Tiểu luận Thực trạng thu chi ngân sách nhà nước Việt Nam trong giai đoạn 2009-2011

Thu và chi là hai bộ phận cấu thành nên ngân sách nhà nước. Việc thực hiện thu và chi có hiệu quả hay không ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia. Thông qua thực trạng thu, chi ngân sách nhà nước của nước ta trong thời gian qua, ta thấy còn rõ nhưng ưu điểm và hạn chế chủ yếu sau: Những ưu điểm nổi bật của thu, chi ngân sách nhà nước ta trong thời gian qua là: Nền kinh tế nước ta chịu tác động lớn của khủng hoảng kinh tế thế giới, nhưng với sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, chúng ta đã sớm vượt qua giai đoạn khó khăn nhất, ngăn chặn thành công đà suy giảm kinh tế, thực hiện có kết quả nhiều mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đặt ra.

doc31 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 7846 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng thu chi ngân sách nhà nước Việt Nam trong giai đoạn 2009-2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iều tiết trong lĩnh vực xã hội): Trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, sự tồn tại và hoạt động có hiệu quả của bộ máy Nhà nước, lực lượng quân đội, công an, sự phát triển của các hoạt động xã hội, văn hóa có ý nghĩa quyết định . Việc thực hiện các nhiệm vụ này về cơ bản thuộc về nhà nước và không vì mục tiêu lợi nhuận. Việc sử dụng những dịch vụ kể trên được phân chia giữa những người tiêu dùng, những nguồn tài trợ để thực hiện các nhiệm vụ đó lại được cấp phát từ ngân sách nhà nước. Như vậy, trong việc thự hiện các nhiệm vụ có tính chất chung toàn xã hội, ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng hàng đầu. Bên cạnh đó, hàng năm, chính phủ vẫn có sự chú ý đặc biệt cho tầng lớp dân cư có thu nhập thấp. Chúng ta có thể thấy điều đó thông qua các loại trợ giúp trực tiếp được dành cho những người có thu nhập thấp hoặc có hoàn cảnh đặc biệt như chi trợ cấp giá cho các mặt hàng thiết yếu, các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, các chương trình quốc gia lớn về chống xóa mù chữ,… Bên cạnh các khoản chi ngân sách nhà nước cho việc thực hiện các vấn đề xã hội, thuế cũng được sử dụng để thực hiện vai trò tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Việc kết hợp giữa thuế trược thu và gián thu một mặt vừa tăng cường các khoản thu cho ngân sách nhà nước, mặt khác vừa nhằm điều tiế thu nhập của tầng lớp có thu nhập cao, điều tiết tiêu dùng, bảo đảm thu nhập hợp lý của tầng lớp lao động. Góp phần ổn định thị trường giá cả, chống lạm phát (điều chỉnh trong lĩnh vực thị trường) Trong điều kiện kinh tế thị trường, gái cả phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị trường. Do đó, để ổn định giá cả, chính phủ có thể tác động vào cung hoặc cầu hàng hóa trên thị trường. Sự tác động này không chỉ được thực hiện thông qua thuế mà còn được thực hiện thông qua chính sách chi tiêu của ngân sách nhà nước. Bằng nguồn vốn cấp phát của chi tiêu ngân sách nhà nước hàng năm, các quỹ dự trữ nhà nước vầ hàng hóa và tài chính được hình thành. Chính phủ có thể sử dụng ngân sách nhà nước nhằm khống chế và đẩy lùi lạm phát một cách có hiệu quả thông qua việc thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt. Ngoài ra, việc Chính phủ phát hành các công cụ nợ để vay nhân dân nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước cũng góp phần to lớn vào việc làm giảm tốc độ lạm phát trong nên kinh tế. Những vấn đề về thu, chi ngân sách nhà nước Thu ngân sách nhà nước Khái niệm thu ngân sách nhà nước Xét về mặt nội dung kinh tế, thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối nảy sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực chính trị để tập trung một bộ phần tổng sản phẩm quốc dân để hình thành quỹ tiền tệ tập trung Nhà nước. Luật ngân sách nhà nước ban hành năm 2002 quy định: Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Đặc điểm của thu ngân sách nhà nước Đặc điểm nổi bật của thu Ngân sách nhà nước là phần lớn các khoản thu được xây dựng dựa trên nền tảng nghĩa vụ công dân. Các khoản thu Ngân sách nhà nước không mang tính hoàn trả trực tiếp. Thu ngân sách nhà nước gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước. Thu ngân sách nhà nước là khoản thu khó kiểm soát và đánh giá hiệu quả: phần lớn chi tiêu của nhà nước tạo ra hàng hóa, dịch vụ công là những sản phẩm được tiêu dùng công nên không có người thụ hưởng cụ thế để kiểm qoát quá trình chi tiêu( không lấy lợi nhuận làm thước đo hiệu quả). Phân loại ngân sách nhà nước Tùy theo nhu cầu của việc phân tích đánh giá, phục vụ sản cho công tác quản lý cũng như cho việc điều chỉnh các chính sách động viên, người ta có thể phân loại nội dung thu ngân sách nhà nước theo nhiều tiêu thức khác nhau: Xét theo nguồn hình thành các khoản thu: Nhóm nguồn thu từ hoạt động sản xuất- kinh doanh trong nước: là các nguồn tài chính có khả năng tạo lập nên quỹ ngân sách nhà nước do kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước mang lại. Nhóm nguồn thu ngoài nước: bao gồm các khoản thu về vay nợ và viện trợ của nước ngoài. Đặc điểm của nguồn thu này là gắn chặt với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và ngoại giao cảu đất nước. Nguồn thu này thường không ổn định và có tính chất bù đắp một phần trong quá trình cân đối ngân sách nhà nước. Xét theo tác dụng của các khoản thu với quá trình cân đối ngân sách nhà nước: Thu trong cân đối ngân sách nhà nước: gồm các khoản thu chủ yếu sau: thuế, phí và lệ phí; thu về bán và cho thuê các tài sản thuộc sở hữu của nhà nước; thu lợi tức cổ phần của nhà nước; các khoản thu khác theo luật định. Trong các khoản thu trên, thuế là khoản thu quan trọng nhất. Thuế không chỉ chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng số thu ngân sách nhà nước hàng năm mà còn là công cụ của nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế. Thu để bù đắp sự thiếu hụt của ngân sách nhà nước: Bao gồm các khoản vay trong và ngoài nước cho chi tiêu ngân sách nhà nước khi các khoản chi ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu trong cân đối của ngân sách nhà nước. Nhân tố ảnh hưởng tới thu ngân sách nhà nước Với sự phân loại trên, thu Ngân sách nhà nước phụ thuộc vào các yếu tố sau: Mức độ phát triển của nền kinh tế: được đánh giá bằng tốc độ tăng trưởng và giá trị tổng sản phẩm quốc nội giữa các thời kỳ. Một quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế vững chắc, ổn định có số thu tương đối ổn định. Thu nhập bình quân đầu người: chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người phản ánh mức độ phát triển nền