Tiểu luận Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam trong thời gian qua. giải pháp hạn chế đô la hóa

Cần tiếp tục cơ cấu tích cực mệnh giá đồng Việt Nam, phát triển dịch vụ ngân hàng và mở rộng thanh toán không dùngtiền mặt trong nền kinh tế. Đẩy mạnh tuy ên truy ền sử dụng thẻ , kể cả thẻ tín dụng quốc tế. Chi trả bằng ngoại tệ ở Việt Nam, bao gồm tiền mặt hay chuyển khoản cũng không được phép, trừ khi tổ chức kinh doanh được Ngân hàng Nhà nước cho phép tiếp tục thu ngoại tệ. Việc chi trả cho người được hưởng trong nước các khoản tiền như kiều hối, tiền lương, thu nhập từ xuất khẩu lao động bằng ngoại tệ tiền mặt theo yêu cầu nên chấm dứt. Việc này chỉ thực hiện bằng tài khoản tiền gửi ngoại tệ hoặc chi trả bằng tiền Việt Nam.

pdf26 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4287 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam trong thời gian qua. giải pháp hạn chế đô la hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 p ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM TRƯỜNG ĐH KINH TẾ - LUẬT ---------- BÀI TIỂU LUẬN Môn: TIỀN TỆ NGÂN HÀNG THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ ĐÔ LA HÓA Giảng viên : Nguyễn Thị Hai Hằng Lớp: k09404A Thực hiện: Vũ Thị Thu Phượng MSSV: K094040591 2 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................... 3 Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA................. 4 1.1. Khái niệm ........................................................................................................ 4 1.2. Phân loại ......................................................................................................... 4 1.3. Nguyên nhân ............................................................................................... 6 1.4. Tác đng ca đô la hóa .................................................................................... 8 Chương 2: THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ ............................................................................................ 17 2.1. Thc trng đo la hóa Vit Nam ................................................................... 17 2.2. Gii pháp hn ch hin tng đo la hóa ........................................................ 21 PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................... 25 3 LỜI MỞ ĐẦU Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu rộng với nền kinh tế toàn cầu và khu vực. Điều này mang lại nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với các vấn đề trong nước, đặc biệt là các vấn đề về chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước để ổn định nền kinh tế. Một trong những thách thức lớn mà nền kinh tế chúng ta đang phải đối mặt là hiện tượng đô la hóa, đặc biệt tình trạng này xảy ra càng nhiều khi nước ta gia nhập WTO. Đô la hóa có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nói chung và phát triển hệ thống ngân hàng nói riêngđồng thời nó cũng gây ra rủi ro về khả năng thanh khoản và chi trả gây ra do phá sản cho toàn hệ thống ngân hàng. Do vậy, ảnh hưởng không nhỏ cho người dân cũng như nền kinh tế. Nó đòi hỏi nhà nước cũng như NHTW phải có những biện pháp can thiệp kịp thời để can thiệp giúp giảm thiểu những rủi ro cho tình trạng này.Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “Thực trạng Đô la hoá ở Việt Nam trong thời gian gần đây. Giải pháp hạn chế hiện tượng đô la hóa” Đây là một đề tài khá khó hơn nữa thời gian làm bài và trình độ của người viết còn nhiều hạn chế nên khó tránh khỏi có những thiếu sót nhất định. Sau đây em xin trình bày một số đánh giáthực trạng đô la hoá đang diễn ra và qua đó nhận thức được những hạn chế của đô la hoá nhằm đưa ra các giải pháp khắc phục. 4 Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA 1.1. Khái niệm Đô la hóa (dollarization) là việc sử dụng một ngoại tệ để thực hiện một số hay tất cả các chức năng của tiền tệ, quá trình một nước bỏ hoàn toàn đồng nội tệ và thay vào đó sử dụng đồng tiền của nước khác ổn định hơn làm phương tiện thanh toán. Nói cách khác, đô la hóa xảy ra khi dân chúng trong một nước sử dụng rộng rãi ngoại tệ, song song hoặc thay thế cho đồng tiền nội tệ của mình. 1.2. Phân loại Đô la hoá được phân ra làm 3 loại: đô la hoá không chính thức (unofficial Dollarization), đô la hoá bán chính thức (semiofficial dollarization), và đô la hoá chính thức (official dollarization). Đô la hoá không chính thức là trường hợp đồng đô la được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận.Đô la hoá không chính thức có thể bao gồm các loại sau:  Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài  Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.  Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước  Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi. Đô la hoá bán chính thức là những nước có hệ thống lưu hành chính thức hai đồng tiền. Ở những nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp, và thậm chí có 5 thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế và những chi tiêu hàng ngày. Các nước này vẫn duy trì một ngân hàng trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ của họ. Đô la hoá chính thức (hay còn gọi là đô la hoá hoàn toàn) xảy ra khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân, mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vai trò thứ yếu và thường chỉ là những đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ. Thông thường các nước chỉ áp dụng đô la hoá chính thức sau khi đã thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế.Đô la hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hoặc hai đồng ngoại tệ được lưu hành hợp pháp. Tuy nhiên, các nước đô la hoá chính thức thường chỉ chọn một đồng ngoại tệ làm đồng tiền hợp pháp. Công thức tính ࢀ ࢒ ࢚࢏ ࢔ ࢍ ࢏ ࢔ࢍ࢕ ࢏ ࢚ ࢀ ࢔ࢍ ࢖ࢎ ࢔ࢍ ࢊ࢏ ࢔ ࢚ࢎࢇ࢔ࢎ ࢚࢕á࢔ = ࡲࡰ࡯ࡹ૛ Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô la hóa cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối tiền tệ mở rộng (M2); bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, và tiền gửi ngoại tệ.Theo đánh giá của IMF năm 1998, 19 nước có mức độ đô la hoá cao với tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/M2 lớn hơn 30%, bao gồm các nước: Argentina, Azerbaijian, Belarus, Bolivia, Cambodia, Costa Rica, Croatia, Georgia, Guinea - Bissau, Laos, Latvia, Mozambique, Nicaragua, Peru, Sao Tome, Principe, Tajikistan, Turkey và Uruguay. 35 nước có mức độ đô la hoá vừa phải với tỷ lệ tiền gửi/M2 khoảng 16,4%, bao gồm các nước: Albania, Armenia, Bulgaria, Cộng hoà 6 Czech, Dominica, Honduras, Hungary, Jamaica, Jordan, Lithuania, Macedonia, Malawi, Mexico, Moldova, Mongolia, Pakistan, Philippines, Poland, Romania, Russia, Sierra Leone, Cộng hoà Slovak, Trinidad, Tobago, Uganda, Ukraine, Uzbekistan, Việt Nam, Yemen và Zambia.Theo nghiên cứu của Hệ thống dự trữ Liên bang Mỹ, hiện tại người nước ngoài nắm giữ từ 55 đến 70% tổng số đô la Mỹ đang lưu hành trên thế giới. 1.3. Nguyên nhân Theo thống kê, các quốc gia có nền kinh tế đô la hóa chính thức đều là những quốc gia nhỏ cả về quy mô dân số cũng như diện tích. Đối với những quốc gia này, đô la hóa chính thức nền kinh tế có thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của các nhà lănh đạo. Theo họ, việc chấp nhận 1 ngoại tệ mạnh là tiền tệ chính thức góp phần làm cho nền kinh tế ổn định hơn, lạm phát thấp hơn, tăng trưởng ở mức cao và họ chấp nhận đánh đổi chủ quyền về tiền tệ để đạt được sự ổn định này, vậy suy cho cùng mục tiêu là tăng trưởng kinh tế. Cho nên tình trạng đô la hóa có thể xuất phát từ một số nguyên nhân sau đây: Thứ nhất, tỷ lệ lạm phát cao ở Việt Nam khiến sức mua của đồng bản tệ giảm sút thì người dân phải tìm các công cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có đồng ngoại tệ có uy tín như USD. Song song với chức năng làm phương tiện cất giữ giá trị, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán hay làm thước đo giá trị. Thứ hai, hiện tượng đô la hóa bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đô la Mỹ, được sử dụng trong giao lưu quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Nói cách khác, đô la Mỹ là một loại tiền mạnh, ổn định, được tự do chuyển đổi đã được lưu hành khắp thế giới và từ đầu thế kỷ XX đã dần thay thế vàng, thực hiện vai trò tiền tệ thế giới. 7 Thứ ba, khi thực thi cơ chế kinh tế thị trường mở cửa làm cho quá trình quốc tế hóa giao lưu thương mại, đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của nước ta nên xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để thực hiện một số chức năng của tiền tệ. Thứ tư, tình trạng buôn lậu, nhất là buôn bán qua biên giới và trên biển khá phát triển và sự quản lý lỏng lẻo của chính quyền các cấp. Tình trạng các doanh nghiệp, các cửa hàng kinh doanh... bán hàng thu bằng ngoại tệ còn tùy tiện và diễn ra phổ biến. Thứ năm, thu nhập bằng đô la Mỹ trong các tầng lớp dân cư ngày càng được mở rộng và tăng lên. Đó là thu nhập của những người Việt Nam làm việc cho các công ty nước ngoài và các tổ chức quốc tế ở Việt Nam; tiền cho người nước ngoài thuê nhà và kinh doanh du lịch; khách quốc tế đến và chi tiêu đô la bằng tiền mặt ở Việt Nam; người nước ngoài sinh sống và làm việc ở Việt Nam tiêu dùng; tiền của người Việt Nam định cư ở nước ngoài gửi về; tiền của những người đi xuất khẩu lao động, đi học tập, hội thảo, làm việc ngắn ngày mang về. Các nhà kinh tế cho rằng đô la hóa không chính thức gây nhiều tác động tiêu cực đến điều hành chính sách tỷ giá hối đoái vì đô la hóa có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định, do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đô la Mỹ, làm cho cầu của đồng đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá. Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Bên cạnh đó, khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây khó 8 khăn cho ngân hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng. 1.4. Tác động của đô la hóa 1.4.1. Tác động tiêu cực. Nói đến Đô la hoá là người ta nói ngay đến những tác động tiêu cực của nó tới nền kinh tế Quốc dân, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế nền kinh tế đang diễn ra ngày càng sâu rộng. Mức độ Đô la hóa càng cao thì tác động tiêu cực đến nền kinh tế càng nghiêm trọng hơn. Ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, làm giảm việc điều hành của chính sách tiền tệ. Các học thuyết kinh tế chỉ ra rằng chính sách tài chính tiền tệ của một quốc gia có mối quan hệ hữu cơ với nền kinh tế của quốc gia đó. Đó là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng nhất, ảnh hưởng đến nhiều chỉ tiêu kinh tế tiêu biểu như lạm phát, thất nghiệp, tỷ giá hối đoái, lãi suất… Khi cung tiền tăng làm lạm phát tăng. Lạm phát là một chỉ số rất nhạy cảm, làm cho giá cả tăng lên, gây ra hai hiệu ứng trái ngược nhau. Đối với các nhà sản xuất trong ngắn hạn, giá tăng sẽ làm tăng lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm bán ra và nếu các yếu tố khác không đổi thì tổng lợi nhuận của họ sẽ tăng lên, khuyến khích các nhà đầu tư mở rộng sản xuất, góp phần làm giảm thất nghiệp. Ngược lại, về phía người tiêu dùng nếu sự tăng giá là đáng kể thì họ sẽ giảm nhu cầu tiêu dùng, dẫn đến việc lưu thông hàng hóa trở lên đình trệ nhà sản xuất phải cắt giảm sản lượng, thu hẹp sản xuất, làm thất nghiệp tăng lên. Lạm phát còn làm cho đồng nội tệ mất giá, có thể làm giảm lòng tin trong dân cư đối với đồng nội tệ và có thể gây ra một làn sóng chuyển đổi nội tệ sang các ngoại tệ mạnh hoặc các tài sản khác để 9 cất trữ của cải, tạo sức ép tăng tỷ giá hối đoái, từ đó có thể thúc đẩy xuất khẩu vì giá hàng hóa xuất khẩu rẻ hơn, tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Mặt khác khi lạm phát gia tăng thì ngân hàng cũng phải tăng lãi xuất lên tương ứng để thu hút tiền gửi vào hệ thống ngân hàng, kiềm chế lạm phát. Như vậy, xác định và duy trì một tỷ lệ lạm phát phù hợp không hề đơn giản, đòi hỏi những nhà hoạch định chính sách phải sử dụng kết hợp nhiều chính sách, đặc biệt là chính sách tài chính tiền tệ một cách linh hoạt và thận trọng. Thông thường Nhà nước phải xác định cái giá phải trả hoặc sự đánh đổi cho việc giảm căng thẳng của tình trạng lạm phát leo thang.Trong điều kiện mức độ Đô la hoá cao, việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tài chính tiền tệ sẽ bị mất tính độc lập, chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn biến kinh tế quốc tế, nhất là khi xảy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính tiền tệ. Khi này mỗi chính sách kinh tế vĩ mô lại phải tính toán đến những yếu tố quốc tế đảm bảo sự hài hòa giữa đối nội và đối ngoại. Khi tình hình quốc tế biến động thì các chính sách kinh tế vĩ mô cũng phải lập tức điều chỉnh cho thích ứng. Để giảm bớt tính chất bị động, các chính phủ thường phải lập một đội ngũ chuyên gia làm nhiệm vụ cập nhật tin tức thế giới, phân tích và đánh giá những kinh tế chính trị, chính trị, xã hội nhằm dự báo xu hướng những thay đổi có thể xảy ra. Đô la hóa còn làm cho đồng nội tệ trở nên nhạy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, nhất là các loại rủi ro tài chính tiền tệ mang tính chu kỳ của nền kinh tế thị trường trong điều kiện toàn cầu hoá như hiện nay như: rủi ro thanh khoản ngoại tệ, rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất, rủi ro rút vốn đầu tư nước ngoài, rủi ro nợ quốc gia... Do đó những cố gắng của nhà nước nhằm điều chỉnh chính sách tiền tệ sẽ tác động đến tổng cầu của nền kinh tế thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả. Khi này, nền kinh tế tồn tại không chỉ duy nhất đồng nội tệ mà còn nhiều ngoại tệ khác cho nên khi nhà nước giảm lãi suất tiền gửi nhằm giảm tiết kiệm, tăng tiêu dùng trong dân cư. Nhưng Chính phủ có thể không đạt được mục tiêu một cách hiệu quả vì trong 10 tình hình đó người dân có thể không tiêu dùng mà chuyển sang tiết kiệm bằng ngoại tệ, nghĩa là Đô la hóa tăng. Gần đây, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới lại đang bị xáo trộn mạnh bởi sự tăng giá dầu mỏ tăng lên cao do khủng hoảng chính trị ở Libia, Bờ Biển Ngà và động đất sóng thần tại Nhật Bản làm giá cả ở Việt Nam tăng nhanh, lạm phát tăng Đô la hóa ảnh hưởng trực tiếp đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá của Nhà nước. Nó làm cho cầu tiền cả nội tệ và ngoại tệ không ổn định, người dân có nhiều sự lựa chọn hơn cho tài sản của mình. Nếu tình hình trong nước không thuận lợi, lạm phát cao hay chỉ đơn giản là niềm tin vào sự tăng giá của USD trong tương lai sẽ khuyến khích người dân đi mua ngoại tệ để cất trữ của cải hoặc đầu cơ ngoại tệ, làm tăng cầu USD, gây sức ép tăng tỷ giá. Ngược lại nếu thấy những yếu tố bất lợi cho việc nắm giữ đô la như đô la có xu hướng giảm giá…thì người dân có thể lập tức bán ra ồ ạt đô la, gây sức ép giảm giá USD, làm tỷ giá giảm. Sự biến động thất thường của tỷ giá gây ra nhiều bất lợi cho đất nước. Nếu tỷ giá quá cao, nghĩa là đồng tiền Việt Nam có giá trị quá nhỏ bé so với các đồng tiền khác, điều này có thể làm giảm vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế vì mức thu nhập tính theo đô la cách xa các quốc gia khác, hoặc tỷ giá quá thấp sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam, do giá hàng xuất khẩu cao hơn. Hơn thế nữa, khi tỷ giá luôn luôn biến động sẽ làm cho hoạt động kinh doanh liên quan đến ngoại tệ chịu nhiều rủi ro hơn, khó dự đoán kết quả tương lai, làm giảm động lực kinh doanh. Để hạn chế sự biến động thất thường của tỷ giá trên thị trường tự do mỗi Chính phủ thường hoạch định một chính sách tỷ giá hối đoái riêng. 