Cần cải cách tổ chức bộ máy chính quyền địa phương được xác định
trên cơ sở: Quy định các tiêu chí cụ thể đối với từng loại đơn vị hành chính
để đi đến ổn định, chấm dứt tình trạng chia, tách nhiều; xác định rõ chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương trên
cơ sở phân cấp rõ ràng và hợp lý giữa Trung ương và địa phương, phân biệt
chức năng, nhiệm vụ của chính quyền đô thị với chính quyền ở nông thôn; tổ
chức hợp lý HĐND và UBND ở từng cấp căn cứ vào quy định của Hiến
pháp (sửa đổi) và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và UBND (sửa đổi); Sắp
xếp, tổ chức lại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp theo hướng
trách nhiệm rõ ràng, phân công rành mạch, bộ máy gọn nhẹ, tăng cường tính
chuyên nghiệp, giải quyết nhanh công việc của cá nhân và tổ chức. Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định về quy định tổ chức các cơ
quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương và UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Với cách tổ chức
cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính khá khẩn trương, nhanh chóng được minh
chứng trên đã tác động trực tiếp đến phương thức quản lý, lề lối làm việc của
cơ quan hành chính các cấp hiện nay theo chiều hướng tích cực, luôn nhận
được sự đồng tình ủng hộ cao của các tầng lớp nhân dân. Tăng cường trách
nhiệm và năng lực của cơ quan hành chính trong giải quyết công việc của cá
nhân và tổ chức. Việc hiện đại hoá nền hành chính còn cho thấy: Hiện nay
việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động chỉ đạo, điều
hành của hệ thống hành chính nhà nước đang được áp dựng khá triệt để; đặc
biệt là việc áp dụng các công cụ, phương pháp quản lý tiên tiến, hiện đại
trong các cơ quan hành chính nhà nước đã tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ
trong tư duy và phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức thời kỳ
mới. Trụ sở và phương tiện làm việc bảo đảm nhiệm vụ quản lý
11 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4048 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tổ chức chính quyền cơ sở, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Tiểu luận
Tổ chức chính quyền
cơ sở
2
PHẦN MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt nam ta hết sức coi trọng cải cách nền hành chính
nhà nước nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo định hướng pháp quyền của
dân, do dân và vì dân.
Đất nước Việt nam ta đang trên con đường đổi mới và ngày càng phát
triển, nền tảng để nền kinh tế xã hội phát triển vững mạnh là hệ thống chính
trị của Đảng và Nhà nước phải được ổn định và không ngừng phát triển. Để
thúc đẩy hoàn thiện nền hành chính đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta đã và đang triển khai thực hiện
những chủ trương và giải pháp hữu hiệu phù hợp với điều kiện cụ thể nước
ta, đồng thời tăng cường nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của các nước phát
triển, các tổ chức kinh tế quốc tế, nhất là những nước có điều kiện và hoàn
cảnh tương đồng với chúng ta.
Đảng ta đã nhấn mạnh tại các kỳ Đại hội đại biểu và đặc biệt tại Đại
hội Đại biểu lần thứ IX “ Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ,
ytrong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa. Điều chỉnh chức năng và
cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng thống nhất quản
lý vĩ mô việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh và đối ngoại trong cả nước bằng hệ thống pháp luật, chính
sách hoàn chỉnh, đồng bộ. Định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các
bộ theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc, cung
cấp dịc vụ công”.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của đất nước trên mọi mặt của xã hội;
Đồng thời thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc đẩy mạnh
“cải cách hành chính”. Đặc biệt là từ khi đất nước ta chính thức nha nhập tổ
chức Thương mại thế giới (WTO) Thì công tác cải cách nền hành chính
cũng sẽ giúp giải quyết một cách hiệu quả hơn những thách thức và cơ hội
nảy sinh từ sự cởi mở hơn của Việt Nam đối với ngoại thương và đầu tư
nhằm duy trì sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư bằng việc giảm chi phí giao
dịch, đồng thời cải tiến cung cấp dịch vụ công cho người nghèo qua việc
giảm bớt tệ quan liêu giấy tờ và sự kém hiệu quả. Việc thực hiện chương
trình tổng thể cải cách hành chính là một quá trình phức tạp và đòi hỏi cao
nhưng lại cực kỳ quan trọng. Nhiều nước, dù nhỏ hay lớn, công nghiệp hóa
hoặc đang phát triển, đều trải qua quá trình này để đưa nền hành chính của
mình đáp ứng được những kỳ vọng của người dân và doanh nghiệp. Vấn đề
này, kinh nghiệm các nước trong và ngoài khu vực đều rất hữu ích.
