Nhóm sống ở vùng sâu vùng xa thường xuyên chịu thiên tai nhưng thiếu
khả năng chống đỡ rủi ro thiên tai. Chủ yếu rơi vào hộ nghèo, đông con nhỏ, già
cả neo đơn, khuyết tật, ốm đau dài ngày, thương bệnh binh, phụ nữ đơn thân làm
chủ hộ, trẻ em. Nhà cửa của nhóm này thường chất lượng thấp, một số còn ở nhà
tạm bợ. Tài sản của nhóm này rất thiếu thốn. Nhóm hộ nghèo thường có ít ruộng,
ít cây dài ngày. Một số hộ còn trẻ, có lao động nhưng mới tách hộ nên chưa có tích
lũy. Nhóm hộ sinh sống ở khu vực thấp trũng, vùng ven, ngoài rìa xóm, rìa đê bao
thường chịu tác động trực tiếp trước tiên của lũ lụt ập về.
28 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6081 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng nghèo đói ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Tiểu luận
Thực trạng nghèo đói ở Việt Nam
2
MỤC LỤC
1. Thực trạng nghèo đói ở Việt Nam:.................... Error! Bookmark not defined.
1.1. Việt Nam là một nước nghèo ...................... Error! Bookmark not defined.
1.2. Đánh giá về mức độ nghèo đói: .................. Error! Bookmark not defined.
2. Một số đặc điểm của vùng nghèo đói. .............. Error! Bookmark not defined.
2.1. Các vùng khó khăn. ...................................... Error! Bookmark not defined.
2.2. Nghèo đói vùng nông thôn và đô thị .......... Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Nghèo đói ở nông thôn. ............................ Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Nghèo đói ở đô thị..................................... Error! Bookmark not defined.
3. Nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo:Error! Bookmark not
defined.
3.1. Hạn chế về nguồn lực:.................................. Error! Bookmark not defined.
3.2. Trình độ học vấn thấp, việc làm thiết và không ổn địnhError! Bookmark
not defined.
3.3. Các yếu tố về nhân khẩu học....................... Error! Bookmark not defined.
3.4. Các nguy cơ rủi ro và thiên tai khác:.......... Error! Bookmark not defined.
3
1. Thực trạng nghèo đói ở Việt Nam:
1.1. Việt Nam là một nước nghèo.
Trong tất cả các mục tiêu thiên niên kỉ ( MDG) Việt Nam đạt được những
thành tựu đặc biệt trong mục tiêu 1, giảm nghèo. Việt Nam đã giảm được 75% tỉ lệ
nghèo, từ 58,1% năm 1990 xuống còn 14,5% năm 2008. Tỉ lệ thiếu đói giảm 2/3,
từ 24,9% năm 1993 xuống còn 6,9 năm 2008.
Thu nhập bình quân đầu người năm 2010 đạt 1.168 USD, Việt Nam trở
thành nước có thu nhập thấp, tuy nhiên vẫn được đánh giá là một nước nghèo.
Theo kết quả của Tổng điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo trong cả nước theo
chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội công
bố ngày 30/5/2011, cả nước có 3.055.566 hộ nghèo và 1.612.381 hộ cận nghèo.
4
Biều đồ 1: Tỷ lệ hộ nghèo qua các năm ( đv %).
18.1
14.8
12.1
11
9.45
0
4
8
12
16
20
2006 2007 2008 2009 2010
Tỷ lệ hộ nghèo từ 18,1% (năm 2006) xuống còn 14,75% (năm 2007) và
12,1% (năm 2008) , 11% (năm 2009), và 9,45% (năm 2010).
Trong tổng số 63 tỉnh, thành phố, có 5 tỉnh, thành phố tỷ lệ hộ nghèo dưới
5% là TP.HCM (0,01%); Bình Dương (0,05%); Đồng Nai (1,45%); Bà Rịa - Vũng
Tàu (4,35%); Hà Nội (4,97%). Đây cũng là những địa phương đã ban hành chuẩn
nghèo riêng, cao hơn chuẩn nghèo quốc gia1. Điện Biên là địa phương có tỷ lệ
nghèo lớn nhất cả nước (trên 50%). Ngoài ra, còn có 81 huyện thuộc 25 tỉnh có tỷ
lệ hộ nghèo trên 50%, trong đó bao gồm 54 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của
Chính phủ.
1 Chuẩn nghèo riêng của Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh
Chuẩn Vùng Hà Nội TP. Hồ Chí Minh
Hộ nghèo Nông thôn <550.000 < 830.000
Thành thị < 750.000 < 1.000.000
Cận nghèo Nông thôn 551.000 – 750.000
Thành thị 751.000 – 1.000.000
5
Kết quả công bố cũng cho thấy có 14 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo từ 5% đến dưới
10%; 18 tỉnh tỷ lệ hộ nghèo từ 10% đến dưới 20%; 16 tỉnh tỷ lệ hộ nghèo từ 20%
đến dưới 30%; 6 tỉnh tỷ lệ hộ nghèo từ 30% đến dưới 40%; 3 tỉnh tỷ lệ hộ nghèo
từ trên 40% đến dưới 50%, là: Lai Châu, Lào Cai và Hà Giang.
Xét về tỷ trọng số người nghèo ở từng vùng so với tổng số hộ nghèo trên cả
nước, với 77.802 hộ nghèo, chiếm tỷ trọng 2,55%, khu vực Đông Nam bộ là khu
vực có số lượng hộ nghèo thấp nhất. Khu vực Đông Bắc có số lượng hộ nghèo lớn
nhất cả nước với 581.560 hộ, chiếm 19,03%.
Bảng 1: Tỷ lệ hộ nghèo chia theo khu vực ( đv % )
Năm Thành thị Nông thôn
Năm 2002 10,6 26,9
Năm 2004 8,6 21,2
Năm 2010 6,9 17,42
Có thể thấy rằng tỷ lệ hộ nghèo giữa thành thị và nông thôn chênh lệch khá
nhiều cho thấy hiện tượng phân hóa giàu nghèo
Hệ số Gini (mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa các tầng
lớp dân cư hay mức độ chênh lệch giàu nghèo) năm 2002 (0,420), 2006 (0,424) ,
2010 (0,433) cho thấy ko mức độ chênh lệch giàu nghèo không có nhiều khác biệt
qua các năm.
Xét về tỷ lệ nghèo theo vùng ta có bảng số liệu sau:
Bảng 2: Tỷ lệ nghèo theo vùng ( đv % )
Vùng 2004 2006 2008 2010
Tây Bắc 46,1 39,4 35,9 39,4
2
Tổng cục Thống kê, tính theo chuẩn nghèo mới giai đoạn 2011-2015
6
Đông Bắc 23,2 22,2 20,1 24,2
Đồng bằng sông
Hồng
12,9 10,1 8,7 8,4
Bắc Trung Bộ 29,4 26,6 23,1 24
Duyên hải Nam
Trung Bộ
21,3 17,2 14,7 16,9
Tây Nguyên 29,2 24 21 22,2
Đông Nam Bộ 6,1 4,6 3,7 3,4
Đồng bằng sông
Cửu Long
15,3 13 11,4 12,6
(Nguồn: Khảo sát mức sống hộ dân cư năm 2010 của Tổng cục thống kê)
Tỷ lệ nghèo được phân chia như sau:
- Tỷ lệ nghèo cao ở khu vực Đông Bắc và Tây Bắc dọc biên giới Trung
Quốc, duyên hải miền trung, và Tây Nguyên.
