Trải qua bao thăng trầm trong lịch sử, nền văn hóa Việt đã chứng kiến bao
sự đổi thay mạnh mẽ trong quá trình giao lưu và tiếp nhận các nền văn hóa, tôn
giáo, tín ngưỡng từ bên ngoài. Nhưng trong quá trình “ nội sinh hóa các yếu tố
ngoại sinh” ấy, người dân Việt Nam vẫn gìn giữ được những nét văn hóa độc
đáo, riêng có, điển hình chính là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc.
Có thể nói, thờ cúng tổ tiên là một phong tục truyền thống của dân tộc, dù
đó không phải là điều bắt buộc song đó lại là thứ "luật bất thành vǎn" của
người Việt tồn tại qua bao thế hệ. Thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của
người dân Việt.
Với nội dung bình dị, giàu tính thực tiễn, không cực đoan như nhiều tôn
giáo khác nên tục thờ cúng tổ tiên đã trở thành một phong tục, là chuẩn mực
đạo đức và nguyên tắc làm người, mang ý nghĩa lớn về mặt tổ chức cộng đồng
trong xã hội truyền thống, củng cố khối đoàn kết cộng đồng. Thờ cúng tổ tiên,
ông bà đã trở thành tín ngưỡng gốc xuyên suốt quá trình lịch sử Việt Nam, nó
là sợi dây liên kết để góp phần cột chặt tính thống nhất toàn dân tộc và cũng là
cội nguồn của các phong tục, tín ngưỡng khác.
7 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 9250 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Tiểu luận
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người Việt Nam
2
BÀI THUYẾT TRÌNH
Xin kính chào cô và tất cả các bạn, hôm nay em xin thay mặt nhóm 2 trình
bày về đề tài mà nhóm em nghiên cứu trong thời gian qua, đề tài Tìm hiểu tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt.
Như chúng ta đã biết, dân tộc Việt Nam ta có một nền văn hóa rất phong
phú và đa dạng trên mọi mặt đời sống tinh thần của người Việt cùng với cộng
đồng 54 dân tộc anh em vẫn đang ngày ngày gìn giữ những nét văn hóa tốt đẹp
từ lâu đời. Như các dân tộc khác trên thế giới, từ thuở xa xưa dân tộc Việt Nam
đã thờ rất nhiều thần linh. Họ thờ tất cả các thế lực vô hình và hữu hình mà
thực chất là các hiện tượng thiên nhiên và xã hội mà họ chưa thể giải thích
được vào thời đó. Từ đó hình thành nên tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam.
Trong các loại tín ngưỡng thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một hình thức tín
ngưỡng cơ bản và phổ biến của người Việt, bất kể họ ở đồng bằng hay miền
núi, nông thôn hay thành thị, người giàu hay người nghèo…
Nguyễn Đình Chiểu có câu:
Thà đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn sáng mắt cha ông không thờ.
Vượt lên trên cả khía cạnh tín ngưỡng, tôn giáo, tục thờ cúng tổ tiên thấm
đượm đạo lý uống nước nhớ nguồn, một thứ ứng xử cộng đồng gia tộc, quốc
gia, nó trở thành một chuẩn mực khuôn mẫu của ứng xử của con người Việt
Nam.
Về ngồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, đầu tiên là về
nguồn gốc:
Thứ nhất : Ở Việt Nam tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên có nguồn gốc từ xa
xưa, trước hết phải đề cập đến chế độ phụ quyền. Khi bước vào chế độ phụ
quyền, vai trò của người đàn ông trở nên quan trọng trong họat động kinh tế và
sinh họat của gia đình. Con cái mang họ cha và con trai kế tiếp ý thức về uy
quyền trong gia đình của mình. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên bắt nguồn từ đấy.
