Cho đến nay, trong các văn bản pháp luật về hoạt động Ngân hàng vẫn chưa có văn bản nào quy định về việc quản lý, đo lường rủi ro lãi suất tại các NHTM, kể cả trong Quy chế giám sát của Thanh tra NHNN cũng chưa có quy định nội dung giám sát này. Một khi có quan quản lý chưa có yêu cầu cụ thể thì các NHTM chưa thể nhận thức đầy đủ về sự cần thiết cũng như cách thức thực hiện việc quản lý rủi ro lãi suất và đây cũng chính là một điểm hạn chế cho việc lượng hóa rủi ro lãi suất tại các NHTM. Các văn bản pháp lý về nghiệp vụ phái sinh cũng chưa được hoàn thiện. Hiện tại, NHNN mới chỉ ban hành các văn bản quy định về nghiệp vụ phái sinh ngoại tệ như giao dịch kỳ hạn, giao dịch hoán đổi, đối với nghiệp vụ phái sinh lãi suất cũng mới chỉ có giao dịch hoán đổi lãi suất (Quyết đinh 62/2006/QĐ-NHNN) chưa có văn bản pháp lý nào được ban hành ddeer hướng dẫn các NHTM thực hiện các nghiệp vụ phái sinh về lãi suất khác như kỳ hạn gửi tiền, kỳ hạn lãi suất, các nghiệp vụ quyền chọn
16 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3388 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực trạng và giải pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài Luận
Tiểu luận Thực trạng và giải pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, hòa với xu thế phát triển mạnh của nền kinh tế thị trường và hội nhập với nền kinh tế thế giới, lĩnh vực tài chính – ngân hàng ở nước ta cũng đang từng bước phát triển và hoàn thiện. Trong những năm vừa qua, cùng với những thành tựu đổi mới của đất nước, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những đổi mới sâu sắc đóng góp vào việc ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, hoạt động của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường cũng gặp nhiều khó khăn, tồn tại những rủi ro tiềm ẩn gây ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh và uy tín của các ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế.
Trong hoạt động kinh doanh, các ngân hàng thương mại phải đối phó với rất nhiều rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro tỉ giá… Trong đó, rủi ro lãi suất là một trong những rủi ro đặc thù của các ngân hàng thương mại. Rủi ro lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập cũng như giá trị vốn chủ sở hữu của ngân hàng vì thu nhập từ lãi và chi phí từ lãi là những nguồn thu và các khoản chi chủ yếu của các ngân hàng thương mại. Với chức năng là trung gian tài chính, ngân hàng đi vay và nhận tiền gửi để cho vay thì việc lãi suất thị trường có sự biến động lớn có thể sẽ gây ra rủi ro lãi suất, thậm chí trong nhiều trường hợp đã gây ra thua lỗ cho không ít ngân hàng thương mại.
Có thể nói phòng ngừa rủi ro lãi suất là một hoạt động quan trọng và cần thiết đối với mỗi ngân hàng thương mại để đảm bảo hoạt động kinh doanh luôn đạt kết quả tốt. Nhận thấy được tác động mạnh mẽ của rủi ro lãi suất và tầm quan trọng của việc phòng ngừa rủi ro lãi suất đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại, và đây cũng là vấn đề kinh tế - tài chính nóng bỏng mà mỗi sinh viên theo học khối ngành kinh tế cần nắm bắt và hiểu rõ, nhóm chúng em, dưới sự hướng dẫn của Giảng viên Trần Thị Ngọc Hạnh đã quyết định chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại ở Việt Nam” để tìm hiểu và nghiên cứu.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng vì trình độ nhận thức của sinh viên còn hạn chế và thời gian thực hiện có giới hạn nên chắc chắn đề tài nghiên cứu vẫn còn những điểm sai sót, kính mong Cô và các bạn góp ý chỉnh sửa để nhóm chúng em hoàn thiện được đề tài nghiên cứu của mình hơn.
Xin chân thành cảm ơn Cô và các bạn!
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Rủi ro
Trong cuộc sống hàng ngày, trong lao động sản xuất kinh doanh luôn luôn hàm chứa những sự cố bất ngờ xảy ra mà chúng ta không thể dự báo trước được. Những tình huống bất ngờ như vậy gọi là rủi ro. Nó là một yếu tố khách quan nên con người không thể loại trừ được hết mà chỉ có thể hạn chế sự xuất hiện của chúng cũng như những thiệt hại do chúng gây ra. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về rủi ro nhưng nhìn chung có thể chia làm 2 quan điểm:
Theo quan điểm truyền thống: rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn, hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người.