- Tỷ lệ nghèo trung bình ở hai vùng đồng bằng châu thổ chính của Việt Nam
là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long
- Tỷ lệ đói nghèo thấp nhất ở các thành phố lớn, đặc biệt ở Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh và khu vực miền Đông Nam bộ
Tỷ lệ nghèo cao ở những nơi có địa hình đồi núi hiểm trở, đất đai kém màu
mỡ và cách xa thành phố nà ngược lại những vùng miền có điều kiện tự nhiên,
kinh tế và xã hội thuận lợi tỷ lệ nghèo thấp hơn. Ở Việt Nam, những người nghèo
7
nhất sống tại các vùng núi, nơi các xã nghèo chiếm tỉ lệ lớn trên toàn quốc. Trong
khi đó, một số lượng lớn người nghèo lại sống bên cạnh những người khá giả tại
hai vùng đồng bằng và ven biển.
Chính sách xóa đói giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu
đáng kể tuy nhiên nó không bền vững, bởi tỷ lệ tái nghèo cao, số hộ nghèo giảm
song không chắc chắn số người nghèo trong xã hội cũng giảm mà thậm chí còn
tăng do tác động của lạm phát3
Chương trình 135: " Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn
vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa" - chương trình
Xoá đói giảm nghèo đặc biệt của Chính phủ - do ủy ban Dân tộc và Miền núi là cơ
quan thường trực, theo các Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31 tháng 7 năm
1998 và số 138/2000/QĐ-TTg ngày 29 tháng 11 năm 2000 của Thủ tướng Chính
phủ, song thử nhìn nhận tỷ lệ hộ nghèo qua các năm.
Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số
Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số (DTTS) tăng liên tục trong giai đoạn 1993
và 2008 và còn hơn nhiều so với mức trung bình của cả nước.
Biều đồ 2: Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số
18
29
39
47
55
0
15
30
45
60
19
93
19
98
20
04
20
06
20
08
3
8
Dự kiến năm nay 2010, tỷ lệ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn sẽ giảm
xuống còn gần 30%.4 Thu nhập bình quân của đồng bào DTTS và miền núi chỉ
bằng khoảng 1/3 so với mức thu nhập trung bình của cả nước. Theo ước tính khi
“chuẩn nghèo 400.000/người/tháng” được áp dụng từ năm 2011, tỷ lệ nghèo ở các
xã, thôn bản đặc biệt khó khăn sẽ tăng lên 60%, thậm chí một số nơi còn lên tới
70-75%.
Trong khi các vùng đô thị được hưởng lợi nhiều nhất từ các chính sách cải
cách và tăng trưởng kinh tế, thì tình trạng nghèo vẫn tồn tại dai dẳng ở nhiều vùng
nông thôn của Việt Nam và ở mức độ rất cao ở các vùng dân tộc thiểu số
Tốc độ giảm nghèo không đồng đều giữa các vùng và có xu hướng chậm
lại, các hệ số tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo từ 1 - 0,7 trong những năm 1992 -
1998, giảm xuống còn khoảng 1 - 0,3 giai đoạn 1998 - 2004. Bình quân trước đó
mỗi năm giảm 34 vạn hộ nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2% một năm, riêng
các huyện, xã nghèo giảm 4% một năm theo chuẩn nghèo từng giai đoạn.
Theo số liệu của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc ở Việt Nam, vào
năm 2004 chỉ số phát triển con người của Việt Nam xếp hạng 112 trên 177 nước,
chỉ số phát triển giới (tiếng Anh: Gender Development Index-GDI) xếp 87 trên
144 nước và chỉ số nghèo tổng hợp (tiếng Anh: Human Poverty Index-HPI) xếp
hạng 41 trên 95 nước. Để đo lường sự phát triển của một quốc gia không chỉ phụ
thuộc vào thu nhập của quốc gia đó, tình trạng nghèo của một quốc gia còn được
nhìn nhận ở góc độ nghèo về sức khỏe, tri thức của con người ở quốc gia đó.
1.2. Đánh giá về mức độ nghèo đói:
Chuẩn nghèo là công cụ để đo tỷ lệ nghèo trong xã hội – một chỉ số quan
trọng phản ánh mức sống của xã hội về mặt thu nhập cá nhân. Tỷ lệ nghèo là tỷ lệ
4
9
số hộ có thu nhập dưới hoặc bằng chuẩn nghèo đối với toàn bộ số hộ trong quốc
gia.
Các cải cách kinh tế-xã hội như phúc lợi xã hội và bảo hiểm thất nghiệp
được tiến hành dựa trên những phản ánh của các chỉ số như chuẩn nghèo và tỷ lệ
nghèo.
Một loạt các chỉ tiêu về nghèo đói và phát triển xã hội hiện đang được sử
dụng ở Việt Nam. Bộ Lao động Thương binh Xã hội dung phương pháp dựa trên
thu nhập của hộ. Các hộ được xếp vào dạng nghèo hoặc cận nghèo nếu thu nhập
đầu người của họ dưới mức được xác định, mức này cũng khác nhau tuỳ vào khu
vực thạnh thị hay nông thôn. Ban hành chuẩn nghèo, chuẩn cận nghèo áp dụng cho
các giai đoạn khác nhau5 như sau:
Giai đoạn 1993-1995:
- Hộ đói ở nông thôn dưới 08kg gạo/người/tháng, ở đô thị là 13kg gạo.
- Hộ nghèo ở nông thôn dưới 15kg gạo/người/tháng, ở đô thị là 20kg.
Giai đoạn 1996-2000:
- Hộ đói mọi vùng là dưới 13kg gạo /người/ tháng, quy ra tiền là
45.000đồng; hộ nghèo ở vùng núi, hải đảo dưới 15kg gạo, ứng với 55.000 đồng;
dưới 20kg ứng với 70.000 đồng ở nông thôn đồng bằng, dưới 25kg gạo, ứng với
90.000đồng ở đô thị.
Giai đoạn 2000-2005:
- Nông thôn miền núi là dưới 80.000đồng/ người/ tháng; nông thôn đồng
bằng và trung du dưới 100.000đồng/ người/ tháng.
- Đô thị dưới 150.000đồng/ người/ tháng.
Giai đoạn 2006- 2010:
5 Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn
2011-2015 của Thủ tướng Chính Phủ ban hành ngày 30/1/2011.
10
- Khu vực thành thị là 250.000đồng/ người/ tháng.
- Nông thôn là 230.000đồng/ người/ tháng, cả nước có 17,1% dân số nghèo.
Tháng 9/2011, Thủ tướng nước ta vừa ban hành Quyết định số 09/ 2011/
QĐ-TTg về chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015.
Quyết định có hiệu lực thi hành từ ngày 1/ 1/ 2011.
Theo quyết định, hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ
400.000đồng/ tháng/ người (từ 4,8 triệu đồng/ người/ năm) trở xuống.
- Hộ nghèo ở thành thị có mức thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/ người/
tháng (từ 6 triệu đồng/ người/ năm) trở xuống.
-Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ
401.000đồng đến 520.000đồng/ người / tháng.
-Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000đồng
đến 650.000đồng/ người/ tháng.
Mức chuẩn nghèo quy định nêu trên là căn cứ để thực hiện chính sách an
sinh xã hội và chính sách kinh tế- xã hội khác.
"Chuẩn" nghèo được quy định của Chính phủ VN dựa trên một số quy tắc
về chuẩn nghèo của Liên Hợp Quốc (UN): Giai đoạn 2000-2006, hộ gia đình có
thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn miền núi, hải đảo từ 80.000
ĐVN/người/tháng trở xuống là hộ nghèo, nông thôn đồng bằng là 100.000
ĐVN/người/tháng, thành thị là 150.000 ĐVN/người/tháng.
Quyết định của Thủ tướng chính phủ Số 170/2005/QĐ-TTg ngày 08/7/2005
"Về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010": Khu vực
nông thôn, hộ gia đình có thu nhập bình quân từ 200.000 ĐVN/người/tháng
(2.400.000 ĐVN/người/năm) trở xuống là hộ nghèo. Khu vực thành thị: từ
260.000 ĐVN/người/ tháng (dưới 3.120.000 ĐVN/người/năm) trở xuống là hộ
nghèo.
11
Trong giai đoạn 2011-2015: chuẩn nghèo cũng được đưa ra:
- Khu vực thành thị: Những hộ có mức thu nhập bình quân 750.000đồng/
người/ tháng trở xuống là hộ nghèo.
- Khu vực nông thôn: NHững hộ có mức thu nhập bình quân 550.000đồng/
người/ ngày trở xuống là hộ nghèo.
- Khu vực thành thị: Những hộ có mức thu nhập bình quân từ 751.000đồng
đến 1.000.000đồng/người/ngày là hộ cận nghèo.
- Khu vực nông thôn: Những hộ có mức thu nhập bình quân từ
551.000đồng đến 750.000đồng/người/ngày là hộ cận nghèo.
Tổng cục thống kê thì dựa vào cả bình quân thu nhập và chi tiêu theo đầu
người để tính tỷ lệ nghèo. Ngưỡng nghèo được xác định dựa trên chi phí cho một
giỏ tiêu dung gồm lương thực và phi lương thực, trong đó chi tiêu cho lương thực
phải đảm bảo đủ 2100 calo/người/ngày. Còn tại Trung tâm Khoa học, Xã hội và
Nhân văn, người ta tính chỉ số phát triển của con người (HDI) ở cấp tỉnh ở ba khía
cạnh: tuổi thọ, tri thức và mức sống thoả đáng để đo thành tựu của đất nước.
Hiện nay do sự phát triển của nền kinh tế thế giới, quan điểm đói nghèo đã
được hiểu rộng hơn, sâu hơn và cũng có thể được đánh giá theo các cách tiếp cận
khác nhau:
Hội nghị bàn về giảm nghèo đói ở khu vực châu á Thái Bình Dương do
ESCAP tổ chức tháng 9 năm 1993 tại Băng Cốc - Thái Lan đã đưa ra khái niệm về
định nghĩa đói nghèo: Nghèo đói bao gồm nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
+ Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã
hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập quán của địa
phương.
12
+ Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung
bình của cộng đồng.
+ Theo khía cạnh kinh tế: Nghèo là do sự thiếu lựa chọn dẫn đến cùng cực
và thiếu năng lực tham gia vào đời sống kinh tế xã hội của quốc gia, chủ yếu là
trong lĩnh vực kinh tế.
+ Theo khía cạnh khác: Nghèo là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế xã
hội trong từng giai đoạn lịch sử, trong phạm vi một quốc gia, một khu vực, một
vùng.- Năm 1998 UNĐP công bố một bản báo cáo nhan đề “khắc phục sự nghèo
khổ của con người” đã đưa ra những định nghĩa về nghèo.
Sự nghèo khổ của con người: thiếu những quyền cơ bản của con người như
biết đọc, biết viết, được tham gia vào các quyết định cộng dồng và được nuôi
dưỡng tạm đủ.
+ Sự nghèo khổ tiền tệ: thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng chi
tiêu tối thiểu.
+ Sự nghèo khổ cực độ: nghèo khổ, khốn cùng tức là không có khả năng
thoả mãn những nhu cầu tối thiểu.
+ Sự nghèo khổ chung: mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác
định như sự không có khả năng thoả mãn những nhu cầu lương thực và phí lương
thực chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở nước này
hoặc nước khác.
Hiện nay ở Việt Nam có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh khái niệm
nghèo đói, song ý kiến chung nhất cho rằng:Ở Việt Nam thì tách riêng đói và
nghèo thành 2 khái niệm riêng biệt.
- Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một
phần những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức
sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
13
- Đói: là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu và vật chất để duy trì cuộc sống. Đó
là các hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ 1 đến 3 tháng, thường vay mượn
cộng đồng và thiếu khả năng chi trả. Giá trị đồ dùng trong nhà không đáng kể, nhà
ở dốt nát, con thất học, bình quân thu nhập dưới 13kg gạo/người/tháng (tương
đương 45.000VND).
Qua các đánh giá trên, ta có thể đưa ra định nghĩa chung về nghèo đói: “Đói
nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có những điều kiện về cuộc sống
như ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục, đi lại, quyền được tham gia vào các quyết
định của cộng đồng”Qua các cách tiếp cận trên đã giúp chúng ta nâng cao sự hiểu
về các nguyên nhân gây ra nghèo đói nhằm có những phương hướng cách thức
hành động đúng đắn để tấn công đẩy lùi nghèo đói, làm cho chất lượng cuộc sống
của người dân ngày càng tốt đẹp hơn.
2. Một số đặc điểm của vùng nghèo đói.
2.1. Các vùng khó khăn.
2.1.1. Nghèo đói phổ biến trong những hộ có thu nhập thấp và bấp bênh
Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành công rất lớn trong việc giảm tỷ
lệ nghèo, tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, những thành tựu này vẫn còn rất
mong manh.
Thu nhập của một bộ phận lớn dân cư vẫn nằm giáp ranh mức nghèo, do
vậy chỉ cần những điều chỉnh nhỏ về chuẩn nghèo, cũng khiến họ rơi xuống
ngưỡng nghèo và làm tăng tỷ lệ nghèo.
Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp. Với điều kiện nguồn
lực rất hạn chế (đất đai, lao động, vốn), thu nhập của những người nghèo rất bấp
bênh và dễ bị tổn thương trước những đột biến của mỗi gia đình và cộng đồng.
Nhiều hộ gia đình tuy mức thu nhập ở trên ngưỡng nghèo, nhưng vẫn giáp ranh
với ngưỡng nghèo đói, do vậy khi có những dao động về thu nhập cũng có thể
14
khiến họ trượt xuống ngưỡng nghèo. Tính mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp
cũng tạo nên khó khăn cho người nghèo.