Thứ hai : Đó là sự ảnh hưởng từ ba dòng tôn giáo chính ở Việt Nam:
- Nho giáo: Theo như Khổng Tử, sự sống của con người không phải
do tạo hóa sinh ra càng không phải do bản thân tự tạo ra mà nhờ cha mẹ, sự
sống của cha mẹ lại gắn với ông bà và cứ như vậy thế hệ sau kế tiếp thế hệ
trước, vì thế mà thế hệ sau phải biết ơn thế hệ trước. Từ quan niệm hiếu trong
Khổng giáo, người Việt tiếp nhận và thể hiện qua cái bàn thờ tổ tiên. Trải qua
nhiều thế hệ tiếp nối nhau, người Việt đã thể hiện việc hiếu đạo thành một tập
tục gọi là thờ cúng tổ tiên.Cùng với tư tưởng tôn quân, quyền huynh thế phụ đã
củng cố thêm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở nước ta ngày một thể chế hóa.
3
- Đạo giáo: Nếu như Khổng giáo đặt nền tảng lý luận về đạo đức, về trật tự
kỉ cương xã hội cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt thì Đạo giáo
góp phần củng cố niềm tin vào sự tồn tại và năng lực siêu nhiên của linh hồn
những người đã chết thông qua một số nghi lễ thờ cúng như: gọi hồn, bùa chú,
ma chay, tang lễ, mồ mả và đốt vàng mã.
- Phật giáo: Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến sự giữ gìn và phát triển tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam trước hết là quan niệm của Phật giáo về cái
chết, kiếp luân hồi và nghiệp báo. Những tư tưởng cơ bản của Phật giáo có ảnh
hưởng lớn tới tục thờ cúng tổ tiên nhưng không phải là sự sao chép hoàn toàn.
Người Việt Nam quan niệm rằng cha mẹ tổ tiên luôn lo lắng, quan tâm cho con
cái ngay cả khi họ đã chết. Người sống chăm lo đến linh hồn người chết, vong
hồn người chết sẽ quan tâm đến sự sống của người đang sống.
Thứ ba: Bắt nguồn từ điều kiện nhận thức và các yếu tố tâm lí khác:
Về nhận thức:
Trong nhận thức dân gian, người Việt quan niệm rằng, con người có 2 phần:
phần xác và phần hồn. Hai phần này vừa gắn bó, vừa tách biệt, chúng gắn bó
với nhau. Khi con người còn sống, hồn nhập vào xác điều khiển hành vi của
con người. Khi con người chết, phần hồn rời khỏi xác, thể xác của họ hoà vào
cát bụi, phần hồn vần tồn tại và chuyển sang sống ở một thế giới khác.
Về các yếu tố tâm lý khác:
- Sự sợ hãi: Trong cuộc sống con người thường gặp phải những khó
khăn, trở ngại, ốm đau, bệnh tật… Họ thiếu tự tin vào bản thân nên họ cần tới sự
giúp đỡ, che chở của các thế lực khác nhau, nhất là từ ông bà tổ tiên từ thế giới
bên kia. Từ quan niệm dân gian về linh hồn, người ta cho rằng, nếu không cúng
tế linh hồn ông bà tổ tiên đầy đủ thì những linh hồn này trở thành ma đói và sẽ
mang lại rủi ro, quấy nhiễu cuộc sống của những người đang sống.
- Sự kính trọng, biết ơn: Yếu tố tâm lý có vai trò quyết định trong việc
duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt đó là sự tôn kính, biết ơn đối
với các thế hệ trước, là tình yêu và lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà
cha mẹ.
Bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên :
Về bản chất, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên không phải là một tôn giáo..
Bởi mặc dù nó có những nghi lễ cụ thể nhưng không có những tín điều, giáo lý
chặt chẽ mà mỗi nơi có những biến tấu khác nhau từ Bắc vào Nam. Mục đích
cuối cùng của việc thờ cúng Tổ tiên là thể hiện một sự tin kính, thương yêu của
người đang sống đối với người đã chết và hy vọng người chết đi sẽ phù hộ, ban
4
phước lành cho người trong gia đình, dòng họ. Nó mang ý nghĩa tìm về cội
nguồn.
Bản chất :
o "Thờ cúng những người trong cùng dòng họ, máu mủ đã khuất,
theo từng đơn vị gia đình, gia tộc…
o Nó mang tính chất là một hình thái tín ngưỡng, thờ tự, cúng lễ,
cầu mong linh hồn ông bà Tổ tiên "phù hộ" cho hiện thực cuộc
sống của con cháu.
o Nó cộng thêm khía cạnh uống nước nhớ nguồn. "Công cha như
núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra"
Chương 3: Nghi lễ thờ cúng tổ tiên bao gồm cách bày trí ban thờ, nghi thức
tang lễ và nghi lễ cúng giỗ.
