MỤC LỤC
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.KHÁI NIỆM VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1 Khái niệm chứng khoán
1.2 Khái niệm thị Trường chứng khoán
1.3 Đặc điểm thị trướng chứng khoán
2. PHÂN LOẠI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
2.1 Căn cứ vào tính chất pháp lý
2.2 Căn cứ vào quá trình luân chuyển
2.3 Căn cứ vào phương thức giao dịch
2.4 Căn cứ vào đặc điểm hàng hóa
3. CHỨC NĂNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
3.1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
3.2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
3.3. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
3.4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
3.5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô
4. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
4.1 Nguyên tắc cạnh tranh
4.2 Nguyên tắc công bằng
4.3 Nguyên tắc công khai
4.4 Nguyên tắc trung gian
4.5 Nguyên tắc tập trung
5. HÀNG HÓA CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
5.1 Trái phiếu
5.2. Cổ phiếu
5.3 Chứng khoán phái sinh và chứng chỉ quỹ
6. CÁC CHỦ THỂ CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
6.1 Nhà phát hành
6.2 Nhà đầu tư
6.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
6.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
7. CƠ CHẾ GIAO DỊCH TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
7.1. Các loại giao dịch trên thị trường chứng khoán
7.2. Các loại lệnh được sử dụng trong giao dịch
CHƯƠNG II :
THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
1.Những cột mốc đáng nhớ và chỉ số chứng khoán Việt Nam
1.1 Những cột mốc đáng nhớ
1.2 Chỉ số chứng khoán Việt Nam
2.Các giai đoạn phát triển của TTCK Việt Nam
2.1.Giai đoạn 2000-2005
2.2 Giai đoạn 2006
2.3 Giai đoạn 2007
2.4 Giai đoạn 2008
2.5 Từ năm 2009 đến tháng 6/2010
3. Những hạn chế ảnh hướng đến sự phát triển của TTCK
4.Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của TTCK
30 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6133 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận - Thuyết trình: thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình.
3.3. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao.
3.4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
3.5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
4. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN:
4.1 Nguyên tắc cạnh tranh:
Theo nguyên tắc này, giá cả trên TTCK phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo các mục tiêu của mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất, và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá.
4.2 Nguyên tắc công bằng:
Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những qui định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những qui định đó.
4.3 Nguyên tắc công khai:
Chứng khoán là loại hàng hoá trừu tượng nên TTCK phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, các tổ chức phát hành có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin đầy đủ theo chế độ thường xuyên và đột xuất thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên quan.
4.4 Nguyên tắc trung gian:
Nguyên tắc này có nghĩa là các giao dịch chứng khoán được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình.
4.5 Nguyên tắc tập trung:
Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản.
5. HÀNG HÓA CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN:
5.1 Trái phiếu
Trái phiếu là giấy tờ có giá xác định số vốn đầu tư và xác nhận quyền đòi nợ bao gồm những điều kiện và thu nhập trong một khoảng thời gian nào đó và có khả năng chuyển nhượng.
Từ khái niệm trên ta thấy trái phiếu có đặc điểm là có thu nhập ổn định, có khả năng chuyển nhượng, có thời gian đáo hạn. Đồng thời trái chủ không có quyền tham gia bầu cử, ứng cử vào Hội đồng quản trị. Nhưng trái phiếu đem lại cho trái chủ quyền được ưu tiên trong phân chia lợi nhuận cũng như thanh lý tài sản khi công ty phá sản.
5.1.1.Trái phiếu của Chính phủ
Đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Chính phủ, chính phủ phát hành trái phiếu để huy động tiền nhàn rỗi trong dân và các tổ chức kinh tế, xã hội. Chính phủ luôn được coi là Nhà phát hành có uy tín nhất trên thị trường; Vì vậy, Trái phiếu Chính phủ được coi là loại chứng khoán có ít rủi ro nhất.
5.1.2 Trái phiếu của công ty:
Là những trái phiếu do doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn, ngân hàng và các tổ chức tài chính phát hành để tăng vốn hoạt động. Trái phiếu doanh nghiệp có nhiều loại và rất đa dạng.
5.2. Cổ phiếu
Cổ phiếu là những giấy tờ có giá xác định số vốn đầu tư và nó xác nhận quyền sở hữu về tài sản và những điều kiện về thu nhập trong một khoảng thời gian nào đó và có khả năng chuyển nhượng. Có hai loại cổ phiếu là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
5.2.1 Cổ phiếu thường
Cổ phiếu thường là cổ phiếu không có thời gian đáo hạn, không có thu nhập ổn định mà thu nhập của nó phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh hay chính sách chi trả cổ tức của công ty. Cổ phiếu thường có khả năng chuyển nhượng dễ dàng. Người nắm giữ cổ phiếu thường có quyền tham gia bầu cử vào Hội đồng quản trị nhưng không được ưu tiên trong phân chia lợi nhuận cũng như thanh lý tài sản khi công ty phá sản. Ngoài ra cổ phiếu thường còn đem lại quyền đặt mua cổ phiếu mới cho các cổ đông.
5.2.2 Cổ phiếu ưu đãi
Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu có sự ưu tiên hơn cổ phiếu thường trong việc phân chia lợi nhuận cũng như chi trả cổ tức và thanh lý tài sản khi công ty phá sản.
Cổ phiếu ưu đãi cũng như cổ phiếu thường là nó không có thời gian đáo hạn. Nó tồn tại ở sự tồn tại của công ty. Nó cũng có khả năng chuyển nhượng nhưng phải thêm một số điều kiện nhất định. Cổ tức của cổ phiếu ưu đãi lẫn cổ phiếu thường đều không phải là nợ của công ty do đó không có thu nhập ổn định trong điều kiện bình thường và nó có thể được mua lại bởi nhà phát hành.
Cổ phiếu ưu đãi còn có một số điều khoản kèm theo. Thứ nhất, cổ phiếu ưu đãi có tính chất tham dự trong phân chia lợi nhuận khi công ty làm ăn có lãi, vượt một mức nào đó. Thứ hai, cổ phiếu ưu đãi có tính chất bỏ phiếu. Trong điều kiện bình thường, cổ phiếu ưu đãi không có tính chất bỏ phiếu. Nhưng khi công ty làm ăn thua lỗ, cổ phiếu ưu đãi sẽ có tính chất bỏ phiếu. Thứ ba, cổ phiếu ưu đãi có tính chất tích luỹ hay không tích luỹ tức là do côgn ty làm ăn không hiệu quả, công ty sẽ không trả cổ tức. Nhưng khi công ty làm ăn có lãi công ty có thể trả cổ tức cho những năm bị thua lỗ trước đó hoặc không trả cổ tức của những năm chưa trả được
5.3 Chứng khoán phái sinh và chứng chỉ quỹ
5.3.1 Chứng khoán phái sinh:
Chứng khoán phái sinh: là những chứng khoán được phát hành trên cơ sở những chứng khoán đã có như cổ phiếu, trái phiếu.
Chứng khoán phái sinh gồm:
Quyền mua cổ phần: là chứng khoán do công ty cổ phần phát hành kèm theo đợt phát hành cổ phiếu bổ sung nhằm bảo đảm cho cổ đông hiện hữu quyền mua cổ phiếu mới theo những điều kiện đã được xác định.( mua một số lượng cổ phần mới tương ứng với tỷ lệ cổ phần hiện có của họ trong công ty, tại một mức giá xác định thấp hơn mức giá chào mời ra công chúng và trong một thời hạn nhất định).
