kết quốc tế. Trong khoảng thời gian kể từ ngày gia nhập, mức thuế nhập khẩu trung bình của Việt Nam phải giảm từ 17,4% xuống còn 13,4% trong vòng 5-7 năm cho nên kim ngạch nhập khẩu tăng nhanh hơn xuất khẩu trong ngắn hạn và xu hướng này còn có khả năng tăng nhanh hơn nữa trong thời gian tới khi Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong WTO. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 24 2.3. Những khó khăn và thách thức với cán cân thương mại Việt Nam 2.3.1. Về xuất khẩu Hoạt động xuất khẩu năm 2013 được dự báo gặp phải không ít khó khăn và chứa đựng nhiều rủi ro. Trong bối cảnh kinh tế thế giới chưa hồi phục bền vững, còn nhiều rủi ro thì đầu ra cho hàng hóa Việt Nam vẫn chưa chắc chắn. Đặc biệt, đối tác nhập khẩu quan trọng là Hoa Kỳ có tốc độ tăng trưởng dự báo chỉ nhỉnh hơn năm 2011, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản được dự báo sụt giảm hơn sẽ gây tác động không nhỏ đến xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2013. M ột rào cản khác đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam là xu hướng bảo hộ thương mại gia tăng. Trong khi Việt Nam đang thực hiện xóa bỏ và giảm thiểu các trợ cấp xuất khẩu theo cam kết gia nhập WTO, thì việc sử dụng các hàng rào bảo hộ kĩ thuật lại ngày càng nhiều hơn ở các thị trường nhập khẩu, điều đó có thể khiến cho hàng xuất khẩu Việt Nam mất đi những lợi thế cạnh tranh tương đối. Trong bối cảnh như vậy, nhu cầu nhập khẩu ở các nước được dự báo có thể tăng nhưng sẽ không tăng cao. Do đầu vào sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam phụ thuộc phần lớn vào nguồn nguyên vật liệu, phụ kiện nhập khẩu nên tình hình nhập khẩu sẽ có ảnh hưởng nhất định đến tình hình xuất khẩu. Một số dự báo cho rằng, những yếu tố rủi ro của kinh tế thế giới cũng như khó khăn của kinh tế Việt Nam sẽ gây tác động tiêu cực đến hoạt động nhập khẩu năm 2013. Bộ Công Thương cũng cảnh báo về nguy cơ giảm xuất khẩu trong tương lai do nhập khẩu nguyên phụ liệu sụt giảm. Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu máy móc thiết bị năm 2012 chưa đến 4%, thấp hơn hẳn so với t ốc độ nhập khẩu các mặt hàng này trung bình tăng từ 15% - 20% trong những năm trước đó. Nhập khẩu của khối doanh nghiệp trong nước t iếp tục giảm nhưng nhập khẩu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn tăng cao, vì phần lớn là nhập nguyên vật liệu để gia công, lắp ráp. Theo Bộ Công thương, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Liên minh châu Âu (EU) có dấu hiệu giảm không chỉ tác động đến việc hoàn thành mục tiêu xuất khẩu năm 2012 của ngành Dệt may mà còn là dấu hiệu đáng lo ngại về khả năng đơn hàng tiếp tục giảm trong năm 2013. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), tình hình thị trường gạo thế giới trong thời gian tới vẫn trong xu hướng sụt giảm do thiếu nhu cầu. Châu Phi tồn kho nhiều nên nhu cầu mua gạo sẽ chậm hơn. Trong khi đó, việc Philippines và Indonesia tuyên bố không nhập THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 25 khẩu trong năm 2013 làm tăng thêm áp lực trì trệ của thị trường. Cạnh tranh xuất khẩu gạo giữa Việt Nam, Ấn Độ, Pakistan được dự báo có thể sẽ gay gắt hơn. Thị trường nhập khẩu thời gian tới sẽ tùy thuộc vào nhu cầu từ Indonesia và Trung Quốc. Dự báo của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam cũng cho thấy, xuất khẩu thủy sản năm 2013 vẫn sẽ tiếp tục gặp khó khăn khi sẽ phải nhập khẩu nguyên liệu thủy sản phục vụ cho sản xuất nhiều hơn, tăng 30% so với năm 2012 với kim ngạch đạt trung bình 65 - 70 triệu USD/tháng. Dự báo kim ngạch xuất khẩu thủy sản nói chung sẽ giảm 1,5 - 2% so với năm 2012. Ngoài ra, sự cạnh tranh về xuất khẩu thủy sản trên thế giới sẽ ngày càng gay gắt, trong đó Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ có xu hướng hạ giá bán sản