Theo quan điểm trung hòa: Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được. Rủi ro vừa mang tính tích cực vừa mang tính tiêu cực: Rủi ro có thể gây ra những tổn thất, mất mát, nguy hiểm nhưng cũng có thể mang đến những cơ hội, thời cơ. Nếu tích cực nghiên cứu, nhận dạng đo lường rủi ro, chúng ta có thể tìm ra được những biện pháp phòng ngừa, hạn chế những tiêu cực và phát huy được những cơ hội tích cực mang lại từ rủi ro.
Nhưng dù nói theo trường phái nào đi chăng nữa thì trong khái niệm rủi nro luôn phải hàm chứa hai đặc tính sau:
- Sự không chắc chắn, yếu tố bất trắc.
- Một khả năng xấu, một yếu tố không mong đợi.
Như vậy, đến đây ta có thể đưa ra khái niệm về rủi ro là: Rủi ro là khả năng xảy ra biến cố bất thường có hậu quả thiệt hại hoặc mang lại kết quả không mong muốn.
1.2. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
1.2.1. Khái niệm
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng là những biến cố không mong đợi mà khi xảy ra sẽ dẫn đến sự tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định. Rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng là hai đại lượng đồng biến với nhau trong một phạm vi nhất định.
1.2.2. Các loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng
- Rủi ro lãi suất
- Rủi ro tín dụng
- Rủi ro tỷ giá (rủi ro hối đoái)
- Rủi ro thanh khoản
- Rủi ro vận hành
1.3. Lãi suất và rủi ro lãi suất
1.3.1. Lãi suất
có thể hiểu là giá cả của tín dụng, là giá mà người cho vay đặt ra để đánh đổi lấy quyền sử dụng vốn cho vay của họ. Hay lãi suất là tỷ lệ giữa mức phí chúng ta phải trả để nhận được khoản vay trên giá trị khoản vay.
Có nhiều loại lãi suất khác nhau nhưng trong phạm vi bài nghiên cứu chỉ đề cập đến hai loại lãi suất đó là lãi suất huy động và lãi suất cho vay.
- Lãi suất huy động: đây là lãi suất được áp dụng để tính lãi tiền gửi cho khách hàng. Đây là cái giá cho việc huy động vốn từ người gửi tiền. Lãi suất này cao hay thấp phụ thuộc vào thời hạn gửi tiền, khối lượng tiền gửi cũng như những chính sách của Nhà nước.
- Lãi suất cho vay: là mức lãi suất được áp dụng để tính lãi tiền vay mà khách hàng phải trả cho Ngân hàng khi đi vay vốn. Lãi suất cho vay cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: thời hạn vay, đối tượng khách hàng, mục đích vay vốn, khối lượng tiền vay, mức độ rủi ro, quy định của Nhà nước…
Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động chính là nguồn thu nhập chính của các Ngân hàng, đặc biệt là các Ngân hàng ở Việt Nam.
1.3.2. Rủi ro lãi suất
1.3.2.1. Khái niệm
Ngân hàng là là một trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu và thường xuyên của nó là huy động vốn từ các tầng lớp dân cư và các tổ chức khác, sau đó sử dụng nguồn vốn huy động được để cấp tín dụng thu lợi nhuận. Trên nguyên tắc cơ bản của tín dụng là có vay có trả (bao gồm cả gốc và lãi) đúng hạn, Ngân hàng phải trả lãi tiền gửi cho khách hàng gửi tiền và tiến hành thu nợ lãi từ khách hàng vay vốn. Chênh lệch giữa lãi cho vay và lãi tiền gửi chính là nguồn thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng. Lãi suất - giá cả của việc sử dụng vốn, nó cũng giống như giá cả của bao loại hàng hóa khác trên thị trường, luôn luôn biến động, lúc tăng lúc giảm phụ thuộc vào cung cầu trên thị trường. Sự biến động này có thể gia tăng lợi nhuận nhưng cũng có thể gây ra những tổn thất cho Ngân hàng.
Như vậy đến đây ta có thể rút ra kết luận về rủi ro lãi suất như sau: Rủi ro lãi suất là loại rủi ro xuất hiện khi có sự thay đổi của lãi suất thị trường hoặc những yếu tố có liên quan đến lãi suất dẫn đên nguy cơ biến động thu nhập và giá trị dòng của Ngân hàng.
1.3.2.2. Các nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất
* Sự không phù hợp về kỳ hạn giữa tài sản (tài sản có) và nguồn vốn (tài sản nợ): sự không phù hợp này được thể hiện qua chỉ số khe hở lãi suất.