11 Hiện nay, Nhà nước Việt Nam áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết. Đó là chế độ tỷ giá mà tỷ giá được xác định theo quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại tệ, nhưng khi tỷ giá trên thị trường tự do biến động vượt quá biên độ cho phép mà Chính phủ đã xây dựng lên thì Chính phủ sẽ tiến hành mua vào hoặc bán ra lượng ngoại tệ dự trữ ở ngân hàng Trung ương để đưa tỷ giá trên thị trường trở lại vào biên độ cho phép. Nhưng vai trò điều tiết tỷ giá của Nhà nước nhiều khi đạt hiệu quả không cao đối với những nước Đô la hóa vì lượng ngoại tệ dự trữ của Nhà nước còn quá ít so với lượng ngoại tệ trên thị trường tự do, không đủ khả năng tác động lên giá cả trên thị trường. Ở các nước Đô la hóa không chính như Việt Nam, nhu cầu về nội tệ không ổn định. Trong trường hợp biến động xảy ra, mọi người bất ngờ đổ xô đi mua ngoại tệ, tạo sức ép làm tăng tỷ giá, đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Nếu tình trạng này kéo dài không kiềm chế được thì có thể đẩy lạm phát lên rất cao, làm tê liệt các hoạt động kinh tế. Khi người dân nắm giữ một lượng lớn ngoại tệ, những biến động về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự dịch chuyển lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác. Chính sách tiền tệ phù thuộc nặng nề vào Mỹ Khi một quốc gia bị Đô la hóa ở mức độ cao, đặc biệt là Đô la hoá bằng USD thì chính sách tài chính tiền tệ còn chịu sự phụ thuộc vào các chính sách của Mỹ. Sự phụ thuộc càng lớn khi mức độ Đô la hóa càng cao. Bởi vì trong số ngoại tệ có mặt trong tổng phương tiện thanh toán trên đất nước thì USD luôn chiếm một tỷ lệ chủ yếu. Thực tế cho thấy, quá trình hoạch định chính sách, nhất là chính sách tiền tệ của Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác luôn luôn phải dựa trên cơ sở cập nhật và nghiên cứu kỹ lưỡng các chính sách, đặc biệt là chính sách tài chính tiền tệ, chính sách tỷ giá của Mỹ. Quá trình thực thi các chính sách cũng không được tách rời những biến động trên nước Mỹ để có những điều chỉnh kịp thời . Ví dụ như gần đây khi Mỹ liên tục tăng lãi suất 12 USD, các ngân hàng ở Việt nam cũng ngay lập tức tăng lãi suất tiền gửi USD theo để cạnh tranh trong hoạt động thu hút tiền gửi USD. Các tin tức về tình hình kinh tế, chính trị ở Mỹ cũng luôn luôn được cập nhật, phân tích, đánh giá nhằm dự báo kịp thời, chính xác những biến động, từ đó kịp thời điều chỉnh trong chính sách. Ở những nước Đô la hóa chính thức sự phụ thuộc vào Mỹ là rất lớn.Vì USD là đồng tiền chính thức được sử dụng ở các quốc gia này, nên chính sách tiền tệ hầu như phụ thuộc vào Mỹ từ cung, cầu tiền đến lãi suất,vai trò của nhà nước rất mờ nhạt trong lĩnh vực này thậm chí là hoàn toàn bị động. Mặc dù Mỹ là một quốc gia phát triển hàng đầu thế giới, các chính sách của Mỹ được nghiên cứu rất chặt chẽ, khoa học, độ chính xác và hiệu quả điều tiết cao. Thế nhưng chúng là giành cho nước Mỹ, phù hợp với nước Mỹ, trong khi đó hoàn cảnh của Việt Nam cũng như các quốc gia đang phát triển khác thì không tương thích với Mỹ, thậm chí còn đối lập ở nhiều khía cạnh, lạm phát ở Mỹ rất thấp chỉ từ 1 – 2%, còn ở Việt Nam thường duy trì ở mức hai con số; Thất nghiệp ở Mỹ cũng thấp hơn nhiều Việt Nam; Tiềm lực tài chính; Năng lực quản lý thì vượt xa Việt Nam… Cho nên chính sách Tài chính tiền tệ không thể giống nhau, việc chịu ảnh hưởng hay phụ thuộc hoàn toàn vào các chính sách của Mỹ có khi lại không mang lại hiệu quả tối ưu, thậm chí trái ngược. Đô la hóa chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng Trung ương trong vai trò là người cho vay cuối cùng của hệ thống ngân hàng thương mại. Còn ở những nước Đô la hóa không chính thức thì Ngân hàng Trung ương cũng không có chức năng cho vay cuối cùng về ngoại tệ. Khi sự bảo lãnh ngầm của nhà nước đối với các khoản vay vẫn còn thể hiện thông qua chức năng người cho vay cuối cùng của Ngân hàng Trung ương thì người dân còn tin tưởng mà gửi tiền vào các ngân hàng, nếu 13 sự bảo lãnh này mất đi thì sẽ làm giảm lòng tin của người dân với ngân hàng. Vì vậy, ở các quốc gia Đô la hóa, nhất là Đô la hóa chính thức, khu vực ngân hàng thường tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn hơn. Mỗi khi có biến động xấu xảy ra thì nguy cơ phá sản và đóng cửa là rất lớn do khả năng rút tiền ồ ạt của những người gửi rất cao, các thông tin trở lên rất nhạy cảm. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay hệ thống ngân hàng còn yếu kém trong việc thu hút tiền gửi ngoại tệ nên lượng ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng không nhiều, không đủ để đáp ứng nhu cầu của các chủ thể kinh tế, hơn nữa thủ tục cho vay còn rườm rà, gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp như: đòi hỏi tài sản thế chấp lớn, khắt khe với doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên hoạt động vay nợ nước ngoài vẫn còn phổ biến, vai trò trung gian thanh toán của các ngân hàng thương mại Việt Nam chưa chuyên nghiệp. Thực hiện các cam kết gia nhập WTO, từ năm 2011 các ngân hàng thương mại nước ngoài, các định chế tài chính quốc tế, các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư nước ngoài được mở rộng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng. Vì vậy, tình trạng Đô la hoá vẫn duy trì ở mức độ cao như hiện nay, sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các tổ chức trên khi họ kinh doanh các sản phẩm tín dụng, ngân hàng bằng ngoại tệ theo lộ trình cam kết WTO. Ngược lại, sẽ tạo ra rất nhiều bất lợi cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam vốn có năng lực hoạt động và cạnh tranh quốc tế yếu kém. Một khi hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam bị tổn thất thì không chỉ chính sách tài chính tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước gặp khó khăn mà nó còn tác động mạnh đến toàn bộ nền kinh tế. 1.4.2. Những ảnh hưởng tích cực của Đô la hoá: Đô la hóa tăng khả năng hội nhập quốc tế 14 Trong một số trường hợp nhất định, Đô la hoá cũng có những tác động tích cực.Giống như nhiều quốc gia đang phát triển khác, Việt Nam đang phải nhập khẩu rất nhiều máy móc, thiết bị, công nghệ, hàng hóa tiêu dùng từ các nước khác, nhất là các nước phát triển ( các nước đang nắm giữ các loại ngoại tệ mạnh ) để phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước. Nhu cầu nhập khẩu của chúng ta rất lớn: năm 2004 Việt nam nhập khẩu 31.953,9 triệu USD; Cán cân thương mại luôn thâm hụt nặng (nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu), kể từ khi đổi mới nền kinh tế đến nay chỉ có mỗi năm 1992 cán cân thương mại của Việt Nam thặng dư được khoảng 90 triệu USD còn lại thì luôn luôn thâm hụt. Qua số liệu thống kê cho thấy từ năm 1999 đến năm 2002, cán cân thương mại Việt Nam ở trạng thái cân bằng hoặc thặng dư, nhưng từ năm 2003 đến nay cán cân thương mại liên tục ở trạng thái thâm hụt và giá trị thâm hụt ngày càng lớn. Nếu trong năm 2003 thâm hụt thương mại vào khoảng 2,581 tỷ USD thì đến năm 2008 mức thâm hụt lên đến 12,782 tỷ USD, gấp 5 lần so với năm 2003. Năm 2009 mức thâm hụt là 15,412 tỷ USD, gấp 5,9 lần so với năm 2003. Trong năm 2010, cán cân thương mại tiếp tục nghiêng về nhập siêu với mức thâm hụt vào khoảng trên 12 tỷ USD. Nếu so sánh giá trị thâm hụt thương mại với giá trị GDP qua các năm thì từ năm 2002 (năm bắt đầu có thâm hụt thương mại) tỷ lệ thâm hụt thương mại so với GDP ngày càng gia tăng và trở nên đáng báo động trong những năm gần đây (2007-2010), khi tỷ lệ này vượt trên 10%GDP. Đô la hóa làm giảm áp lực đối với nền kinh tế Đô la hóa còn gián tiếp mang lại những tác động tích cực khác cho nền kinh tế: Tình trạng đô la hóa đã góp phần tạo ra một cái van giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kì lạm phát cao hay khi nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng, những giai đoạn mà điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. Lịch sử Việt Nam và nhiều nước khác trên thế giới như: Đức, Nga, các quốc gia Châu Phi… đã từng chứng kiến sự phá hoại 15 khốc liệt của lạm phát cao, đặc biệt là lạm phát phi mã. Đó là tình trạng đô la bị mất giá nhanh chóng, tiền dường như mất đi các chức năng lưu thông vốn có. Người ta không muốn bán hàng hóa để nhận về những tờ giấy “vô giá trị”. Vì thế đời sống xã hội trong thời kỳ lạm phát cao rất hỗn loạn, người dân muốn đẩy tiền vào các ngân hàng hoặc chuyển thành hàng hóa. Do USD có giá trị khá ổn định nên nhiều người đã lựa chọn phương thức đối phó với lạm phát là chuyển nội tệ sang USD để cất trữ. Nếu hệ thống ngân hàng có một lượng lớn ngoại tệ dự trữ, đáp ứng được phần lớn nhu cầu đổi ngoại tệ của người dân thì sẽ góp phần làm dịu sự hỗn loạn trong dân cư. Hơn nữa, chính hành vi đổi ngoại tệ của người dân đã làm cho nội tệ được hút vào hệ thống ngân hàng, giảm cung nội tệ trên thị trường, góp phần kiềm chế sự gia tăng của lạm phát. Còn Nhà nước sẽ sử dụng ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa bán rộng rãi trên thị trường trong nước, làm giảm sự khan hiếm hàng hóa, từ đó làm ổn định tâm lý của người dân xoa dịu sự hỗn loạn trong xã hội do thiếu hàng hóa để tiêu dùng. Thúc đẩy đầu tư và thương mại Mức độ Đô la hóa càng cao thì càng tăng cường khả năng cho vay và khả năng hội nhập của ngân hàng. Nhờ có một lượng lớn ngoại tệ gửi vào ngân hàng, các ngân hàng sẽ có điều kiện cho nền kinh tế vay bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế vay nợ nước ngoài, tăng cường khả năng kiểm soát của Ngân hàng Trung ương đối với luông ngoại tệ. Đặc biệt ngày nay khi quá trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng, nhiều doanh nghiệp đã tham gia các giao dịch vượt qua biên giới quốc gia, nhu cầu vay ngoại tệ rất lớn. Họ vay để thanh toán quốc tế, đầu tư ra nước ngoài, thậm chí để phục vụ các hoạt động kinh doanh trong nước vì lãi suất USD thấp, ổn định mệnh giá USD lớn .Bên cạnh đó, với lượng lớn ngoại tệ tiền gửi tại ngân hàng sẽ tạo điều kiện để các ngân hàng mở rộng các hoạt động đối ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị trường quốc tế. Ngày nay, việc các ngân hàng làm trung gian trong các giao dịch quốc tế ngày càng phổ biến, đặc biệt là ở các nước phát triển - nơi có hệ 16 thống ngân hàng phát triển, dự trữ ngoại tệ lớn.Ngân hàng thay mặt người mua thanh toán cho người bán ở các quốc gia khác nhau, vừa đảm bảo thời gian,vừa an toàn, tăng độ tin cậy của giao dịch, giúp thương mại quốc tế phát triển hơn. Ngoài ra ngân hàng còn có điều kiện cho vay quốc tế và thu hút đầu tư quốc tế. Như vậy, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực mà Đô la hóa mang lại cho nền kinh tế thì nó cũng có thể gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực đáng phải cân nhắc, đặc biệt là Đô la hóa chính thức trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Các chính sách kinh tế vĩ mô mất đi tính độc lập, hiệu lực hiệu quả trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô không cao, nhất là chính sách tài chính tiền tệ, uy tín quốc gia và giá trị của đồng nội tệ suy giảm ...Vì vậy, vấn đề cấp thiết hiện nay đặt ra cho các nhà quản lý, nhà khoa học phải nghiên cứu, đánh giá thực trạng Đô la hóa ở Việt Nam trong thời gian quan; kinh nghiệm của các nước trên thế giới để đề ra hệ thống giải pháp toàn diện nhằm kiểm soát Đô la hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng tại Việt Nam. Hạ thấp chi phí giao dịch Điều này thấy rõ ở những nước đô la hóa chính thức, xét một nước đô la hóa không chính thức như Việt Nam muốn thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu ở nước ngoài bằng USD thì doanh nghiệp phải đến ngân hàng để chuyển đổi nội tệ sang ngoại tệ để thanh toán cho đối tác, khi đó doanh nghiệp phải chịu một khoản chi phí chênh lệch giữa việc chuyển đổi giữa các dòng tiền. Nhưng xét với nước đo la hóa chính thưc thì không còn những giao dịch chuyển đổi như trên nữa, nên chi phí chênh lệch giữa mua và bán được xóa bỏ, chi phí dự phòng cho rủi ro cũng loại bỏ vì thế giảm chi phí cho doanh nghiệp. Thu hẹp chênh lệch tỉ giá trên hai thị trường chính thức và phi chính thức 17 Tỷ giá càng sát sao với thị trường phi chính thức, tạo động cơ để chuyển đổi thị trường phi chính thức sang chính thức. khi đó thị trường phi chính thức sẽ mở rộng hơn so với hoạt động mà trước kia phải thực hiện trên thị trường phi chính thức. điều này giúp thị trường hoạt đọng hiệu quả và nâng cao tính minh bạch, công bằng. Chương 2:THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ 2.1. Thực trạng đo la hóa ở Việt Nam Giai đoạn trước đổi mới ( trước 1988) Việt Nam thực hiện cơ chế tập trung bao cấp. Nhà nước nắm độc quyền về ngoại thương, ngoại hối. Quy mô nền kinh tế nhỏ, kinh tế đối ngoại kém phát triển, hệ thống ngân hàng còn sơ khai. Điều lệ quản lý ngoại hới ban hành kèm theo Nghị định số 102/CP ngày 6/7/1963 của chính phủ nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân sở hữu, sử dụng ngoại tệ trong nước, mọi nơi giao dịch phải thực hiện bằng VND. Về cuối giai đoạn xuất hiện dấu hiệu của khủng hoảng kinh tế, VND suy yếu mạnh, lạm phát tới 3 con số và liên tục các đợt tăng giá vàng. Trong dân xuất hiện mua vàng và ngoại tệ để tích trữ, đầu cơ và sử dụng làm phương tiện thanh toán. Giai đoạn bắt đầu mở cửa đến trước khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực (1988-1997) Nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi Đô la mỹ trong giao dịch, buôn bán… khi ngân hàng được phép nhận tiền gửi bằng đồng Đô la từ năm 1988. Năm 1991, tỉ lệ FCD/M2 lên đến 41,2%, việc thanh toán bằng ngoại tệ và vàng bất hợp pháp và hợp pháp tương đối nhiều, việc định giá bằng ngoại tệ và vàng trong dân cư khá phổ biến. Nguyên nhân 18 do lạm pháp phi mã giai đoạn trước( đến năm 1991 lạm pháp vẫn còn tới 67,5%). Do ngoại tệ dễ dàng cất giữ, vận chuyển, thanh toán bởi vì mệnh giá VND nhỏ. Đến giai đoạn 1993-1996, khi Việt Nam đang từng bước chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước dần xóa bỏ chế độ độc quyền ngoại thương, đồng thời ban hành nhiều chính sách để thúc đẩy kinh tế phát triển và mở rộng quan hệ quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá ổn định trung bình 8%/ năm, lạm pháp được kiểm soát ở mức trên dưới 10%. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng, hệ thống thanh toán nên vị thế của VND dần khôi phục. NHTM cũng cố gắng giảm mức độ đô la hóa bằng việc giảm lãi suất tiền gửi USD, tăng lãi suất tiền gửi VND nên mức độ đô la hóa giảm mạnh , tỉ lệ FCD/M2 năm 1997 xấp xỉ 20%. Tuy nhiên, thị trường ngoại tệ tự do trong dân cư vẫn chưa kiểm soát được, các hoạt động trái phép vẫn tồn tại nguyên nhân thiếu chế tài , thiếu sự phối hợp của các cơ quan quản lí. Giai đoạn khủng hoảng tài chính tiền tệ đến nay. - Từ năm 1998 đến nay Từ số liệu thống kê của IMF, chúng ta xác định, tính toán được diễn biến tỷ lệ đô la hóa ở Việt Nam từ quý 1/1995 đến Quý 1/2010 như sau: FCD/M2 của Việt Nam giai đoạn Q1 1995 - Q1 2010(trích nguồn từ IFS ) 19 Do khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, mức tăng GDP của Việt Nam giảm mạnh, trung bình chỉ còn 6%. Đồ thị ở trên cho thấy tỷ lệ đô la hóa ở Việt Nam đạt mức đỉnh điểm vào năm 2001 vớicon số xấp xỉ 35% và được xem là một trong những quốc gia thuộc top các nước có tỷ lệ đô la hóa cao. Tuy nhiên, giai đoạn hiện nay (2008 - 2010) đã giảm đáng kể so với những năm 2000-2003, từ mức trung bình 28%-30% xuống 16,5%-18%. Đạt được kết quả này phần nào nhờ vào việc Chính phủ đã không nên "cố" neo tỷ giá vào đồng đô la Mỹ, mà để thị trường ngoại hối phán quyết sức mua đã "tụt dốc" rất lớn của đồng đô la Mỹ so với hầu hết các đồng tiềnquốc gia khác trên thị trường quốc tế như hiện nay. Như vậy, có thể nói hiện nay Việt Nam không còn là quốc gia có tỷ lệ đô la hóa cao. Nguyên nhân:  Trong suốt thời gian dài, kinh tế Mỹ tăng trưởng cao và ổn định, lãi suất đô la Mỹ trên thị trường quốc tế tăng lên cao, đỉnh điểm lên tới 6,5%/năm. Vì thế các ngân hàng thương mại trong nước tăng lãi suất huy động đo la lên tương ứng để người dân tăng cường gửi ngoại tệ.  