3
PHẦN NỘI DUNG.
Trên thế giới tính trung bình số lượng các bộ của chính phủ trung
ương là 16, tuy rằng có sự chênh lệch không đáng kể giữa các khu vực với
mức trung bình là 10 tại các nước nhỏ ở Thái Bình dương đến 20 ở Trung
đông và Bắc mỹ. Tuy vậy, trong mỗi vùng, giữa các nước lại có sự khác biệt
về dân số. tại Châu Phi, số lượng các bộ thay đổi từ thấp nhất là 10 ở
Bootsxoana đến 28 ở Nigieria. Tại Châu á, phạm vi thay đổi từ 7 đến 35, ở
Mỹ latinh từ 11 đến 27 và ở Thái bình dương từ 6 đến 16.
Xem xét tính đa dạng của các nước, người ta thấy không thể đề xuất
một con số các bộ của Chính quyền trung ương thích hợp. Không thể có lời
khuyên cố định trước. Mỗi nước phải chọn cho mình cách làm phù hợp với
truyền thống hành chính và thực tiễn chính trị của mình. Ngoài ra, để kinh
nghiệm của nước khác có thể hữu ích, việc so sánh phải là giữa các nước có
quy mô và cơ cấu chính trị tương đồng. Trong mọi trường hợp, thách thức
chủ yếu không phải là xác định số lượng lý tưởng các cơ quan của chính phủ
trung ương, mà phải xác định được những nhiệm vụ cơ bản của Chính quyền
trong một đất nước cụ thể, thiết lập những cơ cấu tổ chức gắn kết một cách
hợp lý để thực thi những nhiệm vụ này và điều quan trọng hơn cả là áp dụng
các qui tắc, các biện pháp khuyến khích bằng vật chất và phi vật chaats để
thúc đẩy các nhân viên và nhà quản lý công thực thi công việc có hiệu quả.
Thuật ngữ Chính quyền địa phương thường được hiểu là những đơn vị
của chính quyền trực tiếp cung cấp dịch vụ cho các công dân tại cấp trung
gian thấp và thấp nhất.
Mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương rất đa
dạng, vì việc tổ chức và hoạt động này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, như
điều kiện lịch sử, văn hoá xã hội, tự nhiên cũng như những quan điểm nhận
thức của chính quyền nhà nước cấp trên. Theo tiêu chí các cấp chính quyền
địa phương, có thể chia các cấp chính quyền địa phương thành 4 cấp như
Đức, Camerun, Senegan; 3 cấp như Italia, Ấn độ,...; hai cấp như Đan Mạch,
Phần Lan, Nhật Bản, Costa-Rica... Thậm chí có nhà nước tổ chức chính
quyền địa phương 5 cấp như của Pháp. Cấp thấp nhất của chính quyền địa
phương thường được tổ chức ở những cộng đồng cư dân thành phố, làng,
thôn.. Cấp đơn vị hành chính trung gian thường được tổ chức ở trên các cấp
cơ sở (cấp thấp nhất) và dưới cấp trung ương. Đó là các tỉnh, vùng như ở
Nhật, Italia... Không phải ở tất cả các cấp chính quyền trên đều phải tổ chức
ra các cơ quan đại diện. Cấp vùng, quận, huyện của Pháp và cả của Cộng
hoà liên bang Đức không tổ chức cơ quan đại diện của cộng đồng cư dân. Ở
nước Pháp, và ở một số nước khác đã lâu hình thành một quan điểm cho
4
rằng, các cơ quan đại diện của cộng đồng cư dân chỉ được, hay là thường
được tổ chức ở các đơn vị hành chính tự nhiên, hơn là ở các đơn vị hành
chính nhân tạo.
Mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương cũng gần
giống như của chính quyền nhà nước ở trung ương, tuy rằng mức độ của
chúng là không thể bằng của chính quyền trung ương, về việc tổ chức cũng
như các cách thức hoạt động. Ở trên có cơ quan lập pháp do nhân dân trực
tiếp bầu ra có quyền ban hành các văn bản luật, thì ở dưới cũng có cơ quan
do nhân dân địa phương bầu ra có quyền ban hành các văn bản có tính quy
phạm gần như văn bản luật của cơ quan lập pháp cấp trên. Ở trên có cơ quan
tổ chức thi hành các văn bản của cơ quan lập pháp, thì ở phía dưới cũng có
những cơ quan tổ chức thi hành, hay là theo dõi việc thi hành các văn bản do
cơ quan đại diện của nhân dân trực tiếp bầu ra ban hành. Chỉ có một điểm
khác duy nhất ở đây là phạm vi hoạt động của chính quyền địa phương chỉ
trên vùng lãnh thổ địa phương trực thuộc trung ương, và trong phạm vi lãnh
thổ địa phương không có hệ thống các cơ quan xét xử riêng rẽ của mình.
Mô hình của Anh có đặc điểm trung ương không phải là cơ quan
quản lý cấp trên đối với địa phương, không điều khiển địa phương. Các cấp
chính quyền địa phương được độc lập lẫn nhau, và không có sự trực thuộc
lẫn nhau. Thiết nghĩ rằng đây là mô hình dân chủ hơn cả, và chính trong
quan niệm như vậy chính quyền địa phương mới có khả năng và điều kiện
phát huy được quyền chủ động của mình, mà gạt đi bất cứ một sự bảo trợ
nào của chính quyền cấp trên, cũng như của cả chính quyền trung ương.
Trong trường hợp hãn hữu gặp khó khăn về tài chính chính quyền địa
phương được sự trợ giúp của chính quyền trung ương Điều đặc biệt ở chính
quyền địa phương Anh quốc có nơi chỉ có các cơ quan đại diện, mà không
có cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện các quyết định do cơ quan đại diện
ban hành kiểu như Ủy ban nhân dân của Việt Nam hiện nay.
Mô hình hành chính địa phương của nhà nước Mỹ là một trong những mô
hình áp dụng nguyên tắc phân quyền một cách đậm đặc nhất. Địa phương ở
Mỹ quốc được toàn quyền giải quyết các công việc của mình mà không cần
thiết có sự bảo trợ từ trung ương. Sự phục tùng trung ương, cũng như việc
giám sát trung ương đối với địa phương chủ yếu bằng pháp luật và thông
qua hoạt động xét xử của toà án. Việc phân quyền tuyệt đối được thể hiện
trước hết bằng sự các địa phương thoải mái trong việc lựa chọn các mô hình
tổ chức và hoạt động cuả mình.
Mô hình của Pháp có đặc điểm là chính quyền địa phương bị song
trùng giám sát của đại diện chính quyền trung ương và của chính quyền cấp
trên. Mô hình này được phát triển từ những năm của chế độ quân chủ
chuyên chế mà hình thành nên. Thuở ban đầu của chế độ phong kiến, chính
5
quyền địa phương chỉ là các quan cai trị do Nhà Vua cử về địa phương chỉ
nhằm mục đích thực hiện hay giám sát sự thực hiện các quyết định của Nhà
Vua, mà không tính đến các điều kiện hoàn cảnh của đại phương, hoặc thậm
chí cai trị theo cách riêng của quan chức được cử về. Sau dần với sự đấu
tranh của dân chủ, các lãnh đạo địa phương có một thẩm quyền nhất định
cho việc giải quyết các công việc của địa phương, trong đó có cả các việc có
liên quan đến đời sống của nhân dân địa phương, và cuối cùng các quan
chức được cử về chỉ làm mỗi một chức năng giám sát việc thực hiện các
quyết định của cấp trên và các văn bản luật của trung ương, mà không còn
có quyền hành như trước đây nữa. Tại tất cả các tỉnh ở Pháp đều có những
Thị trưởng do hội đồng thành phố bầu cử và ở dưới quyền kiểm soát của các
tỉnh trưởng. Thị trưởng vừa chăm nom đến những quyền lợi địa phương vừa
quan tâm đến những quyền lợi của trung ương.