Khe hở lãi suất (R)= Tài sản nhạy cảm lãi suất – Nguồn nhạy cảm lãi suất
Trong đó:
- Tài sản nhạy cảm lãi suất là những TSC sẽ được định giá lại khi thay đổi lãi suất bao gồm: các khoản cho vay ngắn hạn, sắp đến hạn, các khoản cho vay và chứng khoán có lãi suất thả nổi…
- Nguồn nhạy cảm lãi suất là những khoản vốn mà lãi suất được điều chỉnh theo điều kiện thị trường như: các loại tiền gửi ngắn hạn hoặc có lãi suất thả nổi…
Như vậy sẽ có 3 trường hợp xảy ra đối với giá trị của R:
- R < 0: khe hở lãi suất âm. Khi lãi suất trên thị trường giảm thì chênh lệch lãi suất sẽ tăng lên làm gia tăng lợi nhuận cho Ngân hàng. Ngược lại, nếu lãi suất trên thị trường tăng lên, rủi ro lãi suất sẽ xuất hiện làm giảm lợi nhuận.
- R = 0: khe hở cân bằng. Khi đó lãi suất trên thị trường tăng hay giảm sẽ không gây ra ảnh hưởng đến thu nhập và lợi nhuận của Ngân hàng.
- R > 0: khe hở lãi suất dương, trường hợp tài sản nhạy cảm lớn hơn nguồn nhạy cảm. Nếu lãi suất trên thị trường tăng sẽ gia tăng lợi nhuận, lãi suất thị trường giảm thì lợi nhuận sẽ giảm theo.
Như vậy, rủi ro lãi suất xuất hiện trong hai trường hợp: thứ nhất R>0 và lãi suất trên thị trường giảm, thứ hai R<0 và lãi suất trên thị trường tăng.
* Sự thay đổi của lãi suất thị trường không đúng như dự kiến của Ngân hàng
- Trong trường hợp Ngân hàng đang duy trì khe hở lãi suất dương, tức Ngân hàng dự đoán rằng mức lãi suất trong tương lai sẽ tăng. Nếu lãi suất của tài sản nhạy cảm và nguồn nhạy cảm cùng tăng với cùng một mức độ thì Ngân hàng sẽ có lợi. Nếu cả hai yếu tố trên cùng giảm như nhau thì chênh lệch lãi suất sẽ giảm xuống, qua đó làm tổn thất đến thu nhập của Ngân hàng.
Trường hợp Ngân hàng đang duy trì khe hở lãi suất âm- tài sản nhạy cảm nhỏ hơn nguồn nhạy cảm. Ngân hàng dự đoán rằng trong tương lai lãi suất sẽ giảm xuống. Nếu lãi suất tài sản và nguồn nhạy cảm tăng với cùng mức độ, chênh lệch lãi suất của ngân hàng sẽ giảm, làm giảm thu nhập từ lãi suất.
Như vậy, sự kết hợp giữa khe hở lãi suất và những thay đổi không mong muốn của lãi suất trên thị trường sẽ gây nên rủi ro lãi suất. Tất cả các Ngân hàng luôn luôn đưa ra những dự báo về lãi suất trong tương lai, nhưng không phải lúc nào nó cũng phản ánh đúng tình hình thực tế.Việc duy trì chênh lệch trạng thái tài sản nhạy cảm và nguồn vốn nhạy cảm cao sẽ đặc biệt nguy hiểm trong trường hợp phán dự báo lãi suất thị trường không chuẩn xác.
* Ngân hàng sử dụng lãi suất cố định trong các hợp đồng
Ngân hàng áp dụng mức lãi suất huy động cố định, lãi suất đi cho vay, đầu tư biến đổi:
Khi mức lãi suất trên thị trường tăng: Lãi tiền gửi là cố định, lãi cho vay trên thị trường tăng lên, chênh lệch giữa lãi cho vay và lãi tiền gửi tăng lên, khi đó thu nhập của Ngân hàng sẽ gia tăng.
Trường hợp lãi suất trên thị trường giảm: Lãi thu từ hoạt động tín dụng và đầu tư giảm trong khi tiền trả lãi huy động vốn không thay đổi làm thu nhập của Ngân hàng giảm, khi đó rủi ro lãi suất xảy ra.
Ngân hàng áp dụng lãi suất huy động thả nổi và lãi suất cho vay cố định, ở đây cũng có hai trường hợp xảy ra:
Nếu lãi suất trên thị trường tăng làm cho số tiền lãi mà Ngân hàng phải trả cho người gửi tiền tăng, chênh lệch lãi suất thu hẹp làm cho lợi nhuận của Ngân hàng giảm. Rủi ro tỷ giá đã xảy ra.
Lãi suất trên thị trường giảm: chênh lệch lãi suất tăng làm tăng thu nhập cho Ngân hàng.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG
2.1. Cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam qua các giai đoạn
- Trước năm 1992: Cơ chế lãi suất thực âm
+ Lãi suất âm và cố định
+ Lãi suất cho vay nhỏ hơn lãi suất tiền gửi
+ Lãi suất cho vay dài hạn nhỏ hơn lãi suất cho vay ngắn hạn
- Giai đoạn 1992- 1995: Cơ chế điều hành khung lãi suất khung, chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương. Quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế.