kinh tế và phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của một nước. Mức độ phát triển nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ luôn là nhân tố quan trọng nhất đối với sự phát triển của mọi khâu tài chính, cho nên nhân tố này cũng là nhân tố quyết định khách quan đến mức động viên của ngân sách nhà nước và cần phải xem xét nó trong mối quan hệ với dân số. Nếu thoát li chỉ tiêu này khi ấn định mức động viên sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến vấn đề tiết kiệm, tiêu dùng , đầu tư của khu vực dân cư. Tài nguyên thiên nhiên: một phần lớn nguồn thu của các quốc gia đang phát triển hiện nay là thu từ bán tài nguyên. Bởi vậy, quốc gia có nhiều tài nguyên thiên nhiên thì cùng với đó, thu ngân sách cũng sẽ tăng. Tỷ suất sinh lời của nền kinh tế: Tỷ suất lợi nhuận phản ánh hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp. Nếu khả năng huy động vào ngân sách càng cao. Dựa vào tỷ suất lợi nhuận trong nền kinh tế để xác định tỷ suất thu sẽ tránh việc huy động của ngân sách gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thời kỳ kinh tế suy thoái, Nhà nước có thể giảm thuế suất để khuyến khích đầu tư, tiêu dùng, phát triển kinh tế. Ở những nước chưa phát triển có tỷ suất lợi nhuận thấp cũng không nên huy động nhiều để bồi dưỡng nguồn thu.Thâm hụt ngân sách được giải quyết bằng vay nợ. Quan hệ đối ngoại của nhà nước: vấn đề liên quan đến việc nhận viện trợ từ nước ngoài. Hiệu quả của bộ máy thu ngân Ngân sách nhà nước: hiện tượng gian lận, hiệu quả thu kém là một trong những nguyên nhân chính của việc thất thu ngân sách nhà nước. Nếu công tác này được xem xét và cải thiện thì thu ngân sách nhà nước cũng sẽ tăng. Chi ngân sách nhà nước Khái niệm chi ngân sách nhà nước Chi ngân sách nhà nước là một bộ phận trong cơ cấu Ngân sách nhà nước. Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì chi Ngân sách nhà nước là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phân phối và sử dụng quỹ Ngân sách nhà nước. Mục đích của chi Ngân sách nhà nước là thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Chi ngân sách nhà nước là nội dung của chấp hành ngân sách nhà nước nên thuộc trách nhiệm và quyền hạn của hệ thống cơ quan chấp hành và hành chính các cấp. Căn cứ để thực hiện chi ngân sách nhà nước là dự toán ngân sách hàng năm, quy định của luật pháp về định mức, tiêu chuẩn chi ngân sách. Nếu hoạt động thu ngân sách nhà nước là nhằm thu hút các nguồn vốn tiền tệ để hình thành nên quỹ ngân sách nhà nước thì chi ngân sách nhà nước là chu trình phân phối, sử dụng các nguồn vốn tiền tệ đã được tập trung vào quỹ tiền tệ đó. Do hoạt động thu ngân sách nhà nước vừa là tiền tệ, vừa là cơ sở thực hiện hoạt động cho ngân sách nhà nước nên phạm vi và quy mô của hoạt động chi ngân sách nhà nước phụ thuộc một phần vào kết quả hoạt động thu ngân sách nhà nước. Luật ngân sách nhà nước 2002 đưa ra khái niệm chi ngân sách nhà nước nhưngở dạng liệt kê, tại Khoản 2 Điều 2. Theo đó, chi ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, ta có thể hiểu chi ngân sách nhà nước là phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước theo dự toán ngân sách đã được chủ thể quyền lực quyết định nhằm duy trì sự hoạt động của bộ máy nhà nước và bảo đảm thực hiện các chức năng của Nhà nước. Chi ngân sách nhà nước là một nội dụng quan trọng cơ cấu nên đạo luật thường niên ngân sách nhà nước. Đặc điểm chi ngân sách nhà nước Dựa trên những khái niệm về chi ngân sách nhà nước đã được đưa ra, ta có thẻ thấy, chi ngân sách nhà nước mang những đặc điểm sau: Chi ngân sách nhà nước là hoạt động phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước, hoạt động này chỉ có thể thực hiện trên cơ sở quy định pháp luật và dự toán ngân sách do cơ quan quyền lực nhà nước quyết định. bản dự toán ngân sách này do Quốc hội thông qua. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền quyết định tổng số chi Ngân sách nhà nước bao gồm chi ngân sách trung ương và chi ngân sách địa phương, tổng số chi và mức chi từng lĩnh vực… Chi ngân sách nhà nước là một nội dung quan trọng quyết định đến hiệu quả quản lý Nhà nước và bộ máy nhà nước vì vậy nó phải được thông qua theo nguyên tắc tập thể, tập trung trí tuệ tập thể và một quy trình luật định nghiêm ngặt. Chi ngân sách nhà nước là hoạt động được tiến hành bởi các chủ thể quyền lực gồm hai nhóm: Nhóm chủ thể đại diện cho Nhà nước thực hiện việc quản lý, cấp phát , thanh toán các khoản chi ngân sách nhà nước. Đó là các cơ quan đại diện cho nhà nước thực thi quyền hạn có liên quan tới việc xuất quỹ Ngân sách nhà nước cho các mục tiêu đã được phê duyệt. Nhóm chủ thể này gồm Bộ tài chính, Sở tài chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Phòng tài chính quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh, thành phố, Sở kế hoạch và đàu tư và Kho bạc nhà nước. Nhóm chủ thể sử dụng ngân sách nhà nước. Đây là nhóm chủ thể được hưởng kinh phí từ ngân sách nhà nước để trang trải các chi phí trong quá trình thực hiện hoạt động của mình. Nhóm chủ thể này rất đa dạng nhưng có thể phân thành ba loại chủ yếu: Các cơ quan nhà nước, kể cả cơ quan hành chính thực hiện khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính; Các đơn vị, kể cả đơn vị sự nghiệp có thu; Các chủ dự án sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước. Mục tiêu cơ bản của chi ngân sách nhà nước là đáp ứng nhu cầu về tài chính cho sự hoạt động của bộ máy nhà nước, bảo đảm cho nhà nước thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình. Chi ngân sách nhà nước luôn gắn kết với bộ máy nhà nước. Nhà nước thông qua hoạt động chi ngân sách đảm bảo hoạt động của mình trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh và quốc phòng. Ngoài ra, thông qua việc thể chế hóa bằng pháp luật đối với hoạt động chi ngân sách, Nhà nước còn hướng dẫn những mục tiêu khác, trong đó, bao gồm mục tiêu quản lý hiệu quả việc sử dụng công quỹ và tăng cường kỷ luật ngân sách, đồng thời tạo cơ sở quản lý cho việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về ngân sách nói chung và pháp luật về chi ngân sách nói riêng, góp phần hạn chế tình trạng tham nhũng, lãng phí tài sản nhà nước. Phân loại chi ngân sách nhà nước Tùy theo yêu cầu của việc phân tích, đánh giá và quản lý ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ, người ta có thể phân chi các khoản chi ngân sách nhà nước theo các tiêu thức khác nhau. Theo tính chất kinh tế, chi ngân sách nhà nước được chia ra các nội dung: Chi thường xuyên: là những khoản chi không có trong khu vực đầu tư và có tính chất thường xuyên để tài trợ cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước nhằm duy trì đời sống quốc gia. Về nguyên tắc, các khoản chi này thường được tài trợ bằng các khoản thu không mang tính hoàn trả của ngân sách nhà nước. Chi thường xuyên gồm có: Chi về chủ quyền quốc gia, Chi phí liên quan đến sự điều hành và duy trì hoạt động của các cơ quan Nhà nước để thực hiện những nhiệm vụ được giao phó, Chi phí do sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt động knh doanh, văn hóa, xã hội để cải thiện đời sống nhân dân. Chi cho đầu tư phát triển: là tất cả các khoản chi phí làm tăng thêm tài sản quốc gia. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ hàng đầu của tất cả các nhà nước hiện đại, để đạt sự phát triển, chính phủ hoạch định chiến lược đúng đắn, phù hợp vốn đầu tư của nhà nước cho nên các nhóm chi đó có thể chi cho từng đơn vị cá nhân hay DN Nhà nước để xây dựng nhà xưởng, cơ sở hạ tầng….Để đạt được điều đó NSNN cần phải đối chiếu sao cho phù hợp với mọi hình thức như: Hóa đơn, chứng từ , và các hạng mục đầu tư để từ đó đầu tư cho các công trình, xí nghiệp, hoặc là các cá thể. Chi cho đầu tư phát triển bao gồm: Chi mua sắm máy móc, thiết bị và dụng cụ; Chi xây dựng mới và tu bổ công sở, đường sá, kiến thiết đô thị; Chi cho việc thành lập các doanh nghiệp nhà nước, góp vốn vào các công ty, góp vốn vào các đơn vị, tổ chức sản xuất kinh doanh; Các chi phí chuyển nhượng đầu tư; Những chi phí đầu tư liên quan đến sự tài trợ của nhà nước. Chi trả nợ và viện trợ: là các khoản chi của nhà nước nhằm thanh toán các khoản nợ trong và ngoài nước của mình và các khoản viện trợ cho các nước bạn Nhân tố ảnh hưởng tới chi ngân sách nhà nước Với đặc điểm của chi NSNN thì chi ngân sách phụ thuộc chủ yếu vào các nhân tố sau: Nhiệm vụ về phát triển kinh tế- xã hội của đất nước trong từng thời kỳ: Một trong những đặc điểm của chi ngân sách nhà nước là để phục vụ các hoạt động kinh tế, xã hội chung, mục tiêu là tăng trưởng và phát triển của toàn xã hội. Do vậy các khoản chi ngân sách nhà nước sẽ tăng lên khi đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế cần sự trợ giúp của chính phủ để kích thích sự tăng trưởng và ổn định nền kinh tế. Khả năng tích tụ và tích lũy của nền kinh tế: với một quốc gia, nếu khả năng này của nền kinh tế tốt thì không những hạn chế được mức chi của ngân sách, ,mà còn cho thấy sự hoạt động tốt của nền kinh tế, một đồng bỏ ra có hiệu quả cho tăng trưởng và phát triển, không lãng phí. Ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên, hạn hán, động đất, dịch bệnh: Chi ngân sách nhà nước luôn đảm bảo vì lợi ích chung và đảm bảo sự công bằng cho một bộ phận những người có hoàn cảnh đặc biệt. Khi quốc gia gặp thiên tai, thì việc tăng chi tiêu để trợ cấp cho những gia đình gặp khó khăn, khắc phục hậu quả, giữ ổn định kinh tế là điều tất yếu phải làm của chi ngân sách nhà nước. Và do đó, mức chi ngân sách cũng sẽ tăng. Hiệu quả chi của bộ máy chi Ngân sách nhà nước: Cũng giống như thu ngân sách nhà nước, bộ máy chi ngân sách nhà nước đạt hiệu quả tốt sẽ tránh được tình trạng lãng phí, tham ô trong quá trình chi tiêu thì sẽ tiết kiệm được cho quốc gia một khoản chi lớn, số chi vô ích sẽ giảm đi đáng kể. THỰC TRẠNG THU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY Tình hình thực hiện thu, chi ngân sách nhà nước năm 2009 Năm 2009 là năm có nhiều khó khăn, thách thức lớn đối với nền kinh tế nước ta. Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động trực tiếp đến kinh tế trong nước, làm cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu giảm sút, ảnh hưởng đến việc làm và đời sống nhân dân. Trong bối cảnh đó, Chính phủ đã đề ra những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Cùng với sự nỗ lực của các ngành, các cấp, cộng đồng doanh nghiệp và toàn thể nhân dân; các chính sách và giải pháp kích thích kinh tế đề ra đã được thực hiện khẩn trương, đồng bộ và phát huy hiệu quả, giúp thực hiện thành công mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế. Từ quý II/2009, tình hình kinh tế đã có chuyển biến tích cực, tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước, nâng mức tăng trưởng GDP cả năm đạt 5,32%, góp phần duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Cùng với sự khởi sắc của tình hình sản xuất, kinh doanh và xuất nhập khẩu, nhiệm vụ thu, chi Ngân sách nhà nước năm 2009 đạt kết quả khả quan. Tình hình thu ngân sách nhà nước 2009 Thu Ngân sách nhà nước năm 2009 ước đạt 442.340 tỷ đồng, vượt 13,4% so với dự toán; mức động viên thuế và phí đạt 23%GDP. Cụ thể: Thu nội địa: Ước thực hiện đạt 269.656 tỷ đồng, vượt 15,7% so với dự toán, riêng thu tiền sử dụng đất đạt 36.274 tỷ đồng. Không kể thu tiền sử dụng đất, thu nội địa đạt 233.382 tỷ đồng, vượt 10,1%  so với dự toán. Thu ngân sách từ dầu thô: Ước đạt 60.500 tỷ đồng, bằng 95% so với dự toán, trên cơ sở sản lượng dầu thanh toán đạt 15,4 triệu tấn, giá bán bình quân đạt 58 USD/thùng (dự toán sản lượng là 15,86 triệu tấn, giá bán là 70 USD/thùng).  Thu cân đối Ngân sách nhà nước từ hoạt động xuất nhập khẩu: Tổng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu ước đạt 143.664 tỷ đồng, tăng 18,5% so với dự toán; sau khi trừ số chi hoàn thuế giá trị gia tăng theo chế độ là 38.000 tỷ đồng, thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 105.664 tỷ đồng, vượt 19,8% so với dự toán. Thu viện trợ không hoàn lại: Ước thực hiện đạt 6.520 tỷ đồng. Thu Ngân sách nhà nước năm 2009 đạt kết quả tích cực là nhờ các nguyên nhân chủ yếu sau:    Một là: Do tình hình kinh tế đất nước và hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp từ quý II/2009 đã có chuyển biến tích cực. Nếu như GDP quý I tăng 3,14%, hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, số thu nội địa sụt giảm mạnh; thì từ quý II/2009 đà hồi phục của nền kinh tế đã rõ nét hơn (GDP quý II tăng 4,41%, quý III tăng 5,98%, quý IV tăng 6,99%). Nhờ vậy, số thu nội địa hàng tháng cũng từng bước đạt khá hơn. Riêng trong quý IV/2009, số thu bình quân mỗi tháng tăng gần 18% so với mức thu bình quân trong 9 tháng đầu năm. Bên cạnh đó, nhờ biện pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng thông qua giảm thuế và lệ phí trước bạ, các hoạt động mua bán ô tô, xe máy, giao dịch bất động sản trong những tháng cuối năm 2009 gia tăng (chỉ tính riêng xe ô tô, mức tiêu thụ bình quân tháng trong quý IV/2009 bằng 1,5 lần mức tiêu thụ bình quân 9 tháng đầu năm), cũng tạo điều kiện cho thu Ngân sách nhà nước tăng thêm. Hai là: Các địa phương đã chỉ đạo khai thác các nguồn thu có khả năng; tập trung đẩy nhanh việc đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án trong những tháng cuối năm 2009, khi thị trường bất động sản phục hồi, qua đó góp phần đưa số thu tiền sử dụng đất năm 2009 đạt mức cao nhất trong những năm gần đây. Đồng thời, các địa phương cũng đã tăng cường công tác quản lý thu, đôn đốc xử lý nợ đọng thuế.  