Các dự án chuyển giao cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam:
- Khu công nghiệp Tàu thủy Lai Vu (Hải Dương) bao gồm cả Công ty Công
nghiệp Tàu thủy Lai Vu.
- Khu công nghiệp Tàu thủy Nghi Sơn (Thanh Hóa) bao gồm cả Ban quản lý
dự án Khu công nghiệp Nghi Sơn.
- Nhà máy Đóng tàu đặc chủng và Sản xuất trang thiết bị tàu thủy Nhơn
Trạch (Đồng Nai).
- Nhà máy Đóng tàu Dung Quất.
- Khu công nghiệp Tàu thủy Soài Rạp (Tiền Giang).
- Phần vốn góp của Vinashin trong Công ty cổ phần Công nghiệp Tàu thủy
Hoàng Anh (Nam Định) và trong các dự án do công ty này làm chủ đầu tư.
30 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2630 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tình hình phá sản chung của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và đi vào phân tích cụ thể một doanh nghiệp_ tập đoàn kinh tế Vinashin, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Tình hình phá sản chung của doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam và đi
vào phân tích cụ thể một doanh
nghiệp_ tập đoàn kinh tế Vinashin
Trang 1
MỤC LỤC
Phần A: PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................ 3
I. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 3
II. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................... 3
III. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................ 3
IV. Cơ sở lý luận ........................................................................................................... 4
4.1. Khái niệm phá sản .................................................................................................. 4
4.2. Định hướng XHCN nền kinh tế ở nước ta ............................................................... 4
4.3. Một số nguyên nhân dẫn đến phá sản và những lời khuyên cụ thể ........................... 4
Phần B: NỘI DUNG CHÍNH ..................................................................................... 10
Chương I: Vài nét về tình hình phá sản doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay ............................................................ 10
Chương II: Sự phá sản của Tập đoàn kinh tế Vinashin ................................................ 14
2.1. Khái quát chung về tập đoàn kinh tế Vinashin ....................................................... 14
2.1.1. Lịch sử hình thành .............................................................................................. 14
2.1.2. Cơ cấu tổ chức .................................................................................................... 15
2.1.3. Đầu tư ................................................................................................................. 15
2.2. Tình hình phá sản của tập đoàn Vinashin ............................................................... 16
2.2.1. Một số dự án thất bại điển hình ........................................................................... 16
2.2.2. Những vấn đề tồn tại trong hoạt động kinh doanh của Vinashin .......................... 17
2.2.3. Một số nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của Tập đoàn........................................ 20
2.2.3.1. Nguyên nhân chủ quan ..................................................................................... 20
Trang 2
2.2.3.2. Nguyên nhân khách quan ................................................................................. 22
2.2.4. Hậu quả mà sự phá sản của Vinashin đã để lại .................................................... 24
Chương III: Biện pháp Chính phủ đã đưa ra để cải thiện tình hình của Tập đoàn kinh tế
Vinashin: Tái cơ cấu ............................................................................... 25
3.1. Lý do ..................................................................................................................... 25
3.2. Tái cơ cấu .............................................................................................................. 25
Phần C: KẾT LUẬN .................................................................................................. 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 29
Trang 3
Phần A: PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Sau gần hai thập niên đạt tăng trưởng kinh tế cao, Việt Nam đã ra khỏi nhóm các
nước có thu nhập thấp nhất, nhưng tình trạng mấy năm gần đây cho thấy nền kinh tế Việt
Nam đang bộc lộ những nguy cơ nghiêm trọng, tác động trực tiếp đến cuộc sống của
người dân và tương lai của đất nước. Biểu hiện rõ nhất là quản lý kinh tế yếu kém, các
tập đoàn Nhà nước thua lỗ nặng, doanh nghiệp phá sản càng nhiều, ngân hàng lãi càng
lớn, lạm phát tăng cao, chênh lệch giàu nghèo nới rộng, chất lượng cuộc sống của đại đa
số dân chúng giảm sút, nhiều người rơi trở lại tình trạng nghèo trước đây..v
Đặc biệt, sự phá sản là hiện tượng khá phổ biến trong nền kinh tế Việt Nam hiện
nay, tiêu biểu cho sự suy giảm của nền kinh tế. Phá sản không phải là điều tốt đẹp đối với
các doanh nghiệp, đặc biệt là hệ lụy của nó đối với nền kinh tế và an sinh xã hội. Tuy
vậy, ở một góc độ khác sự phá sản đôi khi giống như đào thải, sàng lọc các doanh nghiệp
yếu kém, làm ăn không hiệu quả. Đó cũng là quy luật của nền kinh tế thị trường…
Chính vì thế, để hiểu rõ hơn về tình hình phá sản của doanh nghiệp trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN, nhóm chúng tôi quyết định nghiên cứu tìm hiểu đề tài này.
II. Đối tượng nghiên cứu:
Tình hình phá sản chung của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam và đi vào phân tích cụ thể một doanh nghiệp_ tập đoàn kinh tế
Vinashin
III. Mục đích nghiên cứu:
Hiểu rõ hơn về tình hình phá sản của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
Thấy được các nguyên nhân chính dẫn đến sự phá sản của doanh nghiệp Việt
Nam, vai trò điều phối của chính phủ Việt Nam.
Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm, góp phần nào hạn chế được sự phá sản của doanh
nghiệp, phát triển nền kinh tế đất nước.
Trang 4
IV. Cơ sở lý luận:
4.1. Khái niệm về phá sản
Phá sản doanh nghiệp là hiện tượng một doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh
thương mại thực hiện hành vi thương mại, nhưng vì một lý do nào đó (quản lý kém, bị
thiên tai, hỏa hoạn...) nên không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn.
4.2. Định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta:
Theo GS.TS. Chu Văn Cấp – Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội, trong đó quá trình sản xuất,
phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông qua thị trường. Vì thế kinh tế
thị trường không chỉ là "công nghệ", là "phương tiện" để phát triển kinh tế – xã hội, mà
còn là những quan hệ kinh tế – xã hội, nó không chỉ bao gồm các yếu tố của lực lượng
sản xuất, mà còn cả một hệ thống quan hệ sản xuất. Như vậy, chứng tỏ không có và
không thể có một nền kinh tế thị trường chung chung, thuần túy, trừu tượng tách rời khỏi
hình thái kinh tế – xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị – xã hội của một nước. Do đó, để
phân biệt các nền kinh tế thị trường khác nhau, trước hết phải nói đến mục đích chính trị,
mục tiêu kinh tế – xã hội mà nhà nước và nhân dân lựa chọn làm định hướng, chi phối sự
vận động phát triển của nền kinh tế đó.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế
– xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên
những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau
và bổ sung cho nhau. Đó là, nhóm nhân tố của kinh tế thị trường và nhóm nhân tố của xu
hướng mới đang vận động, đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó,
nhóm thứ nhất đóng vai trò "động lực" thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, hiệu
quả; nhóm thứ hai đóng vai trò "hướng dẫn", "chế định" sự vận động của nền kinh tế theo
những mục tiêu đã xác định, bổ sung những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của
thị trường, hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội.