Mô hình của Cộng hoà Liên bang Đức có đặc điểm giống của Pháp
quốc nhưng không có cơ quan đại diện của chính quyền cấp trên xuống giám
sát chính quyền cấp dưới. Đây là một mô hình mà chính quyền liên bang phụ
thuộc vào chính quyền bang, chính quyền bang phụ thuộc vào chính quyền
địa phương trong việc quản lý và cung cấp các dịch vụ cho dân.
Điểm đặc trưng nhất của mô hình của Đức là tính phân quyền. Đây là hệ
thống quyền lực được phân theo nguyên tắc: cái gì địa phương làm tốt thì
địa phương làm, trung ương chỉ làm những gì mà địa phương làm không tốt
hơn. Vấn đề quan trọng trong hệ thống của Đức là ở đây phân rất rõ trách
nhiệm của từng cấp, cấp này làm thì cấp kia không làm. Và như vậy thì
quyền của mỗi cấp mang tính chủ động và được phân cấp; đồng thời được
phân nhiệm vụ thì cũng được phân ngân sách,tức là cấp đó sẽ có nguồn thu
bảo đảm cho việc thực hiện nhiệm vụ của mình.
Mô hình của Xô viết có đặc điểm là đã là cấp chính quyền thì phải có
đầy đủ các cơ cấu, thành phần. Tức là phải có cả cơ quan quyết nghị, có cả
cơ quan chấp hành và có cả cơ quan xét xử và phải đặt dưới sự lãnh đạo và
trực thuộc của cơ quan dân cử. Chính quyền địa phương là một bộ phận cấu
thành của hệ thống nhà nước thống nhất, không có sự phân chia quyền lực
giữa các cấp chính quyền, mà chỉ có sự phân công và phân nhiệm. Nhân dân
các địa phương thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về mình bầu ra các Xô
viết, cơ quan quyết nghị của địa phương có quyền quyết định các vấn đề
quan trọng có liên quan đến nhân dân trong vùng lãnh thổ địa phương. Xô
viết địa phương được gọi là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương
thành lập ra các cơ quan chấp hành và hành chính Nhà nước ở địa phương,
có trách nhiệm tổ chức thực hiện các quyết định của Xô viết các văn bản
pháp luật và quyết định khác của các cơ quan Nhà nước cấp trên. Các công
việc hành chánh địa phương đều do những uỷ ban đảm nhiệm; các cơ quan
6
hành chánh địa phương thi hành những đường lối của cơ quan nhà nước cấp
trên.
Trong mọi nhà nước quá khứ và hiện tại đều có sự quan hệ với địa
phương thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước trung ương và các
cơ quan nhà nước ở địa phương. Tùy theo tính chất phức tạp về lãnh thổ và
dân cư, mà các nhà nước có thể tổ chức chính quyền địa phương thành 2
cấp hoặc 3 cấp. Mối quan hệ giữa các cấp chính quyền địa phương với
trung ương cũng rất khác nhau. Trong một nền kinh tế tập trung cũng như
cách thưc quản lý của nhà nước độc tài chuyên chế, các cấp chính quyền địa
phương chỉ là những cơ quan phụ thuộc vào sự điều khiển của cấp trên.
Trong một nhà nước dân chủ và nhất là của một nền kinh tế thị trường sự
trực thuộc vào chính quyền cấp trên của các cơ quan chính quyền địa
phương cấp dưới càng giảm bớt, càng ngày tăng thêm tính chất tự quản tự
chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền. Mối quan hệ giữa nhà nước
trung ương với các cấp chính quyền địa phương từ nhiều cấp chuyển sang 2
cấp đơn giản: Giữa trung ương với từng cấp chính quyền. Từng cấp chính
quyền phải tự chịu trách nhiệm về những hoạt động của mình. Mối quan hệ
trên dưới bằng cách hướng dẫn, chỉ đạo, ra lệnh sẽ được thay dần bằng
pháp luật, và thậm chí bằng các hợp đồng quy định rõ quyền hạn và trách
nhiệm của các bên. Cho dù là ở trên hay ở cấp dưới,thì cả hai đều phải trực
thuộc pháp luật. Pháp luật phải tiến tới chỗ phân định một cách rạch ròi,có
thể theo nguyên tắc “Xay lúa thì khỏi ẫm em”. Đó là một trong những cơ sở
cho việc chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền nhà nước ở địa phương.