phẩm tôm, Bangladesh bắt đầu thúc đẩy sản xuất tôm thẻ chân trắng... tạo áp lực lên mặt hàng tôm xuất khẩu của Việt Nam. Nhìn về triển vọng của các thị trường lớn, xất khẩu của Việt Nam vào EU trong năm 2013 được dự báo tăng khoảng 10%, song phải cố gắng mới có thể đạt được mức tăng này. Dù hiện nay kinh tế thế giới vẫn chưa hồi phục, các đơn hàng xuất khẩu giảm sút nhưng một số dự báo cho rằng, trong năm 2013, Mỹ sẽ là thị trường xuất khẩu lý tưởng cho các quốc gia, trong đó có Việt Nam. 2.3.2 Về nhập khẩu: Dù hàng loạt giải pháp khẩn cấp đã được Chính phủ như ban hành hạn ngạch thuế quan, áp dụng cấp phép nhập khẩu tự động, tăng thuế nhập khẩu... nhưng đều không “phanh” được tốc độ nhập khẩu. Thậm chí, Bộ Công Thương đã tiến hành cả giải pháp siết chặt tiêu dùng nhằm hạn chế lượng nhập khẩu. Những mặt hàng bị xếp vào diện xa xỉ như ô tô nguyên chiếc dưới 9 chỗ, xe máy, nước hoa, mỹ phẩm, rượu ngoại....đều phải áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu khác nhau. Nhưng tất cả các biện pháp đó không đủ chặn đà nhập siêu. Thứ trưởng Công thương Nguyễn Thành Biên thừa nhận, hiệu quả kiềm chế nhập siêu thấp là bởi các biện pháp đang áp dụng hiện nay chủ yếu tập trung vào hàng tiêu dùng trong khi tỷ trọng của nhóm này rất thấp, chỉ chiếm 8,8% tổng kim ngạch nhập khẩu. Nói cách khác, đối tượng cần tập trung chưa trúng nên không có mấy tác dụng. M ặt khác, Việt Nam do phải thực hiện các cam kết hội nhập, các biện pháp để giảm nhập khẩu ngày càng hạn chế. Việc tăng thuế, sử dụng hạn ngạch dường như không thể trong dài hạn. Phần lớn nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu đều nhập từ nước ngoài. Nhiều loại hàng hóa, thiết bị vật tư trong nước sản xuất được nhưng vẫn phải nhập khẩu, khiến nhập siêu tăng ở nhiều ngành hàng. sản phẩm trong nước chưa được người tiêu THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 26 dùng sử dụng vì một số nguyên nhân cơ bản: đó là chất lượng sản phẩm của ta chưa đáp ứng được mong muốn của người tiêu dùng; giá một số sản phẩm trong nước tương đối cao so với sản phẩm tương tự nhưng được nhập khẩu; tâm lý người Việt Nam hiện nay vẫn sính hàng ngoại. Ngoài ra, việc hàng hóa trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu của doanh nghiệp nội địa nên buộc họ phải nhập khẩu để thỏa mãn nhu cầu. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp phụ trợ hiện là công việc khó khăn. Các ngành hỗ trợ quá yếu là một trong những nguyên nhân trực tiếp làm cho tình trạng nhập siêu tăng lên liên tục trong suốt những năm qua tại Việt Nam. Mặc dù, ở Việt Nam hiện nay số lượng các doanh nghiệp hỗ trợ nội địa tăng lên khá nhanh nhưng nhìn chung mới dừng lại ở khâu sản xuất các chi tiết, linh kiện có kích cỡ cồng kềnh, công nghệ đơn giản, cơ cấu giá trị trong tổng giá trị nội địa hoá là rất nhỏ. Hơn nữa, nó chưa thực sự có hệ thống, còn manh mún, phân tán với quy mô nhỏ, các loại sản phẩm cũng như khối lượng được bán trên thị trường chưa đủ cho sự bổ xung cần thiết trong những thời điểm nhất định, nên các công ty lắp ráp, mặc dù ý thức rất rõ điều đó nhưng cũng khó có thể lập kế hoạch dự phòng một cách hợp lý. Mặt khác, cho đến nay sản phẩm công nghiệp hỗ trợ chủ yếu do doanh nghiệp nhà nướcsản xuất, phần lớn cung cấp những sản phẩm có chất lượng kém và giá thành cao, chỉ tiêu thụ được trong nội bộ các doanh nghiệp nhà nước và vì dùng những sản phẩm hỗ trợ này mà các sản phẩm lắp rắp, các loại máy móc thành phẩm không có sức cạnh tranh. Những doanh nghiệp Việt Nam tham gia ngành công nghiệp hỗ trợ vẫn còn rất yếu ớt, chủ yếu tập trung vào các khâu đơn giản như đóng gói, bao bì..., không đáp ứng nổi tiêu chuẩn của nhà đầu tư nước ngoài, những yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng, nguyên vật liệu và thời gian phân phối (thời gian giao hàng), do