Tâm lý đô la hóa trong giai đoạn này một phần cũng do tác động của khủng hoảng và kì vọng của thị trường vào sự phá giá của Việt Nam. Năm 2008 khủng hoảng kinh tế toàn thế giới tình trạng lạm phát tăng cao (29,8) tâm lí lo ngại động nội tệ mất giá tăng lên làm tình trạng đo la hóa ở nước ta có xu hướng tăng trở lại năm 2008 xấp xỉ 20%. Từ tháng 11/2009 dến tháng 2/2011 chỉ trong vòng 14 tháng, NHNN đã quyết định 4 lần điều chỉnh tỷ giá, trong đó cũng có những đợt điều chỉnh được coi là phá giá tiền tệ và đồng nội tệ hiện nay đã giảm giá khoảng 20% so với thời điểm trước 26/11/2009, cụ thể: 20  26/11/2009 tỷ giá điều chỉnh tăng 5,4% từ 17.034 đồng lên 17.961 đồng  10/2/2010 tỷ giá điều chỉnh tăng 3,2% từ 17.961 đồng lên 18.544 đồng  18/08/2010 tỷ giá điều chỉnh 2,09% từ 18.544 đồng lên 18.932 đồng  11/2/2011 tỷ giá điều chỉnh tăng 9,3% từ 18.932 đồng lên 20.963. Tỉ giá bình quân liên ngân hàng tăng lên đã phản ánh sát hơn với cung cầu thị trường, đảm bảo tính thanh khoản, góp phần kiềm chế nhập khẩu và hỗ trợ cho việc thực thi chính sách tiền tệ. Việc phá giá tiền tệ nhằm giảm thâm hụt cán cân thương mại và tình trạng lạm phát tăng cao nhưng mặt trái của nó được thể hiện ngay trên thị trường tự do, là bằng chứng khẳng định xu thế đi xuống tất yếu của tiền đồng, người dân càng có tâm lý giữ đo la làm tài sản với kì vọng tiếp tục những đợt phá giá nội tệ. Trái với xu hướng biến đổi của cơ cấu tiền gửi, tỷ trọng dư nợ cho vay bằng đo la Mỹ so với tổng dư nợ và đầu tư trong hệ thống ngân hàng thương mại có xu hướng tăng lên, cao hơn so với tiền gửi đo la.Thực tế hiện nay cho vay bằng ngoại tệ đã giảm mạnh thông qua các giải pháp hạ lãi suất trần huy động ngoại tệ. Tốc độ tăng dư nợ cho vay bằng ngoại tệ so với 31/12/2010 là 22%, tháng 11 giảm còn 19,09%, tháng 12 giảm còn 17,9% và tháng 1/2012 dư nợ tín dụng ngoại tệ giảm -0,4% so với số dư 31/12/2011 (Thời báo ngân hàng T01/2011) Chính sách hỗ trợ lãi suất đối với các DN vay bằng VND do lãi suất vay VND thấp, phạm vi và thời gian vay được mở rộng, một số DN có ngoại tệ không muốn bán ra ngoại tệ mà muốn vay VND làm nguồn cung ngoại tệ giảm sút. Biểu đồ lượng kiều hối chuyển vào Việt Nam trong những năm gần đây Trích nguồn: vietbao.vn 21 Lượng kiều hối chuyển vào Việt Nam bằng con đường chính thức tăng từ 35 triệu USD (1991) đến 8 tỷ(2010),theo thống kê kiều hối về Việt Nam cuối năm 2011 vượt ngưỡng 9 tỷ USD. Trong điều kiện nước ta, với giá trị kiều hối 9 tỷ/năm là nguồn cung ngoại tệ đáng kể, có tác động tích cực trong việc cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, ổn định tỉ giá, là nguồn ngoại tệ quan trọng đáp ứng cho nhu cầu nhập khẩu hàng hóa. Một bộ phận lớn chảy vào Việt Nam theo con đường không chính thức, chủ yếu bằng tiền mặt trao tận tay cho ngân hàng mà ít gửi bán cho ngân hàng chủ yếu là bán trên thị trường chợ đen.  Tình trạng buôn lậu, nhất là buôn bán qua biên giới, trên biển và các hoạt động kinh tế ngầm khác, đây là kênh chuyển tiền vào nước ta mà nhà nước khó kiểm soát có thể gây lũng đoạn kinh tế. Tình trạng các doanh nghiệp, các cửa hàng kinh doanh… bán hàng thu ngoại tệ còn tùy tiện và diễn ra biến.  Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng càng tăng nhanh, đánh dấu sự lớn mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam trên con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa đồng thời gia tăng lượng ngoại tệ chảy vào Việt Nam. 2.2. Giải pháp hạn chế hiện tượng đo la hóa Đô la hóa là tình trạng khó tránh khỏi đối với các nước có xuất phát điểm thấp , đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và đẩy mạnh hội nhập như Việt Nam. Tâm lý lo ngại về lạm phát, về sự mất giá của đồng nội tệ, thói quen sử dụng tiền trong giao dịch…… không thể một sớm một chiều có thể xóa bỏ hay triệt để được.Để khắc phục tình trạng đô la hóa, đòi hỏi phải có nhiều giải pháp đồng bộ, thực hiện từng bước từng khâu thích hợp với từng giai đoạn đổi mới, phát triển của đất nước, phải bằng nhiều giải pháp vừa kinh tế vừa hành chính kết hợp với giáo dục pháp luật, không chỉ các giải 22 pháp từ hệ thống ngân hàng, mà cần có nhiều giải pháp được thực hiện bởi nhiều cơ quan chức năng của nhà nước, ý thức của từng doanh nghiệp và từng người dân. Cụ thể: 2.2.1. Nâng cao vị thế VND Một là, cần thực hiện các biện pháp vĩ mô để tăng dự trữ USD; chủ động trong điều hành tỉ giá, tránh tăng tỉ giá quá mạnh gây kích thích tâm lý dự trữ USD; thực hiện đa dạng hóa ngoại tệ, tránh phụ thuộc vào USD; sớm có chủ trương bán ngoại tệ cho người dân có nhu cầu chính đáng như du học, chữa bệnh, đi công tác…- Sử dụng các công cụ tiền tệ( như tăng lãi suất tiền gửi đồng nội tệ, tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc bằng đồng ngoại tệ…..) để tác động đến điều kiện thị trường nhằm làm cho đồng Việt Nam hấp dẫn hơn đo la Mỹ. Hai là, điều chỉnh cơ cấu sản xuất theo hướng tránh lệ thuộc vào nguồn nhập khẩu, nhất là nguyên liệu đầu vào để hạn chế cầu USD. Ba là, nâng cao chất lượng dịch vụ của các tổ chức tín dụng, mở rộng thêm các tiện ích gắn với việc giao dịch bằng tiền VNĐ như dịch vụ thẻ, điểm thanh toán, cho vay tiêu dùng. Bốn là, có giải pháp thu hút triệt để ngoại tệ từ các doanh nghiệp, cá nhân, người Việt Nam ở nước ngoài khi mang ngoại tệ vào Việt Nam; khuyến khích tăng tỉ lệ quy đổi sang VNĐ với số lượng USD lớn. Nhóm giải pháp thứ năm là sửa đổi các văn bản và quản lý chặt chẽ việc niêm yết hàng hóa trong nước bằng VNĐ, chẳng hạn ban hành một pháp lệnh. Bộ Kế hoạch - Đầu tư cho rằng trong bối cảnh thị trường tự do ngừng giao dịch, Nhà nước nên có sự chỉ đạo kịp thời đối với các tổ chức tín dụng để khắc phục tình trạng giam giữ ngoại tệ. Mặt khác, thời điểm này cần rà soát lượng ngoại tệ trong các tổ chức tín dụng để phòng ngừa trường hợp ngoại tệ chảy ra nước ngoài, nhất là hoạt động đánh bạc ở nước ngoài. 