DTBB có thể duy trì dưới dạng tiền mặt tại quỹ các NHTM. Theo Điều 14 “Luật NHNN
Việt Nam” ban hành năm 2010 thì “DTBB là số tiền mà tổ chức tín dụng phải gửi tại NHNN để
thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia”, với khái niệm này, toàn bộ DTBB buộc phải gửi tại
NHNN. Trên thực tế, ngoài tiền gửi ở NHNN, các NHTM luôn phải có dự trữ tiền dưới dạng
tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền thường xuyên của khách hàng. Nhất là trong thời kỳ lạm
phát cao, mặc dù DTBB theo quy định thường đã cao hơn bình thường nhưng ngoài DTBB thì
đế đối phó với lạm phát, bản thân các NH còn phải đối phó với tình trạng rút tiền bất thường
của khách hàng, cho nên các NH còn phải để dự trữ tiền mặt nhiều hơn. Thực ra tiền mặt tại các
NHTM cũng là một dạng dự trữ và mức độ dự trữ tiền mặt cũng có tác động đến hệ số nhân tiền
của toàn hệ thống NH không khác gì tiền DTBB gửi ở NHNN. Nếu khi tính toán hệ số nhân
tiền gửi để kiểm soát mức độ mở rộng quy mô tiền gửi chỉ căn cứ vào tỷ lệ DTBB gửi tại
NHNN sẽ không phản ánh đúng thực tế đang diễn ra - hệ số nhân tiền thực tế sẽ luôn nhỏ hơn hệ
số nhân tiền dự báo và như vậy, khối lượng tiền cung ứng thực tế thấp hơn so với mức mong
muốn.
DTBB chỉ là yếu tố quyết định hệ số nhân tiền tệ trong dự báo, dự trữ thực của các
NHTM mới thực sự quyết định hệ số nhân tiền trong thực tế.
Trong tác động của DTBB đối với khối lượng tiền cung ứng có thể dễ dàng nhận ra rằng việc
giới hạn cụ thể lượng tiền mỗi NH muốn đưa vào lưu thông không phải là việc khó, bởi vì mỗi
NH đơn lẻ chỉ có thể cho vay trong phạm vi dự trữ của nó mà thôi. Trong khi đó, đối với cả hệ
thống NH thì việc tôn trọng giới hạn trên trở nên bấp bênh, cho dù NHTW có thể thực hiện tốt
vai trò phát hành nhưng lại khó có thể kiểm soát được một cách chính xác mức độ tạo tiền của
toàn hệ thống, bởi lẽ, ngoài tỷ lệ DTBB ra thì khả năng tạo tiền còn phụ thuộc vào một số yếu tố
khác. Mỗi NH có nhiều lý do để duy trì dự trữ của mình ở mức độ cao hay thấp, đó là: đáp ứng
nhu cầu rút tiền của khách hàng trong từng thời kỳ; lý do về sự an toàn cần phải cân nhắc mỗi
khi quyết định cho vay; lý do quản lý nợ lành mạnh. Ngoài những giới hạn xuất phát từ chính
bản thân NH thì những ràng buộc bên ngoài tác động đến quá trình tạo tiền cũng rất đáng kể
như: nhu cầu tín dụng của khách hàng có khả năng hoàn trả; nhu cầu giao dịch bằng tiền mặt
trong nền kinh tê. Một trong những biểu hiện của vấn đề này là sự vượt trội quá mức về dự trữ
ở các NH so với dự trữ bắt buộc, với tình trạng này sẽ gần như vô hiệu hóa khả năng chi phối
quá trình cung ứng tiền của NHTW
15 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3937 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu về công cụ dự trữ bắt buộc và việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân nhà nước Việt Nam thông qua công cụ dữ trữ bắt buộc trong thời gian qua, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
TIỂU LUẬN
TÌM HIỂU VỀ CÔNG CỤ DỰ TRỮ BẮT BUỘC VÀ VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ CỦA NGÂN NHÀ NƯỚC VIỆT NAM THÔNG QUA CÔNG CỤ DỮ TRỮ BẮT
BUỘC TRONG THỜI GIAN QUA
GVHD: Nguyễn Thị Hai Hằng
Sinh viên: Ngô Thị Hoàng Chi
MSSV: K094040519
Lớp: K09404A
TP. Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 11 năm 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA TÀI CHÍNH – NH
2
LỜI NÓI ĐẦU
Để có thể thực hiện mục tiêu ổn định và tăng trưởng thông qua việc cung ứng tiền và điều
tiết khối lượng tiền trong lưu thông, NH Trung ương (NHTW) các nước có thể sử dụng các công
cụ khác nhau: lãi suất, chính sách chiết khấu, thị trường mở... Trong đó, DTBB là công cụ nhận
được khá nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách - họ đã tốn
không ít giấy mực để nói về dự trữ bắt buộc. Tuy nhiên, trong bài viết này, chúng ta chỉ nghiên