Chứng quyền: là chứng khoán cho phép người sở hữu được quyền mua một số lượng xác định một loại chứng khoán khác (thường là cổ phiếu thường) với một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định.
Chứng quyền thường được phát hành khi tổ chức lại công ty, hoặc khi công ty muốn khuyến khích các nhà đầu tư mua các trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi có những điều kiện kém thuận lợi.
Quyền lựa chọn: là quyền được ghi trong hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán) một số lượng chứng khoán xác định với một mức giá xác định và trong một thời gian nhất định.
Hợp đồng tương lai: là cam kết mua hoặc bán các loại chứng khoán, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán nhất định với một số lượng và mức giá nhất định vào ngày xác định trước trong tương lai.
5.3.2 Chứng chỉ quỹ:
Chứng chỉ quỹ đầu tư: là chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với 1 phần vốn góp của quỹ đại chúng. Quỹ đại chúng: Quỹ mở (quỹ mua lại chứng chỉ do quỹ phát hành) và quỹ đóng (quỹ không mua lại các chứng chỉ quỹ).
Quyền của nhà đầu tư tham gia quỹ: hưởng lợi từ hoạt động của quỹ hoặc từ tài sản được chia tương ứng với tỷ lệ góp vốn. Yêu cầu công ty quản lý quỹ hoặc ngân hàng giám sát mua lại chứng chỉ quỹ mở. Tham dự quyết định tại đại hội nhà đầu tư. Chuyển nhượng chứng chỉ quỹ.
6. CÁC CHỦ THỂ CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN:
Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được chia thành các nhóm sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán.
6.1 Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của thị trường chứng khoán.
- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ và trái phiếu địa phương.
- Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng... phục vụ cho hoạt động của họ.
6.2 Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
- Các nhà đầu tư cá nhân: là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
- Các nhà đầu tư có tổ chức:là các tổ chức thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các tổ chức này có thể là: công ty đầu tư, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, ngân hàng thương mại và các công ty chứng khoán.
6.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
- Công ty chứng khoán: CTCK là tổ chức tài chính trung gian thực hiện một hoặc một số nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán bao gồm: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, lưu ký chứng khoán.
- Ngân hàng thương mại: ngân hàng thương mại có thể đầu tư kinh doanh chứng khoán và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
6.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
- Cơ quan quản lý Nhà nước : UBCKNN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán
- Sở giao dịch chứng khoán: Sở giao dịch chứng khoán là cơ quan thực hiện vận hành thị trường và ban hành những quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên Sở phù hợp với các quy định của luật pháp và UBCKNN
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán:
- Các tổ chức tài trợ chứng khoán: là tổ chức phụ trợ, phục vụ các giao dịch chứng khoán.
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể.
7. CƠ CHẾ GIAO DỊCH TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
7.1. Các loại giao dịch trên thị trường chứng khoán
Cho đến nay, có năm loại hình giao dịch đã và đang được sử dụng phổ biến trên thị trường chứng khoán các nước.
7.1.1. Giao dịch bằng tiền mặt sẵn có
Theo loại hình giao dịch này, nhà đầu tư được yêu cầu phải thanh toán đủ số chứng khoán mua được bằng nguồn tiền riêng có vào ngay hoặc trước ngày thanh toán các giao dịch. Đối với phần lớn các giao dịch, ngày thanh toán rơi vào 2-5 ngày làm việc sau ngày giao dịch.
7.1.2. Giao dịch bằng nguồn tiền vay mượn
Khác với loại hình giao dịch bằng tiền mặt sẵn có, trong loại hình giao dịch bằng nguồn tiền vay mượn (giao dịch bằng tín dụng), để mua một số lượng chứng khoán nhất định, nhà đầu tư chỉ phải đặt cọc trước một phần tiền tối thiểu theo một tỷ lệ ký quỹ bắt buộc so với tổng trị giá tính theo giá thị trường của các chứng khoán định mua (Luật các nước quy định tỷ lệ này là 30 - 50%) và vay từ các công ty chứng khoán phần tiền còn lại.
Theo loại hình giao dịch này, tất cả các chứng khoán được mua bằng nguồn tiền vay mượn đều phải được giữ tại các công ty chứng khoán và được đăng ký dưới tên của các công ty chứng khoán (cũng gọi là street name) bởi vì chính những chứng khoán này lại được sử dụng như vật thế chấp. Mặc dù loại hình giao dịch bằng tín dụng cho phép nhà đầu tư có thể mua nhiều hơn khả năng hiện có, nghĩa là tạo ra một đòn bẩy tài chính, nhưng loại hình giao dịch mày có kỹ thuật khá phức tạp và không phải là loại hình thích hợp với mọi nhà đầu tư. Về mặt kỹ thuật, nếu thị giá của chứng khoán sụt giảm nhanh và tỷ lệ tiền ký quỹ so với tổng giá trị chứng khoán thấp so với tỷ lệ ký quỹ bắt buộc, công ty chứng khoán sẽ yêu cầu nhà đầu tư thêm tiền và tài khoản để duy trì tỷ lệ ký quỹ tối thiểu, nếu nhà đầu tư đặt thêm tiền vào tài khoản sẽ bán số cổ phiếu đó và tiền thu được để hoàn trả khoản vay này.
7.1.3. Bán khống
Loại hình giao dịch này cho phép nhà đầu tư bán các chứng khoán không thuộc sở hữu của mình (chứng khoán vay mượn) ở thời điểm bán với kỳ vọng là sẽ mua lại các chứng khoán đó ở giá thấp hơn trong một thời điểm nào đó trong tương lai để hoàn trả lại cho người sở hữu.
7.1.4. Giao dịch khối
Giao dịch khối (giao dịch lô lớn) là giao dịch gắn liền với hoạt động đầu tư chứng khoán của các tổ chức đầu tư. Đó là giao dịch với số lượng lớn một loại chứng khoán nhất định.
7.1.5. Giao dịch bằng chương trình
Các nhà đầu tư là các tổ chức cũng có thể mua, bán đồng thời một số lượng lớn các cổ phiếu của các công ty khác nhau trong một kỹ thuật giao dịch khác được gọi là giao dịch bằng chương trình. Đó là loại giao dịch sử dụng các chương trình vi tính phức tạp, có thể ra quyết định mua bán một cách tự động.
7.2. Các loại lệnh được sử dụng trong giao dịch
Việc mua bán chứng khoán trên các thị trường chứng khoán để dựa vào các nhà môi giới và nhà kinh doanh chứng khoán. Để thực hiện việc giao dịch, nhà đầu tư phải cung cấp cho nhà môi giới những thông tin nhất định. Một trong những thông số mà nhà đầu tư phải cung cấp cho nhà môi giới là các loại lệnh mua bán. Trên thực tế, mặc dù có rất nhiều loại lệnh được sử dụng trên thị trường chứng khoán các nước những lệnh thị trường, lệnh giới hạn, lệnh dừng vẫn là 3 loại lệnh cơ bản được áp dụng phổ biến tại các sở giao dịch chứng khoán.
7.2.1. Lệnh thị trường
Lệnh thị trường (lệnh mua bán theo giá thị trường) là lệnh chỉ thị cho nhà môi giới mua hoặc bán một chứng khoán theo giá tốt nhất có thể có được trên thị trường (giá cao nhất đối với lệnh bán hoạc giá thấp nhất đối với lệnh mua).