23 Các giải pháp trên sẽ góp phần xóa bỏ tình trạng đô la hóa. Tuy nhiên, các giải pháp cần thực hiện ngay là tăng dự trữ USD, bán ngoại tệ cho người dân có nhu cầu chính đáng, ngăn chặn ngoại tệ chảy ra nước ngoài 2.2.2. Những giải pháp trong lĩnh vực tiền tệ, ngoại hối. Phải có đánh giá về tình hình thực hiện Quyết định số 98/2007/QĐ-TTg ngày 4/7/2007 về việc phê duyệt đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam và khắc phục tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế. Khi đánh giá, cần phải chỉ rõ những giải pháp nào đã thực hiện, giải pháp nào chưa thực hiện, nguyên nhân tại sao để từ đó có những giải pháp xử lý phù hợp trong thời gian tới. Điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá cần theo hướng tăng lợi ích nắm giữ VND ở mức hợp lý để khuyến khích sử dụng đồng nội tệ, hạn chế sử dụng ngoại tệ. Công cụ có thể sử dụng là tăng dự trữ bắt buộc áp dụng đối với tiền gửi ngoại tệ cao hơn nhiều so với dự trữ bắt buộc áp dụng đối với tiền gửi (có nước đã tăng dự trữ bắt buộc lên tới mức 30 - 50% áp dụng đối với tiền gửi ngoại tệ nhằm thu hẹp quy mô nắm giữ đồng ngoại tệ) hay trần lãi suất đối với tiền gửi ngoại tệ. Về nguyên tắc, nên tập trung vào hạn chế tình trạng đô la hóa bên tài sản Có trước, nghĩa là thu hẹp quy mô tín dụng ngoại tệ, để hạn chế việc sử dụng lãi suất để cạnh tranh thu hút tiền gửi ngoại tệ. NHNN cần sớm nghiên cứu, xây dựng cơ chế chuyển dần từ cơ chế huy động và cho vay ngoại tệ sang quan hệ mua bán ngoại tệ. Tăng cường sự phối hợp giữa các Bộ, Ngành trong việc giám sát việc thực hiện các quy định về quản lý ngoại hối trên phạm vi cả nước, thuộc mọi thành phần kinh tế, phải đảm bảo xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, cần có chế tài xử phạt nặng đối với các trường hợp vi phạm pháp luật về quản lý ngoại hối. 24 Về phía các cơ quan quản lý, cần có những đánh giá về tình hình thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong thời gian qua, từ đó có những chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới, phù hợp với mục tiêu hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế. Đi đôi với việc giám sát và xử lý nghiêm việc thực hiện các quy định về quản lý ngoại hối, đảm bảo trên đất Việt Nam chỉ tiêu tiền Việt Nam, các NHTM, tổ chức kinh tế cần tăng phí đổi tiền lên cao để người dân hạn chế nắm giữ ngoại tệ, chuyển sang nắm giữ VND. Cần tiếp tục cơ cấu tích cực mệnh giá đồng Việt Nam, phát triển dịch vụ ngân hàng và mở rộng thanh toán không dùngtiền mặt trong nền kinh tế. Đẩy mạnh tuyên truyền sử dụng thẻ , kể cả thẻ tín dụng quốc tế. Chi trả bằng ngoại tệ ở Việt Nam, bao gồm tiền mặt hay chuyển khoản cũng không được phép, trừ khi tổ chức kinh doanh được Ngân hàng Nhà nước cho phép tiếp tục thu ngoại tệ. Việc chi trả cho người được hưởng trong nước các khoản tiền như kiều hối, tiền lương, thu nhập từ xuất khẩu lao động……bằng ngoại tệ tiền mặt theo yêu cầu nên chấm dứt. Việc này chỉ thực hiện bằng tài khoản tiền gửi ngoại tệ hoặc chi trả bằng tiền Việt Nam. Cuối cùng là ý thức của cộng đồng doanh nghiệp và người dân trong việc thực hiện nghiêm các quy định pháp luật ngoại hối. Có như vậy, kinh tế vĩ mô mới ổn định, tác động tốt tới hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. 25 PHẦN KẾT LUẬN Đô la hóa đang lấn sâu vào nền kinh tế Việt Nam và tác động sâu sắc đến mọi mặt của đất nước. Tình trạng đô la hóa không phải là tốt nhưng cũng không xấu hoàn toàn. Một mặt nó là nguyên nhân thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời là nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng tài chính. Đối với Việt Nam còn là nước nghèo thì giải pháp để hạn chế tình trạng kinh tế trung và dài hạn đó là tập trung vào phát triển kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, nâng cao vị thế của đồng nội tệ. Việc vận dụng Đo la quá nhiều vào đời sống hằng ngày, sẽ làm cho đồng Việt Nam không bị thay thế và mất dần chỗ đứng trên đất nước mình, làm mất lòng tin cho người dân vào sức mua của đồng nội tệ.. chính vì vậy không những các chuyên gia kinh tế , các nhà lãnh đạo … mà tất cả mọi người dân, đặc biệt là giới trẻ đều cần phải có ý thức quan tâm đến vấn đề này. Đây là một đề tài khó, đồng thời cũng được nhiều sự quan tâm của nhiều phía, trong khi đó nhận thức của em còn hạn chế. Vì vậy, việc có nhiều sai sót là điều không tránh khỏi, mong cô thông cảm. Trân thành cảm ơn cô! 26 Tài liệu tham khảo: 1.Giáo trình tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính của Frederics.Mishkin Columbia Universty. 2. Tổng cục thống kê 3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 4. 5. Báo mới.com 6.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfk1_k094040591_47.pdf
Luận văn liên quan