Chính vì vậy tương lai chính quyền địa phương là phải đa dạng theo ý chí
của nhân dân. Nhưng bất luận kiểu gì thì cơ quan đại diện nhân dân cũng
phải có. Hội đồng nhân dân phải là cơ quan lập pháp ở địa phương . Nếu
không là như vậy thì các hoạt động của Hội đồng nhân dân cũng là phải
mang tính lập pháp gần giống như Quốc hội ở trung ương, địa phương phải
có ngân sách riêng có nguồn thu riêng và khoản chi riêng theo nhu cầu của
địa phương. Đành rằng chúng vẫn phải tuân thủ theo những quy định của
trung ương.
Chính quyền địa phương cơ sở theo cách hiểu phổ biến của khoa học
hành chính là chính quyền cấp thấp nhất. Ở Việt Nam hiện nay, chính quyền
địa phương cấp thấp nhất được gọi là "cấp xã''. Theo quy định tại Điều 118,
Hiến pháp 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001 và Luật Tổ chức hội đồng nhân
dân và ủy ban nhân dân năm 2003, đối với cấp xã bao gồm: xã, phường và
thị trấn.
7
Chính quyền địa phương cơ sở là chính quyền được tổ chức ra nhằm
bảo đảm, bảo vệ và phục vụ quyền, lợi ích của nhân dân, nhân dân là đối
tượng cơ bản để chính quyền phục vụ . Dưới góc độ vai trò của nhà nước;
nhân dân chính là chủ thể của quyền lực nhà nước. Theo đó, chính quyền địa
phương cơ sở phải là chính quyền do nhân dân tổ chức ra, của nhân dân và
hoạt động vì nhân dân. Các bản Hiên pháp của Việt Nam năm 1946, 1959,
1980 đến 1992 đều khẳng định Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Điều 2, Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001
khẳng định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân... Những biểu hiện căn bản của
chính quyền địa phương cơ sở là: về tổ chức do nhân dân tổ chức ra và chịu
trách nhiệm trước nhân dân; về hoạt động do cán bộ, công chức tiến hành
phải xuất phát trên nền tảng lợi ích của nhân dân và vì nhân dân để phục vụ.
Đối chiếu với những tiêu chuẩn trên, đồng thời gắn với thực tiễn tổ chức và
hoạt động của chính quyền cấp Xã, Phường hiện nay mà bản thân em đang
công tác tại UBND Phường Vĩnh Ninh – Thành phố Huế - Tỉnh Thừa thiên
Huế, có thể thấy nổi lên một số vấn đề cơ bản sau:
Chính quyền cấp Xã, Phường về cơ bản đã thể hiện được quyền làm
chủ của nhân dân, thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước, đang có những
cải cách hành chính và có những chuyển biến căn bản về tổ chức theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X, đặc biệt
là Nghị quyết số 17-TW Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X ngày l tháng 8 năm 2007 về ''Đẩy mạnh cải cách hành chính,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý bộ máy nhà nước''. Đồng thơi chính
quyền Phường Xã đã được sự quan tâm của Chính phủ thể hiện ở Nghị định
92/NĐ-CP về việc qui định …………………..Các địa phương đang triển
khai thực hiện các đề án như: Thí điểm bỏ Hội đồng nhân dân huyện, quận
và phường tại 10 tỉnh, thành phố bắt đầu từ ngày 01 tháng 4 năm 2009; vấn
đề nhất thể hóa vai trò bí thư với chủ tịch Ủy ban nhân dân xã... Những cải
cách về tổ chức bộ máy cơ quan hành chính nói chung và chính quyền địa
phương cơ sở nói riêng đã bước đầu mang lại hiệu quả thiết thực. Tuy nhiên,
vấn đề này đang trong quá trình tổ chức thí điểm, cần tiếp tục hoàn thiện.