- Giai đoạn 1996- 2000: Cơ chế lãi suất trần. NHNN đã thay đổi căn bản cơ chế điều hành linh hoạt trần lãi suất, bước đầu thựchiện tự do hóa lãi suất huy động và linh hoạt trần lãi suất cho vay. Mức lãi suất tái cấpvốn được quy định cụ thể và điều chỉnh phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung cầu -vốn trên thị trường
- Giai đoạn 2000- 2002: Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ. Lãi suất do NHTW công bố làm cơ sở cho cáctổ chức ín dụng ấn định lãi suất kinh doanh” cùng với lãi suất tái cấp vốn trong điều hànhCSTT. Theo đó NHNN hàng tháng công bố LSCB (căn cứ vào lãi suất cho vay thươngmại tốt nhất của 1 nhóm các tổ chức tín dụng chiếm phần lớn thị phần tín dụng) và một biên độ thích hợp làm căn cứ cho việc ấn định lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng,trong trường hợp cần thiết, NHNN sẽ công bố điều chỉnh kịp thời
- Giai đoạn 2002- 2008: Cơ chế lãi suất thỏa thuận. Theo QĐ 546 của NHNN ban hành ngày 30/5/2002 (có hiệu lực từ ngày 1/6/2002). Các tổchức tín dụng xác định lãi suất cho vay bằng Đồng Việt Nam trên cơ sở cung cầu vốn thịtrường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng vay. LSCB do NHNN công bố (trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm cáctổ chức tín dụng được lựa chọn theo Quyết định của Thống đốc NHNN) trong từng thờikỳ để làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường.
- Giai đoạn 2008 đến nay: Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Nhằm hạn chế cuộc chay đua lãi suất của các NHTM, NHNN đã quy định trần lãi suất huy động là 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN. Ngày 17/05/2008 ấn định lãi suất kinh bằng VNĐ không được vươt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN ban hành.
Ngày 08/6/2012, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư số 19/2012/TT-NHNN (Thông tư 19) quy định lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài .
Cụ thể, NHNN quy định :
-Lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng là 2%/năm;
- Lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 12 tháng là 9%/năm; riêng Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ấn định mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 12 tháng là 9,5%/năm.
- Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên do TCTD ấn định trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường.
- Trần lãi suất cho vay đối với năm nhóm đối tượng ưu tiên là 13%.
2.2. Rủi ro lãi suất trong huy động vốn
Đây là loại rủi ro khi NHTM huy động quá nhiều tiền gửi có kỳ hạn dài, có lãi suất cao, nhưng sau đó lãi suất thị trường giảm ( do thay điều hành lãi suất của cơ quan chủ quản, do cung – cầu thị trường…)
Từ đầu năm 2012, Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh giảm lãi huy động tổng cộng 4 lần. Lần đầu tiên từ 14%/năm về 13%/năm vào ngày 13/3. Các lần tiếp theo diễn ra vào 11/4 và 28/5 với mức giảm lần lượt về 12%/năm và 11%/năm, và lần gần đây nhất là vào ngày 11/6 với mức giảm về 9%/năm.
Biểu đồ biến động lãi suất huy động vốn 6 tháng đầu năm 2012
Việc hạ trần lãi suất huy động liên tục trong 6 tháng đầu năm của NHNN đã làm cho các NHTM rất khó khăn về việc huy động vốn, đặc biệt là đối với nhóm ngân hàng có tính thanh khoản kém. và trong bối cảnh hiện nay khi giá xăng dầu khôg ngừng tăng làm cho lạm phát kì vọng của người dân vẫn ở mức cao. thì việc huy động vốn ở mức lãi suất thấp sẽ càng trở nên khó khăn hơn.
Hiện nay, nguồn vốn ngắn hạn chiếm trên 90% tỷ trọng vốn của ngân hàng, gây khó khăn cho các NHTM trong việc quản trị nguồn vốn, khó bảo đảm cân đối kỳ hạn. Kỳ hạn huy động vốn bình quân có xu hướng rút ngắn trong khi kỳ hạn cho vay bình quân dài, dẫn đến hiện tượng rủi ro lãi suất và rủi ro kì hạn.
Rủi ro lãi suất cũng xuất hiện đối với một số chi nhánh NHTM có thị trường huy động vốn, trong khi dư nợ thấp họ thường kinh doanh nguồn vốn bằng cách điều vốn đi để hưởng phí điều vốn của hệ thống, khi đã huy động các kì hạn dài từ trên 12 tháng, 18 tháng, 24 tháng, 36 tháng…với lãi suất cố định trả sau. Nhưng phí điều hòa vốn cũng là công cụ điều tiết của từng hệ thống NHTM, vì vậy khi phí sử dụng vốn của toàn hệ thống liên tục hạ để tránh tình trạng ứ đọng vốn, để kích thích đầu tư…thì các chi nhánh NHTM này cũng bị rủi ro nguồn vốn, dẫn đến thua lỗ.