Mức độ cải thiện thu nhập của người nghèo chậm hơn nhiều so với mức
sống chung và đặc biệt so với nhóm có mức sống cao. Theo báo cáo của Tổng cục
thống kê, chênh lệch giữa 20% nhóm thu nhập cao nhất với 20% nhóm thu nhập
thấp nhất đã tăng từ 7,0 lần năm 1995 lên 8,9 lần năm 2009. Ở thành thị và nông
thôn, khoảng cách này lần lượt là 8,2 lần lên 8,3 lần và từ 6,5 lần đến 6,9 lần trong
cùng giai đoạn. Trừ Tây Nguyên, mọi khu vực kinh tế khác đều có mức chênh lệch
giàu nghèo gia tăng. Điều này cho thấy, tình trạng tụt hậu của người nghèo (trong
mối tương quan với người giàu). Mặc dù chỉ số nghèo đói có cải thiện, nhưng mức
cải thiện ở nhóm người nghèo chậm hơn so với mức chung và đặc biệt so với
nhóm người có mức sống cao. Hệ số chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông
thôn còn rất cao.
Những tỉnh nghèo nhất hiện nay cũng là tỉnh xếp thứ hạng thấp trong cả
nước về chỉ số phát triển con người và phát triển giới.
2.1.2. Nghèo đói tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn
Đa số người nghèo sinh sống trong các vùng tài nguyên thiên nhiên rất
nghèo nàn, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa hoặc
ở các vùng Đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung, do sự biến động của thời tiết
(bão, lụt, hạn hán...) khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất của người dân
càng thêm khó khăn. Đặc biệt, sự kém phát triển về hạ tầng cơ sở của các vùng
nghèo đã làm cho các vùng này càng bị tách biệt với các vùng khác.
Bên cạnh đó, do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, số người trong diện
cứu trợ đột xuất hàng năm khá cao, khoảng 1-1,5 triệu người. Hàng năm số hộ tái
đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi nghèo vẫn còn lớn.
2.1.3. Tỷ lệ nghèo đói khá cao trong các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao
15
Đói nghèo mang tính chất vùng rất rõ rệt. Các vùng núi cao, vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc ít người sinh sống có tỷ lệ đói nghèo khá cao. Có tới
64% số người nghèo tập trung tại các vùng miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ, Tây
Nguyên và Duyên hải miền Trung. Đây là những vùng có điều kiện sống khó
khăn, địa lý cách biệt, khả năng tiếp cận với các điều kiện sản xuất và dịch vụ còn
nhiều hạn chế, hạ tầng cơ sở rất kém phát triển, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt
và thiên tai xảy ra thường xuyên.
Bảng 4: Tỷ lệ nghèo phân theo vùng năm 2009 ( đv % )6
Vùng Tỉ lệ nghèo năm 2009
Đồng bằng sông Hồng 8.3
Trung du và miền núi phía Bắc 29.4
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 20.4
Tây Nguyên 22.2
Đông Nam Bộ 2.3
Đồng bằng sông Cửu Long 12.6
2.1.4. Tỷ lệ hộ nghèo đói đặc biệt cao trong các nhóm dân tộc thiểu số ít
người
Trong thời gian qua, Chính phủ đã đầu tư và hỗ trợ tích cực, nhưng cuộc
sống của cộng đồng dân tộc ít người vẫn gặp nhiều khó khăn và bất cập. Mặc dù
dẫn số dân tộc ít người chỉ chiếm khoảng 14% tổng số dân cư song lại chiếm
khoảng 29% trong tổng số người nghèo.
Đa số người dân tộc ít người sinh sống trong các vùng sâu, vùng xa, bị cô
lập về mặt địa lý, văn hoá, thiếu điều kiện phát triển về hạ tầng cơ sở và các dịch
vụ xã hội cơ bản.
6 Tổng cục thống kê, điều tra dân số năm 2009
16
Tỷ lệ nghèo trong số các dân tộc thiểu số tỏ ra đặc biệt cao khi tính đến cả
những chỉ tiêu phúc lợi khác ngoài mức chi tiêu đâu người hoặc khi sử dụng
ngưỡng nghèo lương thực.
2.2. Nghèo đói vùng nông thôn và đô thị
Nghèo đói vẫn luôn là vấn đề mà các quốc gia đang phát triển như Việt
Nam cần phải quan tâm. Đầu thập niên 1990, Việt Nam chuyển sang kinh tế thị
trường nhưng phải đối mặt với đói nghèo, tỷ lệ hộ nghèo 58,1% năm 1993. Cho
đến năm 2010, tình hình nghèo đói ở Việt Nam giảm đáng kể còn khoảng 11%
7.Tuy nhiên hiện nay, nghèo đói không còn là một hiện tượng chủ yếu mang tính
nông thôn, đô thị hóa là một xu hướng tất yếu hiện nay và nghèo đói ở thành thị là
một vấn đề phức tạp và ở dưới một số góc độ, nó còn là một vấn đề nghiêm trọng
hơn so với nghèo đói ở nông thôn.
Ở nông thôn, đối tượng nghèo chủ yếu là những gia đình thuần nông hoặc
những lao động phi nông nghiệp (không có đất, không thể canh tác vì tự nhiên,
mất đất do quá trình công nghiệp hóa…). Còn đa số nghèo ở thành thị tập trung
vào những người không có nghề nghiệp ổn định như bán hàng rong, tiểu thủ công
nhưng không có đăng ký kinh doanh và lao động làm việc không có bảo hiểm.
Đã có những quan điểm nêu ra những nét đặc trưng của những người nghèo
ở nông thôn và người nghèo thành thị, ví dụ như ở các vùng nông thôn, những
người bần cùng là những người có rất it tài sản, bị gạt ra ngoài lề, và là những
người bắt buộc phải sống lần hồi qua ngày. Những người này không còn cách nào
khác ngoài việc phải khai thác cạn kiệt môi trường xung quanh họ, cho dù việc
này có nghĩa là giá trị lâu dài của nó đối với nhu cầu của họ sẽ bị giảm sút. Mặt
khác, những người rất nghèo hay bần cùng ở môi trường đô thị có thể có các ảnh
hưởng tương đối tốt tới môi trường. Họ thường là những người tái sử dụng có hiệu
quả những thứ phế thải của người khác, là những người tiêu thụ ít năng lượng nhất
7 TS. Nguyễn Tấn Phát. Chính sách giảm nghèo bền vững khu vực phi chính thức, phi nông nghiệp ở nông
thôn Việt Nam.
17
và ít tạo ra chất thải nhất. Tất nhiên quan điểm này có xu hướng thiên về nhìn
nhận ở khía cạnh mối quan hệ khác nhau đến môi trường, nhưng điều đó cũng có
nghĩa là có tồn tại những đặc điểm về người nghèo ở nông thôn và người nghèo ở
đô thị.