Lệnh thị trường là loại lệnh phổ biến nhất được áp dụng trong mua bán chứng khoán. Hầu hết các lệnh thực hiện trên thị trường chứng khoán là lệnh thị trường.
7.2.2. Lệnh giới hạn
Lệnh giới hạn là chỉ nhà môi giới không được mua một chứng khoán quá mức giá ấn định trước hoặc bán một chứng khoán thấp hơn mức giá đã chỉ định. Lệnh giới hạn là một lệnh có điều kiện: khi nhận được lệnh này người môi giới phải mua và bán một số lượng chứng khoán nhất định theo giá đã được ấn định hoặc tốt hơn.
Một lệnh mua có giới hạn chỉ có thể được người môi giới thực hiện ở mức giá đã được ấn định hoặc thấp hơn. Ngược lại, một lệnh bán có giới hạn chỉ được thực hiện ở mức giá đã được ấn định hoặc ở mức giá cao hơn. Khi thực hiện lệnh này, trong mọi truờng hợp, người môi giới có trách nhiệm tìm kiếm giá tốt hơn so với giá được ấn định cho khách hàng của mình.
7.2.3. Lệnh dừng
Một loại lệnh có điều kiện khác là lệnh dừng. Lệnh dừng là lệnh chỉ cho người môi giới không được thực hiện việc mua bán cho đến khi giá thị trường lên xuống phù hợp với giá đã ấn định. Có hai loại lệnh dừng mua khi giá chưa lên đến giá ấn định và lệnh dừng bán khi giá chưa tụt xuống tới mức ấn định.
Lệnh dừng mua khi giá chưa đến mức ấn định chỉ định rằng lệnh sẽ không được thực hiện cho đến khi giá thị trường lên tới hoặc cao hơn mức giá đã được ấn định. Ngược lại, lệnh dừng bán khi giá chưa tụt xuống tới mức ấn định hoặc thấp hơn.
Như vậy, về bản chất, cả hai loại lệnh dừng đều là loại lệnh thị trường có điều kiện. Đó là loại lệnh mua bán theo thời giá được tạm thời hoãn thực hiện. Lệnh này chỉ có hiệu lực thực hiện khi giá chứng khoán trượt đến hoặc vượt qua một mức giá ấn định. Một khi giá ấn định trong lệnh dừng được thoả mãn, lệnh dừng trở thành lệnh thị trường.
7.3. Chu trình giao dịch
Trước khi thực hiện giao dịch, nhà đầu tư phải mở một tài khoản tại công ty chứng khoán. Sau khi đã có tài khoản và đã lưu ký tiền hoặc chứng khoán vào tài khoản, nhà đầu tư có thể đặt lệnh mua bán theo nhiều phương thức khác nhau. Phương thức cổ điển nhất có lẽ là trực tiếp đến công ty chứng khoán để đặt lệnh. Cùng với những tiến bộ của kỹ thuật, lệnh có thể được đặt thông qua điện thoại, qua hệ thống máy vi tính cá nhân vàqua mạng internet. Mặc dù lệnh có thể được thực hiện thông qua nhiều phương thức khác nhau, chu trình thực một lệnh giao dịch ở các hệ thống giao dịch đều tương tự nhau.
Tất cả các lệnh được thực hiện trên cơ sở giao dịch phải được thanh toán trong tổng n ngày nhất định. Yêu cầu này thường được gọi là T + n, tức là ngày giao dịch (T) cộng thêm n ngày. Tuỳ thuộc vào sự phát triển của hệ thống giao dịch mà n có thể thay đổi khác nhau trong thị trường chứng khoán của các nước. Trong khi thị trường chứng khoán Hồng Kông áp dụng hệ thống thanh toán T + 2 thì Mỹ, Đài Loan, Thái Lan... sử dụng hệ thống T + n, người mua phải chuyển tiền mua chứng khoán đến các công ty chứng khoán và công ty chứng khoán phục vụ người bán chuyển tiền bán chứng khoán vào tài khoản người giao chứng khoán. Các thông tin giao dịch cũng được thông báo tới các công ty thanh toán bù trừ
Nhà đầu tư
Công ty môi giới
Máy điện toán của
Công ty môi giới
Thị trường OTC
Sở giao dịch chứng
khoán quốc gia
Sở giao dịch chứng
khoán quốc tế
Khớp lệnh
điện tử
Nhân viên kinh
doanh
Khớp lệnh
điện tử
Khớp lệnh
điện tử
Nhân viên kinh
doanh
Nhân viên kinh
doanh
Hình 2. Lộ trình thực hiện một lệnh mua bán qua các hệ thống giao dịch
CHƯƠNG II :
THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
1.Những cột mốc đáng nhớ và chỉ số chứng khoán Việt Nam:
1.1 Những cột mốc đáng nhớ:
Ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh cho Thị trường chứng khoán Việt Nam.
Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng khoán đặt tại TP.HCM và Hà Nội. Việc chuẩn bị cho TTCKVN thực ra đã do Uỷ Ban Chứng khoán Việt Nam ra đời bằng Nghị định 75/CP ngày 28-11-1996.
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (TTGDCK TP.HCM) được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 và chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-2000.
Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Hà Nội đã chính thức chào đời vào ngày 8/3/2005. Khác với TTGDCK TP.HCM (vốn là nơi niêm yết và giao dịch chứng khoán của các công ty lớn), TTGDCK Hà Nội sẽ là “sân chơi” cho các DN nhỏ và vừa (với vốn điều lệ từ 5 đến 30 tỷ đồng).
1.2 Chỉ số chứng khoán Việt Nam:
Chỉ số VN – Index
VN - Index là ký hiệu của chỉ số chứng khoán Việt Nam. VN - Index xây dựng căn cứ vào giá trị thị trường của tất cả các cổ phiếu được niêm yết. Với hệ thống chỉ số này, nhà đầu tư có thể đánh giá và phân tích thị trường một cách tổng quát.
Chỉ số VN -Index so sánh giá trị thị trường hiện hành với giá trị thị trường cơ sở vào ngày gốc 28-7-2000, khi thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt động.
Giá trị thị trường cơ sở trong công thức tính chỉ số được điều chỉnh trong các trường hợp như niêm yết mới, huỷ niêm yết và các trường hợp có thay đổi về vốn niêm yết.
Công thức tính chỉ số VN - Index:
Chỉ số VN - Index = (Giá trị thị trường hiện hành / Giá trị thị trường cơ sở) x 100
Hoặc Chỉ số VN-INDEX
Trong đó:
Pit: Giá thị trường hiện hành của cổ phiếu i
Qit: Số lượng niêm yết hiện hành của cổ phiếu i
Pi0: Giá thị trường vào ngày gốc của cổ phiếu i
Qi0: Số lượng niêm yết vào ngày gốc của cổ phiếu i
Hình 3:Biều đồ biến động chỉ số Vn Index từ năm 2000 đến 2010
2.Các giai đoạn phát triển của TTCK Việt Nam:
2.1.Giai đoạn 2000-2005: Giai đoạn đầu của thị trường chứng khoán.
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Ở thời điểm đó, chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với số vốn 270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch.
Từ đó cho đến 2005, thị trường không có biến động lớn, loại trừ cơn sốt vào năm 2001(chỉ số VN index cao nhất đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu năm nhưng chỉ trong vòng chưa đầy 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10, các cổ phiếu niêm yết đã mất giá tới 70% giá trị, chỉ số VN Index sụt từ 571,04 điểm vào ngày 25/4/2001 xuống chỉ còn khoảng 200 điểm vào tháng 10/2001.
