Những đối tượng mà ngành thuế đặc biệt quan tâm để thanh tra, kiểm tra chống
thất thu ngân sách trong năm 2011 là các DN có dấu hiệu chuyển giá của các công
ty đa quốc gia; các DN, cơ sở kinh doanh lỗ liên tục (từ 2 năm trở lên); DN lỗ
nhưng vẫn mở rộng sản xuất kinh doanh; DN có số lỗ vượt vốn chủ sở hữu, DN có
số hoàn thuế GTGT lớn, DN hưởng ưu đãi thuế.
Đối với các DN có vốn đầu tư lớn trên địa bàn, Tổng cục Thuế đã chỉ đạo cục thuế
các tỉnh báo cáo UBND tỉnh về kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế để UBND tỉnh
chỉ đạo các đơn vị có liên quan phối hợp thực hiện. Tổ chức kiểm tra thu kịp thời
đối với những mặt hàng kinh doanh phát sinh lợi nhuận lớn do thu được từ việc sử
dụng một số yếu tố đầu vào giá hiện còn thấp hơn giá thị trường như: thép, xi
măng, kinh doanh dịch vụ,.;
Thu hồi kịp thời số tiền phát hiện qua thanh tra, kiểm tra vào ngân sách, phấn đấu
số thuế truy thu thực nộp vào ngân sách trong kỳ qua thanh tra, kiểm tra thuế
(trong phạm vi 90 ngày) đạt tối thiểu 80% số thuế phát hiện tăng thêm và xử lý vi
phạm pháp luật thuế; Thực hiện thu kịp thời số tiền thuế truy thu theo kết luận của
Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ.
23 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2656 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thuế và lạm phát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 1
Tiểu luận
THUẾ VÀ LẠM PHÁT
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 2
I. Cơ sở lý thuyết về thuế và lạm phát
1. Tiếp cận vấn đề bản chất của thuế từ các học thuyết
1.1 Tiếp cận vấn đề bản chất của thuế từ các học thuyết thuế cổ điển
Cho đến nay, dù đã trải qua diễn trình lịch sử khá lâu dài nhưng vấn đề bản chất
của thuế vẫn còn là đề tài gây nhiều tranh luận. Điều này đã và đang có ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình thiết kế, xây dựng và thực thi các luật thuế ở hầu hết các
quốc gia, đặc biệt là ở những quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
Theo quan niệm cổ điển về thuế, các học giả cổ điển cho rằng bản chất của thuế
được thể hiện rõ nhất ở bốn điểm sau:
a) Thuế là khoản trích nộp bằng tiền của tổ chức, cá nhân cho nhà nước;
b) Thuế là khoản đóng góp bắt buộc dựa trên quyền lực nhà nước;
c) Thuế là khoản thu không có hoàn trả;
d) Thuế là khoản thu không có đối khoản trực tiếp.
Đây chính là bốn đặc trưng cơ bản của thuế theo quan niệm cổ điển và các đặc
điểm này vẫn tiếp tục được thừa nhận trong xã hội ngày nay, dù rằng quan niệm
này hiện tại đã có nhiều thay đổi. Có thể nhận thấy điểm hạn chế lớn nhất của
quan niệm cổ điển về thuế chính là ở chỗ nó đã tuyệt đối hoá vai trò của quyền lực
nhà nước trong việc xác lập và hành thu thuế, trên cơ sở nhấn mạnh tính cưỡng
chế và bắt buộc, tính không hoàn trả của thuế. Ngược lại, quan điểm này coi nhẹ
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 3
vai trò và địa vị kinh tế, thành phần xã hội của người nộp thuế trong quan hệ nộp
thuế với nhà nước.
Trường phái lí luận về thuế ra đời sớm nhất trong lịch sử học thuyết thuế, có lẽ là
học thuyết không tưởng về thuế. Học thuyết này được xây dựng dựa trên ý tưởng
cho rằng sự phức tạp hoá chính sách thuế với nhiều loại thuế khác nhau là không
cần thiết và cần hướng tới xây dựng một loại thuế đơn nhất hay duy nhất, vừa có
khả năng đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, vừa có thể thỏa mãn nhu
cầu, đòi hỏi của hầu hết dân chúng là người đóng thuế. Các học giả theo quan
điểm này cố gắng tìm cách xây dựng học thuyết thật sự thuyết phục về thuế đơn
nhất, tuy nhiên vẫn không tránh khỏi có nhiều quan điểm khác nhau về các loại
thuế đơn nhất. Nói chung, tinh thần cơ bản của học thuyết về thuế đơn nhất là tìm
cách đơn giản hoá đến mức tối đa các loại thuế trong hệ thống thuế quốc gia nhằm
làm giảm gánh nặng thuế khoá cho dân chúng là người đóng thuế. Vào thời kì đó,
học thuyết này được đa số dân chúng ủng hộ vì họ chính là những người đóng thuế
nhiều nhất và phải chia sẻ gánh nặng chi tiêu với quốc gia nhiều nhất.Cùng chung
ý tưởng với học thuyết không tưởng về thuế nhưng đi xa hơn, các học giả theo
trường phái bài thuế đã cố gắng xây dựng trong lòng dân chúng hình ảnh về xã hội
không có thuế. Đây chính là tư tưởng chủ yếu của học thuyết bài thuế hay chống
thuế mà nền tảng lí luận của học thuyết này chính là quan điểm về kinh tế tự do
bảo thủ. Trong thời gian khá dài, học thuyết bài thuế đã trở thành công cụ sắc bén
để các đảng phái chính trị ở các nước châu Âu sử dụng nhằm lôi kéo sự ủng hộ
của dân chúng đối với các đường lối chính trị của đảng mình. Hầu hết các học giả
theo trường phái bài thuế đều tìm cách khuếch trương cho học thuyết của mình
bằng cách làm lu mờ hoặc phủ nhận vai trò của chính phủ và nhà nước trong các
hoạt động kinh tế và hoạt động xã hội. Nội dung cơ bản của quan điểm này là nếu
nhà nước tỏ ra bất lực trước các đòi hỏi của thị trường thì mọi vấn đề khó khăn của
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 4
thị trường phải để cho thị trường tự giải quyết và vì thế nhà nước không cần thiết
phải thu nhiều thuế nữa.
Tuy vậy, cuối cùng thì những nỗ lực trong việc quảng bá vai trò của học thuyết bài
thuế đã không đạt được sự thành công như mong muốn, bởi lẽ ở hầu hết các nước
trên thế giới, vai trò không thể phủ nhận của thuế đã được hiến pháp ghi nhận như
là nguyên tắc hiến định.