không có đủ công nghệ, sản xuất yếu kém và khả năng quản lý còn hạn chế. Điều đó dẫn đến một tâm lý chung là doanh nghiệp không có điều kiện thực hiện việc chuyên môn hoá khi phải bỏ vốn đầu tư lớn. Đành lựa chọn con đường nhập khẩu nguyên phụ liệu. III. Giải pháp cho chính sách ngoại thương và cán cân thương mại ở Việt Nam 1. Giải pháp cho chính sách ngoại thương 1.1. Tiếp tục minh bạch hoá và vận dụng linh hoạt công cụ thuế quan Bộ Tài chính cần vận dụng linh hoạt biên thay đổi thuế để tạo sự thuận lợi cho hàng hoá Việt Nam. Trong khuôn khổ WTO, các quốc gia cần thực hiện bảo hộ đơn giản thông qua thuế. Việc áp dụng thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thay đổi biên thuế trong trường hợp khẩn cấp, thuế chống trợ cấp và bán phá giá là không vi phạm WTO. Bộ Tài chính có THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 27 thể xem xét vận dụng kinh nghiệm của Thái Lan như áp mức thuế cao đối với hàng hoá nhập khẩu trong một số trường hợp khẩn cấp hay khi có yêu cầu từ các hiệp hội, các bộ ngành khác, từ đó có thể giải quyết được những vấn đề về nhập khẩu kém chất lượng. Bộ Tài chính, các bộ ngành và các hiệp hội tiếp tục thực hiện minh bạch hoá thông tin về cắt giảm, điều chỉnh thuế và phối hợp với cộng đồng doanh nghiệp để tăng tính dự đoán được trong việc điều chỉnh thuế. Việc cập nhật văn bản mới nhất về điểu chỉnh thuế cần được tiếp tục đưa lên các trang web của Quốc hội, Bộ tài chính, Bộ thương mại, Tổng cục Hải quan và các hiệp hội. Việc áp dụng và điểu chỉnh các loại thuế gián tiếp như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế lợi nhuận cần được rà soát để đảm bảo phục vụ mục tiêu phát triển của ngành. 1.2. Sử dụng một cách hệ thống một số công cụ phi thuế quan Trong khuôn khổ của WTO, các quốc gia thành viên được quyền sử dụng hạn ngạch thuế quan. Mặt hàng được áp dụng hạn ngạch thuế quan là những mặt hàng mà quốc gia sử dụng mong muốn bảo hộ. Tuy nhiên, với những cam kết AFTA, hạn ngạch thuế quan sẽ không áp dụng với các thành viên ASEAN. Do đó, khi áp dụng công cụ này, Việt Nam nên lựa chọn những ngành mà Việt Nam có lợi thế so sánh hiện hữu và khả năng cạnh tranh trong ASEAN nhưng không có lợi thế so sánh hiện hữu và khả năng cạnh tranh khi thực hiện thương mại với thế giới. Khi lựa chọn mặt hàng thực hiện áp dụng hạn ngạch thuế quan, Bộ Thương mại cũng cần dựa trên phương pháp chuyên gia và thực hiện lấy ý kiến từ doanh nghiệp trong ngành. Để sử dụng hiệu quả việc cấp giấy phép nhập khẩu, Bộ Thương M ại cần phối hợp với Bộ Công nghiệp, các bộ chuyên ngành và cộng đồng doanh nghiệp. Xem xét kinh nghiệm của Thái Lan về việc tạm thời cấm nhập khẩu một mặt hàng khi hàng hoá nhập khẩu cạnh tranh gay gắt với hàng hoá trong nước. Các bộ ngành, hiệp hội doanh nghiệp và các doanh nghiệp có thể vận dụng triệt để các quy định trong Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam, Luật Thương mại, Luật cạnh tranh. Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu như chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, chính sách thưởng kim ngạch, thưởng thành tích đang được sửa đổi tại Việt Nam trong thời gian qua cho phù hợp với quy định liên quan đến trợ cấp xuất khẩu và thương mại liên quan đến đầu tư và yêu cầu của đối tác trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Bộ thương mại cần xây dựng một hệ thống thông tin về các biện pháp phi thuế, về phá giá và chống bán phá giá, xây dựng cơ chế cảnh báo về khả năng tranh chấp hay bị kiện phá THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 28 giá và chống bán phá giá, dự kiến những mặt hàng có khả năng bị các quốc gia bạn hàng áp dụng các biện pháp phi thuế, đặc biệt là kiện phá giá; xây dựng cách thức tận dụng có hiệu quả các thủ tục điều tra và giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO cũng như thủ tục ở các quốc gia bạn hàng. Hệ thống thông tin về thị trường, ngành hàng và rào cản cẩn đảm bảo tính dễ dàng truy cập đối với không những doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu mà cả các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp. 2. Giải pháp cho cán cân thương mại 2.1. Đẩy mạnh xuất khẩu Do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, năm 2013 tình hình xuất khẩu của các doanh nghiệp được nhận định tiếp tục khó khăn. Trong bối cảnh đó, làm thế nào để có thể vượt qua các khó khăn đó là một câu hỏi khó. Tập trung giải quyết vốn và lãi suất Phải nhận diện cho được những khó khăn, thách thức và cơ hội trong năm 2013. Từ đó, tạo cơ sở đề ra những giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy xuất khẩu và kiểm soát nhập khẩu. Đó là giải quyết hàng tồn kho, hỗ trợ thị trường, thực hiện chính sách miễn, giảm thuế, phí… Nghị quyết 02/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngay trong tháng 1-2013 cũng tập trung giải quyết những vấn đề cốt lõi là vốn và lãi suất cho các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu. Đặc biệt, đối với những doanh nghiệp xuất khẩu nông, thủy sản phải bảo đảm được nhu cầu vốn và đúng địa chỉ cần thiết. Cùng với đó sẽ mở rộng định mức vay và giãn thời hạn trả nợ vay ngân hàng cho các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản, công nghiệp chế biến; tiếp tục hạ lãi suất cho vay ở những lĩnh vực được ưu tiên. Bên cạnh xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ tiêu thụ nông, thủy sản, tạm trữ để ổn định giá, chủ động nguồn hàng cho xuất khẩu là tiếp tục áp dụng chính sách cho vay ngắn hạn bằng ngoại tệ đối với doanh nghiệp xuất khẩu. Có như vậy doanh nghiệp mới tiếp cận được nguồn vốn vay ngoại tệ với lãi suất thấp, góp phần nâng cao sức cạnh tranh. Cùng với đó là tăng cường bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu, kiểm soát chất lượng hàng hóa xuất khẩu tránh để hàng hóa xuất khẩu “dính” quy định vệ sinh an toàn thực phẩm; mở rộng thị trường ở các nước đang phát triển, các thị trường tiềm năng, mới nổi. Đi đôi với công tác thông tin, tuyên truyền là bám sát thị trường để kịp thời nắm bắt các thay đổi về cơ chế, chính sách quản lý nhập khẩu của nước sở tại… THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 29 Định hướng chiến lược phải đúng Theo chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011- 2020 của ngành công thương được nêu ra, có 5 giải pháp chính là phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; phát triển thị trường; chính sách tài chính, tín dụng và đầu tư; phát triển cơ sở hạ tầng giao nhận kho vận và xã hội hóa nhanh dịch vụ logistics; đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020 của ngành công thương cũng đặc biệt quan tâm đến đổi mới công nghệ các ngành sản xuất có tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu lớn như cơ khí, đồ gỗ, dệt may, da giày…; khuyến khích phát triển đầu tư vào các ngành công nghiệp hỗ trợ nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu; phát triển các trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu, đầu mối cung ứng nguyên liệu cho các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may, giày dép, gỗ, nhựa, điện tử… Từ những kinh nghiệm trên thương trường, một số doanh nghiệp thành công trong xuất khẩu cũng cho rằng, để đẩy mạnh xuất khẩu trước hết doanh nghiệp phải có định hướng chiến lược đúng đắn. Một khi đã có chiến lược đúng, doanh nghiệp sẽ phát triển tập trung vào các giá trị cốt lõi của ngành thông qua quy trình sản xuất, kinh doanh khép kín và phát triển hệ thống phân phối. Song song đó là tập trung nghiên cứu để có những sản phẩm mới, chất lượng cao hơn nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường; củng cố thị trường gần sau đó mới tiến tới