Tiểu luận Thương mại là hòn đá thử vàng đối với sự phồn vinh của mỗi quốc gia

Trong quá trình nghiên cứu thị trường Doanh nghiệp phải chú ý tới các yếu tố văn hoá của đối tượng cần nghiên cứu như: tập quán tiêu dùng, niềm tin, lối sống, tôn giáo nhẵm đưa ra những nhận định chính xác về thị trường. Ví dụ khi nghiên cứu thị trường ấn độ, ta biết được rằng phần lớn dân số ấn độ theo đạo Hồi do đó ý định kinh doanh thịt bò tại thị trường ấn độ bị loại bỏ. Văn hoá còn ảnh hưởng trong quá trình đàm phán và ký kết hợp đồng. Ví dụ đối với người Trung quốc thì buổi đấu tiên đàm phán chỉ là để làm quen nhau chứ chưa đi vào vấn đề đàm phán kinh doanh. Nhưng đối với người Mỹ hoặc người Anh thì mục tiêu của họ là phải đạt được mục đích ngay buổi đầu của cuộc đàm phán. Biết được yếu tố văn hoá của từng dân tộc giúp ta đưa ra những đối sách kinh doanh phù hợp .

pdf28 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2467 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thương mại là hòn đá thử vàng đối với sự phồn vinh của mỗi quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
luận chung về kinh doanh xuất nhập khẩu I. Khái niệm , phân loại và vai trò của kinh doanh nhập khẩu đối với nền kiNh tế quốc dân. 1. Khái niệm về hoạt động Nhập khẩu . Ngày nay trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, mỗi quốc gia trên hành tinh chúng ta không thể sống một cách riêng rẽ được mà phải cuấn theo dòng xoáy của nền kinh tế thế giới, tham gia vào các quan hệ đầu tư quốc tế, dịch vụ quốc tế và thương mại quốc tế … Trong đó kinh doanh quốc tế có vai trò rất quan trọng đối với quá trình hội nhập kinh tế thế giới của mỗi quốc gia, đúng như các nhà kinh tế học chủ nghĩa trọng thưong đã nói “ Thương mại là hòn đá thử vàng đối với sự phồn vinh của mỗi quốc gia” Tiền đề cơ bản đầu tiên của thương mại quốc tế đó là sự khác biệt về điều kiện tự nhiên giữa các quốc gia dẫn đến mỗi quốc gia có lợi thế trong việc sản xuất một sản phẩm nào đó và họ phải trao đổi với nhau nhằm đạt được sự cân bằng giữa phần dư thừa hàng hoá này và thiếu hụt hàng hoá kia. Tiếp theo là sự phát triển không đồng đều giữa các quốc gia dẫn đến sự khác nhau về điều kiện tái sản xuất. Điều đó dẫn đến các quốc gia phải mở rộng phạm vi trao đổi quốc tế. Sự phát triển kinh tế dẫn tới sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc và vượt ra khỏi biên giới quốc gia dẫn đến quá trình chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất trên phạm vi quốc tế. Như vậy, do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển và sự chuyên môn hoá trong sản xuất hàng hoá, mỗi quốc gia sẽ tập trung vào việc sản xuất ra một số mặt hàng có có lợi thế hơn các quốc gia khác, nhưng nhu cầu của con người thì đa dạng, đòi hỏi nhiều mặt hàng , họ muốn tìm được mặt hàng phù hợp với thị hiếu và khả năng thanh toán của mình. Chính vì vậy, xuất hiên những luồng hàng hoá dịch chuyển từ nước này sang nước khác đó chính là nguồn gốc của thương mại quốc tế . Ngày nay, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật ,đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin và giao thông vận tải, sự chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu và rộng, nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng đa dạng đã thúc đẩy thương mại quốc tế ngày càng phát triển và trở thành một bộ phận quan trọng trong hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia. Trong đó, thương mại quốc tế bao gồm hai bộ phận là xuất khẩu hàng hoá- dịch vụ và nhập khẩu hàng hoá- dich vụ. Nói đến thương mại quốc tế không thể không nói đến hoạt động nhập khẩu hàng hoá- dịch vụ. Vì theo lý thuyết “Lợi thế So sánh” của David Ricardo thì bất cứ một nước nào cũng có thể tham gia vào thương mại quốc tế bằng việc chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng có lợi hơn nước khác và Nhập khẩu về những hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng ít lợi thế hơn nước khác. Vì vậy, khi tham gia vào hoạt động Nhập khẩu các quốc gia có điều kiện để hoà nhập vào nền kinh tế quốc dân tiếp thu sự phát triển và nền văn minh nhân loại tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong nước. Như vậy kinh doanh Nhập khẩu là hoạt động mua hàng hoá - dịch vụ từ nước ngoài theo nguyên tắc của thị trường quốc tế nhằm phục vụ nhu cầu trong nước hoặc tái xuất khẩu nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Nhập khẩu thể hiện sự gắn bó, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của mỗi quốc gia. ở một giới hạn nhất định, nó còn quyết định tới sự sống còn của nền kinh tế đặc biệt là khi nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới đang sống dưới một mái nhà chung. 2. Phân loại hoạt động Nhập khẩu. Theo như định nghĩa thì Nhập khẩu là việc mua hàng hoá, dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước hoặc tái xuất trên cơ sở tuân theo các thông lệ thị trường quốc tế, về bản chất thì sẽ có một luồng hàng hoá - dịch vụ từ nước ngoài chảy vào nước Nhập khẩu và có một luồng tiền tương ứng chảy ra. Các Doanh nghiệp tham gia kinh doanh nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận . Nhưng trên thực tế , các qui ttrình nghiệp vụ Nhập khẩu rất phức tạp , ta có thể căn cứ vào cách thức tổ chức và mục đích hoạt động kinh doanh Nhập khẩu để phân chia thành các hình thức khác nhau. 2.1 Nhập khẩu tự doanh. Đây là hình thức kinh doanh mà Doanh nghiệp được cấp giấy phép nhập khẩu trực tiếp đứng tên ra để ký kết và thực hiện các hợp đồng ngoại thương bằng chính nguồn vốn của mình, sau đó trực tiếp thiết lập hệ thống kênh phân phối bán hàng nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đây là hình thức Nhập khẩu chủ yếu mà các Doanh nghiệp áp dụng hiện nay vì nó đảm bảo sự thống nhất giữa các khâu của quá trình Nhập khẩu nhằm đạt được kết quả của toàn bộ Doanh nghiệp . 