cứu mang tính lý thuyết ở các góc cạnh khác nhau của DTBB và từ đó nhìn nhận lại sự điều
hành chính sách tiền tệ của NHNN thông qua công cụ dữ trữ bắt buộc thời gian qua. Hy vọng
đây là nguồn tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
3
MỤC LỤC
I) CÔNG CỤ DỰ TRỮ BẮT BUỘC: ......................................................................................5
I.1) Khái niệm ......................................................................................................................5
I.2) Cơ chế tác động của DTBB ............................................................................................5
I.2.1) DTBB và tiềm năng tín dụng của các NH ................................................................5
I.2.2) DTBB và lãi suất .....................................................................................................6
I.2.3) DTBB và khối lượng tiền cung ứng .........................................................................6
I.3) Cơ sở xác định dự trữ bắt buộc ......................................................................................6
I.4) Ưu nhược điểm của DTBB .......................................................................................... 11
II) CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN THÔNG QUA CÔNG CỤ DTBB THỜI GIAN
QUA ......................................................................................................................................... 12
III) KIẾN NGHỊ..................................................................................................................... 13
4
MỤC LỤC BẢNG
Bảng 01: Tỷ lệ DTBB đối với các TCTD Việt Nam từ tháng 01/2008- 01/2011 ........................ 7
Bảng 02: Tỷ lệ DTBB đối với các TCTD ở Mỹ tháng 12/2010 ................................................ 9
Bảng 03: Tỷ lệ DTBB theo QĐ 379/QĐ-NHNN ngày 24/2/2009 và QĐ 1925/QĐ-NHNN ngày
26/8/2011 ........................................................................................................... 10
5
CÔNG CỤ DỰ TRỮ BẮT BUỘC:
I.1) Khái niệm:
Dự trữ bắt buộc, hay tỷ lệ DTBB là một quy định của NHTW về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền
gửi mà các NHTM bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính thanh khoản. Các NH có thể giữ tiền
mặt cao hơn hoặc bằng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ
này. Nếu thiếu hụt tiền mặt các NHTM phải vay thêm tiền mặt, thường là từ NHTW để đảm bảo
tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đây là một trong những công cụ của NHTW nhằm thực hiện chính sách
tiền tệ bằng cách làm thay đổi số nhân tiền tệ.
Việc bắt buộc các NHTM phải để dự trữ tối thiểu cần thiết lần đầu tiên được sử dụng ở Mỹ
vào năm 1913, với mục đích là nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của các NHTM. Vào những
năm 30 của thế kỷ 20, sau những cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài, tỷ lệ DTBB dần được sử
dụng phổ biến ở các nước khác. Và lúc này, người ta nhìn nhận DTBB trong một vai trò khác -
DTBB là công cụ để NHTW các nước sử dụng để điều tiết tiền tệ trong nền kinh tế. Nói cách
khác, DTBB làm tăng khả năng kiểm soát của NHTW đối với quá trình cung ứng tiền. Thông
qua việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW có thể tác động vào nguồn dự trữ, thay đổi vốn
khả dụng của các NH để làm thay đổi tiềm năng tín dụng của các NH - nhưng NHTW không
phải là người quyết định việc sử dụng các tiềm năng ấy.
Mặc dù lịch sử ra đời của DTBB là từ những năm đầu của thế kỷ 20, song ở Việt Nam, hệ
thống NH Việt Nam mới chỉ làm quen với khái niệm này vào năm 1990. Tháng 5/1990, sau khi
“Pháp lệnh NH Nhà nước (NHNN) Việt Nam”, “Pháp lệnh NH , các hợp tác xã tín dụng và
công ty tài chính” được ban hành thì các NHTM Việt Nam mới bắt đầu thực hiện các quy định
về dự trữ bắt buộc.