thị trường xa. Ngoài việc tập trung một số thị trường gần trong khu vực cũng phải đẩy mạnh tìm kiếm thị trường các nước phát triển để khẳng định thương hiệu của doanh nghiệp; đồng thời kiên định với thị trường bằng chính thương hiệu của mình thì sẽ tốt hơn là gia công, bởi sản phẩm gia công không tạo ra giá trị gia tăng cao… Giải pháp đề xuất của nhóm Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chấp nhận thực tế là hiện nay các nước trên thế giới ra các quy định khắt khe về xuất nhập khẩu là vì muốn đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu (nếu có nhập khẩu thì cũng chỉ nhập những mặt hàng chất lượng cao) nên các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nắm giữ thật kỹ các quy định đấy và phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt, đồng thời phải tìm cách nâng cao chất lượng lẫn mẫu mã của các sản phẩm mình. Thực tế đã chứng minh, nếu các doanh nghiệp có thể nâng cao chất lượng sản phẩm của mình thì không chỉ đẩy mạnh xuất khẩu mà còn có thể thu hút thị trường trong nước, và điều đó sẽ một phần hạn chế tình trạng nhập siêu. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 30 M ột vấn đề nữa rất hay xảy ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam chính là các vụ kiện bán phá giá và không làm đúng quy định của các nước. Đối với việc này thì các doanh nghiệp không nên lẫn tránh như trong quá khứ mà nên tích cực hợp tác, sự hợp tác trong điều tra sẽ giúp các doanh nghiệp có nhiều điều lợi hơn và sẽ tránh những thiệt hại không cần thiết. Chủ động phòng chống các vụ kiện bán phá giá của nước ngoài: o Chính phủ tích cực triển khai đàm phán song phương, đa phương để tranh thủ nhiều nước thừa nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường, do đó không áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với Việt Nam. o Dự báo danh mục các ngành hàng và các mặt hàng Việt Nam có khả năng bị kiện phá giá trên cơ sở rà soát theo tình hình sản xuất, xuất khẩu từng ngành hàng của Việt Nam và cơ chế chống bán phá giá của từng quốc gia để từ đó có sự phòng tránh cần thiết. o Xây dựng chiến lược đa dạng hoá sản phẩm và đa phương hoá thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp để phân tán rủi ro, tránh tập trung xuất khẩu với khối lượng lớn vào một nước vì điều này có thể tạo ra cơ sở cho các nước khởi kiện bán phá giá. Theo hướng đó các doanh nghiệp cần chú trọng đếncác thị trường lớn (Trung Quốc, Nhật Bản..) các thị trường mới nổi (Hàn Quốc, Úc..) các thị trường mới (SNG, Trung Đông, Nam Phi...). Bên cạnh đó cần tăng cường khai thác thị trường nội địa - một thị trường có tiềm năng phát triển. Đây là những kinh nghiệm ta đã rút ra được từ các vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa của Mỹ trước đây. o Tăng cường áp dụng các biện pháp cạnh tranh phi giá để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu thay cho cạnh tranh bằng giá thấp. Đó là phải đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, đẩy mạnh các dịch vụ hậu mãi, tiếp thị quảng cáo, áp dụng các điều kiện mua bán có lợi cho khách hàng... o Xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin về thị trường xuất khẩu, về luật thương mại quốc tế, luật chống bán phá giá của các nước... và phổ biến, hướng dẫn cho các doanh nghiệp các thông tin cần thiết nhằm tránh những sơ hở dẫn đến các vụ kiện. Trong vấn đề xuất khẩu thì bản thân sự can thiệp và những quy định cũng như sự giúp đỡ của chính phủ là hết sức cần thiết. Chính phủ nên có những biện pháp tìm hiểu về những quy định về các mặt hàng nhập khẩu của các nước và thông báo cho các doanh nghiệp để các doanh nghiệp có thể thuận lợi trong việc tìm được thị trường phù hợp với doanh nghiệp mình, ngoài ra việc biên giảm những khâu thủ tục không cần thiết trong vấn đề xuất khẩu cũng là một điều quan trọng và