2.2 Nhập khẩu uỷ thác . Là hoạt động Nhập khẩu trong đó người mua hàng không trực tiếp đứng tên mình ký kết hợp đồng ngoại thương mà phải ký một hợp đồng uỷ thác với Doanh nghiệp ngoại thương để uỷ thác cho Doanh nghiệp đó đứng ra ký kết và thực hiện hợp đồng ngoại thương đó bằng chính nguồn vốn của người được uỷ thác (Nhà Nhập khẩu ) và bên uỷ thác sẽ phải trả cho bên kia một khoản tiền nhất định tuỳ theo sự thoả thuận của hai bên, khoản tiền đó gọi là phí uỷ thác thông thường mức phí uỷ thác chiến 1% - 2% tổng giá trị hợp đồng. Nghĩa vụ của bên uỷ thác nhập khẩu: bên uỷ thác phải dựa vào đơn hàng kèm theo, xác nhận của ngân hàng Ngoại thương Việt nam về khả năng thanh toán, tham gia vào các giao dịch mua hàng, khi hàng về phải mở hàng trong vòng một tháng và nếu phát hiện hàng không đúng hợp đồng hoặc hàng tổn thất, phải để nguyên trạng đồng thời mời Công ty giám định tới lập biên bản giám định đồng thời phải trả phí uỷ thác. Nghĩa vụ của bên nhận uỷ thác nhập khẩu: Bên nhận uỷ thác phải ký hợp đồng nhập khẩu với điều kiện có lợi cho bên uỷ thác; thực hiện các thủ tục hải quan, kiểm tra chất lượng hàng hoá, báo tin hàng về …và giúp đỡ mọi mặt để bên uỷ thác có thể nhận hàng; tiến hành các biện pháp hạn chế tổn thất nếu hàng về có hư hỏng, tổn thất. 3. Vai trò của hoạt động Nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân. 3.1 Nhập khẩu góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội Nhập khẩu cùng với xuất khẩu là hai bộ phận của hoạt động kinh tế đối ngoại, là chiếc cầu nối giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, một nước phát huy được những thế mạnh của mình và khắc phục những điểm bất lợi của nền sản xuất trong nước góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Ngay từ thủa xa xưa, ông cha ta đã nói: “ phi thương bất phú” có nghĩa là muốn giáu có thì không có con đường nào khác ngoài buôn bán thương mại. Cơ sở lý luận khoa học của quan điểm này được xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa trong thương thế kỷ 17. Người ta cho rằng, “Thương mại là cục đá thử vàng đối với sự phồn thịnh của mỗi dân tộc” một nước muốn trở nên giàu có không thể không phát triển thương mại với phần còn lại của thế giới. Để giải thích được những lợi thế của thương mại quốc tế nói chung và của hoạt động nhập khẩu nói riêng, nhiều nhà Kinh tế học đã đưa ra những học thuyết khác nhau. Tiêu biểu là: học thuyết “ Lợi thế tuyệt đối” của Ađamsmith; học thuyết “ Lợi thế tương đối” của David Ricardo và học thuyết Hecksher - Ohlin. Dưới đây chúng ta lần lợt xem xét từng học thuyết để thấy rõ được lợi ích của thương mại quốc tế . Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Ađamsmith : Quan điểm của Ađamsmith cho rằng một nước chỉ sản xuất các loại hàng hoá sử dụng tốt nhất các loại tài nguyên của nó, tức là mỗi nước, do điều kiện thiên nhiên ưu đãi sẽ có những nguồn lực để sản xuất ra những loại hàng hoá mà chi phí sản xuất ra chúng rẻ hơn so với bất kỳ nước nào trên thế giới. Khi đó nó sẽ chuyên môn hoá vào việc sản xuất những mặt hàng đó để xuất khẩu và mua về những mặt hàng mà việc sản xuất ra chúng có nhiều bất lơị hơn các nước khác. Như vậy, theo quan điểm này thì một nước chỉ có thể tham gia thương mại quốc tế khi chúng có lợi thế trong viêc sản xuất một mặt hàng nào đó. Tuy vậy, lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần nhỏ thương mại giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển. Hiện nay, phần lớn thương mại quốc tế diễn ra giữa các nước phát triển với nhau, không thể giải thích được bằng lý thuyết lợi thế tuyệt đối. trong các cố gắng để giải thích các cơ sở của thương mại quốc tế, lợi thế tuyệt đối chỉ là một trường hợp của lợi thế so sánh. Lý thuyết Lợi thế tương đối ( Lợi thế so sánh) của David Ricardo: Qui luật Lợi thế tương đối phát biểu rằng: Nếu mỗi quốc gia thực hiện chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng mà nước đó có lợi thế so sánh thì tổng sản lượng của tất cả các mặt hàng sẽ tăng lên và tất cả sẽ trở nên sung túc hơn. Trong trường hợp một nước tỏ ra kém hiệu quả hơn so với nước khác trong việc sản xuất ra tất cả các mặt hàng thì nước đó vẫn tồn tại cơ sở dẫn đến chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi, cụ thể là quốc gia thứ nhất sẽ tập trung vào sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế tuyệt đối lớn hơn, tức là mặt hàng lợi thế so sánh và nhập khẩu mặt hàng có lợi thế tuyệt đối nhỏ hơn. Quốc gia thứ hai sẽ tập trung vào sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có bất lợi tuyệt đối nhỏ nhất và nhập khẩu những mặt hàng có bất lợi tuyệt đối lớn nhất. Như vậy, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích. Lý thuyết Heckscher - Ohlin. Học thuyết này căn cứ vào sự khác biệt về tính phong phú và giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất để qui về sự khác biệt về giá cả tương đối của hàng hoá, sau đó sẽ được chuyển thành sự khác biệt về giá cả tuyệt đối của hàng hoá. Học thuyết này có nội dung như sau: “ Một nước sẽ xuất khẩu loại hàng hoá mà việc sản xuất ra nó cần sử dụng nhiếu yếu tố rẻ và tương đối sẵn có của nước đó và nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất ra nó cần nhiều yếu tố đắt và tương đối khan hiếm ở nước đó”. 3.2 Nhập khẩu thúc đẩy quá trình Công nghiệp hoá Hiện đại hoá đất nước. Nước ta cũng như nhiều nước khác đó là có sức mạnh về tài nguyên thiên nhiên và lao động nhưng trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ lại rất lạc hậu do đó, nhập khẩu sẽ là nhân tố giúp ta tháo bỏ những vướng mắc mà các nước nghèo thường gặp phải, phương châm đó là vay mượn công nghệ của các nước phát triển trong thời kỳ Công nghiệp hoá. Xu thế nhập khẩu bổ sung để thoả mãn nhu cầu trong nước cũng là một điều tất yếu, thông qua đó nước ta có thể từng bước thay đổi hoàn thiện cơ cấu tiêu dùng của nhân dân theo hướng hiện đại hoá. Điều đó cũng đồng thời dẫn tới việc phải nâng cao kỹ thuật công nghệ để phục vụ sản xuất trong nước. Do vậy Nhà nước ta đã đề ra chính sách nhập khẩu vật tư thiết bị máy móc, kỹ thuật công nghệ của nước ngoài, từ đó tạo công nghệ nguồn để phát triển kỹ thuật mới ngay trong nước. Có thể nói, Nhập khẩu có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước. Điều đó cũng đồng thời nâng cao kỹ thuật sản xuất trong nước. Nước ta hiện nay vẫn là một nước chậm phát triển, nền kinh tế vẫn còn dựa vào sản xuất nông nghiệp là chính. Để thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ Nông nghiệp - Công nghiệp - Dịch vụ sang cơ cấu Công nghiệp - Nông nghiệp - Dịch vụ, và phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành nước công nghiệp thì quá trình Công nghiệp hoá Hiện đại hoá hiện nay của chúng ta cần phải đi theo một hướng mới đó là tận dụng các thành tựu khoa học của nhân lọai, ngòai việc phát huy một cách có hiệu qủa nỗ lực của đất nước. Giải pháp cơ bản để thực hiện mục đích này là mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại cũng như đa dạng hoá các hình thức kinh doanh quốc tế như việc : tạo điều kiện hình thành các liên doanh; thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI); xây dựng các chiến lược nhập khẩu máy móc thiết bị, các sáng kiến kỹ thuật, nguyên vật liệu quý hiếm…Nhằm tranh thủ vốn, kỹ thuật tiến tạo tiền đề cho Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. 