1.2 Tiếp cận vấn đề bản chất của thuế từ các học thuyết thuế hiện đại
Theo quan niệm hiện đại về thuế, vấn đề bản chất của thuế lại nằm ở các mục tiêu
kinh tế và xã hội của thuế cũng như mối liên hệ đến địa hạt chính trị của thuế. Tuy
không phủ nhận hoàn toàn các đặc trưng cơ bản của thuế theo quan niệm cổ điển
nhưng các học giả hiện đại lại tìm cách chỉ ra những điểm hạn chế của quan niệm
cổ điển về thuế, trên cơ sở đó cho rằng cần nhận thức lại về bản chất mối quan hệ
giữa nhà nước với công dân (với tư cách là người nộp thuế) trong lĩnh vực thuế vụ,
dựa trên nền tảng ý tưởng về một xã hội công bằng và dân chủ: xã hội dân sự.
Kế thừa những nhân tố tinh hoa của học thuyết cổ điển về thuế, các học giả của
học thuyết thuế hiện đại đã và đang cố gắng đi tìm những chân lí mới cho sự tồn
tại và phát triển của thuế trong xã hội đương đại. Trái với những gì mà các học
thuyết cổ điển chủ trương theo hướng phê phán chế độ thuế, các học thuyết hiện
đại về thuế lại tìm cách khẳng định vai trò không thể phủ nhận của thuế trong địa
hạt kinh tế và địa hạt xã hội. Những ví dụ điển hình cho các học thuyết thuế hiện
đại là học thuyết về thuế-trao đổi và sau đó là học thuyết về thuế-đoàn kết.
Học thuyết về thuế-trao đổi bắt đầu xuất hiện vào cuối thế kỉ XVII và đã trở nên
phổ biến ở châu Âu vào nửa đầu thế kỉ XVIII và gần như suốt thế kỉ XIX.
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 5
Tư tưởng cốt lõi của học thuyết này được xây dựng dựa trên chủ nghĩa tự do, coi
thuế là cái giá mà người nộp thuế phải trả để đổi lấy các dịch vụ và hàng hoá công
cộng do nhà nước cung ứng. Từ đó, các học giả của trường phái này cho rằng luôn
tồn tại sự “thỏa thuận ngầm” hay “hợp đồng thuế” giữa nhà nước (người thu thuế)
với công dân (người đóng thuế) về số tiền thuế mà họ phải nộp cho nhà nước để
nhận lấy những gì được coi là dịch vụ và hàng hoá công cộng mà bản thân họ
không thể tự tạo ra được. Các đại biểu nổi tiếng cho học thuyết thuế-trao đổi vào
thế kỉ XVIII, XIX là John Locke, Jean – Jacques Rousseau, Adam Smith và
Montesquieu, với tư tưởng về “hợp đồng thuế” hay “khế ước thuế”. Trên thực tế,
học thuyết này đã từng có những ảnh hưởng rất quan trọng đến chính sách thuế
của các nước châu Âu và kể cả Hoa Kỳ trong nhiều năm và điều này đã kích thích
sự phát triển của nền dân chủ xã hội trong quá trình xây dựng và thực thi chính
sách thuế. Tuy nhiên, học thuyết thuế-trao đổi cũng có một số hạn chế nhất định,
chẳng hạn như việc không thể lí giải được vì sao có những người được hưởng thụ
các dịch vụ và hàng hoá công cộng ít hơn nhưng lại phải nộp thuế nhiều hơn và
ngược lại; hay việc người nộp thuế hầu như không có khả năng lựa chọn các hàng
hoá, dịch vụ công cộng mà mình sẽ “nhận” được cũng như “giá cả” của các hàng
hoá, dịch vụ đó, bởi lẽ đây là những vấn đề hầu như hoàn toàn do nhà nước quyết
định. Đôi khi, rất khó hình dung được giá trị thực tế của các dịch vụ công cộng mà
nhà nước sẽ cung ứng cho người nộp thuế, chẳng hạn như vấn đề quốc phòng và
an ninh, vấn đề văn hoá hay các hoạt động về tư pháp. Vì vậy mà việc xác định
nghĩa vụ thuế của những người nộp thuế cũng trở nên khó khăn hơn.
Do bắt nguồn từ chủ nghĩa tự do nên những người đề xướng học thuyết thuế-trao
đổi chủ trương mọi khoản thuế do nhà nước đặt ra để yêu cầu dân chúng đóng góp
phải dựa trên căn bản sự tự nguyện ưng thuận của dân chúng đồng thời phải tương
xứng với những gì được gọi là hàng hoá và dịch vụ công cộng mà người nộp thuế
sẽ được hưởng. Tư tưởng này có ưu điểm lớn là đảm bảo cho người nộp thuế có
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 6
khả năng kiểm soát được các khoản thuế mà nhà nước sẽ thu đối với mình, dựa
trên nguyên tắc đánh thuế phù hợp với khả năng đóng góp của người nộp thuế.
Mặt khác, học thuyết này cũng đòi hỏi nhà nước phải sử dụng số tiền thuế do dân
chúng đóng góp một cách thực tế, hiệu quả, không lãng phí và có lợi cho dân. Nói
cách khác, tư tưởng chủ đạo của học thuyết thuế-trao đổi chính là hướng tới sự
công bằng và bình đẳng về lợi ích giữa nhà nước (người thu thuế) với công dân
(người nộp thuế), dựa trên nguyên tắc trao đổi lợi ích ngang bằng.