cần thiết đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 31 2.2. Hạn chế nhập khẩu: Bộ Công Thương cùng Vụ Chính sách Thuế Bộ Tài chính rà soát lại một loạt dòng thuế theo hướng tăng thuế với những mặt hàng trong nước đã sản xuất được. Bộ Công Thương cũng yêu cầu các tập đoàn, tổng công ty cần tận dụng tối đa sự phân cấp của Chính phủ trong việc ủy quyền cho chủ đầu tư chỉ định thầu các dự án trong năm 2010 cần ưu tiên sử dụng máy móc thiết bị trong nước sản xuất dưới dạng chỉ định thầu. Bộ Công nghiệp đã có quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020; trong đó tập trung vào 5 nhóm ngành cần đáp ứng phục vụ là dệt may, da giày, điện tử-tin học, sản xuất và lắp ráp ô tô, cơ khí chế tạo. Đối với ngành dệt may, công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010 phải cung ứng 10-70% và đến năm 2020 cung ứng 40- 200%. Phụ tùng, cơ khí dệt may, năm 2015 đáp ứng 50% sản phẩm xe, sợi tổng hợp và năm 2020 đáp ứng 80% tiến tới xuất khẩu sau năm 2020. Đối với ngành giày dép, công nghiệp hỗ trợ cần đẩy nhanh cung ứng các loại vải dệt để sản xuất giầy dép; đặc biệt là nguyên liệu cho mũ, giày với mục tiêu sử dụng nguyên phụ liệu trong nước đạt 40% vào năm 2010; 70- 80% vào năm 2020. Giải pháp đề xuất của nhóm Để hạn chế nhập siêu trong dài hạn Chính phủ cần ban hành nghị định về quy hoạch, phát triển công nghiệp phụ trợ để chủ động về nguyên phụ liệu. Hạn chế tình trạng cơ cấu kinh tế phụ thuộc cả đầu vào lẫn đầu ra như những năm qua. Bộ Công Thương cần kiểm soát nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất được bằng các biện pháp về thuế và phi thuế trong khuôn khổ pháp luật và những camkết mà Việt Nam đã cam kết. Tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam với các ngoại tệ chủ chốt cần phải được duy trì ổn định. Vai trò quản lý vĩ mô là phải điều tiết sự thay đổi tỷ giá hợp lý sao cho vừa thu hút vay vốn nước ngoài, vừa khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hướng tới xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu phục vụ cho việc tăng trưởng kinh tế mà vẫn kiểm soát được lạm phát ở mức hợp lý. Để xuất khẩu có thể tăng lên khi tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu thông qua tăng tỷ giá, nhất thiết cần quan tâm và thực hiện đồng bộ các biện pháp hỗ trợ như nâng cao hiệu quả đầu tư sản xuất, chất lượng hàng hoá xuất khẩu đáp ứng nhu cầu nhập khẩu. Có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp trong nước về đầu tư công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM CHĐ3K22 – NHÓM 5 Trang 32 Tạo dựng thương hiệu cho sản phẩm để có sức cạnh tranh tốt ở thị trường trong và ngoài nước. Tập trung phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ cho cả ngành sản xuất sản phẩm thay thế nhập khẩu lẫn ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu để giảm áp lực nhập khẩu yếu tố đầu vào. Xem xét lại chiến lược phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ đang không đem lại hiệu quả cao để giảm tình trạng sử dụng lãng phí và thất thoát các nguồn lực. Không nên quá chú trọng đến việc sản xuất toàn bộ sản phẩm hoàn chỉnh mà có thể xác định một công đoạn trong chuỗi giá trị toàn cầu mà Việt Nam có lợi thế so sánh để đầu tư nhằm đạt đến giá trị gia tăng cao hơn. Lựa chọn ngành công nghiệp hỗ trợ đem lại giá trị gia tăng cao như các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp sáng tạo. Phải xây dựng chiến lược đầu tư khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp hỗ trợ; tạo môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn nhằm thu hút các nguồn vốn; đa dạng hóa việc hợp tác, liên kết với các nhà đầu tư nước ngoài, giữa các doanh nghiệp trong ngành để đẩy mạnh công nghiệp hỗ trợ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhom_5_csnt_va_cctm_3878.pdf
Luận văn liên quan