Ngày 8/3/2005 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (TTGDCK HN) chính thức đi vào hoạt động. Giai đoạn thức tỉnh dần xuất hiện từ năm 2005 khi tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài được nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực ngân hàng).
Trong 5 năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút được sự quan tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa tạo ra tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống của mỗi người dân. Ta có thể nhận định rõ được điều đó thông qua bảng số liệu sau:
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Số CT NY/ĐKGD
5
5
20
22
26
32
Mức vốn hóa TTCP(%GDP)
0.28
0.34
0.48
0.39
0.64
1.21
Số lượng CTCK
3
8
9
11
13
14
Số TK KH
2908
8774
13520
15735
21616
31316
Theo thống kê của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, tính đến hết năm 2005, tổng giá trị thị trường chứng khoán việt Nam đạt gần 40.000 tỷ đồng, chiếm 0,69% tổng thu nhập quốc nội (GDP). Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện có 4.500 tỷ đồng cổ phiếu, 300 tỷ đồng chứng chỉ quỹ đầu tư và gần 35.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, thu hút 28.300 tài khoản giao dịch .Trong năm 2005, tốc độ tăng trưởng của thị trường chứng khoán gấp đôi so với năm 2004, huy động được 44,600 tỷ đồng, hiện giờ giá trị cổ phiếu so với GDP của cả nước đạt gần 1%.
2.2 Giai đoạn 2006 : Sự phát triển đột phá của TTCK Việt Nam.
Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột phá”, tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 “sàn”: Sở giao dịch Tp.Hồ Chí Minh, Trung tâm Giao dịch Hà Nội và thị trường OTC
Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 thị trường chứng khoán Việt Nam trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới. Và sự bừng dậy của thị trường non trẻ này đang ngày thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Không thể phủ nhận năm 2006 vừa qua thị trường chứng khoán Việt Nam non trẻ này đã có bước tiến tuyệt vời và có thể sẽ không bao giờ có lại được với khối lượng vốn hoá tăng gấp 15 lần trong vòng 1 năm.
Năm 2006 , TTCK Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, chỉ số Vn-Index tại sàn giao dịch TP. Hồ Chí Minh (HASTC) tăng 144% năm 2006, tại sàn giao dịch Hà Nội (Hastc) tăng 152,4%. Thị trường chứng khoán Việt Nam 2006: VN-Index cuối năm tăng 2,5 lần so đầu năm.
Tổng giá trị vốn hóa đạt 13,8 tỉ USD cuối năm 2006 (chiếm 22,7% GDP), giá trị cổ phiếu do các nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỉ USD, chiếm 16,4% mức vốn hóa của toàn thị trường. Hàng ngày có khoảng 80-100 công ty có cổ phiếu giao dịch, đây là những cổ phiếu được phát hành theo Luật Doanh nghiệp là chính. Trên thị trường phi tập trung, tổng khối lượng giao dịch gấp khoảng 6 lần so với khối lượng giao dịch trên HASTC.
Trong khoảng từ giữa đến cuối năm 2006, tình trạng đầu tư vào cổ phiếu ở nước ta mang tâm lý “đám đông”, cả người có kiến thức và hiểu biết, cả những người mua, bán theo phong trào, qua đó đẩy TTCK vào tình trạng “nóng”, hiện tượng “bong bóng” là có thật.
Mức vốn hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam đã tăng đột biến, tháng 12-2006 đạt 13,8 tỉ USD (chiếm 22,7% GDP) Đặc biệt, số lượng các nhà đầu tư mới tham gia thị trường ngày càng đông, tính đến cuối tháng 12- 2006, có trên 120.000 tài khoản giao dịch chứng khoán được mở, trong đó gần 2.000 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài.
Năm 2006, kỷ lục mới của VN-Index được xác lập ở mốc 809,86 điểm. Với HASTC-Index là nỗ lực chạm mốc 260 điểm. Tính chung, so với đầu năm, chỉ số VN-Index đã có mức tăng trưởng tới 146% và HASTC-Index tăng tới 170%. Đây là những mức tăng mà các thị trường trên thế giới phải thừa nhận là quá ấn tượng.
Tính đến phiên 29/12/2006, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM đã có sự góp mặt của 106 cổ phiếu, 2 chứng chỉ quỹ và 367 trái phiếu với tổng giá trị niêm yết theo mệnh giá là trên 72 nghìn tỷ đồng. Còn tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, số lượng chứng khoán tham gia đã lên đến 87 cổ phiếu và 91 trái phiếu với tổng mức đăng ký giao dịch theo mệnh giá đạt 29 nghìn tỷ đồng. Xét riêng về mức vốn hoá cổ phiếu, toàn bộ thị trường chứng khoán chính thức Việt Nam với 193 cổ phiếu vào phiên cuối năm, đã lên tới 220 nghìn tỷ đồng, tương đương với 13,8 tỷ USD.
2.3 Giai đoạn 2007: Giai đoạn thị trường chứng khoán bùng nổ.
Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Tính công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường.
VNIndex đạt đỉnh 1.170,67 điểm, HASTC-Index chạm mốc 459,36 điểm
Nhìn chung diễn biến của thị trường và giá cả chứng khoán trong các phiên giao dịch có nhiều biến động, Index của cả 2 sàn giao dịch đều có biên độ giao động mạnh. Kết thúc phiên giao dịch cuối năm, VNIndex đạt 927,02 điểm, Hastc-Index dừng ở mức 323,55 điểm, như vậy sau 1 năm hoạt động VNIndex đạt được mức tăng trưởng là 23,3%; HASTC-INDEX tăng 33,2% so với mức điểm thiết lập vào cuối năm 2006.
Tính đến ngày 28/12/2007, SGDCK TP.HCM đã thực hiện được 248 phiên giao dịch với tổng khối lượng giao dịch đạt hơn 2,3 tỷ chứng khoán tương đương với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 224.000 tỷ đồng, gấp 2 lần khối lượng và 2,8 lần giá trị giao dịch so với năm 2006. Bình quân mỗi phiên giao dịch có 9,2 triệu chứng khoán được chuyển nhượng tương đương với 980 tỷ đồng.
TTGDCK Hà Nội thực hiện thành công 248 phiên giao dịch, với tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 616,3 triệu chứng khoán tương đương với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 63.859 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần về khối lượng và 15,8 lần về giá trị giao dịch so với năm 2006. Quy mô giao dịch tăng trưởng mạnh khi mức giao dịch bình quân năm 2007 đạt 255 tỷ đồng/phiên trong khi năm 2006 chỉ đạt 19 tỷ đồng/phiên.
Các giai đoạn phát triển của thị trường :
• Giai đoạn thị trường bùng nổ trong 3 tháng đầu năm 2007:
Đây là giai đoạn thị trường có những đợt sóng cao, khiến Index của cả 2 sàn giao dịch đều lập kỷ lục: chỉ số VNIndex đã đạt mức đỉnh là 1.170,67 điểm sau 7 năm hoạt động và Hastc – Index thiết lập mức đỉnh 459,36 điểm sau 2 năm hoạt động. Có thể nói, đây là giai đoạn thị trường đạt mức tăng trưởng với tốc độ lớn nhất khi đạt mức tăng 126% chỉ trong vòng 3 tháng giao dịch.