Bên cạnh học thuyết thuế-trao đổi, còn tồn tại học thuyết khác về thuế hiện đại với
tên gọi học thuyết thuế-đoàn kết. Học thuyết này phát triển rất mạnh vào cuối thế
kỉ XIX, dựa trên tư tưởng về chủ nghĩa đoàn kết cộng đồng. Theo nghiên cứu của
một số học giả phương Tây, sở dĩ có sự xuất hiện của học thuyết thuế-đoàn kết là
bởi vì chính việc chủ trương coi quan hệ thuế có tính chất “sòng phẳng” như quan
hệ thị trường (theo tinh thần của học thuyết thuế-trao đổi) đã dẫn đến những hậu
quả về mặt chính trị và xã hội mà nhà nước không thể giải quyết được, chẳng hạn
như vấn đề suy giảm quyền lực nhà nước trong thuế, vấn đề giải quyết việc làm và
trợ cấp xã hội cho những người không có khả năng tài chính để đóng thuế, vấn đề
thất thu thuế và việc cưỡng chế thi hành nghĩa vụ thuế… Khác với chủ đề tư tưởng
của học thuyết thuế-trao đổi là dựa trên sự trao đổi ngang giá về lợi ích giữa nhà
nước với người nộp thuế, tư tưởng cốt lõi của học thuyết về thuế-đoàn kết lại đòi
hỏi người nộp thuế phải chấp nhận hi sinh một phần lợi ích của mình cho nhà nước
vì lợi ích chung của cộng đồng, bằng cách nộp thuế cho nhà nước theo sự ấn định
thuế của nhà nước. Mặt khác, học thuyết này cũng đòi hỏi nhà nước phải ấn định
nghĩa vụ thuế của người dân sao cho phù hợp với khả năng tài chính của họ và
không đẩy họ vào tình trạng bần cùng sau khi nộp thuế. Điều đó cũng có nghĩa là
nghĩa vụ thuế sẽ luỹ tiến theo cùng với mức độ gia tăng của các khoản thu nhập
của người nộp thuế. Học thuyết này có xu hướng “cào bằng” nghĩa vụ của những
người đóng thuế nếu khả năng nộp thuế của những người đó là giống nhau. Nói
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 7
cách khác, học thuyết về thuế-đoàn kết hầu như không quan tâm đến vấn đề nhu
cầu của người nộp thuế (nghĩa là không cần biết người nộp thuế mong muốn nhận
được lợi ích gì sau khi nộp thuế) mà chỉ quan tâm đến khả năng đóng thuế của họ
như thế nào. Chính điều này khiến cho vai trò của quyền lực nhà nước trong thuế
trở nên mạnh mẽ hơn và do đó khả năng cưỡng chế thi hành nghĩa vụ thuế cũng tốt
hơn. Mặt khác, học thuyết thuế-đoàn kết cũng góp phần nâng cao ý thức và trách
nhiệm xã hội của mỗi người dân đối với nhà nước, với cộng đồng thông qua việc
hoàn thành nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật. Trong chừng mực nào đó,
học thuyết thuế-đoàn kết dường như phù hợp hơn với bối cảnh của nền kinh tế
hiện đại, khi mà sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội ngày càng trở nên sâu sắc do
sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, cùng với yêu cầu giải quyết nhanh
chóng, triệt để các hậu quả xấu về phương diện xã hội của các nền kinh tế mở.
1.3 Những ảnh hưởng của các học thuyết thuế cổ điển và hiện đại đối với
quá trình phát triển hệ thống thuế ở Việt Nam
Có thể khẳng định rằng sự ra đời của các học thuyết cổ điển cũng như hiện đại về
thuế trên thực tế đã có những tác động quan trọng đến quá trình hình thành, phát
triển và vận hành của các hệ thống thuế trên thế giới.
Đối với Việt Nam, tất cả những gì chúng ta đã chứng kiến về hệ thống thuế trong
thời kì nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và những cải cách thuế gần đây khi
chuyển đổi nền kinh tế theo hướng thị trường đã cho thấy những bằng chứng về sự
ảnh hưởng của các học thuyết thuế cổ điển cũng như hiện đại đến quá trình hình
thành và phát triển hệ thống thuế ở Việt Nam.
1.3.1 Thuế
1.3.2 Khái niệm thuế
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 8
Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ
phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do
Nhà nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối
tượng nộp thuế.
1.3.3 Vai trò của thuế
- Tạo nguồn thu của ngân sách nhà nước để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính
phủ
- Góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế: Cơ chế tác động này thể hiện chủ yếu
thông qua thuế có thể điều tiết giá cả, thu nhập của các doanh nghiệp và các cá
nhân
1.3.4 Phân loại thuế
1.1.3.1. Căn cứ vào tính chất của nguồn tài chính động viên vào ngân
sách Nhà nước, thuế được phân làm 2 loại: thuế trực thu và thuế gián thu.
- Thuế gián thu là loại thuế mà Nhà nước sử dụng nhằm động viên một phần
thu nhập của người tiêu dùng hàng hóa, sử dụng dịch vụ thông qua việc thu thuế
đối với người sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tính chất gián thu thể hiện
ở chổ người nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất với nhau. Thuế gián thu
là một bộ phận cấu thành trong giá cả hàng hoá, dịch vụ do chủ thể hoạt động sản
xuất, kinh doanh nộp cho Nhà nước nhưng người tiêu dùng lại là người phải chịu
thuế. Ở nước ta thuộc loại thuế này bao gồm: Thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt...
- Thuế trực thu là loại thuế mà Nhà nước thu trực tiếp vào phần thu nhập của
các pháp nhân hoặc thể nhân. Tính chất trực thu thể hiện ở chổ người nộp thuế
theo quy định của pháp luật đồng thời là người chịu thuế. Thuế trực thu trực tiếp
động viên, điều tiết thu nhập của người chịu thuế. Ở nước ta thuộc loại thuế này
gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao,
thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp...
1.1.3.2. Căn cứ vào đối tượng đánh thuế.
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 9
Theo cách phân loại này thuế được chia thành:
- Thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ như thuế giá trị gia
tăng.
- Thuế đánh vào sản phẩm hàng hóa như thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc
biệt...
- Thuế đánh vào thu nhập như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối
với người có thu nhập cao.
- Thuế đánh vào tài sản như thuế nhà đất.
- Thuế đánh vào việc khai thác hoặc sử dụng một số tài sản quốc gia như thuế
tài nguyên, thuế sử dụng đất, sử dụng vốn của ngân sách Nhà nước.
2. Lạm phát
2.1 Khái niệm lạm phát
Lạm phát là sự gia tăng mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế
trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm)
Tỷ lệ lạm phát hàng năm (ký hiệu If) là tỷ lệ phần trăm gia tăng mức giá chung của
năm này so với năm trước, được tính theo công thức sau:
Pt – Pt-1
If = . 100
Pt-1
Trong đó: If : Tỷ lệ lạm phát năm t
Pt : mức giá chung (chỉ số giá) năm t
Pt-1 : mức giá chung (chỉ số giá) năm t - 1
2.1.1 Phân loại lạm phát
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 10
- Lạm phát vừa phải: Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng chậm ở
mức độ một con số (tỷ lệ lạm phát < 10%). Lạm phát vừa phải còn gọi là lạm phát
nước kiệu hay lạm phát một con số. Loại lạm phát này thường được các nước duy
trì như một chất xúc tác thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Lạm phát phi mã: Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức hai
hoặc ba con số hàng năm (tỷ lệ lạm phát từ 10% - 1.000%/năm). Lạm phát phi mã
gây ra nhiều tác hại đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Siêu lạm phát: Còn được gọi là lạm phát siêu tốc (tỷ lệ lạm phát > 1.000%/năm).