Ba là: Số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu những tháng cuối năm 2009 được cải thiện đáng kể do kim ngạch xuất nhập khẩu gia tăng mạnh (do cả yếu tố tăng sản lượng và giá). Cụ thể: Kim ngạch xuất, nhập khẩu quý IV/2009 tăng mạnh, với tổng giá trị đạt gần 37 tỷ USD, bằng 30,7% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm và tăng gần 23,1% so với tổng kim ngạch nhập khẩu bình quân 3 quý đầu năm. Bên cạnh đó, công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại đã được thực hiện quyết liệt, góp phần tăng thu cho Ngân sách nhà nước. Tình hình chi ngân sách nhà nước 2009 Chi Ngân sách nhà nước năm 2009 ước thực hiện 584.695 tỷ đồng, tăng 19,0% so với dự toán đầu năm. Trong tổ chức thực hiện, để hạn chế tác động không thuận của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đối với nền kinh tế, tại kỳ họp thứ 5 của Quốc hội (tháng 5/2009), Chính phủ đã báo cáo Quốc hội nguyên tắc điều hành Ngân sách nhà nước năm 2009 là không thực hiện cắt giảm tổng mức chi Ngân sách nhà nước, nhưng có yêu cầu sắp xếp điều chỉnh các nhiệm vụ chi, đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm, giảm những khoản chi chưa thực sự cấp thiết; đồng thời sử dụng gói kích thích kinh tế nhằm mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng hợp lý và bảo đảm an sinh xã hội. Trên cơ sở kết quả thực hiện thu, đánh giá kết quả thực hiện chi Ngân sách nhà nước theo từng lĩnh vực như sau: Chi đầu tư phát triển: Ước đạt 179.961 tỷ đồng, tăng 59,5% so dự toán do được bổ sung nguồn từ gói kích thích kinh tế, nguồn dự phòng Ngân sách nhà nước, nguồn được sử dụng theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn. Trong quá trình thực hiện, quy trình kiểm soát, thanh toán vốn đầu tư đã được sửa đổi từ thẩm tra trước sang kiểm tra sau để tạo điều kiện cho các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn... Bên cạnh đó, qua chính sách kích cầu đầu tư, nhất là giải pháp hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng ngân hàng, đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xây dựng đảm bảo được vốn trong quá trình thực hiện các dự án, do đó việc triển khai các dự án nhìn chung có tiến bộ hơn so với các năm trước. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn những yếu kém như phân bổ, giao kế hoạch vốn đầu tư bổ sung ở một số Bộ, cơ quan trung ương và địa phương còn chậm hoặc chưa đúng đối tượng; vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng, chất lượng công tác chuẩn bị đầu tư thấp, năng lực chủ đầu tư và nhà thầu yếu... Chi trả nợ và viện trợ: kết quả thực hiện 64.800 tỷ đồng, tăng 6.000 tỷ đồng so với dự toán, đảm bảo trả các khoản nợ tăng thêm do tăng huy động vay trong nước để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát và ngăn chặn suy giảm kinh tế; việc thanh toán nợ được thực hiện đầy đủ, kịp thời theo đúng cam kết. Chi phát triển các sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính: kết quả thực hiện 320.501 tỷ đồng, tăng 4,8% so với dự toán (đã bao gồm cả chi cải cách tiền lương thực hiện trong năm); đảm bảo các nhu cầu chi theo dự toán đã được Quốc hội quyết định, đồng thời đã tập trung nguồn lực thực hiện các chính sách về an sinh xã hội để giảm bớt khó khăn về đời sống cho nhân dân, tập trung trước hết cho người nghèo, đồng bào dân tộc, người lao động có thu nhập thấp và các đối tượng chính sách khác, góp phần duy trì sự phát triển kinh tế và ổn định chính trị - xã hội. Nhìn chung các Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương đã nghiêm túc thực hành tiết kiệm, chi trong phạm vi dự toán được giao, hạn chế tối đa việc bổ sung ngoài dự toán. Chi chuyển nguồn đảm bảo cân đối ngân sách và để tạo nguồn thực hiện điều chỉnh tiền lương năm 2010: theo Nghị quyết của Quốc hội về dự toán Ngân sách nhà nước năm 2010, đã dành 1.000 tỷ đồng từ nguồn vượt thu NSTW năm 2009 chuyển nguồn sang năm 2010 để đảm bảo cân đối Ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, theo quy định, các địa phương đã dành 50% nguồn vượt thu so với dự toán của NSĐP năm 2009 (không kể số vượt thu tiền sử dụng đất), cùng với nguồn chi cải cách tiền lương còn dư đến cuối năm 2009, chuyển nguồn sang năm 2010 để tiếp tục thực hiện cải cách tiền lương. Tổng cộng số chuyển nguồn NSNN từ năm 2009 sang năm 2010 là 17.233 tỷ đồng. Cân đối ngân sách nhà nước: Dự toán bội chi NSNN năm 2009 là 4,82% GDP. Bước vào năm 2009, căn cứ tình hình kinh tế thế giới và trong nước đang gặp rất nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế toàn cầu lan rộng, diễn biến phức tạp, khó lường và theo chiều hướng xấu, nguồn thu NSNN gặp khó khăn, yêu cầu tăng chi là rất lớn để thực hiện các giải pháp kích thích kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội, do vậy Chính phủ đã báo cáo và được Quốc hội chấp thuận tăng mức bội chi không quá 7%GDP. Kết quả thực hiện bội chi NSNN năm 2009 ở mức 6,9% GDP, trong phạm vi Quốc hội cho phép, được sử dụng toàn bộ cho đầu tư phát triển theo đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước, tập trung cho các công trình, dự án kích thích kinh tế thực hiện trong năm 2009. Tình hình thực hiện thu chi năm 2010 Tình hình thu ngân sách nhà nước 2010 Dự toán thu cân đối ngân sách nhà nước là 461.500 tỷ đồng, kết quả thực hiện đạt 559.170 tỷ đồng, vượt 21,2% so với dự toán. Cụ thể như sau: Thu nội địa từ hoạt động sản xuất - kinh doanh (không kể thu tiền sử dụng đất):Dự toán thu 271.700 tỷ đồng, kết quả thực hiện đạt 312.709 tỷ đồng, vượt 15,1% so với dự toán, tăng 34% so với thực hiện năm 2009. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, từ ngày 01/01/2010, Chính phủ đã dừng thực hiện các chính sách miễn, giảm thuế và dừng hỗ trợ lãi suất cho vay vốn lưu động ngắn hạn; thực hiện giãn thời hạn nộp thuế một quý đối với số thuế thu nhập doanh nghiệp của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp sản xuất, gia công dệt may, da, giầy... Chính phủ cũng đã chỉ đạo các ngành, các cấp tăng cường công tác quản lý thu thuế ngay từ đầu năm; tích cực đôn đốc thu nợ đọng, hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện nghiêm chế độ kê khai, nộp thuế... Nhờ vậy, mặc dù chịu nhiều tác động của các yếu tố không thuận lợi, song kết quả thu ngân sách nhà nước nói chung và nhiều khoản thu quan trọng nói riêng đạt khá so với dự toán. Trong đó: Khu vực kinh tế quốc doanh: đạt 111.922 tỷ đồng, vượt 12,3% so với dự toán, tăng 33,5% so với thực hiện năm 2009. Năm 2010, giá cả nhiều loại vật tư, nguyên nhiên liệu phục vụ sản xuất đã tăng hơn so với năm 2009; bên cạnh đó, thời tiết khô hạn kéo dài dẫn đến thiếu điện cho sản xuất, chi phí vận tải tăng,... làm tăng chi phí sản xuất, giảm tích luỹ của nhiều doanh nghiệp; cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp ngoài nước ngày càng gay gắt. Tiếp tục thực hiện lộ trình đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, trong năm 2010 các Bộ, địa phương, các Tổng công ty và tập đoàn kinh tế đã rà soát, điều chỉnh phương án sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Năm 2010 có khoảng 300 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá, sắp xếp lại; tính chung đến ngày 31/12/2010, cả nước đã thực hiện sắp xếp được 5.845 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp, trong đó: cổ phần hoá được 3.943 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp, chiếm 67,5% tổng số đã sắp xếp. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: năm 2010 tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ về thu hút vốn đầu tư nước ngoài; tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới và tăng thêm ước khoảng 21 tỷ USD, trong đó số vốn thực hiện ước 11 tỷ USD; góp phần đổi mới công nghệ sản xuất, tăng kim ngạch xuất khẩu và tạo việc làm cho người lao động. Thu ngân sách nhà nước cả năm đạt 62.821 tỷ đồng, vượt 8,8% so với dự toán, tăng 24% so với thực hiện năm 2009. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh: đạt 69.925 tỷ đồng, vượt 11,4% so dự toán, tăng 46,2% so với thực hiện năm 2009. Năm 2010 đã có khoảng 299,5 nghìn tỷ đồng vốn của dân cư và tư nhân đầu tư vào nền kinh tế, chiếm 36,1% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; có khoảng 84 nghìn doanh nghiệp dân doanh thành lập mới góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động, thực hiện xoá đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội. Thu tiền sử dụng đất: Trong năm 2010, hoạt động của thị trường bất động sản cả nước nói chung và tại một số đô thị lớn nói riêng về cơ bản diễn biến khá sôi động, đồng thời các địa phương đã quan tâm đến công tác quy hoạch, giao đất, cho thuê đất trên địa bàn sát với giá thị trường; đẩy nhanh công tác đấu giá quyền sử dụng đất... Bên cạnh đó, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về nhà ở của người dân, nhiều dự án đầu tư mới về bất động sản cũng đã được triển khai thực hiện. Nhờ vậy, số thu cả năm đạt 41.691 tỷ đồng, vượt 81,3% so với dự toán. Thu từ dầu thô: Dự toán thu là 66.300 tỷ đồng, trên cơ sở dự kiến sản lượng thanh toán là 14,41 triệu tấn, giá bán 68 USD/thùng. Kết quả thực hiện đạt 69.170 tỷ đồng, chiếm 12,4% tổng thu ngân sách nhà nước, vượt 4,3% so dự toán, tăng 14,3% so với thực hiện năm 2009, trên cơ sở sản lượng thanh toán đạt xấp xỉ 13,8 triệu tấn và giá dầu thanh toán cả năm đạt khoảng 79,7 USD/thùng, tăng 11,7 USD/thùng so với giá tính dự toán. Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu: Dự toán thu 95.500 tỷ đồng, trong đó thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 131.500 tỷ đồng, hoàn thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu là 36.000 tỷ đồng, tương ứng với kim ngạch xuất khẩu dự kiến tăng trên 6% và kim ngạch nhập khẩu dự kiến tăng 9%. Năm 2010, nhiều cơ chế về quản lý xuất nhập khẩu đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, trước hết là đối với các mặt hàng trong nước sản xuất được hoặc không khuyến khích nhập khẩu để hạn chế nhập siêu, như: bãi bỏ quy định phân loại, áp dụng mức thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo máy chính để khuyến khích doanh nghiệp sử dụng các thiết bị, máy móc trong nước đã sản xuất được; ban hành khung thuế nhập khẩu ưu đãi mặt hàng xăng dầu tương ứng với giá xăng dầu trên thị trường thế giới để các doanh nghiệp chủ động trong tổ chức sản xuất - kinh doanh; rà soát, điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu các mặt hàng không thiết yếu, hàng tiêu dùng không khuyến khích nhập khẩu, trên cơ sở đó ban hành danh mục các mặt hàng này để làm cơ sở giám sát và thực hiện các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và các hàng rào kỹ thuật phù hợp với thông lệ quốc tế và luật pháp Việt Nam; tiếp tục thực hiện tạm hoàn 90% thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hoá thực xuất khẩu trong thời gian chưa được phía nước ngoài thanh toán qua ngân hàng... Bên cạnh đó, đã tổ chức theo dõi sát tình hình diễn biến thị trường để điều chỉnh kịp thời thuế nhập khẩu đối với các nhóm mặt hàng cần kiểm soát (thủy sản, sữa và sản phẩm từ sữa, rau quả, lúa mỳ, dầu mỡ động thực vật, ngũ cốc, thép...) và các nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu (hàng tiêu dùng các loại, ô tô nguyên chiếc dưới 9 chỗ, linh kiện phụ tùng ô tô dưới 9 chỗ, xe máy nguyên chiếc và linh kiện phụ tùng xe máy...). Ngành Hải quan trong năm 2010 cũng đã tập trung đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản và cụ thể hoá các quy định về thủ tục hải quan; tăng cường kiểm tra và giám sát hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; ban hành quy trình nghiệp vụ quản lý hải quan đối với hàng hóa gia công cho thương nhân nước ngoài, quy định về việc giám sát hải quan tại cảng biển... Qua đó tháo gỡ các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi và giảm thời gian, chi phí cho các doanh nghiệp.  Kết quả thực hiện, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2010 tăng cao so với kế hoạch, trong đó: kim ngạch xuất khẩu đạt 72,2 tỷ USD, tăng 26,4% so với năm 2009; kim ngạch nhập khẩu đạt 84,8 tỷ USD, tăng 21,2% so với năm 2009. Cùng với đó, việc sửa đổi, bổ sung một số cơ chế và chính sách quản lý thu đã góp phần làm số thu ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu tăng cao, mức thu cả năm đạt 181.000 tỷ đồng, tăng 37,6% so với dự toán; sau khi hoàn thuế giá trị gia tăng theo chế độ 50.900 tỷ đồng, thu cân đối ngân sách đạt 130.100 tỷ đồng, chiếm 23,3% tổng thu ngân sách nhà nước, vượt 36,2% so với dự toán, tăng 23,1% so với thực hiện năm 2009. Thu viện trợ không hoàn lại: dự toán 5.000 tỷ đồng, kết quả thực hiện đạt 5.500 tỷ đồng, vượt 10% so dự toán. Thực hiện nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước : Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo điều hành ngân sách nhà nước năm 2010 theo nguyên tắc: đảm bảo cân đối đủ nguồn để thực