4.3. Một số nguyên nhân dẫn đến phá sản và những lời khuyên cụ thể:
- Không có sản phẩm mang tính cạnh tranh
Năng lực kinh doanh và khả năng thành công của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều
vào ý tưởng của sản phẩm và đưa ý tưởng vào thực tế thị trường. Đây là một yếu tố cơ
bản đầu tiên của doanh nghiệp. Các yếu tố khác không thể thay thế và chỉ hỗ trợ được
một phần nhỏ. Một sản phẩm có tính cạnh tranh không đơn giản là hơn các sản phẩm
khác về giá cả, chất lượng. Điều quan trọng là doanh thu phải đảm bảo bù đủ các chi phí,
Trang 5
ngoài ra còn đem về lợi nhuận. Điều này áp dụng cho cảcác sản phẩm hàng hoá, các sản
phẩm dịch vụ, các ngành công nghệ cao cũng như cho các cơ sở sản xuất kinh doanh thủ
công, cá thể. Sẽ chẳng giúp ích được gì cho nhà doanh nghiệp nếu sản phẩm dù tốt hơn,
rẻ hơn mà doanh thu vẫn không đảm bảo trang trải các chi phí cần thiết. Như vậy tính
cạnh tranh của một sản phẩm sẽ không phải do một kế hoạch, một đề án kinh doanh
quyết định mà hoàn toàn do thị trường quyết định. Rất có thể khi mới thành lập doanh
nghiệp, sản phẩm có tính cạnh tranh thật nhưng sau đó không duy trì được lâu dài. doanh
nghiệp nào không có sản phẩm có tính cạnh tranh thì nên rút lui sớm khỏi thị trường để
hạn chế thiệt hại về vốn.
Lời khuyên thứ nhất: Đối với một sản phẩm mới, doanh nghiệp phải hết sức cẩn
trọng trong việc đầu tư lớn bởi không biết chắc chắn có hoàn toàn thành công hay không.
- Chi phí cá nhân của nhà doanh nghiệp quá lớn
Nhiều nhà doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ lầm tưởng mình cũng có
quyền hưởng một thu nhập cố định như nhân viên. Dường như nhiều nhà doanh nghiệp
không biết hoặc biết mà quên rằng mình chỉ được hưởng những gì còn lại của doanh
nghiệp sau khi trừ mọi chi phí và đầu tư. Phần còn lại này đối với thời kỳ đầu của doanh
nghiệp là không nhiều, thậm chírất ít, trong khi thu nhập của nhân viên ổn định. Nhiều
nhà doanh nghiệp nhận biết khá muộn vì sao các ngân hàng dễ dãi chấp thuận các khoản
vay của doanh nghiệp, trong đó có cả phần sử dụng cho mục đích cá nhân như cải tạo
nâng cấp nhà riêng, biệt thự của nhà doanh nghiệp. Suy cho cùng điều đó càng làm tăng
thêm giá trị tài sản thế chấp là bất động sản của doanh nghiệp tại ngân hàng.
Lời khuyên thứ hai: Nhà doanh nghiệp sẽ không bao giờ phá sản khi chi tiêu cho
nhu cầu cá nhân thấp hơn khoản lợi nhuận làm ra.
- Sử dụng quá nhiều nhân viên
Chi phí cho nhân viên ngày càng chiếm một tỉ trọng lớn và gần như cố định với các
doanh nghiệp. Nếu không sử dụng và bố trí nhân viên hợp lí thì việc trả lương là một
gánh nặng đối với doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp có biến động xấu thì việc giảm
kịp thời nhân viên sẽ cứu doanh nghiệp khỏi bị phá sản. Có thể các nhà quản lí vĩ mô,
người làm chính sách chế độ không thích thú điều này nhưng thực tế đã chứng minh các
doanh nghiệp sớm giảm bớt nhân sự là những doanh nghiệp thành công. Khi một doanh
nghiệp thất bại vì có quá nhiều nhân viên, người ta không quan tâm vì lí do xã hội hay
không có khả năng quản lí và điều hành nhân viên.
Trang 6
Lời khuyên thứ ba: Doanh nghiệp chỉ tuyển nhận một số lượng nhân viên vừa với
khả năng quản lí và điều hành họ làm việc tối đa và hiệu quả.
- Doanh nghiệp bị xù nợ
Nhiều doanh nghiệp coi việc bị xù nợ là khó biết trước và khó mà tránh được. Điều
đó hoàn toàn không đúng vì phần lớn các món nợ bị mất đều có nguyên nhân từ một
quyết định sai lầm của doanh nghiệp. Chẳng hạn doanh nghiệp không thu thập đủ thông
tin cần thiết về khách hàng, doanh nghiệp bỏ qua lời khuyến cáo từ trước, vẫn tiếp tục
cung ứng hàng khi khách hàng vẫn còn nợ cũ tồn đọng. Đặc biệt với những khách hàng
mới và với những thương vụ lớn cần phải có những biện pháp an toàn hay phòng ngừa.
Các doanh nghiệp ít bị xù nợ vì rất quan tâm đến khả năng tài chính của khách hàng. Họ
sẵn sàng từ chối một hợp đồng kinh doanh khi thấy nghi ngờ hoặc rủi ro mất nợ là quá
lớn. Các doanh nghiệp đang có khó khăn về kinh doanh, doanh thu thường dễ dãi tiếp
nhận các hợp đồng. Chính sự dễ dãi, coi thường này có thểd ẫn đến bị mất nợ và trở
thành một cú đòn quyết định gây nên phá sản.
Lời khuyên thứ tư: Hợp đồng tốt nhất của doanh nghiệp chính là hợp đồng kinh
doanh mà doanh nghiệp không mạo hiểm và từ chối thực hiện.
- Doanh nghiệp bị nợ quá nhiều
Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là khi mới thành lập, thường vay nợ quá nhiều, nhất là
khi có điều kiện tiếp cận với các nguồn vốn có tính khuyến khích, hỗ trợ. Nhiều doanh
nghiệp nhận biết quá muộn rằng không phải lãi suất của tín dụng mà thực chất là tổng
khối lượng tín dụng phải hoàn trả mới là quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Các
hợp đồng vay vốn dài hạn thường là khó khăn lớn cho doanh nghiệp khi quyết định nhầm
lẫn nhưng khó có thể giải quyết ngay được. Nhiều doanh nghiệp tính toán phiêu lưu, cho
rằng sẽ được chiết khấu, tiết kiệm được nhiều thuế nếu tăng cường vay vốn để đầu tư
mua sắm, thuê tài chính, thuê máy móc, xe cộ. Điều đó chỉ đúng khi doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh có lãi và lãi nhiều. Khi gặp khó khăn, không tạo ra lợi nhuận thì gánh nợ
và vốn vay sẽ là đòn quyết định làm cho doanh nghiệp chóng bị phá sản.
Lời khuyên thứ năm: Người giàu không phải là người được sử dụng nhiều tiền vay
nợ mà là người có nhiều tiền sở hữu.
- Nhà doanh nghiệp quá chú ý đến tiện nghi
Bất kể một tiện nghi nào thì nhà doanh nghiệp đều phải chi phí. Các nhà kinh doanh
thành công đều bắt đầu từ nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến tiện nghi. Trước đây các nhà
doanh nghiệp bắt đầu sự nghiệp kinh doanh phần lớn đều từ ngay căn hộ mình đang ở
Trang 7
hay nhà kho, nhà để xe được tu sửa. Bây giờ quá nhiều doanh nghiệp trẻ khởi sự lại thích
tiện nghi ngay từ ban đầu, thuê những văn phòng, trụ sở đắt tiền, sang trọng. Đó là chưa
kể những tu sửa tốn tiền, mua sắm đồ dùng văn phòng cho hợp với sở thích của mình. Họ
quá thiên lệch, thậm chí nhầm lẫn khi cho rằng thế mới là cách tạo uy tín nhanh chóng
cho doanh nghiệp của mình. Thực ra họ ưa thích tiện nghi dường như quên mất rằng
chính chất lượng dịch vụ và sản phẩm của doanh nghiệp mới tạo nên uy tín lâu dài của
doanh nghiệp.
Một ví dụ cụ thể là nhiều doanh nghiệp ngay từ đầu đã trang bị một hệ thống tin học
khá hoàn hảo với các máy tính thế hệ mới nhất nhưng thực ra lại chỉ có nhu cầu sử dụng
nhữngc hức năng tối thiểu nhất. Không phải nhà doanh nghiệp nào cũng cần có thư ký
riêng, lái xe riêng. Không phải doanh nghiệp nào cũng cần có nhân viên đánh máy, nhân
viên lau dọn, vệ sinh phòng làm việc. Tất cả những công việc kể trên đều có thể thuê, sử
dụng các dịch vụ của các doanh nghiệp khác. Như thế vừa hiệu quả kinh tế hơn, vừa có
chất lượng tốt hơn, lại không bị động. Suy cho cùng, nhà doanh nghiệp thành lập doanh
nghiệp không phải để nâng cao địa vị xã hội mà là để kinh doanh kiếm nhiều tiền hơn.
Lời khuyên sáu: Một doanh nghiệp có thể thành công bắt đầu từ một nhà để xe, có
thể sẽ thất bại từ một lâu dài.
- Quá xem nhẹ những thua lỗ ban đầu
Nhiều doanh nghiệp lầm tưởng rằng việc kinh doanh thua lỗ trong những năm đầu
tiên thành lập là không thể tránh khỏi. Do đó thường xem nhẹ những kết quả kinh doanh
thua lỗ lúc ban đầu, không chú trọng tìm hiểu nguyên nhân. Khi nhận biết thì đã quá
muộn, doanh nghiệp có thể trên bờ phá sản. Trên thực tế, diễn biến thị trường, khách
hàng, kết quả kinh doanh không hoàn toàn theo dự kiến và kế hoạch kinh doanh ban đầu
của doanh nghiệp. Nếu kết quả thua lỗ ban đầu nằm trong trù tính trước thì nguyên nhân
thua lỗ vẫn nằm ngoài dự báo. Không phát hiện, phân tích đúng nguyên nhân dẫn đến
thua lỗ và không có những biện pháp điều chỉnh chính sách kinh doanh cho phù hợp càng
làm chính sách kinh doanh sai lầm tiếp tục và dẫn đến nguy cơ thất bại.
Lời khuyên thứ bảy: Lợi nhuận không phải là tất cả, nhưng nhà doanh nghiệp
không được chủ quan, phải quan tâm đến lợi nhuận ngay từ thời kỳ đầu.
- Chỉ nghĩ đến doanh số
Rất nhiều nhà doanh nghiệp chỉ mải mê nghĩ đến doanh số mà quên mất rằng thực
ra mục đích kinh doanh là lợi nhuận chứ không phải doanh số. Nhiều doanh nghiệp mới
thành lập đã vội tự hào vềs ự phát triển kinh doanh, mở rộng qui mô nhanh chóng. Đặc
Trang 8
biệt thể hiện bằng một vài hợp đồng hay công trình lớn. doanh nghiệp vội vã đầu tư dây
chuyền lớn,hiện đại, tuyển nhiều nhân viên. Nhưng kết cục lại đáng buồn. doanh nghiệp
chưa có kinh nghiệm tổ chức và điều hành qui mô lớn hơn, nhiều vấn đề mới phát sinh
mà chưa có kinh nghiệm. Hơn thế, nhiều khi nhóm khách hàng nhỏ dễ bị sao nhãng, thậm
chí bỏ rơi. Khách hàng lớn và hợp đồng lớn thì không có. Làm gì với số tài sản và nhân
sự mới được đầu tư, tuyển nhận? doanh nghiệp rất dễ có nguy cơ phá sản trong những
trường hợp như vậy. Khi các doanh nghiệp lớn tăng doanh số, tăng thị phần, các doanh
nghiệp nhỏ và vừa rất khó duy trì hoạt động tốt. Bởi đó là chính sách kinh doanh phù hợp
với các tập đoàn, các công ty quốc tế trường vốn. Tất nhiên nếu không có doanh số thì
không thể có lợi nhuận.Nhưng không có nghĩa là doanh số càng cao thì lợi nhuận càng
cao. Sẽ rất nguy hiểm cho sự tồn tại của doanh nghiệp nếu doanh số tăng mà lợi nhuận
thực tế lại không tăng tương xứng. Nếu lợi nhuận vẫn như cũ thì doanh nghiệp phá sản
chỉ còn là vấn đề thời gian vì doanh nghiệp sẽ không chịu nổi những chi phí tăng thêm.
Lời khuyên thứ tám: Hay đồng ý trước các đề nghị thì sẽ có doanh số lớn. Nhưng
thỉnh thoảng biết từ chối trước một hợp đồng lớn mới là người làm ra nhiều lợi nhuận.
- Không lập quĩ dự phòng tài chính
Kể cả những nhà doanh nghiệp có tài nhất cũng không tránh khỏi có những lúc phán
đoán sai diễn biến của thị trường hay có những lúc chịu bất lực trước một biến động
mang tính rủi ro. Những lúc đó, doanh nghiệp nhất thiết phải có những dự phòng tài
chính nhất định, được tích luỹ từ lợi nhuận những năm trước. Kinh nghiệm cho thấy, nếu
có biến động, tác động kinh tế lớn thì các ngân hàng, các nhà tài trợ cũng bị ảnh hưởng
và họ cũng hạn chế cho vay. Kể cả khi ngân hàng không bị ảnh hưởng thì họ cũng rất cẩn
trọng và không đầu tư vào các lĩnh vực đang có rủi ro. Có nguồn dự trữ tài chính, doanh
nghiệp hoàn toàn chủ động, không phụ thuộc vào ngân hàng và tự mình vượt qua những
lúc khó khăn, tránh được nguy cơ phải bán một phần hay toàn bộ doanh nghiệp.
Lời khuyên thứ chín: Hãy tiết kiệm và dự trữ tài chính khi doanh nghiệp có thể làm
được để tự cứu mình khi gặp khó khăn.
- Quá tin vào người khác
Nhiều doanh nghiệp thất bại và phá sản chỉ vì một nguyên nhân đơn giản là quá tin
vào người khác. Họ đủ các đối tượng, từ nhà tài trợ, đối tác, nhân viên của chính doanh
nghiệp đến khách hàng. Ví dụ, nếu quá tin vào ngân hàng khi bắt đầu đầu tư, nhưngnửa
chừng ngân hàng lại quyết định không cho vay tiếp. Quá tin vào nhân viêncủa mình,
doanh nghiệp có thể phải gánh chịu những hậu quả bất ngờ, thậm chí phải nhờ pháp luật
hỗ trợ. doanh nghiệp quá tin vào khách hàng cũng có thể bị từ chối nhận hàng, không
Trang 9
chịu thanh toán đủ và đúng hạn. Một doanh nghiệp khi hợp tác, liên kết kinh doanh với
bạn hàng, đối tác thường quá tin tưởng, thậm chí phó mặc cho họ. Thực ra cuối cùng, tất
cả là do thiếu cẩn trọng, không có biện pháp phòng ngừa phù hợp. Người chịu hậu quả
chính là doanh nghiệp, thậm chí dẫn đến phá sản.
Lời khuyên thứ mười: Doanh nghiệp phải luôn cẩn trọng và phải ý thức rằng tự
mình chịu trách nhiệm trước hết về một quyết định kinh doanh.
Trang 10
Phần B: NỘI DUNG
Chương I: Vài nét về tình hình phá sản doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay:
Hình 1.1 : Tỷ lệ DN ngừng hoạt động phá sản
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh đã đưa ra tại cuộc họp Ủy ban
Thường vụ kỳ thứ 7 hồi tháng 4, đến nay các cơ quan chuyên trách đã có những con số
thống kê khá đầy đủ về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp trong 4 tháng đầu năm.