2.2.1. Nghèo đói ở nông thôn.
Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến ở nông thôn với trên 90% người
nghèo sinh sống ở nông thôn. Trên 80% số người nghèo là nông dân, trình độ tay
nghề thấp, ít khả năng tiếp cận các nguồn lực trong sản xuất ( vốn, kỹ thuật, công
nghệ…)… Những người nông dân nghèo thường không có điều kiện tiếp cận với
hệ thống thông tin, khó có khả năng chuyển đổi sang các ngành phi nông nghiệp.8
Chuẩn nghèo của Chính phủ áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 là thu nhập
bình quân từ 200 nghìn đồng/ người/ tháng trở xuống ở khu vực nông thôn. Ở thời
điểm cuối năm 2010, Chính phủ đã ban hành chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai
đoạn 2011-2015, theo đó hộ nghèo ở khu vực nông thôn là hộ có thu nhập bình
quân đầu người từ 400 nghìn đồng/tháng trở xuống.9 Theo tổ chức Oxfam, nếu
mức sống của người dân vẫn duy trì như hiện nay thì chuẩn nghèo thu nhập ở khu
vực nông thôn giai đoạn 2011-2015 sẽ tăng gấp đôi so với giai đoạn 2006-2010 và
hầu hết đều là các gia đình thuần nông.
Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp. Với điều kiện nguồn
lực rất hạn chế ( đất đai, lao động, vốn), thu nhập của những người nghèo rất bấp
bênh và dễ bị tổn thương trước những đột biến của mỗi gia đình và cộng đồng.
Nhiều hộ gia đình tuy mức thu nhập ở trên ngưỡng nghèo, nhưng vẫn giáp ranh
với ngưỡng nghèo đó, do vậy, khi có những dao động về thu nhập cũng có thể
khiến họ trượt xuống ngưỡng nghèo. Tính mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp tạo
nên khó khăn cho người nghèo.
8
Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo. ( Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại văn bản
số 2685/ VPCP- QHQT, ngày 21 tháng 5 năm 2002)
9 Chỉ thị số 1752/CT-TTg ngày 21/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ. Chuẩn nghèo mới được chính thức áp
dụng từ ngày 01/1/2011 theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/1/2011 của Thủ tướng Chính phủ
18
Những người nghèo ở nông thôn là nhóm người phụ thuộc nhiều nhất vào
nguồn lợi tự nhiên. Đất đai là tài sản quan trọng nhất của những hộ thuần làm
nông nghiệp. Theo các tác giả trong Báo cáo tổng hợp Vòng 4 năm 2010 “ Theo
dõi Nghèo theo Phương pháp cùng Tham gia tại một số Cộng đồng Dân cư Nông
thôn Việt Nam” đã nhìn nhận ở một số địa bàn nghiên cứu về nguyên tắc “không
thiếu đất” nếu xét theo mật độ dân số. Tuy nhiên, nhóm nghèo gặp bất lợi rõ rệt so
với nhóm khá giả về chất lượng đất. Đất sản xuất của hộ nghèo thường ở xa nguồn
nước, xa nơi ở, xa đường cái, dốc và bạc màu, nên thường tốn công lao động hơn
và cho năng suất kém hơn.
Tỷ lệ hộ gặp tình trạng thiếu ăn trong năm 2010 còn khá cao tại các xã
miền núi vùng sâu. Trong số những hộ thiếu ăn, tỷ lệ hộ cho rằng gia đình mình
thiếu ăn “thường xuyên” (một vài tháng trong năm) vào những lúc giáp hạt khá
cao tập trung tại các thôn bản có ít ruộng lúa nước, phụ thuộc vào canh tác nương
rãy bấp bênh trên đất dốc. 10 Tình trạng “ thiếu ăn” nhất là vào thời điểm giáp hạt,
gặp thiên tai dịch bệnh.
Riêng tại các vùng đồng bằng đông người Kinh, diện tích đất và chất lượng
đất không có sự khác biệt đáng kể giữa hộ nghèo và hộ khá. Hộ không nghèo thậm
chí còn có ít đất ruộng hơn hộ nghèo, vì hộ không nghèo thường có con cái lớn đã
thoát ly hoặc người già có lương hưu.
Ở nông thôn, đa số người dân có mô hình sinh kế nông nghiệp bấp bênh
phụ thuộc vào thời tiết. Tỷ lệ người cho rằng đời sống “ kém đi” trong 12 tháng
vừa qua tập trung khá cao tại các địa bàn chịu thiên tai nặng nề trong năm đó.
Ngược lại, những nơi người dân cảm nhận đời sống của hộ gia đình mình đã “ tốt
lên” tập trung tại những địa phương có năng suất lao động lớn, tạo ra nhiều sản
phẩm hàng hóa, hoặc nơi đó có tỷ lệ người đi làm ăn xa cao.
10 Oxfam. Báo cáo tổng hợp Vòng 4 năm 2010. T heo dõi Nghèo theo Phương pháp cùng Tham gia tại một
số Cộng đồng Dân cư Nông thôn Việt Nam. Tháng 5 năm 2011.
19
Những người nghèo ở khu vực nông thôn đang có xu hướng lựa chọn
phương thức đi làm ăn xa để giảm nghèo. Các trung tâm đô thị ngày càng có vai
trò quan trọng trong thu hút lao động nông thôn. Vào những lúc nông nhàn hoặc
muốn thoát ly nông nghiệp, họ lựa chọn việc đi làm ăn xa đến những thành phố
lớn, các tỉnh có nhiều khu công nghiệp.
2.2.2. Nghèo đói ở đô thị.
Các nghiên cứu đã chỉ ra sự đa dạng về đặc trưng kinh tế- xã hội của người
nghèo đô thị.
Trong khu vực thành thị, tuy tỷ lệ nghèo đói thấp hơn và mức sống trung
bình cao hơn với mức chung cả nước, nhưng mức độ cải thiện điều kiện sống
không đồng đều. Đa số người nghèo đô thị làm việc trong khu vực kinh tế phi
chính thức (bán hàng rong, tiểu thủ công nhưng không có đăng ký kinh doanh và
lao động làm việc không có bảo hiểm), công việc không ổn định, thu nhập thấp và
bấp bênh.
Đặc điểm chung của người nghèo đô thị là những người lao động không có
việc làm hoặc việc làm không ổn định. Hoạt động nghề nghiệp phổ biến nhất của
người nghèo đô thị là hoạt động buôn bán dịch vụ nhỏ với quy mô gia đình. Họ
thường làm việc với các loại công việc không đòi hỏi tay nghề, mang tính chất bấp
bênh, thu nhập thấp và không ổn định.11
Đặc điểm về nghề nghiệp, về thu nhập và chi tiêu được chỉ ra rõ nét. Sự
nhất quán giữa các nghiên cứu trong các đánh giá thể hiện rõ nét.
Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và chủ sở hữu trong khu vực nhà nước dẫn
đến sự dôi dư lao động, mất việc làm của một bộ phận người lao động ở khu vực
này, làm cho điều kiện sống của họ càng thêm khó khăn. Số lao động này phải
11 Nguyên Hữu Minh ( biên soạn). Chuyên đề cao học Phân tầng xã hội và nghèo khó. Viện Khoa học Xã
hội Việt Nam
20
chuyển sang làm các công việc khác với mức lương thấp hơn, hoặc không tìm
được việc làm và trở thành thất nghiệp.
Những nhóm người di cư từ nông thôn cũng rất có nguy cơ nằm trong số
nhóm người nghèo đô thị. Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa làm tăng số
lượng người di cư tự do từ các vùng nông thôn đến các đô thị, năm 2009 số người
di cư từ nông thôn ra thành thị kiếm sống là 1 943nghìn người, chủ yếu là trẻ em
và người trong độ tuổi lao động.