I.2) Cơ chế tác động của DTBB:
I.2.1) DTBB và tiềm năng tín dụng của các NH
Khi tỷ lệ DTBB thay đổi, nó trực tiếp tác động đến nguồn vốn khả dụng của mỗi NH .
Với tổng số nguồn tiền gửi huy động được, tỷ lệ DTBB càng thấp thì phần chênh lệch còn lại -
vốn khả dụng của bản thân NH này càng cao, khả năng cho vay ra của NH càng lớn và ngược
lại. Bên cạnh đó, mỗi động tác cấp tín dụng cho một đối tượng nào đó thông qua chuyển khoản
của NH - hoạt động này mở ra một nguồn vốn mới cho một NH kế tiếp, sự tiếp tục của quá
trình này chính là quá trình tạo tiền của hệ thống NH làm cho tổng nguồn có thể cho vay của
toàn hệ thống được nhân lên nhiều lần so với số tiền gửi ban đầu, mức độ được nhân lên chính là
hệ số nhân tiền. Qua đó cho thấy, tỷ lệ DTBB có quan hệ chặt chẽ với nguồn vốn khả dụng của
hệ thống NH . Tuy nhiên, vốn khả dụng chỉ thể hiện được tiềm năng tín dụng, còn thực sự nó có
6
làm cho khối lượng tín dụng tăng lên hay không lại phụ thuộc vào thái độ sẵn sàng cấp tín dụng
của các NH và nhu cầu tín dụng của nền kinh tế.
I.2.2) DTBB và lãi suất
DTBB có thể tác động đến lãi suất bằng hai cách:
Thứ nhất, do DTBB có thể thu mở rộng hay thu hẹp tiềm năng tín dụng cho nên lãi suất
thị trường cũng vì thế mà có thể giảm xuống hoặc tăng lên.
Thứ hai, hiệu ứng của tác động trên càng tăng lên khi phần DTBB của các NH ở NHTW
không được tính lãi hoặc mức lãi không đáng kể. Khi DTBB tăng lên thì lãi thu được từ hoạt
động cho vay giảm xuống làm giảm lợi nhuận của các NHTM. Điều này được các NH khắc
phục bằng cách điều chỉnh tăng lãi suất cho vay trên thị trường tín dụng.
I.2.3) DTBB và khối lượng tiền cung ứng
Khối lượng tiền cung ứng thay đổi là kết quả tất yếu của việc thay đổi tiềm năng tín dụng,
thay đổi lãi suất trên thị trường, nó cũng là mục tiêu cuối cùng mà NHTW muốn đạt được khi
điều chỉnh dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ DTBB sẽ được nâng lên nếu NHTW thực hiện việc thắt chặt
tiền tệ, hướng đến mục tiêu kiểm soát lạm phát và ngược lại, để mở rộng tiền tệ nhằm khuyến
khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo thêm công ăn, việc làm cho người lao động thì NHTW sẽ
hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ DTBB tác động ngược chiều đến khối lượng tiền cung ứng thể
hiện qua công thức tính hệ số nhân tiền:
1
Hệ số tạo tiền =
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Có thể nói sự tác động của tỷ lệ DTBB đối với khối lượng tiền trong nền kinh tế là khá
toàn diện, nó tác động rất mạnh mẽ không chỉ đến quy mô, khối lượng tín dụng mà cả đối với lãi
suất tín dụng. Mức độ tác động không đơn giản chỉ làm tăng hay giảm đơn thuần mà làm thay
đổi theo số lần về tiền trong lưu thông.