Nhờ sự tăng trưởng về giá của các cổ phiếu, tổng giá trị vốn hóa của thị trường trong giai đoạn này lên đến con số 398.000 tỷ đồng. So với tổng giá trị vốn hóa 492.900 tỷ đồng của cả năm 2007, con số của 3 tháng đầu năm đã chiếm tỷ trọng 4/5. Nhưng điều quan trọng góp phần gia tăng giá trị vốn hóa của thị trường không phải do số lượng chứng khoán niêm yết gia tăng mà do yếu tố giá cổ phiếu tăng mạnh.
Trong giai đoạn này, giá các cổ phiếu tăng trưởng với tốc độ phi mã, đồng loạt các cổ phiếu từ Blue – chip, Penny stock, các cổ phiếu mới niêm yết trên sàn… tất cả đều đạt mức tăng trưởng trên 50% giá trị so với mức giá giao dịch đầu năm, trong đó có những cổ phiếu đạt mức tăng trưởng trên 100% như: STB (113,57%), REE (122,66%), ACB (197%),…. Rất nhiều mã CP thiết lập mức giá đỉnh kể từ khi lên sàn trong giai đoạn này như: SJS (728.000 đ/CP), FPT (665.000 đ/CP), DHG (394.000đ/CP), REE (285.000đ/CP), SSI (255.000đ/CP), SAM (250.000đ/CP), KDC (246.000đ/CP), VNM (212.000đ/CP), ACB (292.000đ/CP)…
Yếu tố quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng nóng trong giai đoạn này phải kể đến sức cầu trên thị trường tăng một cách đột biến khiến giá trị giao dịch trung bình mỗi phiên giao dịch lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Tại sàn HCM, bình quân mỗi phiên giá trị giao dịch đạt trên 1.000 tỷ đồng, sàn HN cũng đạt con số 300 tỷ đồng.
• Giai đoạn thị trường điều chỉnh từ Tháng 4/2007 đến đầu Tháng 9/2007:
Với nỗi lo sợ về một “thị trường bong bóng”, các cơ quan quản lý nhà nước cũng như Chính phủ đã vào cuộc để giảm nhiệt thị trường bằng các biện pháp kiểm soát thị trường chặt chẽ, ban hành những thiết chế để kiềm chế sự tăng trưởng quá nóng của thị trường. Phản ứng trước điều này, TTCK đã có những đợt điều chỉnh rõ rệt. Một đợt điều chỉnh giảm của thị trường đã diễn ra trong một khoảng thời gian rất dài (từ cuối Tháng 3 đến đầu Tháng 9).
Giai đoạn điều chỉnh này ghi nhận sự trầm lắng của cả 2 sàn HOSE và HASTC, tất cả các yếu tố của thị trường đều giảm sút nghiêm trọng. VNIndex chỉ trong vòng 1 tháng giao dịch đã rơi xuống mức 905,53 điểm (24/04/2007), giảm tới 22,6% so với mức đỉnh vào tháng 3. Hastc – Index trở về mốc 321,44 điểm (24/04/2007), giảm 30% so với mức đỉnh. Thị trường đã mất điểm quá nhanh trong 1 thời gian ngắn khiến giá giao dịch của các cổ phiếu đã trở về gần mức giá thiết lập vào đầu năm. Trong giai đoạn này, thị trường cũng có một đợt hồi phục vào giai đoạn cuối Tháng 5/2007 khi VNIndex quay trở về mốc 1.107,52 điểm (23/05/2007). Nhưng do tác động tâm lý quá mạnh của các chính sách kiềm chế thị trường trước đó như Chỉ thị 03, Luật thuế thu nhập cá nhân,…., thị trường nhanh chóng trở lại trạng thái mất cân bằng và liên tục sụt giảm mạnh khiến giai đoạn đầu Tháng 8, thị trường xác lập mức đáy 883,9 điểm của VNIndex (6/8/2007) và 247,37 điểm của Hastc - Index (23/08/2007).
Vào giai đoạn thị trường xuống sâu nhất (khoảng đầu Tháng 8), sàn HCM có những phiên giao dịch chỉ có hơn 3 triệu cổ phiếu được khớp lệnh (ngày 30/07/2007 chỉ có 3.296.340CP được giao dịch), sàn HN cũng chỉ có vẻn vẹn 600.000 CP được chuyển nhượng thành công (ngày 8/8/2007 khớp lệnh 603.100 CP).
Giai đoạn này, các NĐTNN cũng tỏ ra khá thờ ơ khi lượng giao dịch của khối này trên cả 2 sàn giao dịch đều sụt giảm mạnh. Giá trị giao dịch bình quân của khối NĐTNN trong giai đoạn này đạt khoảng 170 tỷ đồng/phiên, giảm tới 52% so với giai đoạn đầu năm.
• Giai đoạn phục hồi của thị trường vào những tháng cuối năm :
Thị trường bước vào giai đoạn phục hồi mạnh mẽ trong khoảng thời gian đầu tháng 9 đến cuối Tháng 10/2007.
Giá các cổ phiếu trên sàn có xu hướng phục hồi nhanh chóng, đặc biệt là các mã cổ phiếu blue – chip trên cả 2 sàn đều lấy lại được những gì đã mất trong 6 tháng giữa năm, tuy nhiên sức bật của các cổ phiếu không đủ mạnh để đưa các cổ phiếu trở về mức giá đỉnh thiết lập vào tháng 3. Trong giai đoạn này, VNIndex đã có những phiên giao dịch vượt lên trên ngưỡng 1.100 điểm (1.106,6 điểm vào ngày 3/10/2007), Hastc – Index cũng gần chạm trở lại ngưỡng 400 điểm (393,59 điểm ngày 01/10/2007).
Đà tăng giá của các cổ phiếu trong giai đoạn này thể hiện rõ nét nhất ở nhóm các cổ phiếu blue – chip như DHG, FPT, VIC… tại HOSE và nhóm cổ phiếu Sông Đà: S99, SDA, S91…. tại HASTC. Lượng giao dịch bình quân phiên tại HOSE luôn ở trên mức 10 triệu CP (phiên giao dịch kỷ lục đạt 19.047.000 CP vào ngày 01/10/2008), sàn HASTC cũng đạt lượng giao dịch bằng 1/2 sàn HOSE với trung bình phiên có 5 triệu CP được chuyển nhượng.
Tuy nhiên, Thị trường sau một đợt phục hồi đã nhanh chóng điều chỉnh giảm vào 2 tháng cuối năm. Trong giai đoạn này, thị trường thỉnh thoảng cũng có các đợt phục hồi với sự tăng lên mạnh mẽ của tất cả các yếu tố. Tuy nhiên sự phục hồi này không duy trì được lâu, thậm chí đã có dấu hiệu suy giảm chỉ sau 1 phiên tăng điểm. Chính điều này đã dẫn tới việc các nhà đầu tư bị đọng vốn,. Trong khi nguồn cầu có xu hướng cạn kiệt, thì nguồn cung vẫn tiếp tục gia tăng. Tương quan cung cầu mất cân bằng khiến thị trường ngày càng tuột dốc cả về giá lẫn khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch. VNIndex giảm xuống dưới ngưỡng điểm 1.000 và chỉ xoay quanh mốc 900 điểm, với lượng chứng khoán chuyển nhượng rất hạn chế.
2.4 Giai đoạn 2008: Cùng trong xu thế chung của nền kinh tế, TTCK Việt Nam khép lại năm 2008 với sự sụt giảm mạnh.
Nhìn lại thị trường sau 01 năm giao dịch, những điểm nổi bật của thị trường: Index giảm điểm, thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh (nhiều mã CP rơi xuống dưới mệnh giá), tính thanh khoản kém, sự thoái vốn của khối ngoại, sự can thiệp của các c ơ quan điều hành và sự ảm đạm trong tâm lý các NĐT.Tính từ đầu năm đến hết ngày 31/12/2008, TTCKVN trải qua 03 giai đoạn chính.