Theo nhận xét của Bộ chủ quản hoạt động đầu tư thì trong 4 tháng đầu năm 2012,
chỉ số tồn kho doanh nghiệp tiếp tục tăng cao, số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động
cao hơn so với cùng kỳ năm trước.
Thống kê của Bộ cho thấy, 4 tháng vừa rồi có 23.971 doanh nghiệp được thành lập
mới với tổng số vốn đăng ký 130.044 tỷ đồng, giảm 10,5% về số lượng doanh nghiệp và
giảm 14,1% về tổng vốn đăng ký so với cùng kỳ.
Tổng số doanh nghiệp đã thực hiện việc giải thể và dừng hoat động tiếp tục tăng
nhanh chóng lên 17.735 doanh nghiệp, tăng 9,5% so cùng kỳ năm 2011. Trong đó, thành
phố Hồ Chí Minh có 5.822 doanh nghiệp với 808 doanh nghiệp đã giải thể, 5.014 doanh
Trang 11
nghiệp dừng hoạt động. Hà Nội có 3.538 doanh nghiệp với 319 doanh nghiệp đã giải thể,
3.219 doanh nghiệp dừng hoạt động.
Hình 1.2: Biểu đồ thể hiện tốc độ tăng trưởng chi tiêu hàng hóa thực, đầu tư từ
ngân sách và lạm phát.
Các doanh nghiệp hoạt động chính trong lĩnh vực bán buôn, bán lẻ, xây dựng, chế
biến chế tạo, vận tải kho bãi và bất động sản.
Trong số các doanh nghiệp gặp khó khăn giải thể, có nhiều doanh nghiệp năng lực
tài chính yếu, sản phẩm kém khả năng cạnh tranh cần phải được cơ cấu lại, đồng thời bổ
sung một lượng mới doanh nghiệp đang tìm kiếm các cơ hội kinh doanh mới, qua đó
nâng cao hiệu quả đầu tư của khu vực doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế.
Như vậy, tính đến hết ngày 30/4/2012, trong tổng số 647.627 doanh nghiệp đã được
thành lập, cả nước còn 463.802 doanh nghiệp đang hoạt động, chiếm tỉ lệ 71,6%, có
81.929 doanh nghiệp đã giải thể, 16.075 doanh nghiệp đã đăng ký dừng hoạt động và
85.821 doanh nghiệp dừng hoạt động nhưng không đăng ký. Mức 71,6% doanh nghiệp
còn hoạt động trên tổng số đã thành lập từ khi đổi mới kinh tế cho đến nay, theo Bộ
KHĐT là tỷ lệ chấp nhận được ở mức trung bình so với thế giới.
Tại Anh, tỷ lệ doanh nghiệp còn tồn tại sau 3 năm hoạt động cũng chỉ 70%; còn tại
Mỹ, tỷ lệ doanh nghiệp tồn tại sau 5 năm hoạt động là dưới 50%.
Tuy nhiên, theo bộ KHĐT thì vấn đề đang lo ngại hiện nay là xu thế doanh nghiệp
thành lập mới liên tục giảm sút, trong khi đó số lượng các doanh nghiệp đã phải thu hẹp,
Trang 12
ngừng, thậm chí chấm dứt hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục tăng cao đã cho thấy
khu vực doanh nghiệp nước ta đang gặp nhiều khó khăn.
Còn theo như “Kết quả điều tra thực trạng và tình hình khó khăn của doanh nghiệp”
do Tổng cục Thống kê thực hiện với mẫu là 10.120 doanh nghiệp thuộc các loại hình sở
hữu thì sau 1 năm, 3 tháng hoạt động, số doanh nghiệp thực tế còn hoạt động chiếm
91,6%, số doanh nghiệp phá sản, giải thể và doanh nghiệp ngừng sản xuất kinh doanh,
đang hoàn thành thủ tục phá sản, giải thể chiếm 8,4%.
Tỷ lệ doanh nghiệp ngoài nhà nước phá sản, giải thể chiếm cao nhất với 9,2%, tiếp
đến là khu vực doanh nghiệp nhà nước với 2,7% và thấp nhất là khu vực doanh nghiệp
FDI với 2,6%.
Hình 1.3: Trước tình trạng phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp, Ngân hàng
Nhà nước đã liên tục cắt giảm lãi suất
Riêng ở lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, 4 tháng đầu năm, tổng số doanh
nghiệp đăng ký thành lập là 239 doanh nghiệp, tăng 24,5% so với cùng kỳ. Tỷ lệ giải thể,
ngừng hoạt động tăng 32,9% so cùng kỳ, chiếm 5,7% trên tổng số doanh nghiệp đang
hoạt động.
Trong tổng số 706 (8,4%) doanh nghiệp phá sản, giải thể thuộc mẫu điều tra có đến
69,4% là do sản xuất kinh thua lỗ, 28,4% doanh nghiệp thiếu vốn để sản xuất kinh doanh,
15,1% doanh nghiệp không tiêu thụ được sản phẩm; 11,7% doanh nghiệp khó khăn về địa
Trang 13
điểm sản xuất kinh doanh; 4,4% doanh nghiệp phải đóng cửa để thành lập doanh ngiệp
mới/chuyển đổi ngành nghề sản xuất kinh doanh và 4,7% doanh nghiệp đóng cửa để sáp
nhập với doanh nghiệp khác.
Những doanh nghiệp phá sản, giải thể có đến 89,7% cho biết sẽ không tiếp tục thành
lập doanh nghiệp mới.
Như thế, qua thống kê cho thấy tình hình các doanh nghiệp Việt Nam có xu hướng
thành lập thì ít, thu hẹp, phá sản thì nhiều; và là vấn đề nóng bỏng đang được quan tâm
trong xã hội.
Để thấy rõ được tình hình phá sản của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
định hướng CNXH ở Việt Nam chúng ta đi vào cụ thể phân tích tình hình phá sản của 1
doanh nghiệp: Tình hình phá sản của Tập đoàn Kinh tế Vinashin.
Trang 14
Chương II: Sự phá sản của Tập đoàn kinh tế Vinashin:
2.1. Khái quát chung về tập đoàn kinh tế Vinashin:
Loại hình: Tập đoàn kinh tế
Ngành nghề: Đóng tàu,bảo hiểm,tài chính,vận tải biển,các dịch vụ khác
Thành lập: Hà Nội (15-5-2006)
Nhà sáng lập: Thủ tướng Việt Nam
Trụ sở chính: 109 Quán Thánh, Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam
Thành viên chủ chốt: - Chủ tịch HĐQT: Nguyễn Ngọc Sự.
- CEO: Trương Văn Tuyến.
Sản phẩm: Đóng tàu; Dịch vụ đa ngành tàu thủy
2.1.1. Lịch sử hình thành:
Manh nha thành lập tổng công ty đã có từ lâu trên cơ sở chỉ đạo của trung ương về
tổ chức lại ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt nam - Một ngành đã có truyền thống rất lâu
đời ở Việt nam. Tiền thân của tập đoàn là Tổng Công ty 91 được thành lập từ năm 1996.
Tổng Công ty 91 được thành lập vào ngày 31 tháng 1 năm 1996. Căn cứ vào Quyết
định số 69/TTg ngày 31 tháng 1 năm 1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập
Tổng Công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam.
Ngày 15 tháng 5 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
103/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn kinh tế, đa sở
hữu, trong đó sở hữu Nhà nước chi phối, trên cơ sở sắp xếp tổ chức lại Tổng Công ty
Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin).
Và ngày 15 tháng 5 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký Quyết định số
104/2006/QĐ-TTg về việc thành lập Công ty mẹ - Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt
Nam. Theo Quyết định này, Công ty mẹ - Tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam được
thành lập trên cơ sở tổ chức lại cơ quan quản lý, điều hành và các đơn vị thành viên hạch
toán phụ thuộc của Tổng Công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam. Sự kiện này đánh dấu
chính thức tập đoàn Vinashin ra đời.