Mặt khác, về cơ bản chính quyền địa phương cơ sở hiện nay vẫn đang được
tổ chức theo mô hình của nền hành chính công truyền thống, biểu hiện tính
thứ bậc, mệnh lệnh hành chính chặt chẽ song trùng giữa cơ quan có thẩm
quyền chung(UBND) với cơ quan có thẩm quyền riêng (chuyên môn) đã tạo
ra tính thụ động, trông chờ và ỷ lại của cấp cơ sở đối với cấp trên.
8
Về hoạt động của chính quyền cấp Phường, Xã bước đầu đã đạt được những
hiệu quả nhất định về các lĩnh vực quản lý được giao. Điều này được phản
ánh thông qua những giải pháp mà Chính phủ tiến hành trong thời gian qua
như: cải cách thủ tục hành chính theo mô hình ''một cửa''; công khai các thủ
tục hành chính (xây dựng bộ thủ tục hành chính); mạnh dạn phân cấp chức
năng, nhiệm vụ cho cấp Phường, Xã trong thực hiện các nhiệm vụ y tế, văn
hóa, giáo dục, thể thao, xây dựng,… Đồng thời bộ máy hành chính cũng như
đội ngũ cán bộ công chức cấp Phường xã cũng đã được điều chỉnh cho phù
hợp với từng địa phương, thường xuyên quan tâm đào tạo nâng cao trình độ
chuyên môn cũng như trình độ chính trị để đáp ứng với nhiệm vụ hiện nay.
Song, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức ở một số chính quyền cấp
Phường Xã có mặt chưa tương xứng với mức độ phân cấp thậm chí có một
số cán bộ, công chức tha hóa về đạo đức lối sống dẫn đến những quyết định
hành chính không đúng gây ảnh hướng xấu đến hiệu quả hoạt động quản lý
nhà nước ở địa phương.
Thực trạng trên, xuất phát từ những nguyên nhân sau:
Thể chế pháp luật vẫn còn hạn chế trong cách xác định giữa thẩm
quyền và trách nhiệm của cán bộ, công chức về thực thi công vụ. Mặc dù
vừa qua Chính phủ cũng đa ban hành Luật cán bộ, công chức nhưng hiện tại,
các văn bản quy phạm pháp luật mới chỉ dừng lại ở việc quy định chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền cho cơ quan công quyền, cán bộ, công chức mà chưa
quy định cụ thể, rõ ràng về trách nhiệm của cán bộ, công chức khi thực thi
công vụ. Do đó, hành vi của cán bộ, công chức chưa được xác định về tính
chịu trách nhiệm. Cách quy định của pháp luật như vậy, vô hình dung đã tạo
ra sự phân biệt “trên dưới” trong mối quan hệ của cán bộ, công chức với
nhân dân.
Việc phân công, phân cấp có mặt, có lĩnh vực chưa rõ ràng, còn mang
dấu ấn của một nền hành chính công truyền thống. Hiện nay, phân cấp chức
năng, nhiệm vụ đã có những đổi mới. Tuy nhiên, cơ chế phân cấp vẫn chưa
được đổi mới mạnh mẽ còn mang tính hình thức, chủ yếu là phân cấp nhiệm
vụ mà chưa phân cấp nguồn lực. Với cơ chế mang tính mệnh lệnh thứ bậc
chặt chẽ và song trùng đã làm cho cấp cơ sở trở nên thụ động, trông chờ, ỷ
lại, thiếu sáng tạo trong xem xét, giải quyết các vấn đề ở cơ sở. Đây là một
trong những nguyên nhân tạo ra căn bệnh quan liêu, hành chính xa dân, biến
chính quyền nơi đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân trở thành cơ quan
công quyền, mang tính chuyên môn thuần túy, giải quyết vấn đề một cách
máy móc và thụ động.
9
Mô hình công vụ nặng nề đã ảnh hưởng đến ý thức và trách nhiệm của
cán bộ, công chức trong giải quyết công việc với nhân dân. Tình trạng cố
gắng bằng cách này hay cách khác, có năng lực hay không có năng lực vẫn
là cán bộ hoặc công chức được hưởng lương như nhau theo ngạch, bậc; Điều
này đã ảnh hưởng đến ý thức và trách nhiệm, làm hạn chế tính chủ động,
sáng tạo của cán bộ, công chức tạo ra tâm lý trong hoạt động công vụ.