hiện các nhiệm vụ chi theo dự toán được duyệt; chủ động sử dụng nguồn dự phòng và vượt thu ngân sách địa phương để thực hiện các nhiệm vụ phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai và dịch bệnh, bổ sung tăng ngân sách phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá thông tin, phát thanh truyền hình và các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách khác; tăng chi trả nợ do biến động chênh lệch tỷ giá ngoại tệ và hoàn trả một phần các khoản vay ngắn hạn đến hạn thanh toán, thu hồi vốn đầu tư XDCB đã tạm ứng và chuyển nguồn sang năm 2011... Đồng thời, sử dụng một phần số tăng thu để giảm bội chi NSNN. Căn cứ vào dự toán chi ngân sách nhà nước năm 2010 (582.200 tỷ đồng), kết hợp với dự kiến sử dụng nguồn vượt thu ngân sách nhà nước năm 2010, đánh giá tổng chi ngân sách nhà nước năm 2010 đạt 671.370 tỷ đồng, tăng 15,3% so với dự toán, tăng 14,8% so với thực hiện năm 2009. Kết quả cụ thể tại một số lĩnh vực chi chủ yếu như sau: Chi đầu tư phát triển: Dự toán chi 125.500 tỷ đồng, kết quả thực hiện (bao gồm cả vốn dự kiến bổ sung từ nguồn vượt thu NSNN năm 2010) đạt 172.710 tỷ đồng, tăng 37,6% so với dự toán, bằng 96% mức thực hiện năm 2009, chiếm 25,7% tổng chi ngân sách nhà nước và bằng 8,7% GDP. Số vượt chi so với dự toán được sử dụng từ nguồn dự phòng ngân sách nhà nước đã bố trí đầu năm và một phần nguồn vượt thu ngân sách nhà nước so với dự toán năm 2010 (chủ yếu là nguồn vượt thu tiền sử dụng đất so với dự toán của các địa phương theo chế độ quy định); được tập trung sử dụng cho các dự án quan trọng, cấp bách có khả năng hoàn thành đưa vào sử dụng trong năm 2010 - 2011, các dự án đầu tư nâng cấp công trình sạt lở đê kè cấp bách và giảm nhẹ tác hại thiên tai, bổ sung tăng dự trữ quốc gia để bảo đảm an ninh lương thực và một số mặt hàng dự trữ quốc gia khác... Trong tổ chức triển khai thực hiện, các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã đảm bảo hoàn thành công tác phân bổ kế hoạch vốn năm 2010 theo yêu cầu đề ra; đôn đốc các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án và tuân thủ quy trình kiểm soát, thanh toán vốn đầu tư... Bên cạnh nguồn vốn đầu tư bố trí cân đối ngân sách nhà nước, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã thực hiện huy động trái phiếu Chính phủ để đầu tư các công trình giao thông, thuỷ lợi, y tế, giáo dục và nhà ở cho sinh viên; ước thực hiện cả năm đạt 55.235 tỷ đồng, bằng 98,6% kế hoạch (56.000 tỷ đồng). Với việc triển khai thực hiện nêu trên, nhiều dự án quan trọng từ nguồn vốn đầu tư của Nhà nước năm 2010 đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, phát huy hiệu quả, tạo thêm năng lực mới cho nền kinh tế. Ước tính cả nước có trên 1.500 km đường giao thông các loại, trên 1.000 km kênh mương được xây dựng mới và nâng cấp, cải tạo hoàn thành; năng lực tưới tăng thêm 200 nghìn ha; hàng nghìn phòng học, nhà bán trú được xây mới; các dự án phục vụ 1.000 năm Thăng Long Hà Nội, cầu Cần Thơ, cầu Hàm Luông, cầu Thanh Trì, đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Trung Lương, sân bay Cần Thơ... đã hoàn thành, đưa vào khai thác phục vụ phát triển kinh tế, xã hội. Chi trả nợ và viện trợ: Dự toán chi 70.250 tỷ đồng, kết quả thực hiện đạt 80.250 tỷ đồng, tăng 14,2% so với dự toán, đảm bảo thanh toán đầy đủ, kịp thời các nghĩa vụ nợ đến hạn theo cam kết, kể cả yếu tố tác động tăng chi do biến động chênh lệch tỷ giá ngoại tệ đối với các khoản trả nợ nước ngoài; đồng thời, trong năm đã bố trí hoàn trả một phần các khoản vay ngắn hạn đến hạn thanh toán. Chi phát triển các sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính (bao gồm cả chi điều chỉnh tiền lương đã phân bổ vào các lĩnh vực): Dự toán chi 362.282 tỷ đồng, kết quả thực hiện đạt 385.082 tỷ đồng, tăng 6,3% so với dự toán, tăng 20,2% so với thực hiện năm 2009. Công tác quản lý, điều hành ngân sách đã bảo đảm tiến độ thực hiện các nhiệm vụ chi theo dự toán được giao; đồng thời thực hiện các nhiệm vụ quan trọng như: phòng, chống, khắc phục hậu quả hạn hán, bão lũ; tăng kinh phí phòng, chống tái phát dịch cúm gia cầm và dập dịch lở mồm long móng gia súc; bảo đảm kinh phí phục vụ các sự kiện chính trị và văn hoá quan trọng trong năm 2010; kinh phí thực hiện nâng mức lương tối thiểu lên 730.000 đồng/tháng từ ngày 01/05/2010; bổ sung kinh phí mua bảo hiểm y tế cho học sinh, sinh viên; thực hiện chính sách miễn, giảm học phí,... Cân đối ngân sách nhà nước: Dự toán bội chi ngân sách nhà nước năm 2010 là 119.700 tỷ đồng, bằng 6,2% GDP. Với kết quả thu, chi như trên, đã sử dụng 8.500 tỷ đồng từ số tăng thu NSTW để giảm bội chi NSNN, đưa số bội chi ngân sách nhà nước năm 2010 còn 111.200 tỷ đồng (5,6% GDP), giảm 0,6% GDP so với dự toán. Tình hình thực hiện thu chi năm 2011 Tình hình thu ngân sách nhà nước 2011 Dự toán thu cân đối NSNN năm 2011 là 595.000 tỷ đồng; ước cả năm đạt 674.500 tỷ đồng, vượt 13,4% so với dự toán, tăng 20,6% so với thực hiện năm 2010, tỷ lệ động viên từ thuế và phí đạt 20,3%GDP. Kết quả thực hiện ở một số lĩnh vực thu cụ thể như sau: Thu nội địa: Dự toán thu 382.000 tỷ đồng, ước cả năm đạt 425.000 tỷ đồng, vượt 11,3% so dự toán, tăng 19,9% so thực hiện năm 2010; không kể thu tiền sử dụng đất (ước đạt 43.500 tỷ đồng, tăng 13.500 tỷ đồng so dự toán) thì vượt 8,4% so dự toán, tăng 22% so thực hiện năm 2010. Các lĩnh vực thu lớn ước đạt và vượt dự toán, trong đó: thu từ kinh tế quốc doanh vượt 0,8% dự toán; thu thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh vượt 10,6% dự toán; thu từ khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài vượt 11,3% dự toán; thuế thu nhập cá nhân vượt 28,6% dự toán... Các địa phương cơ bản thu đạt và vượt dự toán giao.   