Không có điều gì tốt khi nền kinh tế rơi vào tình trạng siêu lạm phát. Người ta
thường ví siêu lạm phát như căn bệnh ung thư gây chết người, có những tác hại rất
lớn đến kinh tế - xã hội.
2.2 Nguyên nhân gây ra lạm phát:
Có 2 nguyên nhân chính:
- Do cầu kéo: Khi tổng cầu tăng dẫn đến mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ
tăng ta gọi đây là lạm phát do cầu kéo. Sự gia tăng của tổng cầu thường là do 2
nguyên nhân sau:
+ Sự gia tăng cung tiền của Ngân hàng trung ương
+ Sự gia tăng chi tiêu của chính phủ
- Do chi phí đẩy: Khi chi phí sản xuất tăng dẫn đến mức giá chung tăng và sản
lượng giảm
2.3 Tác động của lạm phát
- Tác động đến thu nhập và của cải: Lạm phát có thể gây thiệt hại cho người này
và mang lợi cho những người khác.
Khi một người đi vay và một người cho vay ký vào một hợp đồng vay vốn, mỗi
bên đều kỳ vọng về tỷ lệ lạm phát trong tương lai. Nếu tỷ lệ lạm phát thực hiện
xảy ra cao hơn mức kỳ vọng và những người cho vay sẽ nhận được khoản thanh
toán với giá trị thực thấp hơn họ kỳ vọng – người đi vay được lợi và người cho vay
bị thiệt. Chúng ta có thể lập luận tương tự cho trường hợp lạm phát thực hiện xảy
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 11
ra thấp hơn lạm phát kỳ vọng – người đi vay bị thiệt và người cho vay được lợi.
Nếu tỷ lệ lạm phát thực hiện xảy ra bằng tỷ lệ lạm phát kỳ vọng thì không có ai
được lợi và bị thiệt trong hợp đồng vay vốn.
Để giải thích rõ hơn, chúng ta có thể sử dụng công thức sau:
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát
Ví dụ: Ngân hàng X ký hợp đồng vay vốn với khách hàng A, thời hạn vay 1
năm, lãi suất danh nghĩa 7%
+ Nếu cả 2 đều kỳ vọng tỷ lệ lạm phát là 5% => Lãi suất thực 2%
+ Nếu tỷ lệ lạm phát là 10% => Lãi suất thực là -3% => Khách hàng A được lợi
– Ngân hàng X bị thiệt
+ Nếu tỷ lệ lạm phát là 2% => Lãi suất thực là 5% => Khách hàng A bị thiệt –
Ngân hàng X được lợi
- Tác động đến lãi suất danh nghĩa: Bên cạnh lạm phát ảnh hưởng đến lãi suất thực
thì lạm phát còn ảnh hưởng đến lãi suất danh nghĩa. Lạm phát kỳ vọng tăng lên thì
lãi suất danh nghĩa cũng tăng lên.
- Tác động đến việc làm: Lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ nghịch biến.
2.4 Giải pháp kiểm soát lạm phát
Có rất nhiều giải pháp để kiểm soát lạm phát nhưng trong bài viết này chỉ nghiên
cứu đến 2 giải pháp:
- Chính sách tài khóa:
+ Mục tiêu của chính sách tài khóa:
Ổn định nền kinh tế ở mức sản lượng tiềm năng (Y= Yp)
Duy trì nền kinh tế ở tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
Tỷ lệ lạm phát vừa phải
+ Công cụ sử dụng:
Chi ngân sách
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 12
Thuế
+ Có 2 loại chính sách tài khóa:
Chính sách tài khóa mở rộng
Chính sách tài khóa thắt chặt
+ Nguyên tắc thực hiện chính sách tài khóa:
Khi nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao là trường hợp sản lượng thực tế cao hơn
sản lượng tiềm năng (Y > Yp). Lúc này, chính phủ cần thực hiện chính sách tài
khóa thu hẹp (thắt chặt), cụ thể:
Giảm chi tiêu về hàng hóa và dịch vụ
Tăng thu thuế
=> Kết quả: G, T -> AD -> Y , P , U
- Chính sách tiền tệ:
+ Mục tiêu của chính sách tiền tệ:
Ổn định giá cả
Tăng trưởng kinh tế
Tạo công ăn việc làm giảm thất nghiệp
+ Công cụ sử dụng:
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Lãi suất
Hạn mức tín dụng
….
+ Có 2 loại chính sách tiền tệ:
Chính sách tiền tệ mở rộng
Chính sách tiền tệ thắt chặt
+ Nguyên tắc thực hiện chính sách tiền tệ:
Khi có lạm phát cao Ngân hàng trung ương sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt để
nhằm thu hút bớt lượng tiền dư thừa trong nền kinh tế
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 13
Tóm lại, để kiểm soát lạm phát thì có thể thực hiện một trong hai chính sách
trên hoặc kết hợp cả 2 để mang lại hiệu quả cao nhất
II. Mối quan hệ giữa thuế và lạm phát
1.Tác động của lạm phát lên nghiã vụ thuế
Lạm phát gây ra 3 tác động lên nghĩa vụ thuế thực, đó là: (1) tác động lên doanh
thu thuế do sự mất giá đồng tiền, (2) tác động lên nghĩa vụ thuế thực do độ trễ của
việc thu thuế, và (3) các hiệu ứng khác lên cơ sở đo lường thuế. Mức độ ảnh
hưởng của lạm phát lên các loại thuế khác nhau sẽ không giống nhau. Chẳng hạn,
thuế tiêu thụ đặc biệt được thu ngay sẽ không bị ảnh hưởng bởi lạm phát, và do đó
không cần điều chỉnh. Ngược lại, ảnh hưởng của lạm phát đến thuế thu nhập đặc
biệt phức tạp bởi vì tất cả các hiệu ứng trên đều có mặt.
a, Lạm phát tác động lên doanh thu thuế do sự mất giá đồng tiền
Luật thuế thông thường quy định nghĩa vụ thuế thông qua một số tiền cụ thể,
giá trị của số tiền này bị xói mòn bởi lạm phát, và do đó làm giảm doanh thu
thuế. Sự xói mòn giá trị thu thuế do lạm phát có thể được khắc phục bằng
nhiều cách: đưa ra những luật thuế tự động điều chỉnh định kỳ, hoặc loại bỏ
nhưng khoản thuế được thể hiện bằng giá trị tiền tệ tuyệt đối.