Những tác động từ tâm lý ngại va chạm của một số người dân khi có
nhu cầu giải quyết công việc của mình với cơ quan quản lý nhà nước. Mặt
khác, không ít người dân khi muốn đạt được mục đích của mình thường
''chấp nhận" mà bỏ qua những tiêu cực do cán bộ, công chức gây ra.
Để chính quyền địa phương cơ sở theo đúng nghĩa , trước mắt
cũng như lâu dài. Cần quan tâm thực hiện một số giải pháp sau:
Phân cấp giữa chính quyền cấp Huyện cho cấp Xã vẫn còn có mặt,
lĩnh vực chưa rành mạch về quyền và trách nhiệm nên xảy ra tình trạng thụ
động, trông chờ, ỷ lại và xa dân. Để khắc phục nhược điểm này, việc phối
hợp giữa nguyên tắc "phân quyền" và "tản quyền" là một giải pháp quan
trọng. Cần tiến hành giải quyết các công việc của địa phương và xây dựng
các cơ quan quản lý chuyên môn ở cấp Xã do cấp Huyện quản lý nhằm thực
hiện các nhiệm vụ của nhà nước ở cơ sở. Qui định lại trình độ chuyên môn
cho đội ngũ cấp Xã, Phường để phù hợp cho các tác tuyển dụng cán bộ.
Phát huy giá trị của hương ước, quy ước trong việc điều chỉnh cơ cấu
tổ chức hành chính thì hương ước chính là văn bản thể hiện ý chí của cả
cộng đồng dân cư trong việc thiết lập nên một số bộ phận, số lượng các bộ
phận nhằm đảm bảo đáp ứng đầy đủ các nhu cầu đòi hỏi ở địa phương. Mặt
khác, hương ước cũng đồng thời là cơ sở để xác định cơ chế giám sát của
nhân dân, xác định trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức trong
việc giải quyết công việc ở địa phương. Do vậy, việc phát huy giá trị hương
ước, quy ước chung cần đảm bảo tính thống nhất biện chứng trong mối quan
hệ giữa pháp luật và hương ước trong việc điều chỉnh về tổ chức và hoạt
động của chính quyền cấp Xã.
Hiện nay việc áp dụng các tiêu chí trong tổ chức và hoạt động của các
cơ quan quản lý nhà nước mới chỉ dừng lại trong xác định các tiêu chuẩn về
chức danh, vị trí hoặc ở một số hoạt động đơn lẻ mà chưa xây dựng thành
một hệ thống các định mức, tiêu chuẩn thống nhất. Để xây dựng và áp dụng
thống nhất, cần dựa trên cơ sở nền tảng tiêu chuẩn về nghĩa vụ, trách nhiệm
10
thực thi công vụ của cán bộ, công chức theo quy định của Luật Cán bộ, công
chức. Trên cơ sở đó, Chính phủ xây dựng và ban hành nghị định chi tiết hóa
cụ thể về các điều kiện, tiêu chuẩn như: tiêu chuẩn cán bộ, công chức xã
phường; mức độ, thái độ phục vụ nhân dân; tiêu chuẩn xác định trách nhiệm
thực thi công vụ được giao; xây dựng quy chế để tiếp nhận và giải quyết ý
kiến phản hồi của người dân khi đến giải quyết công việc tại công sở.
Cần tập trung nâng cao nhận thức một cách toàn diện cho người dân,
trong đó đặc biệt quan tâm đến giáo dục ý nghĩa, vai trò, vị trí của công dân
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay. Đổi mới các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục thông qua
sinh hoạt thôn, tổ dân phố để mọi người dân hiểu rõ về quyền, nghĩa vụ của
mình trong mối quan hệ với cán bộ, công chức cấp xã.