Trong năm 2008, lượng cung tiếp tục được bổ sung đáng kể thông qua việc Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, đặc biệt là các DN quy mô lớn, kinh doanh hiệu quả và việc bán bớt CP Nhà nước trong các DN đã CPH, chưa kể hàng loạt ngân hàng, Công ty chứng khoán, doanh nghiệp... phát hành trái phiếu, cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, dẫn đến tình trạng thị trường CK có nguy cơ thừa "hàng".
• Giai đoạn 1: Từ tháng 01 tới tháng 06 - Thị trường giảm mạnh do tác động từ tác động của kinh tế vĩ mô
Khởi đầu năm tại mức điểm 921,07, VNIndex đã mất đi gần 60% giá trị và trở thành một trong những thị trường giảm điểm mạnh nhất trên thế giới trong nửa đầu năm 2008.
Các thông tin tác động xấu tới tâm lý nhà đầu tư trong giai đoạn này chủ yếu xuất phát từ nội tại nền kinh tế. Trong đó nổi bật là sự gia tăng lạm phát, chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, sự leo dốc của giá xăng dầu và sức ép giải chấp từ phía ngân hàng đối với các khoản đầu tư vào TTCK.
Nhằm mục đích ngăn chặn đà suy giảm của thị trường, các cơ quan điều hành bắt đầu đưa ra những chủ trương và biện pháp hỗ trợ:
(1) UBCKNN thu hẹp biên độ giao dịch;
(2) SCIC tham gia mua vào cổ phiếu;
(3) NHTM được vận động ngừng giải chấp;
(4) Tổ chức niêm yết được khuyến khích mua vào cổ phiếu quỹ.
Tuy nhiên, phần lớn các biện pháp này chỉ phát huy hiệu quả trong ngắn hạn, và thị trường tiếp tục sụt giảm, cơn bão giải chấp cổ phiếu không ngừng tác động tới tâm lý các nhà đầu tư. Trong 103 phiên giao dịch của giai đoạn này, có tới 71 phiên VNIndex giảm điểm. Đỉnh điểm là chuỗi 34 phiên VN-Index giảm điểm liên tiếp từ giữa tháng 04 đến đầu tháng 06/2008. Sau 103 phiên giao dịch,VNIndex giảm mất 550,52 điểm- tương đương 59,77%. Bình quân trong mỗi phiên, toàn thị trường có 8,02 triệu CP&CCQ được chuyển nhượng, tương đương khoảng 482 tỷ đồng.
Trong đợt suy giảm này, nhóm cổ phiếu chịu nhiều tác động nhiều nhất là nhóm cổ phiếu tài chính ngân hàng, công nghệ và công nghiệp (chủ yếu là các doanh nghiệp BĐS).
Trong lịch sử hoạt động của TTCK, chưa có năm nào UBCKNN phải can thiệp vào thị trường bằng các biện pháp mạnh tay nhiều như năm 2008. Tổng cộng trong năm 2008, UBCKNN đã có 04 lần thay đổi biên độ dao động giá trên cả 2 sàn chứng khoán. Nhằm hỗ trợ thêm cho sức cầu trên thị trường, ngăn đà suy giảm mạnh của các chỉ số chứng khoán, ngày 04/03/2008, Chính phủ đã đưa ra nhóm 19 giải pháp ứng cứu thị trường: Cho phép SCIC mua vào cổ phiếu trên thị trường, kêu gọi và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp niêm yết mua vào cổ phiếu quỹ....
Sự tăng trưởng nóng trong năm 2007, đặc biệt vào những tháng cuối năm đã đưa đến những dấu hiệu bất ổn về kinh tế vĩ mô. Chỉ số tiêu dùng băt đầu gia tăng với mức trung bình 2,07%/tháng trong 02 cuối năm 2007. Tiếp nối xu thế này, trong quý I/ 2008, chỉ số CPI tiếp tục gia tăng với tốc độ bình quân 3,06%/tháng và đạt đỉnh vào tháng 05/200822 với mức tăng 3,91%.
Trong chu kỳ tăng giá nửa đầu năm 2008, tại đa số thời điểm, lương thực được coi là yếu tố tác động chủ yếu đến chỉ số giá. Tính đến tháng 06, giá lương thực đã tăng 57,22% so với tháng 12/2007.
Chịu ảnh hưởng trực tiếp của tỷ lệ lạm phát tăng cao trong nước và sự biến động mạnh của giá cả hàng hóa trên thế giới, thị trường hàng hóa và thị trường tiền tệ Việt Nam tiếp tục có những biến động mạnh.
Trên thị trường hàng hóa, xăng dầu - loại hàng hóa cơ bản thuộc sự kiểm soát của Chính phủ - đã được điều chỉnh mạnh. Trên thị trường tiền tệ, lãi suất từ NHNN và NHTM liên tiếp xác định các mặt bằng mới. Chịu tác động sức ép từ lạm phát, l ãi suất từ các NHTM tăng mạnh trong cuối quý II, dao động từ 16 - 18% đối với huy động tiền gửi và 20-21% đối với các khoản vay. Đặc biệt các sản phẩm huy động vốn với kỳ hạn ngắn, lãi suất cao là tiêu điểm của hệ thống NH trong giai đoạn này. Sự căng thẳng về thanh khoản và sự xáo trộn về dòng chảy của tiền gửi huy động là nỗi lo của các NHTM trong giai đoạn này. Thâm hụt thương mại cao nhất vào trong năm tháng đầu năm với mức trung bình là khoảng 2,6 tỷ USD/tháng.
Trước thực trạng này chính phủ đã đề ra 8 nhóm giải pháp vào tháng 3/2008 với mục tiêu kiềm chế lạm phát và thâm hụt thương mại. Các chính sách chủ yếu được thực hiện thông qua việc sử dụng công cụ điều hành lãi suất cơ bản và thắt chặt đầu tư công để hạn chế nguồn cung tiền trên thị trường.
• Giai đoạn 2: Tháng 06 tới đầu tháng 09 - Phục hồi trong ngắn hạn :
Nhờ vai trò dẫn dắt của một số cổ phiếu blue -chip như STB, FPT, DPM…và đặc biệt là SSI với sức cầu hỗ trợ từ đối tác nước ngoài, cả hai sàn chứng khoán đã có được những phiên tăng điểm mạnh trong giai đoạn này. VNIndex và Hastc-Index liên tiếp vượt qua các ngưỡng cản tâm lý quan trọng và thường xuyên có đư ợc những chuỗi tăng điểm kéo dài. Đây cũng là giai đoạn thị trư ờng hoạt động sôi động nhất. Sức cầu mạnh, kéo theo khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch thường xuyên ở mức cao. VNIndex tăng được 168,55 điểm, tương đương 45,52%. Khối lượng giao dịch bình quân đạt 16,9 triệu CP&CCQ, tương đương 599,18 tỷ đồng/phiên.