3.3 Nhập khẩu là chiếc cầu nối giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Tình hình kinh tế thế giới hiện nay, các nước không ngừng mở rộng, thống nhất thị trường quốc tế thì sự phụ thuộc lẫn nhau trong quan hệ kinh tế quốc tế càng lớn mạnh.Việc hình thành các trung tâm thương mại, các khu vực mậu dịch tự do đã phá bỏ rào cản thương mại giữa các quốc gia, hàng hoá được tự do di chuyển trên thế giới. Quan hệ cung cầu trên thị trường không phải lúc nào cũng ở điểm cân bằng tối ưu mà nhiều khi do tác động của cả các nhân tố chủ quan lẫn khách quan gây nên những biến động trên thị trường hàng hoá. Trong điều kiện hiện nay khi mà tất cả các quốc gia đều tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế và tập trung phát triển nghành hàng có lợi thế của mình. Trong khi đó nhu cầu của con người ngày càng đa dạng. Chính vì vậy mà hàng loạt nhu cầu không thể đáp ứng bằng các nguần sản xuất trong nước. Điều này tất yếu dẫn đến việc nhập khẩu hàng hoá mang tính chu kỳ và tương đối ổn định. Nhập khẩu là một biện pháp để giải quyết sự mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa cung và cầu hàng hoá - dịch vụ, nghĩa là nó góp phần làm cho quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra thường xuyên và ổn định. Chúng ta có thể nhập khẩu hàng hoá về phục vụ tiêu dùng trực tiếp trong nước nhưng trong thế giới ngày nay người ta đang chú trọng vào nhập khẩu những nguyên vật liệu quí hiếm, máy móc thiết bị, công nghệ, phát minh khoa học về phục vụ sản xuất và nâng cao trình độ công nghệ trong nước. Nhập khẩu máy móc và công nghệ còn phục vụ chiến lược lâu dài là tiến tới làm chủ khoa học công nghệ góp phần nâng cao năng suất lao động. Nhập khẩu còn là một công cụ để chính phủ thực hiện điều tiết giá cả thị trường nội địa nhằm loại bỏ những tác động không lành mạnh của cơ chế thị trường như tình trạng đầu cơ ép giá. Tóm lại, thông qua những học thuyết trên ta đã thấy rõ được vai trò vô cùng quan trọng của thương mại quốc tế đối với bất kỳ nề kinh tế nào. Trong thực tế sự phát triển kinh tế thế giới những năm qua đã chứng minh , nền kinh tế mở sẽ tạo điều kiện để các quốc gia sớm hoà nhập vào nền kinh tế thế giới phát huy triệt để lợi thế của nước mình nhằm đẩy nhanh sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nền kinh tế đất nước. ii. Nội dung của hoạt động Nhập khẩu Hoạt động Nhập khẩu là một quá trình bao gồm nhiều khâu phức tạp, có liên quan chặt chẽ tới nhau, được bắt đầu từ việc nghiên cứu thị trường và kết thúc là tiếp nhận và tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu. Để đạt được mục tiêu nhập khẩu là mua đúng hàng bao gồm: đúng về giá cả hàng hoá; đúng về qui cách phẩm chất; đúng về khối lượng; đúng về thời gian… Thì nhiệm vụ của người quản lý hoạt động Nhập khẩu là vô cùng quan trọng đòi hỏi phải giám sát từ việc nghiên cứu thị trường xem xét xem cần phải mua hàng hoá gì, số lượng là bao nhiêu, khi nào thì mua…Trong khâu kiểm định và tiếp nhận hàng hoá phải kiểm tra xem hàng hoá có đảm bảo về số lượng không, chất lượng như thế nào, tàu giao hàng có đúng tiến độ không. Trong từng nội dung của hợp đồng nhập khẩu đòi hỏi phải nghiên cứu đầy đủ, kỹ lưỡng và đặt chúng trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Như vậy vai trò quản lý giám sát hoạt động nhập khẩu là vô cùng quan trọng và được thể hiện trong từng nội dung của quá trình nhập khẩu như sau: 1. Nghiên cứu thị trường Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với nền sản xuất hàng hoá, ta có thể hiểu thị trường trên hai giác độ: thị trường là tổng thể các quan hệ hàng hoá - tiền tệ hoặc thị trường là tổng khối lượng cầu có khả năng thanh toán và khối lượng cung có khả năng đáp ứng ở một mức giá nhất định . Theo quan điểm Maketting hiện đại thì Doanh nghiệp không thể bán những gì mình có mà phải bán những gì khách hàng cần , để làm được điều đó đòi hỏi Doanh nghiệp phải tổ chức điều tra nghiên cứu thị trường , phân tích nhu cầu, sở thích của thị trường, phân tích nhu cầu, sở thích của khách hàng, trên cơ sở đó để đưa ra những biện pháp ứng sử phù hợp đáp ứng tối đa nhu cầu khách hàng , nhất là đối với các Doanh nghiệp nhập khẩu thì nghiên cứu thị trường càng trở nên quan trọng . Thị trường quốc tế chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác nhau, thường là đa dạng và phong phú rất nhiều hơn so với thị trường nội địa. Các nhân tố này có thể mang tính vĩ mô như môi trường tự nhiên - kinh tế, môi trường xã hội, hoặc các nhân tố vi mô như tập quán , phương thức sản xuất, phương thức hoạt động của thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Việc xác định rõ nhân tố này giúp Doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu thị trường với các nội dung như sau: 1.1 Tìm hiểu thị trường trong nước Công việc đầu tiên của nghiên cứu thị trường là phải xác định được nhu cầu của thị trường và trả lời được câu hỏi : * Thị trường đang cần hàng gì? Trong thời dại ngày nay, khi mà khả năng sản xuất đã vượt quá nhu cầu tiêu dùng thì chúng ta không thể bán những gì mình có mà phải bán những gì khách hàng cần . Điều đó đòi hỏi nhà kinh doanh phải điều tra thăm giò, phân tích nhu cầu của khách hàng trong nước về mặt hàng , về qui cách phẩm chất , kiểu dáng , giá cả, màu sắc , bao gói sản phẩm,…Từ đó tìm ra được mặt hàng phù hợp để cung cấp cho khách hàng. Đối với nhà kinh doanh thì mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận do đó ta không thể cung cấp một mặt hàng ở bất kỳ một mức giá nào đó, mà ta phải xem xét xem ở một mức giá có khả năng cạnh tranh với các đối thủ khác nhưng vẫn đảm bảo lợi nhuận mục tiêu cho doanh nghiệp. *Tình hình sản xuất, cung ứng và tiêu thụ hàng hoá đó trên thị trường như thế nào? Việc xác định khả năng sản xuất trong nước đòi hỏi ta phải tìm hiểu xem có những Doanh nghiệp nào hiện đang sản xuất hoặc kinh doanh Nhập khẩu mặt hàng đó trong nước, số lượng hàng năm là bao nhiêu, khả năng cũng như uy tín của nhà cung cấp đó có lớn hay không. Bên