Trang 15
Như vậy tập đoàn Vinashin ra đời căn cứ vào các văn bản pháp luật của nhà nước
trên cơ sở chỉ đạo của trung ương về việc tổ chức lại ngành công nghiệp tàu thuỷ của Việt
Nam để đáp ứng yêu cầu hội nhập hiện nay.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức:
Công ty mẹ:
Tên đầy đủ là: Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam. Đây một doanh nghiệp
nhà nước có chức năng đầu tư bằng vốn của Nhà nước.
Công ty mẹ có hệ thống tổ chức bài bản, chặt chẽ bao gồm: Văn phòng, các Ban,
Trung tâm chuyên môn, nghiệp vụ. Văn phòng đại diện của Công ty mẹ ở trong nước và
nước ngoài. Các chi nhánh trực thuộc Công ty mẹ như: Công ty Xuất Nhập khẩu
Vinashin; Trung tâm hợp tác đào tạo lao động với nước ngoài; Trung tâm Tư vấn đầu tư
và Kiểm định xây dựng Vinashin. Đơn vị sự nghiệp có thu gồm: Trường Cao đẳng nghề
Vinashin;Trường Trung cấp nghề Công nghiệp tàu thủy III; Trường Trung cấp nghề
Công nghiệp tàu thủy VI; Tạp chí Công nghiệp tàu thủy
Các công ty con:
Các công ty con thuộc công ty mẹ: Công ty cổ phần Thương mại và Dịch vụ văn
phòng Vinashin (Công ty mẹ nắm giữ 51% vốn điều lệ); Các công ty con có vốn điều lệ
do công ty mẹ cung cấp 100% gồm 14 công ty.
Ngoài ra tập đoàn còn có 22 Công ty cổ phần; 13 đơn vị hạch toán phụ thuộc; 11
Công ty liên doanh; 7 Đơn vị sự nghiệp có thu; 7 Đơn vị phụ thuộc; 30 Công ty cổ phần
do tập đoàn giữ cổ phần chi phối.
Trong thời gian gần đây, tập đoàn đã có chiến lược phát triển và dự kiến thực hiện
việc xắp xếp, tổ chức lại về mặt nhân sự và cơ cấu tổ chức để nâng cao hiệu quả họat
động, gia tăng khả năng cạnh tranh.
2.1.3. Đầu tư:
Năm 2005, Chính phủ đã phát hành 750 triệu USD trái phiếu ra nước ngoài để đầu
tư cho các dự án của Vinashin. Trong tháng 11 năm 2009, Thủ tướng chính phủ còn ký
quyết định phát hành 3.000 tỷ đồng trái phiếu trong nước được Chính phủ bảo lãnh cho
tập đoàn để đầu tư dự án nâng cấp mở rộng Công ty Đóng tàu Phà Rừng và dự án đầu tư
nâng cao năng lực đóng tàu của Công ty đóng tàu Hạ Long thuộc Tập đoàn.
Trang 16
2.2. Tình hình phá sản của tập đoàn Vinashin
2.2.1. Một số dự án thất bại điển hình:
Một số dự án thất bại điển hình của Vinashin cho thấy khả năng quản lý kém của
Ban giám đốc Vinashin.
Công ty Vận tải viễn dương Vinashin:
Công ty Vận tải viễn dương Vinashin (VNSlines) (công ty con của Vinashin) đầu tư
hơn 200 triệu USD (khoảng 3.136 tỷ đồng) để mua về tới 6 con tàu có tuổi từ 22 đến 26
năm trong số 9 tàu của Công ty này. Hầu như tất cả các con tầu này hiện tại đều không
chạy được, do hỏng hóc, do bị bắt giữ tại các cảng trong và ngoài nước.
Đóng tàu Lash Sông Gianh:
Tàu Lash Sông Gianh chỉ chạy thử 1 chuyến đầu tiên (và cũng là chuyến cuối cùng)
chở than từ Quảng Ninh vào Sài Gòn. Tổng tiền thu được từ chuyến hàng này chưa tới
1,8 tỷ, nhưng tiền bỏ ra để chi phí phục vụ cho việc chở đã tới hơn 4 tỷ đồng (bao gồm
tiền dầu, phí bảo đảm hàng hải, tàu lai, vật tư, phí tàu kéo lash con, lương thủy thủ, phí
hoa tiêu...). Thời gian hoàn thành chuyến hàng đầu tiên này cũng đạt mức kỷ lục: gần 2
tháng. Từ đó đến nay, nó được đắp chiếu nằm tại Nhà Bè- Sài Gòn.
Mua cổ phần Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam:
Với trị giá 1.467 tỷ đồng mua 20,4 triệu cổ phần chiếm 3,56% vốn với giá mua 70
ngàn VND.
Mua tàu Hoa Sen:
Mua tàu Hoa Sen ngày 15.10.2007 từ Italia, chi phí mua tàu 60 triệu Euro tương
đương 1.300 tỷ đồng, chạy tuyến Bắc Nam, hiện tại dừng hoạt động vì mỗi chuyến chạy
lỗ 1,5 tỷ VND. tàu Hoa Sen đã từng bị thủng đáy trong thời gian khai thác ở Ý, mang về
phải sửa chữa, hiện tại đang nằm tại vùng nước thuộc Công ty công nghiệp đóng tàu Cam
Ranh. Dù tàu không chạy mà vẫn phải cho máy nổ, phải có người canh giữ. Mỗi năm
phải trả lãi vay gần 80 tỷ đồng.
Nhà máy điện Diesel Cái Lân:
Dự án nhà máy điện diesel có tổng mức đầu tư gần 36 triệu USD. Trong quá trình
thực hiện, mặc dù trong hợp đồng quy định rõ các thiết bị máy móc phải được mua sắm
mới và có xuất xứ từ châu Âu, nhưng ban quản lý đã ký kết với nhà thầu mua sắm nhiều
Trang 17
thiết bị đã qua sử dụng, kém chất lượng, trong đó thiết bị chính của nhà máy được tháo
dỡ từ một nhà máy điện diesel ở Trung Quốc.Sau hơn hai năm vận hành (từ tháng 4-2007
đến 10-2009) Nhà máy Cái Lân lỗ hơn 62 tỷ đồng, tổng các khoản nợ không có khả năng
thanh toán lên đến 27,58 triệu USD và 107,5 tỷ đồng.
2.2.2. Những vấn đề tồn tại trong hoạt động kinh doanh của Vinashin.
Theo thông báo từ Văn phòng Chính phủ, Vinashin khởi nghiệp vào năm 1996 với số vốn
ít ỏi là 100 tỉ đồng. Tăng trưởng hàng năm của Vinashin là 35-40% từ khi được đi vào
hoạt động. Xin được bình quân là 38%. Dưới đây là bảng tổng kết tăng trưởng của
Vinashin từ năm 1996.
Hình 2.1: Bảng tổng kết tăng trưởng của Vinashin từ năm 1996
Ghi chú: Vì tỉ giá đô la thay đổi nên có những năm tăng trưởng dưới 38% nếu đổi ra giá
trị đồng đô la.
Trang 18
Có lẽ con số tăng trưởng 38% (tính bình quân của 35-40%) này bao gồm tăng trưởng từ
doanh thu và cả tăng trưởng giá trị của công ty. Và con số thực tăng trưởng từ doanh thu
chỉ vào khoảng 20% trở xuống mà thôi. Bởi lẽ, với phân lời là 20% mà để có được tăng
trưởng 38 tỉ đồng vào năm 1996 thì tổng doanh thu phải là 190 tỉ đồng. Một con số không
tưởng với số vốn 100 tỉ đồng!