Trong giai đoạn này, nhóm cổ phiếu được ưa thích nhất là nhóm cổ phiếu dầu khí (tăng 80,33%), nguyên vật liệu v à công nghệ (tăng 89,78%). Các đại diện tiêu biểu cho nhóm cổ phiếu này bao gồm: PVS, PVD, PTC, HPG, FPT…
• Giai đoạn 3: Từ tháng 09 tới tháng 12 - Thị trường rơi trở lại chu kỳ giảm do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu
Đây là thời kỳ VNIndex rơi trở lại xu hướng giảm, thậm chí đã phá vỡ đáy thiết lập được trong giai đoạn đầu của năm 2008. Tổng kết cả giai đoạn này, VNIndex mất 223,48 điểm, tương đương 41,45%. Khối lượng giao dịch trung bình đạt 15,82 triệu CP&CCQ, tương đương 497,58 tỷ đồng/phiên.
Nguyên nhân tác động lớn nhất tới TTCK trong giai đoạn này chính là sự lan tỏa mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới. Hòa cùng xu thế giảm điểm của TTCK các nước, 02 chỉ số chứng khoán tại sàn HoSE và HaSTC liên tiếp giảm điểm. Trong 86 phiên giao dịch tại HoSE, 49 phiên VNIndex mất điểm. Đáy mới thiết lập trong giai đoạn này là 286,85 điểm vào ngày 10/12/2008.
Cùng với nỗ lực giải cứu nền kinh tế của Chính phủ và động thái từ NHNN, xen lẫn giữa những phiên giảm điểm , TTCK Việt Nam vẫn có những phiên phục hồi mạnh. Tuy nhiên, các “con sóng” trên thị trường thường rất ngắn và không ổn định. Kết thúc giai đoạn này, VNIndex giảm mất 239,52 điểm, tương đương 43,15%.
Tốc độ giảm mạnh nhất trong giai đoạn này thuộc nhóm cổ phiếu các ngành nguyên vật liệu, công nghiệp, tài chính và công nghệ. Nguyên nhân của sự suy giảm trong giai đoạn này được nhận định một phần do sự tác động của xu thế chung thị trường, ngoài ra, cũng là hệ quả của việc tăng khá chóng mặt của các các cổ phiếu n ày trong giai đoạn trước đó. Một trong những đề tài nóng hổi và được báo giới chú ý trong những tháng cuối năm là phong trào trả cổ tức bằng tiền mặt, với tỷ lệ khá cao của các công ty niêm yết.
Nguồn vốn FDI vào Việt Nam chủ yếu thông qua các quỹ đầu tư. Tuy nhiên, kể từ cuối tháng 08/2008 cùng với sự sụt giảm của TTCK thế giới nói chung, TTCK Việt Nam cũng giảm mạnh. Tính đến tháng 12/2008, những dấu hiệu về khả năng nhà đ ầu tư nước ngoài rút vốn ra khỏi thị trường chứng khoán cũng bắt đầu xuất hiện, thể hiện qua việc bán ròng của khối ngoại trong những tháng cuối năm.
Ngoài ra, mặc dù lạm phát được kiềm chế nhưng lại có sự lo ngại về giảm phát do chỉ số CPI tăng trưởng âm trong những tháng cuối năm.
Trong quý cuối năm, CPI đã giảm 0,23% trong tháng 10 và tăng lên thành 0,81% trong tháng 12 (so từng tháng). Tính cả năm 2008 , tỷ lệ lạm phát là 19,89% (so với tháng 12/2007) và xấp xỉ 23% (so với bình quân 2007)
Giải pháp tài chính kịp thời trong những tháng cuối năm 2008 được thực hiện thông qua việc điều chỉnh giảm lãi su ất cơ bản nhằm kíchcầu sản xuất tiêu dùng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vay vốn một cách dễ dàng hơn, đồng thời giảm áp lực tín dụng cho các ngân hàng thương mại.
2.5 Từ năm 2009 đến tháng 6/2010 Giai đoạn phục hồi và phát triển
Tính từ ngày 01/01/2009 đến 31/12/2009 thì Vn Index đã tăng thêm 171,96 điểm từ 312.49 điểm lên đến 494,77 điểm tương đương với mức tăng là 58%.
Sáu tháng đầu năm của 2010 Vn Index đã giảm 11.93 điểm, tương đương 2.3% . Trong những phiên giao dịch của tháng 6, dù thị trường vẫn đang giao động trong biên độ hẹp, nhưng nỗi lo của các nhà đầu tư trước diễn biến khủng hoảng nợ Châu âu hay những biến động trên thị trường chứng khoán thế giới… đang tạm lắng.
Đứng trước nguy cơ lạm phát quay trở lại trong năm 2010, chính sách thắt chặt tín dụng được áp dụng trong những tháng cuối năm 2009. Dòng tiền hạn chế bơm vào nền kinh tế nói chung và thị tường chứng khóan nói riêng, Vn Index điều chỉnh giảm mạnh vào cuối năm 2009. Tuy nhiên, với nổ lực kèm chế lạm phát đồng thời duy trì đà tăng trưởng kinh tế sáu tháng đầu năm 2010, chính sách tiền tệ dần được nới lỏng. Điều này là một trong những nguyên nhân chính đã góp phần tạo nên đợt hồi phục trong giai đoạn vừa qua, từ mức 477 điểm lên 549,51 điểm của Vn Index.
3. Những hạn chế ảnh hướng đến sự phát triển của TTCK:
Thứ nhất, trong bối cảnh chất lượng kiểm soát báo cáo tài chính của nhiều công ty kiểm toán không được bảo đảm, việc nhiều công ty niêm yết tranh thủ phát hành đã làm cho chất lượng cổ phiếu niêm yết có chiều hướng giảm sút.
Thứ hai, trong khi số lượng các CTCK được cấp phép hoạt động gia tăng nhanh quá mức thì số lượng nhà đầu tư, đối tượng cần phát triển thì lại tăng quá chậm, không tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và quy mô dân số của Việt Nam.
Cụ thể, trong số gần 900.000 tài khoản hiện có đến nay, nếu loại trừ số tài khoản được mở để tránh né các quy định, con số tài khoản thực sự giao dịch ước tính chỉ khoảng 300.000 - 500.000. So với mức dân số của nước ta, tỷ lệ chưa tới 1% nhà đầu tư chứng khoán trong tổng dân số là mặt hạn chế nhất trong 10 năm hình thành và phát triển của TTCK Việt Nam.
Thứ ba, tình trạng sử dụng vốn của các công ty niêm yết chưa hiệu quả. Công ty phát hành cổ phiếu nhưng lại đầu tư không đúng ngành nghề chuyên môn.
Thứ tư, tình trạng làm giá, thao túng giá chứng khoán của 1 số doanh nghiệp đang làm xói mòn nghiêm trọng lòng tin của nhà đầu tư.
Thứ năm, tình trạng tùy tiện trong công bố thông tin, công bố thông tin chậm, thiếu chính xác, không trung thực đang gây bức xúc cho cộng đồng đầu tư và ngày càng đặt ra nhiều thách thức đối với cơ quan quản lý.
Thứ sáu, việc bảo mật thông tin về tài khoản của nhà đầu tư (kể cả các CTCK có chức năng tự doanh), đặc biệt là thông tin về danh mục đầu tư, của các công ty chứng khoán còn nhiều bất cập, vẫn còn có tình trạng rò rỉ thông tin của khách hàng. Từ đó cho thấy vẫn còn những vấn đề về tính minh bạch của thị trường và quy trình bảo mật các thông tin của các cơ quan quản lý.