Những người này gặp rất nhiều khó khăn trong việc đăng ký hộ khẩu hoặc
tạm trú lâu dài, do đó họ khó có thể tìm kiếm được công ăn việc làm và thu nhập
ổn định. Hơn thế nữa, làm việc tại các khu đô thị lớn đòi hỏi có trình độ chuyên
môn, khả năng nắm bắt công việc, điều này những người từ nông thôn ra thành
phố tìm việc còn thiếu.
Ngoài ra, đói nghèo còn chiếm tỷ lệ cao trong các nhóm đối tương xã hội
khác như những người không nghề nghiệp, người thất nghiệp, người lang thang và
người bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội ( mại dâm, nghiện hút, cờ bạc…)12.
Người nghèo đô thị phần lớn sống ở những nơi có cơ sở hạ tầng thấp kém,
khó có điều kiện tiếp cận tới các dịch vụ cơ bản ( nước sạch, vệ sinh môi trường,
thoát nước, ánh sáng, thu gom rác thải…)
Người nghèo đô thị dễ bị tổn thương do sống phụ thuộc chủ yếu vào nguồn
thu nhập bằng tiền. Khác với nghèo đói tại nông thôn, người nghèo đô thị không
chịu nhiều tác động của thời tiết nông nghiệp, tuy nhiên công việc bấp bênh là lý
do khiến cho thu nhập của họ không ổn định và ở mức thấp. Do thu nhập quá thấp
nên phần lớn chi tiêu được dành cho việc ăn uống và một số nhu cầu cần thiết.
Chính vì thu nhập quá thấp nên chi cho người nghèo chiếm từ 60% đến
75% chi tiêu hàng tháng của các gia đình nghèo, còn lại là chi cho học hành của
12 Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo. ( Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại văn
bản số 2685/ VPCP- QHQT, ngày 21 tháng 5 năm 2002)
21
con cái, khám chữa bệnh, hiếu hỷ… Họ thường không có hoặc có ít khả năng tiết
kiệm và gặp nhiều khó khăn trong vay vốn tạo việc làm.13
3. Nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo:
3.1. Hạn chế về nguồn lực:
Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực, họ bị rơi vào vòng luẩn quẩn
của nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo vì họ
không thể đầu tư vào nguồn vốn nhân lực của họ. Ngược lại, nguồn vốn nhân lực
thấp lại cản trở họ thoát khỏi nghèo đói.
Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất đang có xu hướng
tăng lên, đặc biệt là ở đồng bằng sông Cửu Long. Thiếu đất đai ảnh hưởng đến
việc bảo đảm an ninh lương thực của người nghèo cũng như khả năng đa dạng hoá
sản xuất, để hướng tới sản xuất các loại cây trồng với giá trị cao hơn. Đa số người
nghèo la chọn phương án sản xuất tự cung, tự cấp, họ vẫn giữ các phương thứực
sản xuất truyền thống với giá trị thấp, thiếu cơ hội thực hiện các phương án sản
xuất mang lợi nhuận cao hơn. Do vẫn theo phương pháp sản xuất truyền thống nên
giá trị sản phẩm và năng suất các loại cây trồng, vật nuôi còn thấp, thiếu tính cạnh
tranh trên thị trường và vì vậy đã đưa họ vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo khó.
Bên cạnh đó, đa số người nghèo chưa có nhiều như khuyến nông, khuyến
ngư, bảo vệ động, thực vật; nhiều yếu tố đầu vào sản xuất như: điện, nước, giống
cây trồng, vật nuôi, phân bón... đã làm tăng chi phí, giảm thu nhập tính trên đơn vị
giá trị sản phẩm. Người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng.
Sự hạn chế của nguồn vốn là một trong những nguyên nhân trì hoãn khả năng đổi
mới sản xuất, áp dụng khoa học - công nghệ, giống mới... Mặc dù trong khuôn khổ
của dự án tín dụng cho người nghèo thuộc Chương trình xóa đói giảm nghèo quốc
gia, khả năng tiếp cận tín dụng đã tăng lên rất nhiều, song vẫn còn khá nhiều
người nghèo, đặc biệt là người rất nghèo, không có khả năng tiếp cận với các
13 Nguyên Hữu Minh ( biên soạn). Chuyên đề cao học Phân tầng xã hội và nghèo khó. Viện Khoa học Xã
hội Việt Nam
22
nguồn tín dụng. Một mặt, do không có tài sản thế chấp, những người nghèo, phải
dựa vào tín chấp với các khoản vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm giảm khả năng hoàn
trả vốn. Mặt khác, đa số người nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thể, hoặc sử
dụng các nguồn vốn vay không đúng mục đích, do vậy họ khó có điều kiện tiếp
cận các nguồn vốn và cuối cùng sẽ làm cho họ càng nghèo hơn.
Bên cạnh đó, việc thiếu các thông tin, đặc biệt là các thông tin về pháp luật,
chính sách và thị trường, đã làm cho người nghèo ngày càng trở nên nghèo hơn.
3.2. Trình độ học vấn thấp, việc làm thiết và không ổn định
Những người nghèo là những người có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội
kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ bảo đảm nhu
cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy không có điều kiện để nâng cao trình độ của
mình trong tương lai để thoát khỏi cảnh nghèo đói. Bên cạnh đó, trình độ học vấn
thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng
con cái… không những của thế hệ hiện tại mà cả thế hệ trong tương lai. Suy dinh
dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ sinh là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng đến trường của
con em các gia đình nghèo nhất và sẽ làm cho việc thoát nghèo thông qua giáo dục
trở nên khó khăn hơn.
Một số kết quả điều tra cho thấy những người thậm chí còn chưa hoàn
thành chương trình giáo dục tiểu học có tỷ lệ nghèo cao nhất (57%). Ngược lại, rất
hiếm có trường hợp đã tốt nghiệp đại học lại thuộc diện nghèo đói (chỉ chiếm
4%).14
Bảng 5: Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên chia theo bằng cấp cao nhất,
thành thị và nông thôn.15
14 Trích “ Báo cáo phát triển của Việt Nam năm 2010 – Tấn công nghèo đói”, trang 19
15
Tổng cục Thống kê: Một số kết quả chủ yếu từ Khảo sát mức sống hộ dân cư năm 2010
23
Bảng số liệu trên cho thấy,trình độ học vấn càng ở mức cao thì tỉ lệ ở khu
vực thành thị càng cao hơn so với nông thôn. Ví dụ năm 2010, trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng đại học ở thành thị chiếm tỉ lệ lần lượt là 5,8% và 14,4%, trong
khi ở nông thôn, tỉ lệ đó chỉ ở mức 2,5% và 2,8%. Cá biệt với tỉ lệ trình độ trên đại
học ở thành thị có 0,7% (2010), còn ở khu vực nông thôn là 0%.
Và ngược lại, tỉ lệ trình độ học vấn thấp hoặc không bao giờ đến trường,
không có bằng cấp ở nông thôn lại cao hơn so với thành thị. Ví dụ năm 2010, tỉ lệ
người chưa bao giờ đến trường ở thành thị chiếm 3,1% trong khi ở nông thôn, con
số này là 7,3%, cao hơn mức chung của cả nước (6%). Tương tự, tỉ lệ người không
có bằng cấp ở nông thôn là 16,5% (năm 2010) thì ở thành thị, con số chỉ dừng lại
ở mức 9,3%.