I.3) C s xác đ nh d tr b t bu c:
NHTW các nước thường sử dụng tỷ lệ DTBB trong vai trò là công cụ điều hành chính
sách tiền tệ, giúp NHTW kiểm soát hệ số nhân tiền và trên cơ sở đó kiểm soát khối lượng tiền
cung ứng, do đó, tùy vào mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ mà tỷ lệ DTBB được
quy định khác nhau. Điều này được chứng minh rất rõ ở nước ta trong thời gian qua:
7
Bảng 01: Tỷ lệ DTBB đối với các TCTD Việt Nam từ tháng 01/2008- 01/2011
Tỷ lệ dự trữ bắt bụôc (VND) Văn bản
11%1- 5%2 187/QĐ-NHNN ngày 16/1/2008
10%1- 4%2 2560/QĐ-NHNN ngày 03/11/2008
8%1- 2%2 2811/QĐ-NHNN ngày 20/11/2008
6%1- 2%2 2951/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008
5%1- 1%2 3158/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008
3%1 - 1%2 379/QĐ-NHNN ngày 24/02/2009
(1): đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng
(2): đối với tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên
Nguồn:
Bảng 01 cho thấy từ tháng 01/2008 - 01/2011 đến nay, tỷ lệ DTBB được điều chỉnh giảm,
việc điều chỉnh này của NHNN, một mặt, nhằm đưa ra tín hiệu nới lỏng tiền tệ; mặt khác, thông
qua việc nâng cao hệ số nhân tiền chính thức mở rộng khả năng cho vay, kích thích các NH
thương mại đẩy mạnh hoạt động tín dụng, tích cực cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Xác định mức dự trữ bắt buộc:
Công thức:
Mức DTBB = tỷ lệ DTBB * số dư tiền gửi bình quân
Kỳ tính DTBB ở đây, quy định là 15 ngày một kỳ (tháng 2 kỳ).
Tỷ lệ DTBB: theo quy định của NHNN.
Tổng số dư tiền gửi 15 ngày kỳ trước
Số dư tiền gửi bình quân =
15
8
Các loại tiền gửi và có tính chất tiền gửi sau đây là căn cứ để tính DTBB:
- Tiền gửi kho bạc Nhà nước.
- Tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn đến 12 tháng.
(Kể cả tiền gửi của công ty Vàng bạc và Đá quý).
- Tiền gửi vốn chuyên dùng.
- Tiền gửi của các tổ chức và người nước ngoài.
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn đến 12 tháng.
- Tiền gửi tiết kiệm khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, phát hành kỳ phiếu, phát hành trái phiếu các loại có kỳ hạn đến
12 tháng.
- Tiền quản lý và giữ hộ.
Cụ thể gồm các tài khoản: 2121, 3611, 3612, 3613, 3614, 3711, 3712, 3719, 441, 442, 449, 381.
Ngày nay, khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc, nghĩa là, NHTW đang muốn điều chỉnh
hệ số nhân tiền, mặc dù vậy nhưng mục tiêu đảm bảo khả năng thanh khoản cho NH của DTBB
vẫn không bị mất đi ý nghĩa của nó, không những thế, nó còn là cơ sở để xác định tỷ lệ dự trữ
bắt buộc.
Những căn cứ cụ thể sau thường được sử dụng để đưa ra yêu cầu về tỷ lệ dự trữ bắt buộc:
- Tính chất kỳ hạn của mỗi loại tiền gửi - tùy vào tính chất kỳ hạn của tiền gửi mà nghĩa
vụ DTBB khác nhau; thông thường kỳ hạn càng dài thì mức độ ổn định càng cao và độ rủi ro
thanh khoản càng thấp và vì thế, tỷ lệ DTBB đối với loại tiền gửi này thường thấp hơn so với
loại tiền gửi có kỳ hạn ngắn hơn.
- Mức độ của các khoản nợ - quy mô của các nguồn tiền gửi. Thông thường quy mô của
các nguồn tiền gửi càng cao thì khả năng rủi ro càng cao và vì thế, tỷ lệ DTBB sẽ tỷ lệ thuận với
quy mô nguồn tiền gửi. Về điều này, ta có thể tham khảo yêu cầu tỷ lệ DTBB của FED.
- Loại tiền gửi khác nhau cũng chứa đựng khả năng an toàn thanh khoản khác nhau nên
NHTW có thể quy định tỷ lệ khác nhau cho tiền gửi của các đồng tiền khác nhau (Xem bảng
03).