Theo bảng tổng kết trên đây thì đến năm 2006, tổng số vốn của Vinashin chỉ có 157 triệu
USD. Vậy thì, kẻ thủ ác đầu tiên đã cắm nhát dao chí mạng cho con tàu Vinashin là
những cơ quan, những người đã ký giải ngân 750 triệu USD! Thật vậy. Vì 750 triệu USD
là số tiền gấp 4,7 lần tổng số vốn của Vinashin vào năm 2006. Điều này trái với quy luật
kinh doanh – tiền đầu tư vào cơ sở nhà máy, máy móc thiết bị không thể nhiều hơn số
vốn của công ty. Nhưng trong trường hợp này là lớn hơn gấp 4,7 lần. Lúc đó, đã có người
gởi thư cảnh báo chuyện này được gởi đến những cơ quan cùng những người có trách
nhiệm nhưng tất cả chỉ là con số không – không ai quan tâm.
Tính đến năm 2008, tổng giá trị của Vinashin là 296 triệu USD. Tất nhiên là chưa tính tài
sản từ khoản nợ trái phiếu, vì số nợ trái phiếu dùng để đầu tư thì chưa thể sinh lời. Và dẫu
những cơ sở này đã sẵn sàng để phục vụ sản xuất, để làm ra sản phẩm thì Vinashin cũng
không có vốn. Vậy thì, con số doanh thu của năm 2008 là 29.000 tỉ đồng – tương đương
1 tỉ 800 triệu USD vào năm 2008 – là từ đâu ra?
Vì theo con số đó, doanh thu của năm 2008 gấp 6 lần số vốn hiện có của Vinashin. Ngay
cả những công ty như Apple hay Exxon Moble –những công ty có tăng trưởng kỷ lục của
Mỹ cũng không dám mơ ước. Vậy thì, con số 29.000 tỉ đồng– hay 1 tỉ 800 triệu USD –
của năm 2008 có phải là con số hoang tưởng hay không?
Vinashin chỉ sống bấp bênh như kẻ sống bám. Thật vậy, chỉ cần một trục trặc nhỏ là đủ
giết chết Vinashin. Cho dù Vinashin có được những hợp đồng hàng tỉ USD đi chăng nữa
thì Vinashin cũng chỉ làm mướn không công. Với phân lời vốn vay là 7,125%, trong khi
đó phân lời của ngành đóng tàu dao động từ 6-10%, nếu giao tàu trước hoặc đúng hạn
thì Vinashin vẫn chỉ lời chưa tới 3% hoặc là lỗ 1%!
Đến nay, hơn 85 triệu người Việt Nam còn chưa hết bàng hoàng về con số nợ khủng
khiếp của Vinashin là 86.000 tỉ đồng – tương đương 4,3 tỉ USD – hay 4,7% GDP của
Việt Nam. Theo bản thông báo của Chính phủ thì số nợ vay của Vinashin lớn hơn gần 11
lần vốn sở hữu của tập đoàn “chúa Chổm”. Một kỷ lục về sự chênh lệch giữa vốn vay và
vốn sở hữu mà đến ngay những kinh tế gia lỗi lạc như George Soros hay Warren Buffet
cũng không thể nghĩ tới…
Trang 19
Hình 2.2: Bảng cân đối kế toán của tập đoàn Vinashin do KPMG kiểm toán (Làm
tròn số, đơn vị tính tỉ đồng)
Trang 20
Như vậy, tổng số nợ của Vinashin tính đến cuối năm vừa rồi đã lên tới 96.635 tỉ đồng
chứ không phải chỉ là 86.000 tỉ đồng như lâu nay công bố. Một con số đáng chú ý khác là
trong 42.495 tỉ tài sản cố định, gần một nữa là chi phí đổ vào các công trình đang xây
dựng dở dang, có nghĩa chúng chưa phải là tài sản cố định có thể sinh lời và để hoàn
thành chúng, ắt còn phải tốn thêm nhiều tiền nữa. Riêng về kết quả hoạt động kinh doanh,
năm 2009 Vinashin lỗ 1.628 tỉ đồng trên tổng doanh thu là 22.461 tỉ đồng so với mức lãi
560 tỉ đồng trên tổng doanh thu 29.132 tỉ đồng của năm 2008.
2.2.3. Một số nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của Tập đoàn:
2.2.3.1. Nguyên nhân chủ quan:
Sự bao che, chủ quan từ cấp trên:
Từ năm 2005 đến nay, đã có 13 – 14 cuộc thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát ở
Vinashin, phát hiện ra nhiều sai phạm, nhưng lãnh đạo tập đoàn này không những không
nghiêm túc chấn chỉnh mà còn tìm cách báo cáo không đúng để che giấu sai phạm. Tổng
Thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền cho biết như vậy khi trao đổi với báo chí bên hành
lang Quốc hội ngày 21.10.2010: "Nhưng Chính phủ và các cơ quan chức năng không
biết, không ai chịu trách nhiệm. Xã hội và cử tri rất bức xúc cho rằng có sự bao che cho
những việc làm sai trái, vi phạm pháp luật của Vinashin làm thiệt hại lớn đến tiền và tài
sản của nhà nước”.
Sai lầm của các cán bộ quản lý (Nguyên nhân trực tiếp).
Lãnh đạo Vinashin, trước hết là Hội đồng Quản trị và người đứng đầu có nhiều
khuyết điểm, sai lầm trong tổ chức, quản lý, điều hành, xác định lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh, quản lý các công ty con, công ty liên kết, tiến hành các hoạt động đầu tư xây
dựng, quản lý vốn, tài chính, vay và trả nợ. “Theo thông tin từ BBC, Ngày 1/11/2011
Vinashin đã chính thức bị Công ty Elliot VIN (Hà Lan) khởi kiện lên tòa án tại Anh, liên
quan đến khoản nợ 600 triệu đô la vay bằng trái phiếu. 60 triệu đô la từ khoản vay này
đã đến hạn trả nợ từ tháng 12/2010 nhưng Vinashin và các công ty con không có khả
năng thanh toán”.” Vinashin hiện nợ Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) khoảng gần
300 tỷ VND (14 triệu đôla) tiền đi vay để trả nợ tiền lương, các loại bảo hiểm, trợ cấp
cho người lao động”.
Năng lực quản trị doanh nghiệp và dự báo yếu kém, trình độ cán bộ lãnh đạo quản
lý chưa đáp ứng yêu cầu; xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch
đầu tư của doanh nghiệp quá nhanh, quá nóng, không phù hợp với nguồn vốn, năng lực
quản lý và quy hoạch phát triển được cấp có thẩm quyền phê duyệt; quản lý đầu tư, quản
Trang 21
lý tài chính lỏng lẻo, kém hiệu quả, nhiều quyết định trái quy định của pháp luật; tổ chức
phát triển hệ thống doanh nghiệp quá dàn trải và quản lý nhân sự cán bộ không chặt chẽ.
Vinashin đầu tư dàng trải, đầu tư vào rất vào các dự án ngoài ngành (như điện, thép,
tài chính...) mà tập đoàn không có kinh nghiệm, dẫn tới nhiều dự án hiệu quả thấp, hoặc
chưa hoàn thành vì thiếu vốn, gây đình trệ và lãng phí rất lớn vốn.
Nghiêm trọng hơn, Vinashin đã báo cáo không đúng thực trạng về sử dụng vốn, về
đầu tư, về phát triển thêm doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh và tình hình hoạt động
sản xuất kinh doanh, mỗi lần báo cáo số liệu khác nhau. Năm 2009 và Quý I năm 2010
thua lỗ nhưng vẫn báo cáo có lãi.