Bảng 6: Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên chia theo bằng cấp cao nhất với
5 nhóm thu nhập năm 2010 . 16
16
Tổng cục Thống kê: Một số kết quả chủ yếu từ Khảo sát mức sống hộ dân cư năm 2010
Chưa
bao
giờ
đến
trường
không
có
bằng
cấp
Tốt
nghiệp
tiểu
học
Tốt
nghiệp
THCS
Tốt
nghiệp
THPT
So
cấp
nghề
Trung
cấp
nghề
Cao
đẳng
nghề
Công
nhân
kĩ
thuật
Trung
học
chuyên
nghiệp
Cao
đẳng
đại
học
Trên
đại
học
Khác
Cả
nước
2006 8.1 14.5 24 28.7 12.6 _ _ _ 3.3 4.3 4.4 0.1 _
2008 7.5 13.5 23.1 27.9 14.1 3.2 1.8 0.3 _ 3.3 5.1 0.1 _
2010 6 14.3 22.7 27.1 14 3.5 2.1 0.3 _ 3.5 6.4 0.2 0.04
Thành
thị
2006 4.8 10 19.4 23.1 18 _ _ _ 5.9 7.6 10.9 0.4 0.1
2008 4.2 9 18.6 22.6 18.6 4.8 3.1 0.5 _ 5.8 12.4 0.4 0.1
2010 3.1 9.3 17.6 22 18.1 5.3 3.2 0.5 _ 5.8 14.4 0.7 0.1
Nông
thôn
2006 9.3 16.2 25.8 30.9 10.5 _ _ _ 2.3 3 1.9 _ _
2008 8.8 15.3 24.9 30.1 12.3 2.5 1.3 0.2 _ 2.4 2.2 _ _
2010 7.3 16.5 24.9 29.3 12.2 2.6 1.6 0.2 _ 2.5 2.8 0 0
Chưa
bao
giờ
đến
trường
không
có
bằng
cấp
Tốt
nghiệp
tiểu
học
Tốt
nghiệp
THCS
Tốt
nghiệp
THPT
So
cấp
nghề
Trung
cấp
nghề
Cao
đẳng
nghề
Công
nhân
kĩ
thuật
Trung
học
chuyên
nghiệp
Cao
đẳng
đại
học
Trên
đại
học
Khác
24
Có sự tỉ lệ thuận giữa bằng cấp và thu nhập, có nghĩa là ở đây nhóm có
trình độ học vấn càng cao thì mức thu nhập của nhóm đó cũng cao. Ví dụ ở nhóm
5 – nhóm có mức thu nhập cao nhất, tỉ lệ chưa bao giờ đến trường chỉ chiếm 1,3%
trong khi tỉ lệ trình độ học vấn Cao đẳng, Đại học chiếm 19,7%, Trung học chuyên
nghiệp chiếm 6,9%. Tương tự, với nhóm 1 – nhóm có thu nhập thấp nhất, tỉ lệ
chưa bao giờ đến trường chiếm 15,9%, trong khi tỉ lệ trình độ học vấn Trung học
chuyên nghiệp chỉ là 0,5%, Cao đảng Đại học là 0,3%.
Tuy nhiên một điều dễ dàng nhận thấy nữa ở cả nông thôn và thành thị nói
riêng cũng như cả nước nói chung, đó là tỉ lệ trình độ học vấn thấp ngày càng
giảm đi, năm 2006 cả nước có 8,1% số người chưa bao giờ đến trường thì đến năm
2010, con số này giảm xuống còn 6%. Năm 2006, tỉ lệ trình độ học vấn Cao đẳng,
Đại học cả nước có 4,4%, năm 2010, đã tăng lên thành 6,4%.
Điều này đã cho thấy các chính sách đầu tư, hỗ trợ về giáo dục của Đảng và
Nhà nước ta đã có những kết quả nhất định, trình độ học vấn của người dân được
cải thiên và nâng cao là một trong những nhân tố quan trọng giúp nghèo đói được
đẩy lùi.
3.3. Các yếu tố về nhân khẩu học
Quy mô hộ gia đình là "mẫu số" quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu
nhập bình quân của các thành viên trong hộ. Các kết quả của cuộc tổng điều tra
Nhóm
1
15.9 22.3 27 24.8 8 0.8 0.3 0.1 _ 0.5 0.3 _ 0
Nhóm
2
7.5 18.8 27.2 29.4 12 1.8 1 0.1 _ 1.4 0.8 _ 0
Nhóm
3
4.5 14.6 24.8 31.1 14.4 3.5 1.8 0.3 _ 2.7 2.3 0 0
Nhóm
4
2.5 10.6 20.9 20.4 16.6 5 3.1 0.5 _ 5.2 7.1 0.1 0
Nhóm
5
1.3 6.7 14.7 21.8 18 5.6 3.7 0.6 _ 6.9 19.7 1 0.1
25
cho thấy Việt Nam đang dần bước vào giai đoạn “lợi thế về nhân khẩu học”, điều
thường chỉ diễn ra 1 lần trong lịch sử nhân khẩu học của 1 quốc gia, và có thể
mang lại cơ hội lớn về phát triển kinh tế xã hội nếu các chính sách phù hợp cho
phát triển nguồn nhân lực được xây dựng, và nếu tất cả những người tốt nghiệp
các trường dạy nghề, Cao đẳng và Đại học có thể tìm được việc làm tốt trong nền
kinh tế đang phát triển. Hơn nữa, Việt Nam đã bắt đầu giai đoạn già hoá dân số
đáng kể. Chỉ số già hoá đã tăng 11,4% trong 10 năm qua. Vì vậy, 1 mặt tận dụng
những lợi thế về nhân khẩu học, VN cũng cần có kế hoạch chuẩn bị cho sự già hoá
dân số. Bảo trợ xã hội cần được nâng cao vì con người sẽ trở nên bất lợi hơn với
những khó khăn tiềm tàng trong cuộc sống.17
Ngày 11/01/2010 - Với sự hỗ trợ kỹ thuật của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc
(UNFPA), Tổng Cục Thống kê (TCTK) đã công bố 15% kết quả của cuộc Tổng
điều tra Dân số năm 2009. Theo báo cáo của TCTK, 10 năm trở lại đây, tỷ lệ sinh
của Việt Nam tiếp tục giảm, tỷ lệ trung bình vẫn ở mức thấp hơn trước và đạt
2,03% trẻ/phụ nữ. Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt giữa các vùng miền và khu vực:
tỷ lệ sinh đẻ ở thành phố là 1,80; 2,15 ở nông thôn; ở Đông Nam Bộ, tỷ lệ này là
1,69; Khu vực sông Mekong là 1,84; và Cao nguyên Trung Bộ có tỷ lệ cao nhất là
2,65 trẻ/phụ nữ. Giả thiết đặt ra là có thể vẫn còn những “nhu cầu chưa được đáp
ứng” đối với các dịch vụ sức khoẻ sinh sản chất lượng cao, gồm cả dịch vụ kế
hoạch hóa gia đình cần được ưu tiên quan tâm. Đông con vừa là nguyên nhân vừa
là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình nghèo còn rất cao. Đông
con là một trong những đặc điểm của các hộ gia đình nghèo. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ sinh cao trong các hộ nghèo là do họ không có kiến
thức cũng như điều kiện tiếp cận với các biện pháp sức khoẻ sinh sản. Tỷ lệ phụ
nữ nghèo đặt vòng tránh thai thấp, tỷ lệ nam giới nhận thức đầy đủ trách nhiệm kế
hoạch hoá gia đình và sử dụng các biện pháp tránh thai chưa cao. Mức độ hiểu
biết của các cặp vợ chồng nghèo về vệ sinh, an toàn tình dục, cũng như mối liên hệ
17 Lê Hằng dịch - Nguồn Liên hợp Quốc
26
giữa tình trạng nghèo đói, sức khoẻ sinh sản và gia tăng nhân khẩu còn hạn chế.