Không gian thờ cúng tổ tiên bao giờ cũng là nơi sạch sẽ và trang trọng nhất của
ngôi nhà, đồng thời là nơi cao ráo và phần lớn quay về hướng Nam với hàm ý
con cháu tôn vinh bậc hiền tài.
Theo quan niệm của người xưa, bàn thờ là biểu tượng của bầu trời tinh
khiết. Ở hai góc ngoài có hai cây đèn hoặc nến tượng trưng cho mặt trời và mặt
trăng. Bát hương ở giữa biểu hiện cho vì tinh tú. Đèn hương đóng vai trò rất
quan trọng vì đó là cầu nối duy nhất giữa con người và thần linh. Con người
nhờ hương khói để truyền ước vọng của mình lên các đấng thiêng thiêng ở trên
trời.Ngoài bàn thờ thông thường còn có bàn thờ vọng, là một loại bàn thờ mà
người sống xa quê ít có điều kiện về nhà con trưởng lập nên.
Nghi lễ thờ cúng từ xưa đến nay đều được thực hiện theo một số nguyên
tắc nhất định: Khi trong gia đình có người qua đời. lễ tang đươc tổ chức rất
trịnh trọng theo những nghi lễ như: Mộc dục ,lễ Phạm hàm, lễ Khâm liệm và
Nhập quan, lễ Thiết linh, lễ Thành phục, lễ Phát dẫn, lễ An táng, lễ Tế ngu.
Ngoài ra, còn có lễ Chung thất. Khi người chết đã được 100 ngày là đến tuần
tốt khốc, con cháu làm lễ cúng và cỗ bàn mời họ hàng. Sau lễ 100 ngày là lễ
Cải táng. Con cháu lấy ngày chết làm ngày giỗ.
Trong tục thờ cúng tổ tiên, người Việt coi trọng việc cúng giỗ vào ngày
mất. Vì họ tin rằng đó là ngày con người đi vào cõi vĩnh hằng. Không chỉ ngày
giỗ, việc cúng tổ tiên còn được thực hiện vào các ngày mùng một, ngày rằm và
các dịp lễ tết khác trong năm như: Tết Nguyên Đán, tết Thanh minh,…Những
khi trong nhà có việc quan trọng như dựng vợ, gả chồng, sinh con, làm nhà, đi
xa, thi cử… người Việt cũng dâng hương làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để
cầu tổ tiên phù hộ hay tạ ơn.
5
Chương 4: Nghi lễ thờ cúng tổ tiên trong đời sống tinh thần người Việt
Giỗ tổ Hùng Vương :
Dân gian có câu :
Dù ai đi ngược về xuôi,
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba.
Việc thờ cúng tổ tiên là điều thiêng liêng nhưng không chỉ diễn ra trong
mỗi gia đình, dòng họ của mình…Nó còn là sự biểu hiện của một thứ tình cảm
thiêng liêng đối với quốc gia - dân tộc. Mỗi dân tộc đều có một nguồn gốc, cội
rễ của mình. Lịch sử đã khắc ghi các thế hệ vua Hùng nối tiếp nhau dựng lên
nước Văn Lang của người Việt cổ với nền văn minh lúa nước và nền văn minh
sông Hồng rực rỡ đã tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc phong phú và độc đáo,
đặt nền móng cho sự phát triển mạnh mẽ và dài lâu của dân tộc Việt Nam.
Vùng đất xưa, nơi các vua Hùng lập nghiệp và nằm xuống trở thành Đất Tổ.
Người Việt Nam chúng ta hôm nay hành hương tìm về Đất Tổ chính là tìm về
cội nguồn dân tộc, là thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Tác động:
Qua thời gian, tục thờ cúng tổ tiên đã gắn bó mật thiết đối với mọi người,
đồng thời có tác động mạnh mẽ cả về mặt tích cực và tiêu cực trong đời sống
tinh thần của người dân Việt.