Rủi ro huy động vốn còn do chính sách điều tiết vĩ mô của NHNN, khi tăng dự trữ bắt buộc làm cho NHTM bị tăng chi phí vốn, nếu NHTM không có một cơ cấu tiền gửi hợp lý. Tuy nhiên, mức độ rủi ro của mỗi ngân hàng còn tùy thuộc vào quản trị rủi ro của ngân hàng, vào hình thức kinh doanh vốn trên thị trường của mỗi ngân hàng.
2.3. Rủi ro lãi suất trong cho vay
Đây là loại rủi ro có ảnh hưởng rất lớn và khá thường xuyên vì hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu dựa vào hoạt động cho vay với tỉ lệ thu lãi chiếm tỉ trọng chủ yếu trong thu nhập của các NHTM.
+ Rủi ro lãi suất cho vay xảy ra khi lãi suất thị trường giảm, ngân hàng phải cho vay với mức lãi suất thị trường trong khi đã huy động với lãi suất cao hơn, hơn nữa lãi suất cho vay thường xuyên biến động do áp lực cạnh tranh giữa các NHTM, thậm chí ngay cả giữa các chi nhánh trong cùng hệ thống cũng cạnh tranh nhau để thu hút khách hàng.
+ Rủi ro lãi suất trong hoạt động cho vay còn xảy ra khi NHNN thay đổi lãi suất cơ bản, thay đổi dự trữ bắt buộc để thực thi chính sách tiền tệ, gây ra những hiệu ứng dẫn đến rủi ro lãi suất cho vay mà một số NHTM đang vấp phải trong thời gian qua cũng như trong thời gian hiện nay.
Khi lãi suất cơ bản tăng, lãi suất huy động và cho vay sẽ tăng, nhưng chỉ áp dụng đối với khoản vay mới phát sinh, còn các khoản dư nợ hiện hành của NHTM, nhất là các khoản dư nợ cho vay trung và dài hạn có lãi suất danh nghĩa ghi trên hợp đồng đang ở mức thấp thì rủi ro lãi suất cho vay là điều khó tránh khỏi.
Khi lãi suất cơ bản giảm, các NHTM sẽ thực hiện điều chỉnh giảm lãi suất huy động, giảm lãi suất cho vay, nhưng cũng áp dụng đối với các khoản tiền gửi và tiền vay mới phát sinh, còn các khoản tiền gửi tiền vay hiện hành sẽ được thực hiện theo lãi suất đã ghi trên hợp đồng tín dụng và lãi suất ghi trên sổ tiết kiệm và các chứng chỉ tiền gửi cho đến hết kỳ hạn, do đó khi lãi suất cơ bản giảm, lãi suất huy động giảm, thì không có nghĩa là chi phí huy động vốn của NHTM đã giảm ngay lập tức. Nhưng đối với các khoản dư nợ phát sinh trước đây với lãi suất trên hợp đồng tín dụng khá cao thì chưa chắc NHTM đã thu được lãi theo đúng lãi suất đã ghi trên hợp đồng tín dụng, do khách hàng thấy các khoản vay mới có lãi suất rất thấp, sẽ thỏa thuận với ngân hàng hạ lãi suất các khoản dư nợ hiện hành, hoặc tìm cách trả nợ trước hạn để đảo lãi suất vay cao sang lãi suất vay thấp, gây rủi ro lãi suất làm giảm thu nhập của NHTM.
Lãi suất cho vay là một trong những vấn đề nóng của năm 2011. Trong bối cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn, việc lãi suất cho vay trong năm 2010 có thời điểm lên tới 22-25%/năm đã tác động không thuận lợi đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do vậy, việc giảm lãi suất cho vay theo một lộ trình thích hợp là nhiệm vụ cấp thiết của NHNN.
Trong quý I, ngay sau trần lãi suất huy động giảm xuống 13%/năm, lãi suất cho vay cả ngắn hạn lẫn cho vay trung, dài hạn trên thị trường đã được điều chỉnh giảm từ 1 đến 1,5%/năm so với mặt bằng chung năm 2011, và hiện đang ở mức bình quân 16,81%/năm đối với các khoản vay ngắn hạn và 18,7%/năm đối với các khoản vay trung, dài hạn.
Theo lĩnh vực kinh doanh, lãi suất cho vay phổ biến đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu ở mức 14,5-16%/năm, thấp nhất 13,5%/năm; cho vay sản xuất - kinh doanh khác 16,5-20%/năm, thấp nhất 15%/năm, cho vay lĩnh vực phi sản xuất 21-25%/năm.