9
Bảng 02: Tỷ lệ DTBB đối với các TCTD ở Mỹ tháng 12/2010
Yêu cầu dự trữ
Loại trách nhiệm
Yêu cầu
% Của các
khoản nợ
Ngày có hiệu
lực
1 Tài khoản giao dịch thuần
2 $ 0 đến $ 10.700.000 0 30/12/2010
3 Nhiều hơn $ 10.700.000 đến 58.800.000 $ 3 30/12/2010
Nhiều hơn $ 58.800.000 10 30/12/2010
Nonpersonal tiền gửi thời gian 0 27/12/1990
Eurocurrency nợ 0 27/12/2010
Nguồn:
10
Bảng 03: Tỷ lệ DTBB theo QĐ 379/QĐ-NHNN ngày 24/2/2009 và QĐ 1925/QĐ-NHNN
ngày 26/8/2011
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND áp dụng theo QĐ 379/QĐ-NHNN ngày
24/2/2009 (áp dụng từ kỳ dự trữ tháng 3/2009), tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng
USD áp dụng theo QĐ 1925/QĐ-NHNN ngày 26/8/2011(áp dụng từ kỳ dự trữ tháng 9/2011)
Loại TCTD
Tiền gửi VND Tiền gửi ngoại tệ
Không kỳ
hạn và dưới
12 tháng
Từ 12 tháng
trở lên
Không kỳ
hạn và
dưới 12
tháng
Từ 12
tháng trở
lên
Các NHTM Nhà nước (không bao
gồm NHNo & PTNT), NHTMCP đô
thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
ngân hàng liên doanh, công ty tài
chính, công ty cho thuê tài chính
3%
1%
8%
6%
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn
1%
1%
7%
5%
NHTMCP nông thôn, ngân hàng hợp
tác, Quỹ tín dụng nhân dân Trung
ương
1%
1%
7%
5%
TCTD có số dư tiền gửi phải tính dự
trữ bắt buộc dưới 500 triệu đồng,
QTĐN cơ sở, Ngân hàng Chính sách
xã hội
0%
0%
0%
0%
Nguồn:
Trong năm 2011, NHNN đã ba lần điều chỉnh tăng tỷ lệ DTBB, mỗi lần điều chỉnh tăng
thêm 1%. Đây là một trong những động thái của NHNN nhằm chống tình trạng đô la hóa, giảm
áp lực tỷ giá, kiềm chế lạm phát.
Ngoài ra, tỷ lệ DTBB còn có thể quy định tùy theo quy mô và mức độ an toàn chung của
mỗi NH .
Khi quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW Trung Quốc cũng căn cứ vào quy mô của NH
, NHTM lớn chịu tỷ lệ DTBB cao hơn NHTM có quy mô nhỏ. Ngày 27/11/2010, để kiềm chế
lạm phát, NHTW Trung Quốc đã tăng tỷ lệ DTBB từ 17,5% áp dụng cho NH lớn lên 18%; và
từ 15,5% lên 16% áp dụng cho NH nhỏ. Đồng thời với tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW Trung
Quốc cũng tăng lãi suất cơ bản từ 5,56% lên 5,81%. (www.thesaigontimes.vn)
11
Ở nước ta, tỷ lệ DTBB cũng được phân chia tùy theo tính chất kỳ hạn, loại tiền gửi và
thông thường, loại tiền gửi kỳ hạn ngắn, tiền gửi bằng ngoại tệ phải duy trì một tỷ lệ DTBB cao
hơn. Bên cạnh đó, sự khác biệt về tỷ lệ DTBB giữa các NH cũng được quan tâm. Theo quy định
tại Quyết định số 379/QĐ-NHNN áp dụng từ ngày 24/2/2009 (đối với VND) và Quyết định
79/QĐ-NHNN áp dụng từ 01/2/2010 (đối với ngoại tệ) thì tỷ lệ DTBB được quy định như sau:
Để khuyến khích một số NHTM cho vay nông nghiệp và nông thôn ngày 08/12/2010,
NHNN đã ban hành các thông báo số 457; 458; 459; 460; 461 về việc áp dụng tỷ lệ DTBB đối
với các tổ chức tín dụng có tỷ trọng cho vay nông nghiệp và nông thôn cao theo Thông tư
20/2010/TT-NHNN ngày 29/9/2010 của NHNN. Theo đó, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương
được áp dụng tỷ lệ DTBB bằng 1/20 so với tỷ lệ DTBB thông thường; NH Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam, NHTM cổ phần Quốc Tế Việt Nam, NHTM cổ phần Kiên Long,
NHTM cổ phần Mê Kông được áp dụng tỷ lệ DTBB bằng 1/5 so với tỷ lệ DTBB thông thường.