Về tích cực:
Tục thờ cúng tổ tiên dạy cho con người biết thực hiện chữ hiếu, kính trọng
ông bà, tổ tiên dù họ không còn nữa, đồng thời thể hiện tính nhân văn của dân
tộc Việt, những người đã khuất không bị lãng quên trong tâm tưởng của những
người còn lại, chứng tỏ dân tộc Việt là một dân tộc đặc biệt mang trong máu
một thứ tình cảm không thể tìm thấy ở các dân tộc châu Âu.
Tưởng nhớ tới Tổ tiên, người Việt Nam luôn bảo nhau phải sống sao cho
xứng đáng với sự kì vọng của Tổ tiên. Các thế hệ cháu con, sau khi đã công
thành danh toại thường trở về “vinh quy bái tổ” trước các vong linh ông bà Tổ
tiên. Người Việt Nam luôn cần cù, sáng tạo trong việc tạo dựng cuộc sống.
Đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động cũng được hình thành và khẳng định
một phần thông qua ý thức về Tổ tiên, cội nguồn.
Đối với cộng đồng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn là sợi dây liên kết giữa
những người sống hiện tại như anh em, bà con làng xóm, giúp mọi người gắn
bó với nhau hơn, hun đúc tình yêu quê hương đất nước.
Cuối cùng đó là ý nghĩa duy trì tình thân trong quan hệ thân tộc.Những
ngày lễ, ngày tết hoặc ngày kỹ niệm một người thân qua đời, là những dịp để
con cháu ở các nơi khác hội tụ lại để gặp gỡ hàn huyên, kết chặt mối thâm tình,
đồng thời thăm nom ông bà cha mẹ, nếu như họ còn sống. Đây là một việc làm
thiết thực và cao quý nhất trong việc thể hiện chữ hiếu của một dân tộc giàu
tình cảm như người Việt.
6
Bên cạnh những mặt tích cực, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn bộc lộ nhiều
mặt tiêu cực nên bị bài trừ đó là việc: Xem người chết như những vị thần bảo
hộ rồi đặt ra những thủ tục rườm rà, đặc mùi mê tín
Tập tục thờ cúng tổ tiên của người Việt là một loại hình tín ngưỡng dân
gian đậm tính nhân bản, tuy có mặt tích cực về phương diện đạo đức làm người
và là một truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Việt, nhưng ngược lại cũng
bộc lộ sự mê tín, huyễn hoặc, khi tin rằng tổ tiên đã chết có quyền lực che chở
phù hộ cho con cháu. Tập tục này cũng gây nhiều khó khăn và hao phí tiền
của, công sức của con cháu với những nghi thức cúng bái cầu kỳ, rườm rà với
đủ thứ hình thức lễ lạc.
Việc cúng giỗ, đôi khi cũng phát sinh thêm những sự việc ngoài ý muốn
như: quá chén trong khi ăn uống sinh ra ra cải vã làm mất hòa khí, dẫn đến
những hành vi mất tự chủ.
Bên cạnh đó, tập tục này cũng gây nhiều trở ngại, ảnh hưởng đến cuộc sống
sinh hoạt của người dân Việt, vì ép buộc con cháu phải duy trì và tuân thủ
nhiều hủ tục không còn thích hợp trong thời đại công nghệ khoa học hiện
đại.Chưa kể việc đốt vàng mã quá nhiều gây mất vệ sinh, ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng.
Cuộc sống là một sự vận động không ngừng, luôn luôn biến đổi và con
người phải thích nghi với sự biến đổi đó. Ngày nay, việc thờ cúng tổ tiên ngày
càng được coi trọng, đáp ứng nhu cầu tâm linh của đại bộ phận người Việt
Nam. Biểu hiện của sự thay đổi này là những thay đổi trong cách thức bài trí
bát hương, không gian thờ trong gia đình, bên cạnh đó là sự cá nhân hóa trong
việc thờ cúng nghĩa là hình thức cúng giỗ mang tính cộng đồng chung các
thành viên trong gia đình được chuyển thành hình thức cúng giỗ cá thể, ngay
cả nguyên liệu dùng làm đồ thờ tới mộ phần của ông bà, tổ tiên cũng có nhiều
thay đổi.