Nhóm NHTM
Đối tượng (%/năm)
Ngắn hạn (%/năm)
Trung, dài hạn (%/năm)
NHTM
Nhà nước
VND
- Sản xuất kinh doanh thông thường
- Nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu
- Phổ biến: 16,5-17
- Thấp nhất: 15
- Phổ biến: 14,5-16
- Thấp nhất: 13,5
18-19
17-18
USD
6,0-6,5
6,5-7,5
NHTM
cổ phần
VND
- Sản xuất kinh doanh thông thường
- Nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu
- Phổ biến: 18-19
- Thấp nhất: 17
- Phổ biến: 17-19
- Thấp nhất: 16
19-20
18-20
USD
6,0-7,5
7,5-9,0
Bảng lãi suất cho vay cuối tháng 3/2012 phân theo lĩnh vực kinh doanh
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA RỦI RO LÃI SUẤT
Trên thực tế các nhà quản trị không thể luôn dự báo một cách chính xác sự biến động của lãi suất trên thị trường, vì lãi suất phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố dù cho có đủ tất cả các loại máy móc, thiết bị hiện đại thì họ cũng không tính toán hết được sự tác động của các yếu tố đó. Do vậy, các Ngân hàng phải chấp nhận sống chung với rủi ro và phải tìm ra cho mình những biện pháp để đối phó với rủi ro lãi suất.
3.1. Giải pháp tránh rủi ro lãi suất trong hoạt động huy động vốn của NHTM
Để hạn chế rủi ro trong việc huy động vốn, NHTM cần tìm kiếm các nguồn vốn rẻ có mức lãi suất thấp của các tổ chức kinh tế, cá nhân, các chương trình dự án, có chiến lược khách hàng đối với các khách hàng truyền thống, khách hàng có quan hệ tiền gửi tiền vay lớn, xác định các địa bàn kinh doanh có cạnh tranh. Phát triển các dịch vụ tiện ích, các hình thức thanh toán hiện đại để thu hút khách hàng mở tài khoản, thanh toán không dùng tiền mặt, nâng cao chất lượng hoạt động và tăng cường năng lực cạnh tranh.
Đa dạng các hình thức huy động vốn, có chính sách lãi suất linh hoạt, đa dạng về hình thức trả lãi, có thỏa thuận cụ thể trong trường hợp rút vốn trước hạn nhằm thu hút tối đa mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Cơ cấu nguồn vốn theo từng thời hạn, từng lãi suất hợp lý, phù hợp với cơ cấu đầu tư, đảm bảo khả năng thanh khoản và đảm bảo chi phí hợp lý tạo điều kiện để tăng cường năng lực tài chính. Ví dụ, tại thời điểm lãi suất thị trường khá cao và bất ổn như những tháng đầu năm 2008 thì không nên huy động các khoản tiền có kì hạn dài, vì khi lãi suất thị trường hạ thấp thì NHTM sẽ khó thay đổi cơ cấu và sẽ gặp rủi ro huy động vốn do chi phí đầu vào. Ngược lại, tại thời điểm lãi suất thị trường xuống thấp như hiện nay thì các NHTM nên đưa ra các sản phẩm huy động hấp dẫn, với chiến lược quảng bá khuyến mãi để tăng cường huy động vốn với chi phí đầu vào thấp, có kì hạn dài, nhằm mở rộng thị phần thị trường và có lợi thế về tài chính trong tương lai.
Các NHTM cần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh trên thị trường liên ngân hàng nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản cũng như hạn chế tình trạng ứ đọng vốn, sử dụng vốn tạm thời nhàn rỗi một cách hợp lý. Kinh doanh vốn trên thị trường liên ngân hàng cần được ngân hàng quan tâm vì tính linh hoạt và an toàn, có khả năng chuyển đổi nhanh đảm bảo khả năng thanh khoản khi thiếu vốn và điều tiết khi thừa vốn, đảm bảo cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn một cách tối ưu
3.2. Giải pháp tránh rủi ro lãi suất trong hoạt động cho vay của NHTM
Để giảm rủi ro lãi suất trong hoạt động cho vay, các NHTM cần có các quy định thỏa thuận ràng buộc cụ thể chi tiết trong hợp đồng tín dụng áp dụng lãi suất cho vay, cam kết về thời han nợ, kỳ hạn nợ, về phương thức thu lãi, các khoản phí rút vốn, phí trả nợ trước hạn… để phòng tránh rủi ro trong các trường hợp cụ thể.Đối với các khoản vay trung và dài hạn các NHTM nên thỏa thuận áp dụng lãi suất linh hoạt, có điều chỉnh phù hợp với lãi suất thị trường theo từng thời kỳ hạn cụ thể hoặc trong những trường hợp lãi suất biến động bất thường. Trong thực tế, nhiều NHTM đã và đang áp dụng điều khoản này, vận động khách hàng chia sẻ rủi ro thành công trong năm 2008 khi lãi suất biến động mạnh.