(www.sbv.gov.vn). Với quy định này NHNN đã bổ sung thêm một cơ sở mới cho việc xác định
tỷ lệ dự trữ bắt buộc, đó là tỷ lệ DTBB còn tùy thuộc vào đối tượng đầu tư của các NHTM.
I.4) Ưu nhược điểm cu ̉a DTBB:
Ưu điểm Nhược điểm
Là công cụ có thể áp dụng một cách
bắt buộc đối với các NHTM.
Ảnh hưởng mạnh đến lượng tiền cung
ứng. Chỉ một thay đổi nhỏ với tỷ lệ
DTBB có thể dẫn đến lượng tiền lớn bị
ảnh hưởng.
Thiếu linh hoạt.
Đối với các NH có dự trữ vượt mức
quá thấp, tăng DTBB sẽ gây ra
nguy cơ mất khả năng thanh toán.
Việc thay đổi liên tục tỷ lệ DTBB
sẽ gây ra tình trạng bất ổn cho hoạt
động của các NH, quản lý khả năng
thanh khoản của các NH bị khó
khăn.
12
II) CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN THÔNG QUA CÔNG CỤ DTBB THỜI GIAN
QUA:
Trong năm 2011, đi cũng với khó khăn huy động vốn là vấn đề thanh khoản của hệ thống
NH của VN. Theo bộ kế hoạch và đầu tư, “tình trạng thiếu thanh khoản, nguy cơ mất khả năng
thanh toán không chỉ xảy ra đối với các NH nhỏ mà cả các NH lớn”. Chính vì thế NHNN đã
phải nhiều lần can thiệp để tăng cung tiền cho các NH. Có ba cách, thứ nhất là thông qua tỷ lệ
DTBB, thứ hai là lãi suất chiết khấu, thứ ba là nghiệp vụ thị trường mở. Ở đây sẽ tập trung phân
tích cách thức tỷ lệ DTBB. Thêm một điểm đáng lưu ý nữa trong năm 2011, ở góc độ tín dung
huy động và cho vay, nên kinh tế đang có sự phân hóa rõ rệt giữa hai kênh nội tệ và ngoại tệ. Cụ
thể là giao dịch ngoại tệ tăng hơn nhiều so với nội tệ. Đây là kết quả của tình hình lạm phát cao
mà chênh lệch lãi suất quá lớn của hai loại vốn. Có nghĩa là lãi cho vay của đồng nội tệ cao và
bất ổn hơn nhiều so với đồng ngoại tệ, do đó đồng ngoại tệ trở nên hấp dẫn hơn đối với người
dân. NHNN đã tăng DTBB cho tiền gửi bằng ngoại tệ để hạn chế lượng ngoại tệ cho vay ra
trong nền kinh tế. Đi kèm theo đó lãi suất tối đa cho tiền gửi bằng ngoại tệ ở mức 3%, điều này
sẽ làm giảm hiện tượng mua đồng ngoại tệ trên thị trường chợ đen,để gửi vào ngân hàng hưởng
lãi suất cao. Những điều chỉnh này là cần thiết tránh tình trạng đô la hóa cho nền kinh tế cũng
như nhằm thắt chặt chính sách tiền tệ và chống lạm phát.
Như vậy, điều chỉnh tăng tỷ lệ DTBB lên 8% là nhằm kiểm soát lượng tiền cho vay của
các TCTD. Tức là, các NH có ít tiền cho vay hơn hay lượng tín cụng cung cấp cho các DN sẽ bị
giảm xuống. Do đó, lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế giảm xuống, và từ đó, làm giảm ảnh
hưởng của lạm phát. Tỷ lệ DTBB càng cao thì tiền mà các NHTM cho vay đi càng ít. Tác động
này lại tăng lên nhiều lần, vì khi tiền được cho vay ra rồi, có thể quay trở lại gửi ở các NH, rồi
một phần trong khoản tiền gửi này lại được mang ra cho vay. Đây là tác động số nhân.