cạnh đó, ta phải tìm hiểu khả năng tiêu dùng để biết được mặt hàng đó đã thoả mãn nhu cầu khách hàng hay chưa ( về số lương, chất lượng, dịch vụ,..) và kết thúc là phải phác hoạ lên được đường cung - cầu hàng hoá đó trên thị trường nội địa để xác định được một khối lượng nhất định và mức giá phù hợp * Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống sản phẩm ? Chu kỳ sống của sản phẩm được chia làm 4 giai đoạn đó là: Giai đoạn thâm nhập ( T1 ) Giai đoạn pháp triển ( T2 ) Giai đoạn bão hoà (T 3 ) Giai đoạn diệt vong ( T4) Hình 1 Biểu đồ chu kỳ sống sản phẩm T1 T2 T3 T4 Doanh nghiệp phải biết được mặt hàng định kinh doanh đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống từ đó đưa ra các chiến lược Marketting phù hợp nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh đề ra. Trước hết ta phải nghiên cứu chính sách của Nhà nước kinh tế đối ngoại nói chung và đối với hoạt động kinh doanh Nhập khẩu nói riêng, bởi vì nó có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả kinh doanh của mỗi Doanh nghiệp. Chính sách ngoại thương bao gồm: + Chính sách thị trường: là việc qui định các Doanh nghiệp trong nước sẽ được hợp tác làm ăn với những đối tác ở quốc gia nào, khi làm ăn với những đối tác đó thì sẽ được hưởng lợi ích gì từ phía Nhà nước. + Chính sách mặt hàng: là việc qui định xem các Doanh nghiệp xuất nhập khẩu được phép kinh doanh những mặt hàng nào, mặt hàng nào khuyến khích kinh doanh, mặt hàng nào hạn chế và mặt hàng nào cấm kinh doanh. + Chính sách hỗ trợ: là hàng loạt các biện pháp và công cụ mà Chính phủ sử dụng để hỗ trợ nhằm mục đích thúc đẩy nền ngoaị thương phát triển theo định hướng và mục tiêu mà Chính phủ đề ra. Các chính sách đó được qui định trong các văn bản pháp luật như: luật thương mại, luật Doanh nghiệp, luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài, …sự tác động của những chính sách này tạo ra những khó khăn và thuận lợi đối với hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp. Dự đoán xu hướng biến động của giá cả Xu hướng biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới rất phức tạp, bởi vì nó chịu sự tác động của nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội. Để có thể dự đoán được sự biến động của giá hàng hoá đó trước hết ta phải dựa vào kết quả nghiên cứu thị trường trong nước cũng như thị trường thế giới về hàng hoá, đánh giá đúng sự tác động của môi trường vi mô và vĩ mô tới lượng cung - cầu, giá cả của hàng hoá, Các nhân tố ảnh hưởng tới giá cả hàng hoá là: + Nhân tố mang tính chu kỳ: có hai nhân tố làm giá cả thay đổi mang tính chu kỳ đó là chu kỳ nền kinh tế và tính thời vụ của hàng hoá. Sự vận động có tính chất qui luật của nền kinh tế thị trường có tác động lớn đến giá cả hàng hoá. Nến kinh tế biến động theo chu kỳ hết hưng thịnh đến suy thoái, các chu kỳ đó cứ lặp đi lặp lại, tuy nhiên khoảng cách giữa các thời kỳ suy thoái thì luôn biến đổi. Khi nền kinh tế hưng thịnh thì giá cả ổn định, nhu cầu tăng và ngược lại. Yếu tố thời vụ cũng tác động làm giá cả thay đổi, Đối với một số loại hàng hoá khi vào thời vụ chính thì cung tăng do đó giá cả có xu hướng giảm., ngược lại có những hàng hoá giá cả tăng lên vào một mùa nhất định còn ở thời điểm khác thì lại không có người mua. + Nhân tố cạnh tranh: Cạnh tranh làm cho giá cả biến động theo xu hướng khác nhau, tuỳ theo vào đối tượng tham gia cạnh tranh là người mua hay người bán. cạnh tranh gay gắt sẽ có tác động làm giảm giá cả hàng hoá hình thành giá bình quân trên thị trường. + Nhân tố lạm phát: Lạm phát làm giá cả hàng hoá tăng lên. Đây chính là yếu tố tác động rất mạnh đến giá cả hàng hoá, khi mà giá trị của đồng tiền giảm thì lạm phát tăng nhanh và giá cả có biến động lớn. Khách hàng mục tiêu của Doanh nghiệp là ai? Khách hàng mục tiêu là tập hợp những người tiêu dùng, các tổ chức có nhu cầu sử dụng các sản phẩm mà Doanh nghiệp nhập khẩu dự định cung cấp và họ có khả năng thanh toán ở một mức giá nhất định. Trên cơ sở việc phân đoạn thị trường, ta sẽ tìm ra những đoạn thị trường mà ở đó chứa đựng tập hợp khác hàng mục tiêu của Doanh nghiệp. Ta có thể phân đoạn thị trường dựa trên một số tiêu thức như : thu nhập đầu người, lứa tuổi, giới tính, tập quán, lĩnh vực sản xuất kinh doanh ( đối với khách hàng là các tổ chức). 1.2 Nắm vững thị trường nước ngoài. Một trong những đặc điểm của kinh doanh quốc tế là phải tiến hành hoạt động kinh doanh ở môi trường rộng lớn và hoàn toàn xa lạ, luôn biến động không ngừng, chịu đựng sự chi phối của nhiều yếu tố. Vì vậy, nghiên cứu thị trường nước ngoài là cần thiết cho hoạt động kinh doanh quốc tế nói chung và hoạt động kinh doanh Nhập khẩu nói riêng. Nghiên cứu nguồn hàng cung cấp trên thế giới. Cũng một sản phẩm đó nhưng có thể có nhiều cung cấp khác nhau đòi hỏi chúng ta phải tìm hiểu kỹ từng nguồn cung cấp, đánh giá những mặt mạnh và điểm yếu của họ trên cơ sở phân tích các đặc điểm sau + Qui cách, phẩm chất hàng hoá như thế nào. + Khả năng sản xuất, cung ứng ra sao. + Mối quan hệ giữa Doanh nghiệp nhập khẩu với nhà cung cấp đó có thân thiện hay không. + Phương thức thanh toán, giao nhận hàng hoá như thế nào… Nghiên cứu giá cả hàng hoá nhập khẩu trên thế giới( giá cả biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá) tuy nhiên trong ngoại thương giá cả lại càng phức tạp do hàng hoá được mua bán giữa các nước khác nhau, chi phí vận chuyển, bảo hiểm cao, tỷ giá hối đoái luôn biến động, chính sách thuế quan của các nước khác nhau nên giá cả hàng hoá cũng có những biến động nhất định. Đòi hỏi nhà nhập khẩu phải nắm được giá cả của hàng hoá định nhập và xu hướng biến động của nó. Cấu thành giá cả hàng hoá nhập khẩu bao gồm các nhân tố sau: + Giá vốn hàng nhập khẩu. + Giá bao bí, đóng gói. + Chi phí kiểm định hàng hoá nhập khẩu. + Chi phí bốc dỡ, vận chuyển. + Chi phí bảo hiểm. + Thuế xuất nhập khẩu . + Các chi phí khác tuỳ theo điều kiện giao dịch, giá hàng hoá nhập khẩu còn phụ thuộc vào điều kiện cơ sở giao hàng, thông thường trong ngoại thương người ta thường dùng hai điều kiện cơ sở giao hàng là FOB & CIF. Vì vậy để so sánh giá cả hàng hoá người ta phải đưa chúng về cùng một điều kiện cơ sở giao hàng theo Công thức sau. FOB + F CIF = 1+( 1- R ) Trong đó: - CIF Là tiền hàng, bảo hiểm và cước phí - FOB là giá giao tại boong tàu. - F là cước phí vận chuyển. - R là xuất phí bảo hiểm. 2. Lựa chọn đối tác giao dịch. Sau khi