Cần cải cách tổ chức bộ máy chính quyền địa phương được xác định
trên cơ sở: Quy định các tiêu chí cụ thể đối với từng loại đơn vị hành chính
để đi đến ổn định, chấm dứt tình trạng chia, tách nhiều; xác định rõ chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương trên
cơ sở phân cấp rõ ràng và hợp lý giữa Trung ương và địa phương, phân biệt
chức năng, nhiệm vụ của chính quyền đô thị với chính quyền ở nông thôn; tổ
chức hợp lý HĐND và UBND ở từng cấp căn cứ vào quy định của Hiến
pháp (sửa đổi) và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và UBND (sửa đổi); Sắp
xếp, tổ chức lại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp theo hướng
trách nhiệm rõ ràng, phân công rành mạch, bộ máy gọn nhẹ, tăng cường tính
chuyên nghiệp, giải quyết nhanh công việc của cá nhân và tổ chức. Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định về quy định tổ chức các cơ
quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương và UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Với cách tổ chức
cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính khá khẩn trương, nhanh chóng được minh
chứng trên đã tác động trực tiếp đến phương thức quản lý, lề lối làm việc của
cơ quan hành chính các cấp hiện nay theo chiều hướng tích cực, luôn nhận
được sự đồng tình ủng hộ cao của các tầng lớp nhân dân. Tăng cường trách
nhiệm và năng lực của cơ quan hành chính trong giải quyết công việc của cá
nhân và tổ chức. Việc hiện đại hoá nền hành chính còn cho thấy: Hiện nay
việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động chỉ đạo, điều
hành của hệ thống hành chính nhà nước đang được áp dựng khá triệt để; đặc
biệt là việc áp dụng các công cụ, phương pháp quản lý tiên tiến, hiện đại
trong các cơ quan hành chính nhà nước đã tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ
trong tư duy và phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức thời kỳ
mới. Trụ sở và phương tiện làm việc bảo đảm nhiệm vụ quản lý; mạng tin
11
học diện rộng của Chính phủ được thiết lập tới cấp xã là những kết quả vượt
bậc, là sự nỗ lực không ngừng, bám sát thực tế, quyết tâm cao của đội ngũ
những người đứng đầu các cơ quan hành chính hiện nay.
Tăng cường công tác chỉ đạo điều hành. Điều này đòi hỏi quyết tâm
chính trị cao của các cấp uỷ Đảng. Trách nhiệm của người đứng đầu các cơ
quan hành chính phải tổ chức điều hành quyết liệt, bám sát thực tế, bám sát
các Nghị định đã ban hành để triển khai nhanh, thống nhất và triệt để. Thực
hiện cải cách tổ chức bộ máy hành chính phải gắn với đổi mới hệ thống
chính trị. Điều này thể hiện sự nhất quán, Đảng là người lãnh đạo toàn bộ
hoạt động của bộ máy hành chính, bộ máy hành chính là công cụ quan trọng
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng từ Trung ương đến địa phương.
Thực hiện cải cách tổ chức bộ máy hành chính không được dừng lại mà phải
thường xuyên kiện toàn, củng cố và hoàn thiện theo hướng nâng cao chất
lượng, khắc phục sự thụ động trong công việc, phải chủ động, sáng tạo, vận
dụng linh hoạt đúng những quy định của các Nghị định đã ban hành sao cho
phù hợp với từng đặc điểm, hoàn cảnh. Xác định rõ trách nhiệm của người
đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước.
Tăng cường tính công khai, minh bạch những việc mà tiến trình cải
cách tổ chức bộ máy hành chính đang tiến hành thực hiện để nhận được ủng
hộ của đội ngũ cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân trên phạm vi cả
nước và cả bạn bè quốc tế.
Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện
thông tin đại chúng về những kết quả đã đạt được của công cuộc cải cách
hành chính. Phải coi cải cách hành chính không chỉ là công việc riêng của hệ
thống hành chính, mà là yêu cầu chung của toàn xã hội. Nêu bật những nơi
làm tốt, những vướng mắc chưa thể tháo gỡ được ngay đối với tính đặc thù
của từng bộ, ngành, địa phương, báo cáo lên cấp trên để có hướng giải quyết
kịp thời. Tích cực nhân điển hình tiên tiến, những nơi làm tốt, thực hiện
nghiêm, phê phán kịp thời tình trạng làm không triệt để. Cần có những biện
pháp thiết thực để thực hiện quyền giám sát của cán bộ công chức và nhân
dân đối với hoạt động của bộ máy hành chính ngay chính tại các bộ ngành
và địa phương.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bui_ngoc_chanh_2684.pdf