Trong năm 2012, NHNN không có điều chỉnh gì nhiều đối với chính sách DTBB. Điều
này có thể được lý giải một phần ở tình trạng khá ổn định về thanh khoản của hệ thống NH Việt
Nam. Đồng thời tình trạng đô la hóa đã được kiểm soát khá tốt.
13
III) KIẾN NGHỊ
DTBB có thể duy trì dưới dạng tiền mặt tại quỹ các NHTM. Theo Điều 14 “Luật NHNN
Việt Nam” ban hành năm 2010 thì “DTBB là số tiền mà tổ chức tín dụng phải gửi tại NHNN để
thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia”, với khái niệm này, toàn bộ DTBB buộc phải gửi tại
NHNN. Trên thực tế, ngoài tiền gửi ở NHNN, các NHTM luôn phải có dự trữ tiền dưới dạng
tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền thường xuyên của khách hàng. Nhất là trong thời kỳ lạm
phát cao, mặc dù DTBB theo quy định thường đã cao hơn bình thường nhưng ngoài DTBB thì
đế đối phó với lạm phát, bản thân các NH còn phải đối phó với tình trạng rút tiền bất thường
của khách hàng, cho nên các NH còn phải để dự trữ tiền mặt nhiều hơn. Thực ra tiền mặt tại các
NHTM cũng là một dạng dự trữ và mức độ dự trữ tiền mặt cũng có tác động đến hệ số nhân tiền
của toàn hệ thống NH không khác gì tiền DTBB gửi ở NHNN. Nếu khi tính toán hệ số nhân
tiền gửi để kiểm soát mức độ mở rộng quy mô tiền gửi chỉ căn cứ vào tỷ lệ DTBB gửi tại
NHNN sẽ không phản ánh đúng thực tế đang diễn ra - hệ số nhân tiền thực tế sẽ luôn nhỏ hơn hệ
số nhân tiền dự báo và như vậy, khối lượng tiền cung ứng thực tế thấp hơn so với mức mong
muốn.
DTBB chỉ là yếu tố quyết định hệ số nhân tiền tệ trong dự báo, dự trữ thực của các
NHTM mới thực sự quyết định hệ số nhân tiền trong thực tế.
Trong tác động của DTBB đối với khối lượng tiền cung ứng có thể dễ dàng nhận ra rằng việc
giới hạn cụ thể lượng tiền mỗi NH muốn đưa vào lưu thông không phải là việc khó, bởi vì mỗi
NH đơn lẻ chỉ có thể cho vay trong phạm vi dự trữ của nó mà thôi. Trong khi đó, đối với cả hệ
thống NH thì việc tôn trọng giới hạn trên trở nên bấp bênh, cho dù NHTW có thể thực hiện tốt
vai trò phát hành nhưng lại khó có thể kiểm soát được một cách chính xác mức độ tạo tiền của
toàn hệ thống, bởi lẽ, ngoài tỷ lệ DTBB ra thì khả năng tạo tiền còn phụ thuộc vào một số yếu tố
khác. Mỗi NH có nhiều lý do để duy trì dự trữ của mình ở mức độ cao hay thấp, đó là: đáp ứng
nhu cầu rút tiền của khách hàng trong từng thời kỳ; lý do về sự an toàn cần phải cân nhắc mỗi
khi quyết định cho vay; lý do quản lý nợ lành mạnh... Ngoài những giới hạn xuất phát từ chính
bản thân NH thì những ràng buộc bên ngoài tác động đến quá trình tạo tiền cũng rất đáng kể
như: nhu cầu tín dụng của khách hàng có khả năng hoàn trả; nhu cầu giao dịch bằng tiền mặt
trong nền kinh tê... Một trong những biểu hiện của vấn đề này là sự vượt trội quá mức về dự trữ
ở các NH so với dự trữ bắt buộc, với tình trạng này sẽ gần như vô hiệu hóa khả năng chi phối
quá trình cung ứng tiền của NHTW . Và ngược lại, trong trường hợp nền kinh tế có xu hướng
tăng trưởng, cầu về vốn có xu hướng tăng, các NH thỏa mãn nhu cầu này bằng cách giảm mức
dự trữ hiện hữu và vì thế, khối cung tiền tệ được mở rộng nằm ngoài dự kiến của NHTW. Vì
khả năng gây ảnh hưởng của DTBB là rất lớn cho nên, một mặt, cần quan tâm đến những nhân
tố tác động đến quá trình tạo tiền để có những ứng xử kịp thời và hiệu quả, bên cạnh đó, cũng
cần quan tâm và tìm ra phương pháp thích hợp để quản lý dự trữ nói chung của các NHTM.