Tuy nhiên, không phải lúc nào lạm phát cũng tác động lên doanh thu thuế theo
cùng một hướng. Trong trường hợp của thuế thu nhập cá nhân, lạm phát tăng lên
sẽ làm cho thu nhập danh nghĩa tăng. Điều này đẩy người nộp thuế đến một mức
thuế suất cao hơn, dù thực tế thu nhập thực của họ không đổi, và do đó làm tăng số
tiền thuế phải nộp.
b.Lạm phát tác động lên nghĩa vụ thuế thực do độ trễ của việc thu thuế:
Thuế là nghĩa vụ của người nộp thuế đối với Nhà nước. Lạm phát làm giảm giá
trị các nghĩa vụ này do độ trễ của việc thu thuế (khoảng thời gian từ lúc phát sinh
nghĩa vụ thuế đến khi khoản thuế được thu). Các lọai thuế khác nhau có thời hạn
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 14
thu thuế khác nhau. Thuế thu nhập có thời hạn thu tùy thuộc vào loại thu nhập.
Thuế thu nhập có thể được trả vào cuối năm, trong khi đó, thuế đánh vào tiền
lương có thể được nộp ngay bằng việc khấu trừ vào lương hàng tháng. Thuế VAT
có độ trễ dài hơn (có thể được nộp vào tháng sau). Nếu trong khoảng thời gian từ
khi phát sinh nghĩa vụ thuế đến khi thuế được thu, người đóng thuế không phải tra
bất kỳ khoản lãi chậm nộp nào, thì lạm phát xảy ra sẽ làm hao mòn giá trị thực của
nghĩa vụ thuế.
Một tác động ngược chiều có thể xảy ra trong trường hợp Chính phủ có một
khoản hoàn thuế cho người nộp thuế (chẳng hạn như một khoản giảm trừ tổn thất
thuần từ hoạt động). Độ trễ của việc hoàn thuế càng dài sẽ càng làm hao mòn số
tiền hoàn thuế do tác động của lạm phát.
Tác động của độ trễ thu thuế có thể được khắc phục bằng nhiều cách khác nhau
tùy thuộc từng loại thuế: rút ngắn thời hạn nộp thuế; yêu cầu tạm tính và nộp trước
thuế; xác định nghĩa vụ thuế trên cơ sở mức lạm phát từ lúc phát sinh nghĩa vụ
thuế đến khi thu được thuế. Bên cạnh đó, áp dụng lãi phạt đối với các trường hợp
chậm nộp thuế theo quy định.
c.Lạm phát tác động lên cơ sở đo lường thuế
Khi cơ sở tính thuế được đo lường bằng những đơn vị lịch sử, lạm phát sẽ làm sai
lệch thước đo này. Có thể dễ dàng thấy được điều đó trong trường hợp của một
loại thuế đánh vào giá trị lịch sử của tài sản, chẳng hạn như thuế bất động sản.
Theo thời gian, giá trị của bất động sản tăng lên do lạm phát, trong khi đó, cơ sở
để tính thuế vẫn dựa trên giá trị ban đầu. Ngược lại, giá trị thực của cơ sở tính thuế
của những loại thuế khác, chẳng hạn như thuế doanh thu hay thuế tiêu thụ đặc biệt,
lại không bị ảnh hưởng bởi lạm phát. Điều đó là vì cơ sở tính thuế trong những
trường hợp này được định theo giá trị thị trường, tức đã được điều chỉnh theo lạm
phát.
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 15
Thuế thu nhập là một trường hợp phức tạp hơn. Việc xác định cơ sở tính thuế thu
nhập bao gồm việc cộng và trừ các khoản mục sổ sách kế toán tại những thời điểm
khác nhau trong năm theo đơn vị tiền tệ. Nếu không có lạm phát, việc cộng, trừ
này hoàn toàn đơn giản. Tuy nhiên, dưới tác động của lạm phát, các đơn vị này
không thể so sánh được.
2. Mối liện hệ giữa thuế thu nhập cá nhân và lạm phát
-Chi phí có thể gây ra lạm phát, đó là tiền lương, thuế gián thu và giá nguyên liệu
nhập khẩu.Việc chính phủ tăng những loại thuế tác động đến đồng thời tất cả các
nhà sản xuất cũng có thể gây ra lạm phát.Đối với nền kinh tế nhập khẩu nguyên
liệu, cấu kiện cần thiết từ nước ngoài thì sự thay đổi tỉ giá hối đoái sẽ ảnh hưởng
quan trọng đến tình hình lam phát trong nước. Nếu giá của chúng tăng mạnh trên
thị trường thế giới hay đồng nội tệgiảm mạnh trên thị trường tài chính quốc tếthì
chi phí sản xuất trong nước sẽ tăng mạnh và lạm phát sẽ bùng nổ.
- Mới đây Chính phủ ban hành nghị định giảm/hoãn thuế cho một số loại thu nhập,
trong đó có thuế thu nhập cá nhân. Tuy nhiên, thuế không giảm đối với thu nhập
cổ tức được chi trả từ các DN tài chính, ngân hàng,…Trước khi miễn giảm/hoãn,
Thuế thu nhập đối với nhận cổ tức là 5%, đối với các khoản lãi thu được từ tiền
gửi NH thì không có chịu thuế. Đối với lãi đầu tư chứng khoán, thuế là 25%.Việc
miễn, giảm này được thực hiện trong môi trường lạm phát rất cao nên tác động sẽ
khác:
Môi trường lạm phát, sức mua của đồng tiền bị bào mòn, nó như một loại thuế
đánh vào thu nhập thực tế của người có thu nhập (inflation tax). Điều này ai cũng
biết, như, trước đây, 10 nghìn mua được một kg gạo, hiện tại mua được ½ kg thôi.
Liên hệ giữa thuế thu nhập và lạm phát, thì lạm phát cũng như là một đòn bẩy
vào chính mức thuế thu nhập của người có thu nhập. Cụ thể môi trường lạm phát
cao thì làm cho các khoản mất đi từ thuế có tác động lớn hơn rất nhiều so với môi
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 16
trường lạm phát thấp (thuế trên thuế), cùng chi tiêu một tỷ lệ % số thu nhập có
được, người thu nhập thấp sẽ thấy khó khăn hơn rất nhiều so với người có thu
nhập cao. Chính vì vậy, giảm thuế trong môi trường lạm phát cao có tác dụng tích
cực hơn nhiều về hỗ trợ mức sống, vừa hỗ trợ vốn cho việc tiếp tục duy trì hoạt
động đầu tư, kinh doanh. Đối với thị trường Chứng khoán, với cùng một kỳ vọng
sinh lợi, sẽ kích thích người ta đầu tư nhiều hơn hơn trước.