Để phòng ngừa rủi ro, hài hòa lợi ích của cả ngân hàng và khách hàng khi lãi suất thị trường giảm, các NHTM cần có ràng buộc mang tính pháp lý trong hợp đồng tín dụng về thời hạn rút vốn, nếu kí hợp đồng mà không rút vốn cũng phải trả phí. Về thời hạn trả nợ, cần có quy định trong hợp đồng tín dụng về phí trả nợ trước hạn đối với bên vay theo nguyên tắc không vượt quá số lãi phát sinh trong trường hợp trả nợ đúng hạn theo hợp đồng đã ký.
- Nguồn thu về lãi suất cho vay là nguồn thu nhập nuôi sống hoạt động của Ngân hàng và theo bản năng, Ngân hàng nào cũng muốn cho vay lãi suất cao. Tuy nhiên, xét về bản chất kinh tế thì lãi suất tiền vay có lại nguồn gốc từ lợi nhuận hoạt động của DN, do đó, các NHTM chỉ có thể “sống” được khi hoạt động SXKD của DN có hiệu quả và phát triển. Vì vậy, khi thực hiện chính sách lãi suất, các NHTM nên:
- Phân tích và đánh giá chính xác mức sinh lời của DN để từ đó xác định lãi suất cho vay hợp lý, đảm bảo đôi bên cùng có lợi.
- Nâng cao khả năng dự báo và thực hiện tốt vai trò tư vấn về lãi suất cho vay đối với khách hàng để giúp DN phòng ngừa và hạn chế rủi ro cho chính mình và cho cả Ngân hàng.
- Cung cấp các sản phẩm phái sinh làm công cụ phòng ngừa rủi ro lãi suất cho các DN.
- Thực hiện thường xuyên và kịp thời các chính sách ưu đãi, chia sẻ khó khăn về lãi suất với các khách hàng gặp khó khăn trong khả năng của mình, qua đó hỗ trợ khách hàng phát triển bền vững và gắn bó với Ngân hàng.
3.3. Giải pháp chung
3.3.1. Áp dụng hợp đồng hoán đổi lãi suất
Hoán đổi lãi suất là một hợp đồng giữa hai bên để trao đổi số lãi phải trả tính trên một số tiền nhất định trong một khoảng thời gian nhất định, trong đó lãi suất một bên trả là cố định trong khi bên kia trả lãi suất thả nổi theo thỏa thuận trong suất thời hạn hợp đồng.
Mục đích hoán đổi lãi suất: Các ngân hàng và doanh nghiệp thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro do biến động của lãi suất thị trường.
3.3.2. Có chiến lược quản lý khe hở nhạy cảm lãi suất hợp lý
Chiến lược này yêu cầu các nhà quản lý Ngân hàng phải tiến hành phân tích kỳ hạn, định giá cơ hội gắn liền với những tài sản sinh lợi của Ngân hàng, những khoản tiền gửi cũng như vốn vay trên thị trường. Nếu nhà quản lý thấy rằng mức độ rủi ro của Ngân hàng quá lớn, tức khe hở nhạy cảm lãi suất cao, thì họ sẽ thực hiện một số điều chỉnh sao cho giá trị tài sản nhạy cảm lãi suất phù hợp với giá trị tiền gửi và vốn vay nhạy cảm lãi suất, qua đó làm giảm rủi ro khi mà lãi suất trên thị trường thay đổi theo chiều hướng không có lợi cho Ngân hàng.
Nâng cao khả năng dự báo và thực hiện tốt vai trò tư vấn về lãi suất cho vay đối với khách hàng để giúp DN phòng ngừa và hạn chế rủi ro cho chính mình và cho cả Ngân hàng.
3.3.3 Vận dụng các kỹ thuật bảo hiểm lãi suất như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn
3.3.3.1. Hợp đồng kỳ hạn lãi suất (FRA)
Là một hợp đồng giao dịch trên thị trường liên ngân hàng để mua hoặc bán các khoản hoàn trả lãi suất theo một mức vốn gốc danh nghĩa.
• Người mua FRA nhận được quyền khóa mức lãi suất cố định trong một thời hạn mong muốn bắt đầu từ một thời điểm trong tương lai.