Trong bối cảnh kinh tế phát triển không thuận lợi, có được kết quả nêu trên là nhờ vào nỗ lực lớn của các Bộ, ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp trong triển khai thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về những giải pháp chủ yếu để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Bên cạnh đó, có tác động của một số yếu tố sau: (1) đà phát triển tốt của nền kinh tế trong những tháng cuối năm 2010, tạo nguồn thu gối đầu cho NSNN năm 2011 đạt khá; (2) giá cả hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng tăng, nhất là giá một số mặt hàng nông, lâm thuỷ sản tăng lớn, cùng với việc thay đổi tỷ giá ngoại tệ VND/USD, đã góp phần tăng thu ngân sách; (3) việc triển khai quyết liệt công tác quản lý thu, tăng cường kiểm soát kê khai, đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra và đôn đốc thu nợ thuế, thu vào NSNN kịp thời các khoản thu theo kết luận của cơ quan thanh tra, kiểm toán và kiểm tra quyết toán thuế,... Nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp duy trì hoạt động sản xuất, ổn định đời sống người lao động, từ tháng 4/2011, Chính phủ đã gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian 01 năm cho một số doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động hoạt động sản xuất, gia công, chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử, xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế xã hội và một số ngành nghề sản xuất kinh doanh quan trọng, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này có thêm nguồn vốn để ổn định và phát triển các hoạt động; ước tính có khoảng 303,2 nghìn doanh nghiệp nằm trong diện được gia hạn nộp thuế, với tổng số thuế được gia hạn năm 2011 chuyển sang năm 2012 khoảng 6.900 tỷ đồng. Tiếp đó, Chính phủ đã trình Quốc hội cho phép giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong một số lĩnh vực đặc thù; giảm 50% mức thuế khoán thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân đối với một số cá nhân, hộ kinh doanh và tổ chức kinh doanh nhà trọ, phòng trọ, cung ứng suất ăn ca; miễn thuế thu nhập cá nhân đối với hoạt động chuyển nhượng chứng khoán.... Theo đó, dự kiến tổng số thuế miễn, giảm trong năm 2011 khoảng 4.200 tỷ đồng. Thu từ dầu thô: Dự toán thu 69.300 tỷ đồng, với dự kiến sản lượng dầu thanh toán là 14,02 triệu tấn, giá bán 77 USD/thùng. Đánh giá thực hiện cả năm, về giá: hiện giá dầu thô thế giới đang tiếp tục biến động, dự kiến giá dầu thô xuất khẩu của Việt Nam bình quân cả năm sẽ đạt khoảng 102 USD/thùng, tăng 25 USD/thùng so giá xây dựng dự toán. Về sản lượng, ước cả năm đạt 14,13 triệu tấn, tăng 0,11 triệu tấn so kế hoạch. Với mức giá và sản lượng dầu thô dự kiến này, ước thu ngân sách từ dầu thô cả năm đạt 100.000 tỷ đồng, vượt 30.700 tỷ đồng so dự toán, tăng 44,6% so với thực hiện năm 2010. Thu cân đối từ hoạt động xuất, nhập khẩu: Dự toán thu 138.700 tỷ đồng, trên cơ sở dự toán tổng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 180.700 tỷ đồng, dự toán chi hoàn thuế giá trị gia tăng theo chế độ là 42.000 tỷ đồng. Trên cơ sở dự kiến kim ngạch xuất khẩu năm 2011, ước tổng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu cả năm đạt 205.000 tỷ đồng, vượt 13,4% so dự toán, sau khi trừ ước chi hoàn thuế giá trị gia tăng 61.000 tỷ đồng, dự kiến thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu năm 2011 đạt 144.000 tỷ đồng, tăng 3,8% so dự toán. Số thu ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt khá chủ yếu do trị giá hàng hoá nhập khẩu các mặt hàng chịu thuế tăng lớn so với kế hoạch do giá thế giới tăng và điều chỉnh tỷ giá. Bên cạnh đó, nhiều chính sách thu trong lĩnh vực xuất nhập khẩu cũng đã được thực hiện nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế nhập siêu, như: tăng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với 6 mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu (thuốc lá thuần nhất hoặc hoàn nguyên, thuốc lá bột để hít, bồn tắm bằng sắt hoặc thép...), chỉ cho phép nhập khẩu các mặt hàng rượu, mỹ phẩm, điện thoại di động qua 3 cảng biển quốc tế là Hải Phòng, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh nhằm bảo vệ quyền lợi và sức khỏe người tiêu dùng, chống nhập khẩu hàng giả, hàng kém chất lượng và tăng cường chống gian lận thương mại; tăng thuế suất thuế xuất khẩu quặng sắt và tinh quặng sắt, gỗ và các sản phẩm từ gỗ... để hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô... Ngành Hải quan tiếp tục đẩy mạnh thực hiện rà soát, sửa đổi, bổ sung, cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thu thuế xuất nhập khẩu, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, tăng cường các biện pháp chống buôn lậu, gian lận thương mại. Qua đó, góp phần tăng thu cho NSNN. Thu viện trợ: Dự toán 5.000 tỷ đồng, ước cả năm đạt 5.500 tỷ đồng, vượt 10% so dự toán. Tình hình chi ngân sách nhà nước 2011 Trong quá trình tổ chức thực hiện chi NSNN, các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương cũng đã nghiêm túc chấp hành kiểm soát chặt chẽ đầu tư công và tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, tăng cường kiểm soát chi để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách; đã thực hiện rà soát, sắp xếp lại để điều chuyển khoảng 9.452 tỷ đồng vốn đầu tư từ NSNN, trái phiếu Chính phủ và xổ số kiến thiết để tập trung vốn đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án quan trọng, cấp bách, hoàn thành trong năm 2011. Số vốn cắt giảm nêu trên được điều chuyển cho các dự án hoàn thành, cấp bách cần đẩy nhanh tiến độ. Nhờ việc cắt giảm, điều chuyển, số dự án hoàn thành trong năm 2011 tăng thêm 1.053 dự án.  Ngoài ra, các bộ, ngành, địa phương còn thực hiện tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong dự toán năm 2011 là 3.857,7 tỷ đồng để chi cho lĩnh vực an sinh xã hội.   Số vượt thu ngân sách trung ương, căn cứ quy định của Luật Ngân sách nhà nước, Nghị quyết của Quốc hội, tình hình thực tế năm 2011 và yêu cầu bố trí dự toán NSNN năm 2012, sau khi thưởng vượt thu, bù hụt thu cân đối do nguyên nhân khách quan (nếu có) và đầu tư trở lại cho NSĐP theo chế độ, tăng chi cho các nhiệm vụ đã xác định từ nguồn tăng thu viện trợ, Chính phủ trình Quốc hội tập trung sử dụng để: (1) giảm bội chi NSNN, (2) tăng chi trả nợ, (3) chuyển nguồn đảm bảo cân đối NSNN năm 2012. Số vượt thu ngân sách địa phương, theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và Nghị quyết của Quốc hội, phần vượt thu tiền sử dụng đất (khoảng 13.500 tỷ đồng) địa phương sử dụng để tăng Quỹ phát triển nhà đất và đầu tư phát triển các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng; phần vượt thu ngoài tiền sử dụng đất (khoảng 12.000 tỷ đồng), địa phương sử dụng 50% để tạo nguồn cải cách tiền lương, số còn lại sử dụng để đáp ứng các nhiệm vụ cấp thiết về phòng chống giảm nhẹ tác hại thiên tai, dịch bệnh, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh trên địa bàn. Trong điều hành, các địa phương chủ động tăng chuyển nguồn đảm bảo cân đối NSNN năm 2012, hạn chế chi ngay trong năm 2011 để góp phần kiềm chế lạm phát. Căn cứ vào dự toán chi NSNN năm 2011, kết hợp với dự kiến phân bổ sử dụng nguồn dự phòng và nguồn vượt thu năm 2011 nêu trên, đánh giá tổng chi NSNN năm 2011 ước đạt 796.000 tỷ đồng, tăng 9,7% so với dự toán, tăng 18,6% so với thực hiện năm 2010. Kết quả cụ thể tại một số lĩnh vực chi chủ yếu như sau: Chi đầu tư phát triển: Dự toán chi 152.000 tỷ đồng. Ước thực hiện cả năm, trên cơ sở dự toán đầu năm, cộng