- Suất thuế TNCN phải dựa trên nguyên tắc người có thu nhập càng cao càng phải
đóng nhiều. Trên thế giới có 2 cách đánh thuế: một là trừ cho người nộp thuế một
khoản thu nhập để có thể sống một cách bình thường; hai là đánh thuế từ đồng thu
nhập đầu tiên. Và càng lên cao, thuế suất càng cao với mục tiêu là điều tiết thu
nhập.
- Tiền gửi NH, vì VND, USD chưa có thu thuế thu nhập (thuộc vào tiền gửi) nên
chỉ có tác động tax inflation như trên, chứ chưa có tác động từ chính sách thu thuế.
- Khi lạm phát tăng cao gây ra siêu lạm phát làm đồng nội tệ rớt nhanh , khi đó
người dân sẽ ồ ạt bán nội tệ để mua ngoại tệ . Tệ nạn tham nhũng tăng cao , nạn
buôn lậu phát triển mạnh , tình trạng đầu cơ trái phép tăng nhanh , trèn thuế và
thuế không thu được đã gây ra tình trạng nguồn thu của nhà nước bị tổn hại nặng
nề càng làm cho thâm hụt ngân sách trầm trọng dẫn đến tỷ lệ lạm phát cao.
3. Thuế kiềm chế lạm phát
- Trong số các giải pháp về tài chính thì việc sử dụng linh hoạt công cụ thuế quan
đã được minh chứng là có hiệu quả nhất trong việc kiềm chế lạm phát và bình ổn
giá cả. ""Độ trễ"" của chính sách này được chứng minh là rất ngắn. Giải pháp này
thường phát huy tác dụng ngay sau khi chính sách được ban hành.
- Với bản chất là một sắc thuế gián thu, gánh nặng thuế chủ yếu do người tiêu
dùng chịu, việc điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu sẽ tác động tức thời đến giá
bán của các mặt hàng này trên thị trường. Khi giá của một số hàng hoá tăng, giải
pháp của Chính phủ nhiều nước sử dụng đầu tiên là giảm thuế suất thuế nhập khẩu
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 17
một cách phù hợp. Ngược lại, đối với hàng hoá Nhà nước cần quản lý giá điều tiết
về quan hệ cung cầu như xăng dầu, khi giá giảm thì việc tăng thuế nhập khẩu cũng
được xem là giải pháp hữu ích. Việc này góp phần thực hiện được nhiều mục tiêu
khác bên cạnh việc bình ổn giá như tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, thực
hiện chính sách phân phối và điều tiết tiêu dùng một cách phù hợp.
4. Nhất quán chủ trương kiềm chế lạm phát, điều chỉnh chính sách thuế
- Các chính sách tháo gỡ khó khăn được quan tâm như: điều chỉnh giảm lãi suất
vay phù hợp với mức giảm của lạm phát; tăngkhả năng vay vốn cho doanh nghiệp,
nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công
nghiệp phụ trợ và khu vực nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện việc kéo dài thời
hạn nộp thuế, giảm tiền thuê đất, miễn thuế môn bài đối với một số đối tượng
doanh nghiệp; đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư nhà nước…
- Quốc hội sẽ xem xét quyết định một số giải pháp về thuế nhằm tháo gỡ khó khăn
cho doanh nghiệp và cá nhân năm 2012. Xem xét, thông qua 13 dự án luật và 2 dự
thảo nghị quyết; một số báo cáo kết quả giám sát của các cơ quan của Quốc hội,
tiến hành chất vấn, trả lời chất vấn và thảo luận các báo cáo quan trọng khác.Triển
khai áp dụng các giải pháp xử lý nợ phù hợp đối với các doanh nghiệp, nhất là các
doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, có tiềm năng phát triển nhưng đang gặp khó
khăn tạm thời (cơ cấu lại nợ, giãn nợ, thay đổi thời hạn, lãi suất…).
III. Dùng công cụ thuế để kiểm soát lạm phát ở tại Việt Nam trong những
năm gần đây
- Nhìn vào Việt Nam có 2 điểm quan trọng nhất là kiểm soát thu nhập và thông
qua đó áp thu nhập chịu thuế. Tuy nhiên, Việt Nam kiểm soát thu nhập rất kém
đây chính là vấn đề cần phải khắc phục làm trước khi bàn đến việc tính thuế suất
TNCN như thế nào.
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 18
- Bàn sang đến vấn đề mức như thế nào thì đủ sống, ở các nước họ cũng đưa ra
một ngưỡng tính thuế như mức tiền lương tối thiểu hay là một mức tuyệt đối nào
đó, song xem ra lại không phù hợp với Việt Nam. Bởi, đặc trưng của kinh tế Việt
Nam là lạm phát liên tục và khá cao.
Điều này còn quan trọng hơn ở Việt Nam bởi thực tế xuất phát điểm của kinh tế
Việt Nam thấp, vì vậy không thể lấy một mốc thu nhập nào đó ví như năm 2000 là
tốt mà phải vươn lên.Vì vậy ngoài việc điều chỉnh tương đối theo lạm phát còn
phải điều chỉnh theo hướng tuyệt đối nhằm nâng cao hơn mức sống cho người dân.
Trong số các giải pháp về tài chính thì việc sử dụng linh hoạt công cụ thuế quan đã
được minh chứng là có hiệu quả nhất trong việc kiềm chế lạm phát và bình ổn giá
cả. Cụ thể, Việt Nam đã áp dụng chính sách thuế để kiểm soát lạm phát như sau:
3.1. Miễn, giảm thuế nhập khẩu
Khi giá của một số hàng hoá tăng, giải pháp của Chính phủ nhiều nước sử dụng
đầu tiên là giảm thuế suất thuế nhập khẩu một cách phù hợp. Việc điều chỉnh thuế
suất thuế nhập khẩu sẽ tác động tức thời đến giá bán của các mặt hàng này trên thị
trường, giảm thuế suất thuế nhập khẩu sẽ làm cho giá bán của hàng hóa đó ở tại
Việt Nam giảm, kích thích tiêu dùng trong nước. Cụ thể, Việt Nam đã miễn thuế
nhập khẩu nhiên liệu cho máy bay, xăng dầu cho hãng hàng không.