4.Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của TTCK:
Một là, thị trường cần một cơ quan quản lý độc lập, trực thuộc Chính phủ, để có đầy đủ các thẩm quyền, điều kiện và khả năng ban hành các văn bản pháp quy nhằm xử lý nhanh, nhạy các vấn đề phức tạp nảy sinh trong thực tiễn thay vì mô hình một Ủy ban (cấp Nhà nước) lại trực thuộc Bộ (Bộ Tài chính), phải qua quá nhiều tầng, nấc như hiện nay.
Không nên quản lý theo kiểu “cái gì không quản được thì cấm”. Việc nghiêm cấm các CTCK mở đại lý nhận lệnh trước đây (vi phạm Luật Doanh nghiệp) hay cấm sử dụng môi giới tự do như thời gian gần đây (không khả thi) là các ví dụ cụ thể.
Hai là, Nhà nước cần có chính sách cụ thể đối với TTCK hơn nữa như thuế kinh doanh (đối với từng đối tượng), thuế thu nhập, chính sách về quỹ đầu tư chứng khoán... Thông qua đó Nhà nước điều tiết vĩ mô thị trường này. Mặt khác Nhà nước cần điều chỉnh lộ trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhằm giảm sự mất cân đối cung - cầu chứng khoán.
Ba là, tổ chức lại các Sở giao dịch chứng khoán theo mô hình của các tổ chức tự quản với các thành viên là các CTCK. Trong mô hình này, các tổ chức tự quản không chỉ được phép xác định các quy tắc, các quy định điều chỉnh, các hành vi giao dịch trên TTCK, xác định tư cách, tiêu chuẩn thành viên của Sở giao dịch mà còn xác định hàng loạt các biện pháp kỹ thuật giám sát thị trường, các chế tài bắt buộc phải tuân thủ các nguyên tắc đã đề ra nhằm bảo đảm một thị trường công bằng và trật tự.
Bốn là, để kiểm soát rủi ro, cần nâng cao tiêu chuẩn niêm yết trên cả hai Sở giao dịch chứng khoán. Theo đó, đối với HOSE, môt công ty muốn niêm yết phải có lịch sử hoạt động 5 năm, số vốn thực góp phải đạt 200 tỷ đồng, chỉ số ROE bình quân 3 năm gần nhất tối thiểu 15%, số cổ đông tối thiểu 1.000 cổ đông. Tương tự, tiêu chuẩn niêm yết tại HNX lần lượt là 3 năm, 100 tỷ đồng, 10% và 500 cổ đông. Các cổ phiếu đã niêm yết tại HOSE nhưng không đạt tiêu chuẩn niêm yết mới sẽ chuyển sang niêm yết tại HNX, các cổ phiếu không đạt tiêu chuẩn tại HNX sẽ chuyển sang giao dịch tại thị trường UPCOM.
Năm là, tích cực đầu tư phát triển công nghệ, thiết bị hiện đại đáp ứng yêu cầu quản lý thị trường một cách hiệu quả.
Sáu là, Nhà nước cần kiểm tra và đưa ra phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, bảo đảm giá trị đó mang tính khách quan và phản ánh giá trị cổ phiếu của công ty.
Bảy là, khuyến khích các doanh nghiệp đã huy động được vốn trên TTCK tiếp tục đầu tư mở rộng ngành nghề đang kinh doanh nhằm tạo nên những doanh nghiệp lớn có nền tảng khoa học công nghệ cao tầm cỡ quốc tế, tăng sức cạnh tranh sản phẩm hàng hoá của công ty trên thị trường quốc tế. Kiểm soát việc mở rộng quy mô, phát hành cổ phiếu tiếp theo của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sẽ được phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ khi lượng vốn bằng tiền đã huy động phải được biến thành tài sản (máy móc, thiết bị) và mang lại hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để phát hành cổ phiếu đó cũng cần phải xác định lại giá trị doanh nghiệp. Không lấy giá trị cũ để làm căn cứ xác định mệnh giá cổ phiếu mới. Ngoài ra doanh nghiệp không được thanh toán cổ tức cho cổ đông bằng cổ phiếu. Vì làm như vậy cũng dẫn tới lạm phát chứng khoán.
Tám là, cần sửa đổi Luật Chứng khoán và bổ sung các chế tài mới đầy đủ hơn, xử lý nghiêm minh hơn, có tính răn đe hơn các hành vi vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin, giao dịch nội gián, thao túng, lũng đoạn thị trường.
Chín là, cần hiện đại hóa các phương tiện công bố thông tin và đa dạng hóa phương pháp công bố thông tin trên các Sở giao dịch chứng khoán. Cần khẩn trương xây dựng mạng lưới truyền thông, mạng tin nhắn để phục vụ cho việc cung cấp thông tin trực tiếp từ tổ chức niêm yết đến các CTCK thành viên và hệ thống mạng điện thoại trả lời tự động các thông tin do nhà đầu tư yêu cầu.
Mười là, xây dựng một thị trường chứng khoán minh bạch với đầy đủ và sẵn có các thông tin để xác định các điều kiện cung cầu của thị trường. Những thông tin này sẵn có đối với tất cả thành viên tham gia thị trường ở cùng một thời điểm, nghĩa là tất cả các thành viên tham gia giao dịch đều có cơ hội tiếp cận thị trường như nhau. Chẳng hạn về việc không cung cấp thông tin về giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài (trong phiên giao dịch) tại HOSE hoặc việc thu phí cung cấp thông tin cho gói tin đầy đủ đối với các CTCK thành viên (đã đóng phí thành viên, phí giao dịch) là các bất hợp lý và cần phải được xem xét!
Mười một là, các công ty phải có trách nhiệm cung cấp thông tin đúng sự thật, cập nhật và rõ ràng. Cần xử phạt nghiêm đối với những công ty không cung cấp thông tin và thông tin không minh bạch, sai sự thật.
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cần quy định chế độ cung cấp đầy đủ thông tin về sản xuất kinh doanh cho các nhà đầu tư đối với các doanh nghiệp có cổ phiếu, trái phiếu trên TTCK, có thể là hàng tháng, hàng quý, năm...
Sở giao dịch chứng khoán cần tạo cơ chế để cung cấp công khai, thuận lợi những thông tin đó hàng ngày cho các nhà đầu tư, cho các nhà nghiên cứu, cho các phóng viên báo chí, các hãng thông tấn khi họ cần.
Cùng với quy chế về cung cấp thông tin nêu trên, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và các Sở giao dịch chứng khoán cần có cơ quan "Thanh tra" để thanh tra kiểm tra những công ty có cổ phiếu, trái phiếu phát hành trên TTCK về việc chấp hành những quy chế và luật lệ quy định đối với TTCK. Thanh tra các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh chứng khoán. Các công ty phải tạo cơ chế để việc thanh tra, kiểm tra tiến hành thuận lợi, hơn thế nữa cơ chế còn nhằm tạo điều kiện để bất kỳ ai sở hữu cổ phiếu, trái phiếu của công ty có nhu cầu thanh tra kiểm tra, giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đều có thể thực hiện được.
Mười hai là, cần có những quy chế chặt chẽ đối với các công ty chứng khoán nhằm giải quyết những bất cập trong việc lưu ký và thực hiện giao dịch chứng khoán, bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư. Cần có những hình phạt nghiêm khắc, kể cả việc thu giấy phép kinh doanh đối với những công ty làm mất chứng khoán, giữ chậm chứng khoán, gây phiền hà cho các nhà đầu tư. Nhà nước cần tạo cơ chế nhằm rút ngắn thời gian trong giao dịch chứng khoán.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận - thuyết trình- thị trường chứng khoán (đh kinh tế).doc