nghiên cứu thị trường cho phép đơn vị kinh doanh có thể lựa chọn thị trường, thời cơ thuận lợi lựa chọn phương thức mua bán và điều kiện giao hàng thích hợp. Tuy nhiên trong một số trường hợp thì kết quả kinh doanh còn phụ thuộc nhiều vào đối tác giao dịch. Trong cùng một hợp đồng như nhau nhưng việc giao dịch với đối tác này thì thành công nhưng với đối tác khác thì thất bại. Do đó nhiệm vụ quan trọng của Doanh nghiệp là phải phân tích tìm hiểu kỹ về đối tác với mục đích là tìm được nhà cung cấp khả thi nhất, có lợi cho Doanh nghiệp nhất. Một nhà cung cấp hay được ưa chuộng là người cung cấp chiều theo khách hàng của mình, anh ta cung cấp hàng với chất lượng rõ ràng và giao hàng đúng hẹn như đã hứa, với một giá cả phải chăngđáp ứng được những đòi hỏi không biết được trước chẳng hạn như khối lợng buôn bán đột ngột tăng- giảm; các thay đổi về tiêu chuẩn kỹ thuật; các vấn đề về dịch vụ và các yêu cầu chính đáng khác. người cung cấp tốt thực hiện bước đầu là việc đề xuất các cách tốt hơn trong việc phục vụ khách hàng và cố giắng tìm ra các cách mới trong việc mở rộng các sản phẩm có tính kinh tế. Người cung cấp tốt sẽ báo trước ngay từ đầu về thời điểm khan hiếm nguyên liệu, các cuộc đình công và tất cả những gì ảnh hưởng tới hoạt động của họ. Anh ta sẽ cung cấp các chuyên gia công nghệ và tác nghiệp khi khách hàng yêu cầu. Anh ta vẫn giữ được sự cạnh tranh trên cơ sở liên tục. Cụ thể các yếu tố có thể dùng để xác định một nhà cung cấp có triển vọng là: - Tình hình sản xuất kinh doanh của đối tác: lĩnh vực sản xuất kinh doanh, phạm vi kinh doanh, chất lượng sản phẩm, giá cả, khả năng cung cấp lâu dài, thường xuyên, cung cấp dịch vụ sau bán hàng. - Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật của đối tác cho thấy ưu thế của đối tác trên thương trường, thực trạng khả năng cung cấp của họ. - Thái độ, quan điểm kinh doanh của đối tác uy tín và mối quan hệ với bạn hàng khác của đối tác. - Tình hình chính trị của nước đối tác: Đây là vấn đề quan trọng, nhất là trên Thế giới xảy ra nhiều biến động và xung đột lớn về chính trị, nó làm ảnh hưởng không tốt đến quá trình nhập khẩu. 3. Đàm phán và ký kết hợp đồng. 3.1 Đàm phán. Đàm phán là việc các chủ thể kinh doanh trao đổi ý kiến nhằm đi tới thống nhất các nhận định, thống nhất các quan niệm, thống nhất cách ứng sử những vấn đề nảy sinh trong quan hệ buôn bán giữa hai hay nhiều bên. Nhờ vậy, đàm phán thực chất là việc thoả thuận để phân chia lợi ích giữa các bên trên cơ sở thoả thuận về các vấn đề sau: - Tên hàng. - Phẩm chất hàng hoá. - Số lượng. - Bao bì, đóng gói. - Giá cả. - Thanh toán, bảo hiểm - Phạt hợp đồng, bồi thường thiệt hại. - Điều kiện trọng tài. * Trong đàm phán kinh doanh quốc tế người ta có thể áp dụng ba hình thức là: Đàm phán giao dịch qua thư tín: Ngày nay thư từ và điện tín vẫn còn là phương tiện chủ yếu để giao dịch quốc tế những cuộc tiếp xúc ban đầu nhầm thiết lập mối quan hệ làm ăn thường thông qua thư tín và sau naỳ việc duy trì mối quan hệ giữa các bên cũng phải thông qua thư tín thương mại. Ưu điểm của phương pháp này là tiết kiệm chi phí và một lúc có thể tiếp xúc với nhiều đối tác. Nhược điểm là phương pháp này đòi hỏi nhiều thời gian chờ đợi, đôi khi bỏ lỡ mất cơ hội kinh doanh.  Đàm phán qua điện thoại: Các bên trao đổi thoả thuận với nhau thông qua đàm thoại trực tiếp tạo điều kiện cho người giao dịch tiến hành các công việc kinh doanh kịp thời đùng tiến độ. Nhược điểm của phương pháp này là chi phí tốn kém, không thăm giò được quan điểm thái độ của đối tác.  Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp: là việc các bên trực tiếp gặp gỡ nhau tại một địa điểm nhất định để thoả thuận, trao đổi những vấn đề liên quan tới quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng ngoại thương. Ưu điểm của hình thức đàm phán này là đẩy nhanh tốc đội giải quyết vấn đề, tạo điều kiện cho việc hiểu biết và duy trì mối quan hệ giữa các bên tốt hơn. Nhược điểm là chi phí cao, tốn kém thời gian. * Các bước đàm phán: Đối với Doanh nghiệp nhập khẩu, thông thờng đàm phán trải qua các bước sau.  Hỏi giá( inquiry): Về phương diện pháp luật thì đây là lời thỉnh cầu bước vào giao dich. Nhưng xét về phương diện thương mại thì đây là việc người mua đề nghị người bán báo cho mình về giá cả hàng hoá và các điều kiện mua hàng.  Chào hàng(offer): Luật pháp coi đây là lời đề nghị ký kết hợp đồng và như vậy phát giá chào hàng có thể do người bán hoặc ngừơi mua đưa ra. Nhưng trong thương mại thì chào hàng, là việc người bán thể hiện rõ ý định bán hàng của mình. Chào hàng có hai loại là chào hàng cố định và chào hàng tự do. + Chào hàng cố định (firm offer): là việc chào bán một lô hàng nhất định cho một người mua, có nêu rõ thời gian mà người chào hàng bị ràng buộc trách nhiệm về lời đề nghị của mình. Trong thời gian hiệu lực của chào hàng, nếu người mua chấp nhận hoàn toàn chào hàng đó thì hợp đồng coi như được giao kết. + Chào hàng tự do (free offer): là loại chào hàng mà người bán không ràng buộc trách nhiệm của mình . việc chào hàng tự do cần phải làm rõ bằng cách ghi “ chào hàng không cam kết” hoặc “ chào hàng ưu tiên cho người mua trứơc. cùng một lúc, với cùng một lô hàng người ta có thể chào bán tự do cho nhiều khách hàng khác nhau. Việc khách hàng chấp nhận hoàn toàn các điều kiện của chào hàng tự do không có nghĩa là hợp đồng đã được ký kết.  Hoàn giá: là việc mặc cả về giá cả hoặc về các điều kiện dao dịch . khi người được chào hàng không chấp nhận hoàn toàn chào hàng đó , mà đưa ra một đề nghị mới thì đề nghị mới này là trả giá (bid) . khi có sự trả giá, chào hàng trước coi như bị huỷ bỏ. Trong buôn bán quốc tế, mỗi lần giao dịch thường trải qua nhiều lần trả giá mới đi đến kết thúc. Như vậy, hoàn giá bao gồm nhiều sự trả giá.  Đặt hàng(order): là lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua đưa ra dưới hình thức đặt hàng. Trong đặt hàng người mua nêu cụ thể về hàng hoá định mua và tất cả những nội dung cần thiết cho việc ký kết hợp đồng. Trong thực tế, người ta chỉ đặt hàng với các khách hàng có quan hệ thường xuyên. Bởi vậy, ta thường gặp những đặt hàng chỉ nêu: tên hàng, qui cách phẩm chất, số lượng, thời hạn giao hàng và một vài điều kiện riêng biệt đối với lần đặt hàng đó. Về những điều kiện khác, hai bên áp dụng điều kiện chung đã thoả thuận với nhau hoặc theo những điều kiện của hợp đồng đã ký kết trong lần giao dịch trước.  