3.2. Miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân
Năm 2008, Việt Nam có mức lạm phát lên tới 19,89% khiến người nộp thuế gặp
vô vàn khó khăn. Trước tình hình đó, để kích cầu tiêu dùng, Quốc hội đã ban hành
Nghị quyết số 32 ngày 16/9/2009, trong đó miễn thuế toàn bộ thuế TNCN phải
nộp từ ngày 1/1/2009 đến ngày 30/6/2009 cho các đối tượng.
Sang năm 2010 và 2011, lạm phát tiếp tục phi mã (CPI tương ứng 11,75% và
18,12%). Sự ảnh hưởng mạnh mẽ này đã khiến 6/8/2011, Quốc hội đã thông qua
Nghị quyết về ban hành bổ sung một số giải pháp về thuế để tháo gỡ khó khăn cho
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 19
doanh nghiệp và cá nhân từ tháng 8 đến hết tháng 12/2011. Theo đó, người nộp
thuế không có người phụ thuộc có thu nhập dưới 9 triệu đồng/tháng được miễn
hoàn toàn số thuế phải nộp.
3.3. Giảm, gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ 28% xuống còn 25%, vì cắt giảm thuế nhằm
tạo môi trường đầu tư hấp dẫn để khuyến khích, thu hút đầu tư. Điều chỉnh thuế
suất là ưu đãi theo diện rộng và sẽ đi đôi với hạn chế ưu đãi theo diện hẹp, khắc
phục tình trạng dàn trải, phức tạp trong chính sách hiện hành, giảm thuế sẽ ảnh
hưởng tới nguồn thu song có thể bù lại bằng tăng trưởng kinh tế.
Bộ Tài chính đã có văn bản cho phép 6 doanh nghiệp ngành hàng, gồm sản xuất
linh kiện điện tử; chế biến nông, lâm, thủy sản, dệt may và da giày được gia hạn
thuế thu nhập doanh nghiệp để giảm bớt khó khăn.
Theo đó, số thuế thu nhập doanh nghiệp được gia hạn tính từ quý 3 và quý 4 năm
2008 tạm tính trên thu nhập từ các hoạt động sản xuất chế biến nói trên.
Thời gian gia hạn nộp thuế không quá ngày 29/4/2009 đối với số thuế tạm tính của
quý 3/2008, và không quá ngày 30/7/2009 đối với số thuế tạm tính của quý
4/2008.
Quy định này có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành văn bản 16/7/2008.
Đây là một trong những biện pháp tháo gỡ khó khăn kịp thời cho doanh nghiệp
sau khi các kiến nghị về việc được giãn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp được các
hiệp hội ngành hàng gửi lên các bộ, ngành liên quan trong thời gian qua.
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 20
Để thực hiện thu ngân sách năm 2011 vượt tối thiểu 7-8% so với nhiệm vụ thu mà
Quốc hội đã quyết định, ngành thuế tập trung thực hiện 07 nhóm giải pháp chủ yếu
sau:
Một là, căn cứ vào chỉ tiêu phấn đấu thu ngân sách năm 2011 Tổng cục Thuế đã
giao tại Quyết định số 179/QĐ-TCT ngày 21/2/2011, cục thuế các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương phân bổ giao kịp thời, đầy đủ nhiệm vụ phấn đấu thu năm
2011 cho từng phòng, chi cục thuế thực hiện, đồng thời có kế hoạch tổ chức thực
hiện nhiệm vụ thu đã được giao phấn đấu.
Hai là, Phối hợp với các ngành, các cấp giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng
mắc cho DN trong sản xuất kinh doanh và thực hiện nghĩa vụ thuế, giúp hoạt động
sản xuất kinh doanh phát triển ổn định, vững chắc. Tạo môi trường thuận lợi thu
hút đầu tư, tăng năng lực sản xuất mới, ổn định thị trường, tạo nguồn thu cho ngân
sách.
Ba là, rà soát, đánh giá các nguồn thu, phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến
nguồn thu trên địa bàn, đặc biệt là các nguồn thu không ổn định, làm rõ các khoản
thu, sắc thuế còn thất thu, các nguồn thu còn tiềm năng. Đẩy mạnh các biện pháp
quản lý thu đối với các khoản thu liên quan đến đất đai, kinh doanh bất động sản,
tài nguyên khoáng sản...
Bốn là, tổ chức hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện nghĩa vụ kê khai thuế
của các tổ chức, cá nhân nhằm đạt mục tiêu tỷ lệ hồ sơ khai thuế đúng hạn 100%
so số cần phải kê khai nghĩa vụ thuế theo chế độ quy định; Đồng thời, giám sát
chặt chẽ người nộp thuế, xử lý nghiêm các trường hợp kê khai không đúng, không
đủ số thuế phải nộp;
Năm là, tăng cường áp dụng các biện pháp đôn đốc thu nợ và cưỡng chế nợ thuế
nhằm hạn chế nợ mới phát sinh. Trong 6 tháng đầu năm 2011 thu tối thiểu 90% số
nợ thuế có khả năng thu năm 2010 chuyển qua và đảm bảo đến cuối năm số nợ
thuế ở mức dưới 4% tổng thu ngân sách.
Sáu là, Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra thuế, trong đó tập trung vào nhóm
đối tượng có dấu hiệu chuyển giá, kinh doanh lỗ nhưng vẫn mở rộng sản xuất kinh
doanh, có số hoàn thuế GTGT lớn,...
Bảy là, Đẩy mạnh cải cách hành chính theo Đề án 30 của Chính phủ; thực hiện
triển khai mở rộng dịch vụ đăng ký thuế, khai thuế điện tử; triển khai mở rộng hệ
thống nhận tờ khai thuế qua mạng và kê khai thuế trực tuyến, nộp thuế qua hệ
thống ngân hàng thương mại, kết nối thông tin giữa 4 ngành thuế - hải quan - kho
bạc - tài chính, trên cơ sở đó giảm thời gian thực hiện các thủ tục hành chính của
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 21
cả cơ quan thuế và người nộp thuế, cơ quan thuế có điều kiện tập trung nguồn lực
vào công tác thanh tra, kiểm tra, quản lý nợ thuế.
-Những đối tượng mà ngành thuế đặc biệt quan tâm để thanh tra, kiểm tra chống
thất thu ngân sách trong năm 2011 là các DN có dấu hiệu chuyển giá của các công
ty đa quốc gia; các DN, cơ sở kinh doanh lỗ liên tục (từ 2 năm trở lên); DN lỗ
nhưng vẫn mở rộng sản xuất kinh doanh; DN có số lỗ vượt vốn chủ sở hữu, DN có
số hoàn thuế GTGT lớn, DN hưởng ưu đãi thuế...