DTBB - công cụ khá hiệu nghiệm trong việc kiểm soát lạm phát. Dĩ nhiên là các công cụ
dù là lãi suất, tỷ giá, thị trường mở hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc... thì việc sử dụng chúng đều nhằm
đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ, song mỗi công cụ có đặc điểm riêng và vì thế, nó có
những mặt mạnh và mặt yếu riêng. Khác với các công cụ khác, DTBB là công cụ luôn được
14
khuyến cáo về mức độ tác động cực mạnh của nó - làm thay đổi “số lần” khối lượng tiền cung
ứng cho lưu thông nên phải sử dụng một cách thận trọng. Thận trọng nghĩa là không thay đổi
một cách đột ngột với một mức độ lớn chứ không đồng nghĩa với không sử dụng, chính trong
khi khai thác nó một cách thận trọng thì đây lại là một điểm mạnh của dự trữ bắt buộc. Nếu quan
sát diễn biến của tỷ lệ DTBB trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ của Trung Quốc sẽ
thấy được mức độ quan tâm của NHTW Trung Quốc đối với công cụ này trong việc kiềm chế
lạm phát. Chỉ riêng năm 2010, Trung Quốc đã điều chỉnh tỷ lệ DTBB tới 6 lần, lần gần nhất
trong năm này được điều chỉnh vào ngày 20/12/2010, tỷ lệ DTBB được điều chỉnh tăng lên
0,5% đạt mức 18,5% đối với những NH có quy mô lớn. Tháng 01/2011, lần đầu tiên trong năm
tỷ lệ DTBB được nâng thêm 0,5% (vào ngày 15/01/2011); ngày 18/2/2011, tỷ lệ DTBB lại một
lần nữa được nâng 0,5% để đối phó với lạm phát hiện đang là 4,9%, nâng tỷ lệ DTBB lên
19,5%. (www.xaluan.com).
Ở nước ta, để ngăn ngừa sự tăng trưởng tín dụng quá nóng nhằm kiểm soát lạm phát, tỷ lệ
DTBB đã được điều chỉnh khá mạnh vào năm 2007 (từ 5% lên 10%) và năm 2008 - khi tình
hình dần bình ổn trở lại, tỷ lệ DTBB đã được điều giảm dần một cách linh hoạt. Tuy nhiên, gần
như suốt năm 2009 và 2010, kể cả những tháng đầu năm 2011 - lạm phát không còn là nỗi lo mà
là thực tế đang phải đối mặt thì tỷ lệ DTBB đối với VND vẫn không thay đổi (Xem bảng 01).
Nên chăng khai thác công cụ này một cách thận trọng để kiểm soát lạm phát, nâng cao hiệu quả
điều hành chính sách tiền tệ - điều chỉnh tăng từ từ, không cần tạo sự bất ngờ và nếu cần, vẫn áp
dụng việc trả lãi cho dự trữ bắt buộc.
Hiện nay thông tư 19 quy định việc cấp tín dụng từ nguôn vốn không được vượt quá 80%, quy
định này nhằm để NHTM tự bảo vệ mình nhưng thực tế không có nhiều ý nghĩa. Theo ý kiến
của một số chuyên gia kinh tế nên bỏ quy định này và thay vào đó là công cụ DTBB. Theo đó
tất cả các NH lớn bé đều phải nộp về NHNN mức DTBB do vậy có thể hỗ trợ NH nào đó các
khó khăn về thanh khoản.
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
ers_id=2177092&item_id=44756272&p_details=1
2.
1209/QD-NHNN-ngay-1/6/2011-ve-ty-le-du-tru-bat-buoc-
bang-ngoai-te-2554.html
3.
tien-te-o-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap-hoan-thien-1458/
4. www.sbv.gov.vn
5. Bài phân tích Dự trữ bắt buộc - Từ lý thuyết đến thực tiễn,
PGS.,TS.Nguyễn Thị Nhung
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhi_k094040519_ttnh_2844.pdf