Chấp nhận (acceptance): là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện chào hàng (hoặc đặt hàng) mà phía bên kia đưa ra. Khi đó hợp đồng được thành lập. Một chấp nhận muốn có hiệu lực về mặt pháp luật, cần phải đảm bảo điều kiện dới đây: + Phải được chính người nhận giá chấp nhận; + Phải đồng ý hoàn toàn vô điều kiện mọi nội dung của chào hàng ( hoặc đặt hàng); + Phải chấp nhận trong thời gian hiệu lực của chào hàng; + Chấp nhận phải được truyền đạt đến người phát ra đề nghị.  Xác nhận(confirmation): hai bên mua và bán, sau khi đã thống nhất với nhau về kinh doanh giao dịch, có khi cẩn thận ghi lại mọi điều đã thoả thuận, gửi cho đối phương. Đó là văn kiện xác nhận, văn kiện do bên bán gửi thường gọi là giấy xác nhận bán hàng, do bên mua gửi là giấy xác nhận mua hàng. xác nhận thường được lập thành hai bản, bên lập xác nhận ký trước rồi gửi cho bên kia. Bên kia ký xong giữ lại một bản rồi gửi trả lại một bản. việc xác nhận cũng có thể thực hiện bằng một văn bản có chữ ký của hai bên, gọi là bản hợp đồng hoặc là bản thoả thuận(Agreement). Hình 2: Qui trình đàm phán được thể hiện theo sơ đồ sau. 3.2 Ký kết hợp đồng ngoại thương Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương. ở các nước tư bản phát triển, hợp đồng có thể được lập dưới hình thức văn bản hoặc hình thức miệng, hoặc hình thức mặc nhiên. Nhưng ở nước ta hợp đồng nhất thiết phải làm dới hình thức văn bản. Khi ký kết hợp đồng các bên cần chú ý một số đặc điểm như sau: - Cần có sự thoả thuận thống nhất với nhau tất cả mọi điều khoản cần thiết trước khi ký kết. Một khi đã ký kết rồi thì việc thay đổi một điều khoản nào đó sẽ rất khó khăn và bất lợi. - Văn bản hợp đồng thường do một bên dự thảo. trước khi ký kết, bên kia cần xem xét kỹ lưỡng, cẩn thận đối chiếu với những thoả thuận đã đạt được trong đàm phán, tránh việc đối phương có thể thêm vào hợp đồng một cách khéo léo những điểm chưa thoả thuận và bỏ qua không ghi vào những điều đã thống nhất. - Hợp đồng cần được trình bày rõ ràng, sáng sủa, cách trình bày phản ánh đúng nội dung đã thoả thuận, không để tình trạng mập mờ, có thể suy luận ra nhiều cách. - Những điều khoản trong hợp đồng phải xuất phát từ đặc điểm của hàng hoá định mua bán, từ những điều kiện, hoàn cảnh tự nhiên, xã hội… của nước người bán, người mua, từ đặc điểm quan hệ giữa hai bên. Trong hợp đồng không có những điều khoản trái với luật lệ hiện hành ở nước người bán và nước người mua. - Người đứng ra ký kết hợp đồng phải là người có thẩm quyền . - Ngôn ngữ dùng soạn thảo hợp đồng là thứ ngôn ngữ mà cả hai bên cùng thông thạo. - Một hợp đồng ngoại thương gồm các phần sau đây: + Số hợp đồng. Hỏi giá đặt hàng Chấp nhận Hoàn giá Xác nhận + Ngày tháng và nơi ký kết hợp đồng. +Tên, địa chỉ các bên ký kết. + Các điề khoản hợp đồng bao gồm các điều khoản sau: + Tên hàng, qui cách phẩm chất , số lượng, bao bì, ký mã hiêu. + Giá cả, đơn giá, tổng giá trị hàng hoá. + Phương thức vận chuyển. 4. Tổ chức thực hiện hợp đồng ngoại thương. Sau khi tất cả các công việc từ khâu nghiên thị trường và lựa chọn đối tác, đàm phán các điều khoản hợp đồng và kết thúc là việc ký kết hợp đồng nhập khẩu, các điều khoản của hợp đồng ký kết nói lên được phần nào triển vọng về kết quả kinh doanh . Để đạt được mục tiêu kinh doanh đề ra đòi hỏi khả năng tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu của các Doanh nghiệp . Cụ thể là cá nhân viên trực tiếp thực hiện hoạt động nhập khẩu phải tổ chức thực hiện hợp đồng một cách tốt nhất, vừa đảm bảo chất lượng hàng hoá nhập khẩu vừa đảm bảo đúng tiến độ thời gian đề ra. Một yêu cầu nữa của quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu là phải tuân thủ đúng pháp luật( luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế mà nước nhập khẩu tham gia ) và các thông lệ quốc tế Đối với các đơn vị kinh doanh nhập khẩu, nội dung của quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng bao gồm các bước sau: Hình 3: Qui trình tổ chức thực hiện hợp đồng 4.1 Xin giấy phép nhập khẩu. Giấy phép nhập khẩu là một công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý hoạt động nhập khẩu, vì thế sau khi ký kết hợp đồng nhập khẩu Doanh nghiệp nhập khẩu phải Xin giấy phép nhập khẩu Mở thư tín dụng (L/C) nếu thanh toán bằng L/C Thuê tàu lưu cước Mua bảo hiểm hàng hoá Làm thủ tục thanh toán Nhận hàng Làm thủ tục hải quan Khiếu nại và giải quyết khiếu nại tiến hành xin giấy phép nhập khẩu để thực hiện hợp đồng đó. Việc cấp giấy phép nhập khẩu do hai cơ quan có thẩm quyền cấp đó là: Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan. - Bộ Thương mại cấp giấy phép nhập khẩu những mặt hàng mậu dịch. - Tổng cục Hải quan cấp giấy phép nhập khẩu những mặt hàng phi mậu dịch. Hiện nay trong xu thế tự do hoá thương mại, nhiều nước đã giảm bớt số mặt hàng phải xin giấy phép nhập khẩu chuyến. ở nước ta, theo nghị định 89/Chính phủ ngày 25/12/95, kể từ ngày 1/2/96 trở đi chỉ còn 9 nhóm hàng phải xin cấp giấy phép nhập khẩu theo chuyến.  Điều kiện để một Doanh nghiệp được cấp giấy phép nhập khẩu là: - Thành lập theo đúng pháp luật, và cam kết tuân tủ các qui định của luật hiện hành. - Doanh nghiệp có mức vốn lưu động tối thiểu ở thời điểm đăngký kinh doanh là 200 000 USD, riêng những Doanh nghiệp ở các tỉnh miền núi và các tỉnh , vốn lưu động tối thiểu là 10 000 USD. Doanh nghiệp muốn được cấp giấy phép nhập khẩu phải nộp lệ phí 1 000 000 đồng trước khi nhận giấy phép. 4.2 Mở L/C. Trong thương mại quốc tế hiện nay có nhiều phương thức thanh toán như: tín dụng chứng từ; phương thức nhờ thu; phương thức điện chuyển tiền…Nhưng sử dụng rộng rãi nhất vẫn là phương pháp tín dụng chứng từ. Vì vậy, nếu trong hợp đồng ngoại thương qui định phương thức thanh toán là tín dụng chứng từ thì việc đầu tiên là phải mở L/C theo đúng như qui định trong hợp đồng. Thời gian mở L/C phụ thuộc thời gian giao hàng, nếu như hợp đồng không qui định thời gian cụ thể thì thông thường thời gian này là 15 - 20 ngày trước khi giao hàng. Cơ sở để mở L/C phụ thuộc vào các điều khoản của hợp đồng. Đơn vị nhập khẩu dựa vào cơ sở đó làm đơn xin mở L/C theo mẫu của ngân hàng. 4.3 Thuê tàu – lưu cước. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, việc ai thuê tàu, thuê tàu tính theo hình thức nào được tiến hành dựa trên ba căn cứ : Điều khoản hợp đồng, đặc điểm hàng hoá, điều kiện vận tải. Nếu điều kiện cơ sở giao hàng là FOB thì bên nhập khẩu phải thuê tàu để chở hàng, nếu điều kiện cơ sở giao hàng là CIF thì bên nhập khẩu không phải thuê tàu mà nghĩa vụ đó thuộc về phía Xuât khẩu. Tuỳ theo đặc điểm của hàng hoá kinh doanh, Doanh nghiệp lựa chọn phương thức thuê tàu cho phù hợp: thuê tàu chợ hay tàu chuyến. Nếu nhập khẩu không thường xuyên hoặc khối lượng lớn thì nên thuê tàu chuyến. nếu nhập khẩu khối lượng nhỏ thì nên thuê tàu chợ. 4.4 Mua bảo hiểm hàng hoá. Hàng hoá chuyên trở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì thế, bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương. Hợp đồng bảo hiểm có thể là hợp đồng hảo hiểm bao hoặc là hợp đồng bảo hiểm chuyến. khi mua bảo hiểm bao, Doanh nghiệp ký kết hợp đồng từ đầu kỳ, mỗi khi giao hàng xuống vận chuyển chỉ cần gửi đến Công ty bảo hiểm một thông báo bằng văn bản gọi là:”Giấy báo bắt đầu vận chuyển”. Khi mua bảo hiểm chuyến, Doanh nghiệp gửi đến Công ty bảo hiểm một văn bản gọi là: “ Giấy yêu cầu bảo hiểm” . trên cơ sở đó Doanh nghiệp và Công ty bảo hiểm đàm phán ký kết hợp đồng bảo hiểm. Doanh nghiệp có thể lựa chọn nhiều hình thức bảo hiểm theo điều kiện bảo hiểm loại A, B, C. Để lựa chọn điều kiện bảo hiểm thích hợp cần căn cứ vào tính chất, dặc điểm hàng hoá, thời tiết, khả năng khả năng vận chuyển bốc dỡ, đặc điểm quãng đường. 4.5 Làm thủ tục hải quan. Hàng hoá, khi đi qua biên giới quốc gia để nhập khẩu đều cần phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan gồm ba bước chủ yếu sau: a) khai báo hải quan. Chủ hàng phải khai báo chi tiết về hàng hoá lên tờ khai hải quan một cách trung thực và chính xác. Tờ khai phải được xuất trình cùng một số chứng từ như: Giấy phép nhập khẩu, hoá đơn thương mại, phiếu đóng gói, bảng kê khai chi tiết, vận đơn hàng hoá,… b) Xuất trình hàng hoá. Hải quan được phép kiểm tra hàng hoá nếu thấy cần thiết. Hàng hoá nhập khẩu phải được sắp xếp trật, thuận tiện cho việc kiểm tra. Chủ hàng chịu chi phí, nhân công để đóng, mở các kiện hàng. c) Thực hiện các quyết định của Hải quan. Sau khi kiểm tra các giấy tờ hàng hoá, Hải quan đưa ra quýêt định cho phép hàng hoá qua biên giới( thông quan) , hoặc cho hàng hoá đi qua biên giới với một điêù kiện kem theo hoặc hàng không được phép qua biên giới… chủ hàng phải thực hiện nghiêm chỉnh các qui định của Hải quan. 4.6 Nhận hàng và kiểm tra chất lượng hàng hoá. Để nhận hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài về, đơn vị nhập khẩu phải làm các công việc sau: - Ký kết hợp đồng uỷ thác cho cơ quan vận tải về việc nhận hàng. - Xác nhận với cơ quan vận tải về kế hoạch tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu, từng quí, từng năm, cơ cấu hàng hoá, lịch tàu, điều kiện kỹ thuật khi bốc dỡ, vận chuyển, giao nhận. - Cung cấp tài liệu kỹ thuật cho việc giao hàng ( vận đơn, lệnh giao hàng…) . - Theo dõi việc giao nhận, đôn đốc cơ quan vận tải lập biên bản (nếu cần) về hàng hoá và giải quyết trong phạm vi của mình trong những vấn đề xảy ra trong việc giao nhận. - Thanh toán cho cơ quan vận tải những khoản phí tổn về giao nhận, bốc xếp, bảo quản, vận chuyển hàng hoá nhập khẩu. - Thông báo cho các đơn vị đặt hàng chuẩn bị tiếp nhận hàng hoá. - Chuyển hàng hoá về kho của Doanh nghiệp hoặc giao trực tiếp cho đơn vị đặt hàng. - Kiểm tra hàng hoá: hàng hoá nhập khẩu về qua cửa khẩu phải được kiểm tra. Mỗi cơ quan tiến hành kiểm tra theo từng chức năng, quyền hạn của mình. Nếu phát hiện không bình thường thì mời cơ quan giám định đến lập biên bản giám định. Cơ quan vận tải kiểm tra niêm phong kẹp chì trước khi dỡ hàng ra khỏi phương tiện vận tải. Đơn vị nhập khẩu với tư cách là một bên đứng tên trong vận đơn cũng phải kiểm tra hàng hoá và lập thư dự kháng nếu nghi ngờ hoặc thật sự hàng hoá có tổn thất, thiếu hụt hoặc không đúng trong hợp đồng. 4.7 Làm thủ tục thanh toán. Thanh toán là khâu quan trọng trong ngoại thương. Do đặc điểm buôn bán với nước ngoài rất phức tạp nên thanh toán trong thương mại quốc tế phải hết sức thận trọng, tránh để xảy ra tổn thất. Có rất nhiều phương thức thanh toán như: tín dụng chứng từ( Mở L/C), phương thức nhờ thu(collection), chuyển tiền(T/T)…Việc thực hiện theo phương thức nào phải qui định cụ thể trong hợp đồng. Doanh nghiệp phải tiến hành thanh tóan theo đúng điều kiện qui định trong hợp đồng. 4.8 Khiếu nại và sử lý khiếu nại. Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng xuất nhập khẩu thấy hàng hoá nhập khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu hụt, mất mát, thì cần lập hồ sơ khiếu nại . Đối tượng khiếu nại có thể là bên bán, người vận tải, cơ quan bảo hiểm… tuỳ theo nguyên nhân của từng tổn thất. Bên nhập khẩu phải viết đơn khiếu nại và gửi cho bên bị khiếu nại trong thời hạn qui định. Đơn khiếu nại phải kèm theo những bằng chứng về tổn thất như: biên bản giám định hàng hoá, hoá đơn thương mại, vận đơn đường biển, đơn bảo hiểm ( nếu khiếu nại Công ty bảo hiểm)… Tuỳ theo nội dung khiếu nại mà các bên có cách giải quyết khác nhau. Nếu không tự giải quyết được thì làm đơn gửi trọng tài kinh tế hoặc toà án kinh tế xét xử theo luật pháp hiện hành. 5. Tổ chức tiêu thụ hàng hoá. Sau khi nhập hàng từ nước ngoài về, Doanh nghiệp giao hàng cho đơn vị đặt hàng hoặc tổ chức tiêu thụ tốt trên thị trường nội địa. Doanh nghiệp nhập khẩu cần tiến hành tiêu thụ hàng hoá có hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao nhất cho Doanh nghiệp, tạo điều kiện tái đầu tư vào quá trình nhập khẩu tiếp theo, để tiêu thụ hàng hoá có kết quả cao, Doanh nghiệp cần phải : - Xác định các kênh phân phối hàng hoá và hình thức bán. - Tiến hành quảng cáo và xúc tiến bán hàng. - Xác định mức giá cụ thể trên cơ sở cung cầu thị trường và chi phí của Doanh nghiệp. - Tổ chức nghiệp vụ bán hàng cụ thể tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty. III. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Doanh nghiệp. Việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh nhập khẩu là hết sức cần thiết, bởi thông qua đó ta sẽ đặt ra được những định hướng chiến lược kinh doanh, dự đoán xu hướng biến động của thị trường. Phát huy những lợi thế đồng thời có biện pháp phòng trừ những rủi ro, tạo điều kiện đạt được mục tiêu kinh doanh của Doanh nghiệp. Kinh doanh nhập khẩu chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, ta có thể chia ra thành ba nhóm là: các yếu tố kinh tế; các yếu tố chính trị; pháp luật và các yếu tố xã hội. 1. Các yếu tố kinh tế. Sự phát triển của nền sản xuất trong và ngoài nước: Hoạt động nhập khẩu chịu ảnh hưởng của nền sản xuất trong và ngoài nước. Sự phát triển của nền sản xuất trong nước tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ đối với những sản phẩm nhập khẩu, tạo ra hàng hoá thay thế sản phẩm nhập khẩu. Còn nếu sản xuất trong nước kém phát triển không thể sản xuất ra những mặt hàng đòi hỏi kỹ thuật công nghệ cao thì nhu cầu nhập khẩu sẽ tăng lên. Mặt khác nếu nền sản xuất nước ngoài hiện đại, tạo ra những sản phẩm tiện dụng, chất lượng cao, hấp dẫn nhu cầu tiêu dùng sẽ thúc đẩy hoạt động nhập khẩu. Tuy nhiên không phải lúc nào thị trường cũng vận động theo đúng qui luật tự nhiên của nó. Đôi khi để tạo sự độc quyền hoặc bảo hộ sản xuất trong nước, Chính phủ đã tạo ra những rào cản ngăn chặn luồng hàng nhập khẩu bằng việc sử dụng các công cụ thuế quan và phi thuế quan. Sự biến động của thị trường trong và ngoài nước: Sự biến động của thị trường trong và ngoài nước cũng ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động nhập khẩu bởi vì hoạt động kinh doanh nhập khẩu như một chiếc cầu nối giữa thị trường trong nước với thị trường nước ngoài tạo ra sự gắn bó tác động qua laị lẫn nhau. Đặc biệt đối với những nền kinh tế mở, các hàng rào mậu dịch đã được dỡ bỏ thì thị trường trong và ngoài nước đã thực sự hoà quyện vào một. Khi có sự thay đổi giá cả, cung- cầu về mặt hàng ở thị trường trong nước thì ngay lập tức có sự thay đổi lượng hàng nhập khẩu. Cũng như vậy, thị trường nước ngoài quyết đinh tới việc thoả mãn các nhu cầu trong nước, sự biến động của nó về khả năng cung cấp sản phẩm mới, về sự đa dạng hàng hoá, dịch vụ được phản ánh thông qua chiếc cầu nhập khẩu. Mức độ tăng trưởng kinh tế trong nước và thế giới: Nền kinh tế trong nước phát triển dẫn đến thu nhập của người dân tăng lên, làm tổng cầu nội địa dịch chuyển kéo theo giá cả hàng hoá tăng lên. sự chênh lệch về giá cả giữa thị trường trong và ngoài nước sẽ thúc đẩy hoạt động nhập khẩu phát triển. Sự phát triển kinh tế làm cho tỷ giá hối đoái thay đổi và tác động tới giá cả tương đối của hàng hoá trong nước so với hàng hoá quôc tế. Tỷ giá hối đoái có tác động mạnh mẽ tới hoạt động nhập khẩu vì tính giá thanh toán trong nhập khẩu phải dùng đến tỷ giá hối đoái. Sự biến động của tỷ giá hối đoái gây ra những biến đổi lớn những biến đổi lớn trong tỷ trọng giữa xuât khẩu và nhập khẩu. Tỷ giá hối đoái tăng sẽ khuyến khích xuât khẩu và hạn chế nhập khẩu và ngược lại. 2. Các yếu tố xã hội. Con người là một tế bào của xã hội, bất kỳ hoạt động nào của con người đều tác động tới các yếu tố xã hội và ngược lại. Các yếu tố xã hội có thể khái quát thành các yếu tố văn hoá, tập quán, dân số… có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Doanh nghiệp. Trong quá trình nghiên cứu thị trường Doanh nghiệp phải chú ý tới các yếu tố văn hoá của đối tượng cần nghiên cứu như: tập quán tiêu dùng, niềm tin, lối sống, tôn giáo…nhẵm đưa ra những nhận định chính xác về thị trường. Ví dụ khi nghiên cứu thị trường ấn độ, ta biết được rằng phần lớn dân số ấn độ theo đạo Hồi do đó ý định kinh doanh thịt bò tại thị trường ấn độ bị loại bỏ. Văn hoá còn ảnh hưởng trong quá trình đàm phán và ký kết hợp đồng. Ví dụ đối với người Trung quốc thì buổi đấu tiên đàm phán chỉ là để làm quen nhau chứ chưa đi vào vấn đề đàm phán kinh doanh. Nhưng đối với người Mỹ hoặc người Anh thì mục tiêu của họ là phải đạt được mục đích ngay buổi đầu của cuộc đàm phán. Biết được yếu tố văn hoá của từng dân tộc giúp ta đưa ra những đối sách kinh doanh phù hợp . 3. Yếu tố chính trị pháp luật Môi trường chính trị của mỗi quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng. sự ổn định về mặt chính trị sẽ giúp cho mối quan hệ hai bên được bền vững, sự anh toàn về mặt pháp luật sẽ đảm bảo cho lợi ích của hai bên được thực hiện. Chính vì vậy, trước khi thiết lập quan hệ với đối tác, doanh nghiệp cần tìm hiểu và tuân thủ các qui định của chính phủ của các nước liên quan, tập quán và luật pháp quốc tế có liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới hoạt động nhập khẩu. Trong nhiều trừơng hợp, yếu tố chính trị và pháp luật trở thành tiêu thức buộc các nhà kinh doanh phải quan tâm khi chọn thị trường nhập khẩu cho mình . Mỗi quốc gia lại có những đặc trưng riêng trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh nhập khẩu . Một số nước tập trung vào công cụ thuế, trong khi đó những nước khác lại thông qua giấy phép, hạn nghạch, điều tiết tỷ giá hối đoái hoặc các công cụ phi thuế quan như kiểm dịch vệ sinh an toàn sản phẩm, qui đinh về tiêu chuẩn kỹ thuật… 4. Các yếu tố cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động nhập khẩu yếu tố hạ tầng bao gồm : hệ thống giao thông vận tải; hệ thống thông tin liên lạc và hệ thống tài chính ngân hàng. Việc thực hiện hoạt động nhập khẩu không thể tách rời với vận chuyển và thông tin liên lạc. Với hệ thống thông tin nhanh, rộng khắp và hệ thống giao thông thuận tiện, an toàn cho phép doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội kinh doanh, đơn giản hoá hoạt động nhập khẩu, giảm bớt được chi phí và rủi ro, nâng cao tính kịp thời, nhanh gọn trong quá trình nhập khẩu, tăng vòng quay của vốn. Hệ thống tài chính ngân hàng có vai trò quan trọng trong quản lý, cung cấp vốn và dịch vụ thanh toán nên nó can thiệp đến hoạt động của tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế, dù doanh nghiệp đó lớn hay nhỏvà ở thành phần kinh tế nào. Hoạt động nhập khẩu sẽ không có hiệu quả cao nếu như thiếu sự trợ giúp của hệ thống ngân hàng. Như vậy có thể nói, hoạt động nhập khẩu được tiến hành trong một môi trường kinh doanh rộng lớn, chịu sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của nhiều nhân tố tự nhiên và xã hội. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình các doanh nghiệp cần phảitiến hành nghiên cứu môi trường, xác định rõ những thuận lợi và khó khăn do môi trường xung quanh gây ra để có những chiến lược kinh doanh phù hợp nhằm tận dụng mọi thời cơ và tối thiểu hoá các rủi ro cho doanh nghiệp. Trên đây là những lý luận cơ bản giúp chúng ta hiểu được khái niệm, nội dung hoạt động nhập khẩu cũng như các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu . Đó là cơ sở để ta đi vào phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf61108_5321.pdf
Luận văn liên quan