Đối với các DN có vốn đầu tư lớn trên địa bàn, Tổng cục Thuế đã chỉ đạo cục thuế
các tỉnh báo cáo UBND tỉnh về kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế để UBND tỉnh
chỉ đạo các đơn vị có liên quan phối hợp thực hiện. Tổ chức kiểm tra thu kịp thời
đối với những mặt hàng kinh doanh phát sinh lợi nhuận lớn do thu được từ việc sử
dụng một số yếu tố đầu vào giá hiện còn thấp hơn giá thị trường như: thép, xi
măng, kinh doanh dịch vụ,...;
Thu hồi kịp thời số tiền phát hiện qua thanh tra, kiểm tra vào ngân sách, phấn đấu
số thuế truy thu thực nộp vào ngân sách trong kỳ qua thanh tra, kiểm tra thuế
(trong phạm vi 90 ngày) đạt tối thiểu 80% số thuế phát hiện tăng thêm và xử lý vi
phạm pháp luật thuế; Thực hiện thu kịp thời số tiền thuế truy thu theo kết luận của
Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ.
Tăng cường phối hợp chặt chẽ với các ngành trong công tác điều tra, thanh tra,
giám sát hoạt động của DN để chống trốn thuế, gian lận thuế như: phối hợp với cơ
quan quản lý thị trường chống buôn lậu thuế, chống đầu cơ nâng giá thao túng thị
trường và gây ra lạm phát; phối hợp với cơ quan công an để phát hiện và xử lý kịp
thời các trường hợp trốn thuế, các trường hợp vi phạm về hóa đơn chứng từ để
chống thất thu ngân sách nhà nước./.
IV:Mối quan hệ giữa lạm phát và thuế ở các nước Châu Á
-Châu Á hiện đang đạt mức tăng trưởng nhanh và nguy cơ đi cùng là lạm phát. Hai
đầu tàu kinh tế khu vực là Ấn Độ và Trung Quốc đều đã và sẽ đạt mức tăng trưởng
mạnh mẽ.
- Các chính trị gia trong khu vực đã coi việc tăng giá dầu mỏ, thực phẩm chỉ là tạm
thời. Tuy nhiên, giá cả hiện đang tăng với tốc độ nhanh nhất kể từ khi bùng nổ lạm
phát năm 2008 và đe dọa một vòng xoáy lương - giá mới. Nếu không có hành
động thì tác động của lạm phát sẽ sớm đặt dấu chấm hết cho tăng trưởng ấn tượng
của châu Á.
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 22
Báo chí Anh dẫn phân tích của Tiến sỹ Frederic Neumann, chuyên gia kinh tế cao
cấp và hiện là Giám đốc Bộ phận Nghiên cứu Kinh tế châu Á của Tập đoàn
HSBC, cho rằng các chính sách tiền tệ theo khuôn khổ thông thường không còn
tác dụng trong bối cảnh hiện nay.
-Tăng lãi suất chỉ đơn giản là kéo thêm dòng vốn và khiến cho các điều kiện tài
chính thêm bất ổn. Nâng giá trị đồng tiền ở một mức độ cần thiết là điều không thể
chấp nhận được ở nhiều nước, chẳng hạn như Trung Quốc.
-Vì thế, câu trả lời cho bài toán lạm phát là Ấn Độ, Trung Quốc và một số quốc
gia trong khu vực là tăng các loại thuế và cắt giảm chi tiêu. Việc này sẽ làm giảm
nhu cầu và cuối cùng là giảm các áp lực giá cả. Tuy nhiên, các chính phủ châu Á
lại đang đi theo hướng ngược lại và đều có mức thâm hụt khá lớn. Các quan chức
khắp khu vực đang chống đỡ bằng cách kiểm soát giá cả và trợ cấp để giảm tác
động của lạm phát. Các biện pháp này rất tốn kém và không giải quyết được các
vấn đề cốt lõi. Nông dân sẽ không trồng thêm rau quả nếu giá cả nông phẩm của
họ bị kiểm soát; những người có xe hơi sẽ không tiếp tục dùng xe nếu chi phí xăng
dầu tăng mãi.
Tăng trưởng sẽ tiếp tục tăng mà không bị cản trở gì và cuối cùng là khiến giá cả
ngày càng tăng. Do vậy, việc "siết chặt" những người đóng thuế, đặc biệt là những
người giàu, là điều mà châu Á cần và hiện có ba sự lựa chọn trong việc tăng thuế:
Thu và l m phát Nhóm
9
Page 23
Thứ nhất là tăng tỷ lệ áp thuế thu nhập. Việc tăng thuế này cần phải nhằm vào
những hộ gia đình giàu có hơn. Rốt cuộc thì người nghèo hiện đang phải gánh chịu
tác động của chi phí vận tải, giá lương thực tăng một cách bất cân xứng. Do đó,
những người giàu, những người có mức tăng thu nhập ấn tượng, cần phải chia sẻ
gánh nặng này với người nghèo. Một tỷ lệ thuế thu nhập cao hơn cũng sẽ giúp
"làm mát" các thị trường bất động sản đang quá nóng của châu Á, vốn được coi là
một nguồn khác của lạm phát.
Thứ hai là tăng các loại thuế bán hàng và thuế giá trị gia tăng (VAT) - hoặc đưa
vào áp đặt loại thuế này ở những nơi chưa thực hiện. Việc này sẽ giúp tạm thời
giảm lạm phát nhưng đồng thời cũng là công cụ hữu dụng để giảm tốc độ tăng
trưởng của thương mại. Ấn Độ đã lên kế hoạch thực hiện bước đi này vào năm tới.
Còn tại Trung Quốc, nguồn thu ngân sách từ việc tăng thuế VAT đối với các sản
phẩm không thiết yếu có thể được chuyển cho các chính quyền địa phương, những
nơi đang phải phụ thuộc vào việc phát triển bất động sản để có nguồn thu.
Thứ ba là tăng tỷ suất thuế doanh nghiệp. Việc này có thể được cơ cấu theo cách
áp đặt một mức thuế tạm thời để ngăn cản các công ty đầu tư tràn lan trong các
giai đoạn bùng nổ. Khi vượt qua thời kỳ này thì có thể bỏ loại thuế này để khuyến
khích các doanh nghiệp, công ty tiếp tục đầu tư. Thay vì cùng nhau chạy đua thu
hút đầu tư, các quốc gia khu vực châu Á cần phải sử dụng thuế doanh nghiệp như
là một công cụ để đối phó với tình trạng biến động theo chu kỳ một cách thái quá
trong hoạt động kinh doanh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thue_va_lam_phat_4678.pdf