Lịch sử đã khắc ghi các thế hệ vua Hùng nối tiếp nhau dựng lên nước
Văn Lang của người Việt cổ. Nước Văn Lang với nền văn minh lúa nước và
nền văn minh sông Hồng rực rỡ đã tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc phong phú
và độc đáo, đặt nền móng cho sự phát triển mạnh mẽ và dài lâu của dân tộc
Việt Nam. Vùng đất xưa, nơi các vua Hùng lập nghiệp và nằm xuống trở thành
Đất Tổ. Người Việt Nam chúng ta hôm nay hành hương tìm về Đất Tổ chính là
tìm về cội nguồn dân tộc, là thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn
Ngay từ buổi đầu dựng nước gian nan, cùng với việc sáng tạo nên
những giá trị văn hóa đặc sắc, người dân Việt cũng hình thành được những nét
đẹp truyền thống. Một trong những nét đẹp đó chính là lối sống cộng đồng, là
tinh thần đoàn kết. Cộng đồng các dân tộc Việt Nam, người Việt Nam nói
chung đều có quan hệ ruột thịt với nhau, có tình cảm thân thương như người
một nhà. Với ý nghĩa như vậy thì mọi người Việt Nam dù thuộc tộc người nào,
dù ở trong nước hay ngoài nước đều có chung một cội nguồn và một ngày Giỗ
Tổ. Tìm về đất Tổ, hướng về ngày Giỗ Tổ Hùng Vương là hướng về tinh thần
đại đoàn kết toàn dân tộc – yếu tố tạo nên sức mạnh nội sinh của dân tộc trong
7
suốt cuộc trường chinh dựng nước và giữ nước hôm qua, hôm nay và mãi mãi
về sau.
Chương 5: KẾT LUẬN
Trải qua bao thăng trầm trong lịch sử, nền văn hóa Việt đã chứng kiến bao
sự đổi thay mạnh mẽ trong quá trình giao lưu và tiếp nhận các nền văn hóa, tôn
giáo, tín ngưỡng từ bên ngoài. Nhưng trong quá trình “ nội sinh hóa các yếu tố
ngoại sinh” ấy, người dân Việt Nam vẫn gìn giữ được những nét văn hóa độc
đáo, riêng có, điển hình chính là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc.
Có thể nói, thờ cúng tổ tiên là một phong tục truyền thống của dân tộc, dù
đó không phải là điều bắt buộc song đó lại là thứ "luật bất thành vǎn" của
người Việt tồn tại qua bao thế hệ. Thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của
người dân Việt.
Với nội dung bình dị, giàu tính thực tiễn, không cực đoan như nhiều tôn
giáo khác nên tục thờ cúng tổ tiên đã trở thành một phong tục, là chuẩn mực
đạo đức và nguyên tắc làm người, mang ý nghĩa lớn về mặt tổ chức cộng đồng
trong xã hội truyền thống, củng cố khối đoàn kết cộng đồng. Thờ cúng tổ tiên,
ông bà đã trở thành tín ngưỡng gốc xuyên suốt quá trình lịch sử Việt Nam, nó
là sợi dây liên kết để góp phần cột chặt tính thống nhất toàn dân tộc và cũng là
cội nguồn của các phong tục, tín ngưỡng khác.
Từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên chính là sự kết tinh và phát triển các giá trị
đạo đức, văn hóa truyền thống đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Những giá trị ấy
góp phần bồi đắp lòng yêu nước thương nòi, đạo lý uống nước nhớ nguồn, có
trước có sau; xây dựng đời sống tinh thần phong phú trong thời đại mới.
Không gì khác, chính từ những giá trị đó đã làm nên sức sống trường tồn của
dân tộc Việt Nam trước bao biến cố của lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và
giữ nước.
Đây là điểm khác biệt với một số dân tộc khác ở Đông Á. Ở Hàn Quốc người ta chỉ lập bàn
thờ và dán bài khi có việc cúng giỗ, ở Nhật Bản, vị trí trang trọng nhất trong nhà dành thờ
Thần đạo (Shinto) còn ban thờ tổ tiên lại lập ở gian phụ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- b_3261.pdf