• Hợp đồng chỉ ra rằng người bán FRA sẽ phải trả cho người mua mức lãi suất gia tăng theo mức vốn gốc danh nghĩa nếu lãi suất tăng cao hơn lãi suất thỏa thuận và ngược lại
3.3.3.2. Áp dụng phương thức giao dịch quyền chọn
3.3.3.2.1. Giao dịch Mua quyền chọn mua lãi suất (giao dịch Caps)
Khái niệm: Là nghiệp vụ trong đó bên mua thanh toán một khoản phí quyền chọn và được nhận quyền căn cứ vào một kỳ lãi nhất định , yêu cầu bên bán thanh toán một khoản bù trừ ở mức chênh lệch giữa lãi suất tối đa đã thoả thuận và lãi suất so sánh ( Là lãi suất hiện hành tại ngày giá trị của hợp đồng- Là ngày mà NH mua Caps có quyền yêu cầu NH bán Caps thanh toán.).Nếu lãi suất này cao hơn lãi suất tối đa đã thoả thuận ( Là giá trị mà NH mua Caps muốn phòng ngừa rủi ro lãi suất).
Mục đích: Phòng ngừa rủi rỏ lãi suất tăng, khi giá trị các khoản mục bên tài sản nhạy cảm với lãi suât nhỏ hơn giá trị các khoản mục bên nguồn huy động nhạy cảm với lãi suất hay thời hạn của khoản mục thuộc bên tài sản lớn hơn thời hạn các khoản mục bên nguồn vốn.
3.3.3.2.2. Hợp đồng mua quyền bán lãi suất (giao dịch floors)
Khái niệm: Là nghiệp vụ trong đó bên mua thanh toán một khoản phí lựa chọn và được nhận quyền cứ vào cuối một kỳ lãi nhất định, yêu cầu bên bán thanh toán một khoản bù trừ ở mức chênh lệch giữa lãi suất tối thiểu đã thoả thuận và Lãi suất so sánh, nếu lãi suát so sánh này thấp hơn lãi suất tối thiểu thoả thuận.
Mục đích: Ngược lại với giao dịch Caps, giao dịch này được sử dụng để phòng ngừa rủi rỏ lãi suất giảm.Khi giá trị các khoản mục thuộc bên tài sản cảm với lãi suất lớn hơn giá trị các khoản mục thuộc bên nguồn vốn, khi thời hạn của tài sản có nhỏ hơn thời hạn của tài sản nợ.
3.3.3.2.3. Hợp đồng mua và bán lãi suất (Giao dịch Collar)
Khái niệm: Là hợp đồng mà NH thực hiện đồng thời cả hai giao dịch mua Caps và bán Floors
Mục đích: Phòng ngừa rủi ro lãi suất tăng , thu được phí từ hợp đồng Floors để tài trợ cho chi phí hợp đồng Caps
3.3.4. Hoàn thiện các văn bản pháp lý về việc đo lường và quản lý rủi ro lãi suất tại các NHTM
Cho đến nay, trong các văn bản pháp luật về hoạt động Ngân hàng vẫn chưa có văn bản nào quy định về việc quản lý, đo lường rủi ro lãi suất tại các NHTM, kể cả trong Quy chế giám sát của Thanh tra NHNN cũng chưa có quy định nội dung giám sát này. Một khi có quan quản lý chưa có yêu cầu cụ thể thì các NHTM chưa thể nhận thức đầy đủ về sự cần thiết cũng như cách thức thực hiện việc quản lý rủi ro lãi suất và đây cũng chính là một điểm hạn chế cho việc lượng hóa rủi ro lãi suất tại các NHTM. Các văn bản pháp lý về nghiệp vụ phái sinh cũng chưa được hoàn thiện. Hiện tại, NHNN mới chỉ ban hành các văn bản quy định về nghiệp vụ phái sinh ngoại tệ như giao dịch kỳ hạn, giao dịch hoán đổi, đối với nghiệp vụ phái sinh lãi suất cũng mới chỉ có giao dịch hoán đổi lãi suất (Quyết đinh 62/2006/QĐ-NHNN) chưa có văn bản pháp lý nào được ban hành ddeer hướng dẫn các NHTM thực hiện các nghiệp vụ phái sinh về lãi suất khác như kỳ hạn gửi tiền, kỳ hạn lãi suất, các nghiệp vụ quyền chọn…
3.3.5. Phát huy vai trò của Hiệp hội Ngân hàng trong việc ổn đinh lãi suất trên thị trường
Hiệp hội liên ngân hàng thực hiện chính sách lãi suất ổn định, đồng nhất, để vừa đảm bảo lợi ích kinh doanh của Ngân hàng vừa tránh những xáo trộn về mặt bằng lãi suất gây ảnh hưởng đến nền kinh tế.
LỜI CẢM ƠN
Chúng em xin chân thành cảm ơn cô Trần Thị Ngọc Hạnh - người đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để chúng em có thể hoàn thành bài tiểu luận này.
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng nhưng chắc chắn bài tiểu luận của chúng em không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự góp ý và sửa chữa của cô giáo và tất cả các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn cô!
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_hoan_chinh_3797.doc