“Tháng 7/2010, Thanh tra Chính phủ thực hiện thanh tra toàn diện tình hình tài
sản, kết quả sản xuất kinh doanh của Vinashin. Theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ
gửi Thủ tướng, tính tới cuối năm 2009, tổng giá trị tài sản của Vinashin đạt hơn 102.500
tỷ đồng. Nếu loại trừ các công nợ nội bộ thì tổng giá trị tài sản còn lại gần 92.600 tỷ
đồng. Tổng nợ phải trả của Vinashin tính đến thời điểm cuối năm 2009 là hơn 86.700 tỷ
đồng bao gồm 750 triệu đô la trái phiếu Chính phủ bảo lãnh vay, nợ các ngân hàng
trong và ngoài nước, nợ các đối tác. Tổng vốn chủ sở hữu của Vinashin là 5.900 tỷ đồng.
Trong năm 2009, Vinashin thực lỗ gần 5.000 tỷ đồng, nhiều hơn 3.300 tỷ so với báo cáo
tài chính của Vinashin (1.700 tỷ đồng)”
"Khuyết điểm này của lãnh đạo, trước hết của người đứng đầu Tập đoàn làm cho cơ
quan quản lý nhà nước, cơ quan chủ sở hữu cấp trên nắm không đúng thực trạng nên chỉ
đạo không kịp thời, đầy đủ"- Chính phủ khẳng định.
Ngoài ra, Vinashin đã quyết định thực hiện nhiều dự án đầu tư ngoài quy hoạch,
không đúng quy định của pháp luật hiện hành; quyết định sử dụng vốn kém hiệu quả, có
biểu hiện sai trái; sử dụng một số vốn lớn để mua tàu vận tải biển của nước ngoài, trong
đó có những con tàu mua quá cũ; không nghiêm túc thực hiện những ý kiến chỉ đạo của
cơ quan có thẩm quyền.
Chất lượng những tàu đóng mới dán mác Vinashin đã ở mức báo động. Vậy như,
qua khảo sát sơ bộ cho thấy: Vinashin tập trung quá nhiều vào lĩnh vực đóng mới, mà bỏ
qua, xem nhẹ khâu sửa chữa tàu thủy. Tàu đóng mới chất lượng kém, ế thừa tàu, không
bán được.
Nhiều cán bộ quản lý tham ô, tham nhũng, tư lợi, che dấu thông tin, đầu tư nhằm
tham ô, tham nhũng bòn rút tài sản của tập đoàn, như trong các dự án mua tàu Hoa Sen,
nhà máy điện Cái Lân... Các giai đoạn của quá trình huy động, quản lý, sử dụng vốn đều
Trang 22
bị buông lỏng và vi phạm quy định của pháp luật. “Theo cáo trạng, nguyên chủ tịch
Vinashin Phạm Thanh Bình và đồng bọn coi thường pháp luật và các quy định của Nhà
nước về quản lý, đầu tư và sử dụng vốn Nhà nước, gây ra một sự mất mát của VND469.5
tỷ trong việc mua tàu Hoa Sen; VND316.5 tỷ USD trong nhiệt sông Hồng dự án nhà máy
điện ở tỉnh Nam Định; VND66.5 tỷ trong diesel thực vật Cái Lân nhiệt điện trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh; VND30.4 tỷ đồng trong hợp đồng thuê tài chính của tàu sao tại Bình
Định; và VND27.3 tỷ đồng trong việc bán Bạch Đằng Giang tàu”.
Theo kết luận của Ủy ban kiểm tra Trung ương ngày 5.7.2010, “trong những năm
qua Tập đoàn đã báo cáo không trung thực về tình hình tài chính của doanh nghiệp”.
"Những yếu kém và sai phạm nghiêm trọng, nhất là về đầu tư, về sử dụng vốn của
lãnh đạo Tập đoàn cộng với những yếu tố khách quan tác động nặng nề, đã làm cho Tập
đoàn thua lỗ, không vay được vốn, mất khả năng chi trả, không còn vốn để hoạt động. Từ
năm 2008, nhiều dự án đầu tư phải dừng lại, một số đơn vị ngừng hoạt động sản xuất
kinh doanh, một bộ phận không nhỏ người lao động bỏ việc, mất việc" - Chính phủ kết
luận.
2.2.3.2. Nguyên nhân khách quan:
Khủng hoảng Kinh tế trên thế giới 2008-2009:
Khủng hoảng Kinh tế trên thế giới 2008-2009 đã đánh vào tham vọng của Vinashin.
Theo ông Phạm Viết Muôn, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, vào năm 2006, 2007
Vinashin hoạt động tốt, phát triển tốt, qua năm 2008 mới suy thoái. Khi chưa suy thoái
Vinashin có 166 hợp đồng đóng tàu, giá trị 5-6 tỉ USD, nhưng có suy thoái các đối tác
huỷ hợp đồng gây thiệt cho Vinashin. Các cơ quan làm chiến lược, làm chính sách không
phải chỉ tham khảo ý kiến chuyên gia trong nước mà cả nước ngoài để đánh giá hoạt
động của Vinashin
Thị trường đóng tàu và vận tải biển thế giới sụt giảm đột ngột. Tổng giá trị hợp
đồng đóng mới năm 2008 giảm 38% so với năm 2007. Giá đóng mới tàu giảm một nửa
song thị trường đóng tàu vẫn ngừng trệ, các đơn đặt hàng giảm mạnh từ 57%-80%, có
loại tàu không còn hợp đồng đóng mới.
Trang 23
Hình 2.3: Biểu đồ thể hiện tăng trưởng xuất khẩu GDP toàn thế giới năm 1990-2010
Theo đánh giá của Chính phủ, cùng với các nền kinh tế thế giới và trong nước, Tập
đoàn Vinashin chịu tác động hết sức nặng nề, đặc biệt về thị trường và nguồn vốn của
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Ngân hàng thắt chặt cho vay, các dự án
đầu tư đang triển khai thiếu vốn không hoàn thành được để đưa vào sản xuất. Ngành vận
tải viễn dương bị đình đốn, các chủ tàu đã hủy hợp đồng và các thỏa thuận đóng tàu trị
giá hơn 8 tỷ USD. Riêng trong năm 2010 số hợp đồng đóng tàu có nguy cơ bị hủy lên tới
trên 700 triệu USD.
Trang 24
Hình 2.4: Những hình ảnh đáng chú ý về cuộc khủng hoảng trên thế giới 2008-2009.
2.2.4. Hậu quả mà sự phá sản của Vinashin đã để lại.
Ngày 15 tháng 5 năm 2006, Vinashin khởi hành chuyến đi đầu tiên từ Văn phòng của
Thủ tướng với quyết định 103/QĐ- TTg và cái đích đến là 10% thị phần đóng tàu biển
của thế giới. Nhưng, sau bốn năm hành trình và chưa rời bến được bao xa thì Vinashin đã
chìm xuống biển sâu. Sự sụp đổ của Vinashin đã để lại những hậu quả nghiêm trọng…
Hàng chục ngàn người mất việc. Nhiều công ty bị đẩy đến bờ vực phá sản hay chìm ngập
trong nợ nần vì hùn hạp làm ăn với Vinashin, vì nhận thầu của Vinashin. Nhiều gia đình,
mà trong có nhiều người về hưu, thương bệnh binh lâm vào sự khó khăn túng quẫn vì đã
lỡ cho Vinashin vay mà không đòi được tiền.