thêm vốn dự kiến bổ sung từ nguồn dự phòng và nguồn vượt thu NSNN, đạt 175.000 tỷ đồng, tăng 15,1% so với dự toán, tăng 9% so với thực hiện năm 2010, bằng 22% tổng chi NSNN. Số vượt chi so với dự toán được tập trung sử dụng cho các dự án quan trọng, cấp bách có khả năng hoàn thành đưa vào sử dụng năm 2011 - 2012, các dự án đầu tư sửa chữa, nâng cấp công trình sạt lở đê kè cấp bách và giảm nhẹ tác hại thiên tai, bổ sung tăng dự trữ quốc gia để bảo đảm an ninh lương thực... Tổng hợp vốn đầu tư từ trái phiếu Chính phủ, nguồn xổ số kiến thiết và  vốn bố trí trong cân đối NSNN, thì tổng chi đầu tư phát triển từ NSNN năm 2011 ước 233.000 tỷ đồng, bằng 27,3% tổng chi NSNN, chiếm 9,3%GDP. Nguồn vốn đầu tư của NSNN, cùng với vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước đưa vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2011 đạt khoảng 34,5%GDP, góp phần tăng thêm năng lực mới cho nền kinh tế. Tuy nhiên, việc quản lý, điều hành chi đầu tư phát triển năm 2011 cũng còn tồn tại, trong đó vẫn còn những dự án tiến độ triển khai chậm so với yêu cầu nhiệm vụ; bố trí vốn cho các dự án chưa đủ thủ tục; phân bổ vốn không đúng với cơ cấu, chương trình hỗ trợ được giao; một số cơ quan, đơn vị ở Trung ương và địa phương còn chần chừ, thiếu kiên quyết trong cắt giảm đầu tư công, khởi công dự án mới trái quy định... Chi trả nợ và viện trợ: Dự toán chi 86.000 tỷ đồng, ước cả năm đạt 101.000 tỷ đồng, tăng 17,4% so với dự toán, tăng 25,9% so với thực hiện năm 2010 đảm bảo thanh toán kịp thời các khoản nợ đã cam kết và thực hiện nhiệm vụ đối ngoại của nhà nước. Số chi vượt dự toán (15.000 tỷ đồng) nhằm đảm bảo tăng chi trả nợ ngoài nước do biến động chênh lệch tỷ giá ngoại tệ và tăng trả nợ gốc đối với các khoản vay ngắn hạn để giảm áp lực bố trí trả nợ các năm sau. Chi thường xuyên (bao gồm cả chi cải cách tiền lương): Dự toán chi 469.100 tỷ đồng. Trên cơ sở phân bổ sử dụng nguồn dự phòng ngân sách đã bố trí đầu năm và dự kiến bổ sung thêm từ nguồn vượt thu NSNN năm 2011 cho chi thường xuyên, chủ yếu để khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh và bảo đảm an sinh xã hội; ước thực hiện chi ngân sách cho lĩnh vực này cả năm đạt 491.500 tỷ đồng, tăng 4,8% so với dự toán, tăng 17,5% so với năm 2010.    Trong chỉ đạo điều hành, Chính phủ đã tập trung kinh phí thực hiện các chính sách an sinh xã hội và xác định đây là mặt công tác trọng tâm trong năm 2011. Bên cạnh việc đảm bảo chi cho những chính sách đã được bố trí dự toán đầu năm[6] và thực hiện chi trả tiền lương, lương hưu và trợ cấp xã hội theo mức tiền lương tối thiểu mới 830.000 đồng/tháng từ ngày 01/05/2011 theo đúng kế hoạch, Chính phủ đã ban hành và tổ chức thực hiện một số chính sách mới, như: trợ cấp khó khăn đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, người hưởng lương hưu có mức lương thấp, người hưởng trợ cấp ưu đãi người có công và hộ nghèo đời sống khó khăn; hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo; nâng mức cho học sinh sinh viên vay từ mức 900.000 đồng/người/tháng lên 1.000.000 đồng/người/tháng... Cân đối ngân sách nhà nước: Bội chi NSNN năm 2011 Quốc hội quyết định là 120.600 tỷ đồng, bằng 5,3% GDP. Ước cả năm, trên cơ sở đánh giá kết quả thu, chi và dự kiến sử dụng tăng thu NSNN báo cáo trên, giảm bội chi NSNN năm 2011 xuống 4,9%GDP. Số bội chi tuyệt đối là 111.500 tỷ đồng, giảm 9.100 tỷ đồng so với Quốc hội quyết định.  Đến hết năm 2011, dư nợ công bằng 54,6%GDP, dư nợ Chính phủ 43,6%GDP và dư nợ quốc gia 41,5%GDP, nằm trong giới hạn an toàn an ninh tài chính quốc gia. KẾT LUẬN Thu và chi là hai bộ phận cấu thành nên ngân sách nhà nước. Việc thực hiện thu và chi có hiệu quả hay không ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia. Thông qua thực trạng thu, chi ngân sách nhà nước của nước ta trong thời gian qua, ta thấy còn rõ nhưng ưu điểm và hạn chế chủ yếu sau: Những ưu điểm nổi bật của thu, chi ngân sách nhà nước ta trong thời gian qua là: Nền kinh tế nước ta chịu tác động lớn của khủng hoảng kinh tế thế giới, nhưng với sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, chúng ta đã sớm vượt qua giai đoạn khó khăn nhất, ngăn chặn thành công đà suy giảm kinh tế, thực hiện có kết quả nhiều mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đặt ra. Việc ban hành kịp thời, tương đối đồng bộ và tổ chức triển khai thực hiện tích cực các giải pháp kích thích kinh tế sử dụng nguồn từ Ngân sách nhà nước đã góp phần giúp các doanh nghiệp ổn định sản xuất - kinh doanh, tạo chuyển biến tích cực trong nền kinh tế. Nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội tiếp tục được coi trọng, góp phần ổn định đời sống nhân dân và đảm bảo an ninh chính trị, trật tự xã hội. Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, việc điều hành Ngân sách nhà nước những năm qua năm bộc lộ những hạn chế như: chất lượng công tác dự báo chưa cao; việc triển khai đồng thời chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ nới lỏng đã làm gia tăng áp lực lạm phát; mức dư nợ Chính phủ và dư nợ Quốc gia tăng nhanh (tuy vẫn nằm trong giới hạn an toàn). Đây sẽ là áp lực cho cân đối Ngân sách nhà nước những năm tới và gây khó khăn cho việc điều hành chính sách tài chính, tiền tệ, nhằm tránh nguy cơ tái lạm phát. Bài đề án môn học tập trung vào việc hệ thống hóa lý thuyết về vấn đề thu, chi ngân sách nhà nước và cùng với đó là đưa ra thực trạng của việc thu, chi ngân sách nhà nước Việt nam trong giai đọan hiện nay. Vấn đề cân đối thu chi sao cho hợp lý là vấn đề nan giải không chỉ của một nước mà là của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Việt nam là một nước nhỏ, đang trong quá trình phát triển kinh tế nên việc chi tiêu nhiều cho công cuộc xây dựng đất nước và đảm bảo công bằng xã hội là điều tất yếu. Tuy nhiên, với số lượng thu còn hạn hẹp, Chính phủ và các ban ngành cần có những chiến lược cụ thể đối với từng khoản thu cũng như chi tiêu nhằm đảm bảo tính ổn định xã hội và phát triển kinh tế quốc gia. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ- PSG.TS. Nguyễn Hữu Tài- Nhà xuất bản đại học kinh tế quốc dân 2007 Giáo trình quản lý tài chính công - TS. Phạm Văn Khoan chủ biên nhà xuất bản thống kê 2007 Luật của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam số 01/2002/QH11 ngày 16 tháng 12 năm 2002 về ngân sách nhà nước. Cổng thông tin điện tử Bộ tài chính về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội và ngân sách nhà nước năm 2009, 2010, 2011. Trang web Tổng cục thống kê

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docde_an_8386.doc
Luận văn liên quan