Tỷ lệ người ăn theo cao trong các hộ nghèo còn có nghĩa là nguồn lực về lao
độngrất thiếu, đây cũng chính là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói
của hộ.
Số liệu cũng cho thấy tỷ lệ giới tính trẻ sơ sinh năm 2009 khá cao với 111
bé trai/100 bé gái. Mặc dù không có khác biệt lớn về tỷ lệ giới tính trẻ sơ sinh giữa
nông thôn và thành thị, nhưng số liệu của cuộc điều tra cho thấy tỷ lệ này đặc biệt
cao ở vùng châu thổ sông Hồng (115,3 bé trai/100 bé gái). Những số liệu này cho
thấy nhu cầu cấp bách cần phải giải quyết sự mất cân bằng về tỷ lệ giới tính trẻ sơ
sinh ở Việt Nam. Bên cạnh đó, tổng số những người di trú trong và giữa các tỉnh
trong vòng 5 năm trước cuộc tổng điều tra năm 2009 đã tăng từ 5,1 triệu người lên
6,6 triệu người so với cuộc tổng điều tra năm 1999. Trong đó chủ yếu là di trú
giữa các tỉnh, và xuất hiện theo phát triển kinh tế ở đô thị và các khu công nghiệp
và chế xuất.
3.4. Các nguy cơ rủi ro và thiên tai khác:
Do diện tích Việt Nam trải dài Kinh tuyến: 102°8′ - 109°27′ Đông; Vĩ
tuyến: 8°27′ - 23°23′ Bắc, là một đất nước nhiệt đới, nằm gần đường xích đạo với
đường bờ biển dài 3260 km, gồm 3000 quần đảo lớn nhỏ. Ảnh hưởng của thiên
nhiên đến khí hậu Việt Nam là rất lớn. Thiên tai ở Việt Nam là tác nhân gây cản
trở trực tiếp tới sự phát triển bền vững kinh tế xã hội, gia tăng đói nghèo. Do biến
đổi khí hậu, thiên tai được dự báo sẽ xảy ra ngày càng tồi tệ hơn do tăng tần suất,
biên độ và cường độ các trận bão và lượng mưa, từ đó dẫn đến các vụ sạt lở đất,
ngập lụt và lan tràn dịch bệnh.
Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng ngày
và những biến động bất thường xảy ra đối với cá nhân, gia đình hay cộng đồng.
Người nghèo ở nông thôn phụ thuộc nặng nề vào các tài nguyên thiên nhiên để
mưu sinh. Trong quá trình đô thị hóa, vào tương lai, ở nhiều vùng, thu nhập phi
nông nghiệp sẽ trở nên ngày càng quan trọng đối với người nông dân. Nhưng hiện
27
tại, sự phụ thuộc của người nghèo vào khả năng tiếp cận tài nguyên thiên nhiên
vẫn là cốt lõi
Các hộ cận nghèo, mới thoát nghèo sống ở vùng thấp trũng, ngập sâu hoặc
sạt lở càng dễ bị tổn thương. Nhóm này thường có nhà cấp 4 bán kiên cố, sinh kế
phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp và đi làm thuê, con cái còn nhỏ hoặc đang độ
tuổi đi học, tài sản trong nhà còn đơn sơ. Mặc dù đã cố gắng thoát nghèo bằng nỗ
lực lớn của bản thân, nhóm hộ này có nhiều nguy cơ tái nghèo sau những cú sốc.
Theo báo cáo năm 2010 của Bộ Lao động thương binh xã hội, hàng năm số
người phải cứu trợ đột xuất do thiên tai khoảng từ 1-1,2 triệu người. Bình quân
hàng năm, số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi đói nghèo vẫn còn
lớn, do không ít số hộ đang sống bên ngưỡng đói nghèo và rất dễ bị tác động bởi
các yếu tố rủi ro như thiên tai, mất việc làm, ốm đau,...
Nhóm sống ở vùng sâu vùng xa thường xuyên chịu thiên tai nhưng thiếu
khả năng chống đỡ rủi ro thiên tai. Chủ yếu rơi vào hộ nghèo, đông con nhỏ, già
cả neo đơn, khuyết tật, ốm đau dài ngày, thương bệnh binh, phụ nữ đơn thân làm
chủ hộ, trẻ em. Nhà cửa của nhóm này thường chất lượng thấp, một số còn ở nhà
tạm bợ. Tài sản của nhóm này rất thiếu thốn. Nhóm hộ nghèo thường có ít ruộng,
ít cây dài ngày. Một số hộ còn trẻ, có lao động nhưng mới tách hộ nên chưa có tích
lũy. Nhóm hộ sinh sống ở khu vực thấp trũng, vùng ven, ngoài rìa xóm, rìa đê bao
thường chịu tác động trực tiếp trước tiên của lũ lụt ập về.
Những hộ nghèo sống dựa chủ yếu vào nông nghiệp nên khi thiên tai xảy
ra nhóm hộ nghèo không có các nguồn thu nhập khác để chống đỡ và phục hồi sau
thiên tai. Đa số hộ nghèo thiếu lương thực giáp hạt, khi gặp thiên tai lại càng khó
khăn về đảm bảo lương thực. Khi có bão lụt xảy ra với tốc độ nhanh nhóm hộ này
thường thiếu lao động, thiếu phương tiện di dời, hoặc thiếu an toàn nếu ở tại nhà,
có thể ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe và tinh thần.
28
Các rủi ro trong sản xuất kinh doanh đối với người nghèo cũng rất cao, do
họ không có trình độ tay nghề và thiếu kinh nghiệm làm ăn. Khả năng đối phó và
khắc phục các rủi ro của người nghèo cũng rất kém do nguồn thu nhập hạn hẹp
làm cho hộ gia đình mất khả năng khắc phục rủi ro và có thể còn gặp rủi ro hơn
nữa.
Do nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích luỹ kém nên họ
khó có khả năng chống chọi với những biến cố, rủi ro xảy ra trong cuộc sống (mất
mùa, mất việc làm, thiên tai, mất nguồn lao động, mất sức khoẻ...). Với khả năng
kinh tế mong manh của các hộ gia đình nghèo trong khu vực nông thôn, những đột
biến này sẽ tạo ra những bất ổn lớn trong cuộc sống của họ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom_3_va_4_thuc_trang_ngheo_doi_o_viet_nam_2979.pdf