Ngoài những điều tệ hại trên, cái đích đến là 10% thị phần đóng tàu biển của thế giới mới
là cơn ác mộng kinh hoàng khi Vinashin chìm nơi biển cả. Việt Nam là quốc gia có bờ
biển dài và nhiều sông ngòi. Không quá khó khăn để nhận ra tầm quan trọng của ngành
vận tải đường biển, khai thác thủy sản, mà trong đó đều rất phụ thuộc vào ngành công
nghiệp đóng tàu. Thế nhưng, ước mơ có những đội thương thuyền hùng mạnh và 10% thị
phần đóng tàu biển của thế giới đã chìm sâu cùng với con tàu.
Đặc biệt, nó làm ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế quốc gia với thiệt hại mà nó mang lại là
bằng thu nhập của cả 1 tỉnh.
Trang 25
Chương III: Biện pháp Chính phủ đã đưa ra để cải thiện tình hình của Tập
đoàn kinh tế Vinashin: Tái cơ cấu:
3.1. Lý do:
Tại phiên họp thường kỳ, Chính phủ khẳng định, việc hình thành, phát triển Tập
đoàn Vinashin mạnh để làm nòng cốt trong việc phát triển ngành công nghiệp tàu thủy
của đất nước, đáp ứng nhu cầu kinh tế quốc dân, quốc phòng, an ninh là chủ trương đúng
đắn, rất cần thiết, phù hợp với các Nghị quyết liên quan của Đảng, quyết định của Chính
phủ.
Trao đổi với báo giới tại cuộc họp, Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng
cũng cho biết: "Kinh tế Việt Nam là kinh tế biển, hàng hải, đóng tàu là ngành quan trọng,
đi theo đó Vinashin vẫn nằm trong tầm kiểm soát và trong khả năng giải quyết, chưa tuột
khỏi tầm tay. Nếu chúng ta cho phá sản thì lại phải dựng lên một doanh nghiệp mới, kể cả
đóng tàu, vận tải, chưa kể hàng loạt nhà máy, tàu ....trở thành sắt vụn cũng như tác động
dây chuyền tới các ngành khác".
3.2. Tái cơ cấu:
Từ những diễn biến vừa qua, sau khi báo cáo Bộ chính trị, Chính phủ chủ trương tái
cơ cấu toàn diện với sự hỗ trợ trực tiếp, mạnh mẽ từ kinh tế nhà nước và của các định chế
tài chính tín dụng để duy trì và từng bước ổn định, phát triển Tập đoàn Vinashin với hiệu
quả ngày càng cao, trả được nợ, thu hồi được vốn và làm được vai trò nòng cốt của ngành
đóng tàu biển; với mục tiêu ít thiệt hại nhất và có lợi nhất về kinh tế, chính trị, xã hội của
đất nước.
Yêu cầu chính phủ đặt ra:
o Không để ảnh hưởng lớn đến ổn định kinh tế vĩ mô và môi trường
đầu tư chung của nền kinh tế.
o Tái cơ cấu lại toàn diện Tập đoàn Vinashin theo hướng giữ và từng
bước ổn định, phát triển có hiệu quả ngành đóng tàu, cơ sở nghiên cứu thiết kế
và đào tạo; khai thác sử dụng có hiệu quả, giảm thiểu thiệt hại những tài sản đã,
đang đầu tư và cố gắng giữ đội ngũ công nhân kỹ thuật ngành đóng, sửa chữa tàu
biển đã được hình thành.
o Làm rõ và công khai về những kết quả đã đạt được, cũng như những
khuyết điểm, yếu kém, sai phạm và xử lý đúng pháp luật đối với các cá nhân có
hành vi vi phạm pháp luật.
Trang 26
Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng nhấn mạnh, chủ trương của Chính phủ là tập
trung sự nỗ lực của Nhà nước và DN để sòng phẳng về nợ nần: bán, chuyển nhượng, cổ
phần hóa để Vinashin có tiền trả nợ. Về phía Nhà nước cấp đủ vốn điều lệ cho Vinashin
mới (trước chỉ cấp 50% - PV); đồng thời, cơ cấu lại các khoản tín dụng, đàm phán tín
dụng trong ngoài nước để giãn ra, tiếp tục trả. Riêng những khoản đầu tư cho sản xuất thì
tiếp tục cho vay.
Ngày 18/11/2010, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết định
2108/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tái cơ cấu Vinashin, theo đó chia tập đoàn ra làm ba phần.
Hai phần chuyển giao cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và Tổng công ty Hàng hải
Việt Nam (Vinalines). Vinashin chỉ giữ lại các công ty con thuộc 3 lĩnh vực chính gồm
công nghiệp đóng và sửa chữa tàu biển; công nghiệp phụ trợ phục vụ cho việc đóng và
sửa chữa tàu biển; đào tạo nâng cao tay nghề cho cán bộ, công nhân công nghiệp tàu
biển.
Các dự án chuyển giao cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam:
- Khu công nghiệp Tàu thủy Lai Vu (Hải Dương) bao gồm cả Công ty Công
nghiệp Tàu thủy Lai Vu.
- Khu công nghiệp Tàu thủy Nghi Sơn (Thanh Hóa) bao gồm cả Ban quản lý
dự án Khu công nghiệp Nghi Sơn.
- Nhà máy Đóng tàu đặc chủng và Sản xuất trang thiết bị tàu thủy Nhơn
Trạch (Đồng Nai).
- Nhà máy Đóng tàu Dung Quất.
- Khu công nghiệp Tàu thủy Soài Rạp (Tiền Giang).
- Phần vốn góp của Vinashin trong Công ty cổ phần Công nghiệp Tàu thủy
Hoàng Anh (Nam Định) và trong các dự án do công ty này làm chủ đầu tư.
Các đơn vị chuyển giao cho Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam:
- Khu công nghiệp Cảng biển Hải Hà (Quảng Ninh).
- Cảng Vinashin Đình Vũ (Hải Phòng).
- Khu công nghiệp và Nhà máy Đóng tàu Hậu Giang.
- Cảng và Nhà máy Đóng tàu Năm Căn (Cà Mau).
- Công ty Vận tải Biển Đông.
Trang 27
- Công ty TNHH Một thành viên Vận tải Viễn Dương Vinashin.
- Và phần vốn góp của Vinashin trong các doanh nghiệp vận tải biển khác.
Trang 28
Phần C: KẾT LUẬN
Qua việc tìm hiểu trên, chúng ta hiểu rõ hơn phần nào được tình hình phá sản cụ thể
của mỗi doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế định hướng XHCN ở Việt Nam và hậu
quả mà nó mang lại cho nền kinh tế chủ yếu qua góc độ vi mô để từ đó rút kinh nghiệm
giảm thiểu sự phá sản của doanh nghiệp, phát triển kinh tế đất nước.
Với tình hình phá sản của doanh nghiệp trong nền kinh tế định hướng XHCN ở Việt
Nam hiện tại, yêu cầu thứ nhất trong vai trò điều phối của chính phủ chính là nhanh
chóng và quyết liệt. Bên cạnh đó, mọi hành động giải pháp phải mang tính toàn diện và
đồng bộ vì các khó khăn đặt ra trước mắt đều liên quan chặt chẽ với nhau. Tạo nên sự
đồng bộ chung sẽ là tiền đề giải quyết triệt để các vấn đề tồn đọng của nền kinh tế nói
chung và của bản thân các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng.
Dẫu rất nhiều chuyên gia cho rằng kinh tế Việt Nam đang rơi vào thời điểm khó
khăn nhất trong nhiều năm trở lại đây, nhưng cần nhìn nền kinh tế theo một xu hướng lạc
quan hơn. Bất kỳ nền kinh tế nào cũng sẽ có giai đoạn đi xuống, nhưng nhớ rằng đi
xuống không phải là mục tiêu cuối cùng mà là "lấy đà" để phóng cao hơn thông qua sự
cải tổ và tái cấu trúc hệ thống.
Trang 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ktvm_hc_6961.pdf