Tăng trưởng kinh tế có tác động hai mặt đến việc thực hiện các chính sách
xã hội. Một mặt, nó làm biến đổi cơ cấu ngành kinh tế, hình thành nhiều ngành
mới, tạo ra nhiều việc làm. Mặt khác, do ứng dụng công nghệ tiên tiến, tăng nhu
cầu về nhân lực chất lượng cao, nếu giáo dục đào tạo không đáp ứng kịp sẽ dẫn
đến tình trạng dư thừa nhiều lao động giản đơn, tăng thất nghiệp nhưng lại thiếu
lao động lành nghề. Hoặc là, tăng trưởng kinh tế theo cơ chế thị trường, diễn ra
cạnh tranh gay gắt, vừa thúc đẩy sản xuất, vừa dẫn đến phân hóa hai cực: những
người chiến thắng thu lợi nhuận cao sẽ giàu lên, những người thua cuộc sẽ nghèo
đi, thậm chí bị phá sản, nảy sinh khoảng chênh lệch lớn về thu nhập giữa các tầng
lớp dân cư, đòi hỏi nhà nước phải có sự điều tiết thu nhập để giảm bớt bất bình
đẳng xã hội.
Phát triển bền vững đòi hỏi phải tăng trưởng theo chiều sâu, chủ yếu dựa
vào các nhân tố tăng sức sản xuất của lao động xã hội, như nâng cao trình độ của
người lao động, ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến, cải tiến tổ chức và
quản lý sản xuất, tăng hiệu suất của tư liệu lao động và tận dụng hiệu quả các
nguồn tài nguyên thiên nhiên gắn với bảo vệ môi trường. Nhờ đó tăng năng suất
lao động xã hội tăng nhanh giá trị gia tăng, nên có nhiều sản phẩm và dịch vụ để
nâng cao mức sống của nhân dân
18 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2251 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa bội chi ngân sách nhà nước và tăng trưởng kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA KẾ TOÁN- KIỂM TOÁN
TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN
SV THỰC HIỆN: NHÓM 34
1. VÕ THANH BÌNH
2. PHẠM THỊ DUYÊN
3. PHẠM THỊ MỸ HÀ
4. NGUYỄN Y NỮ
5. DƯƠNG BÁ PHÚC
TP.HỒ CHÍ MINH – THÁNG 10/2012
Mở đầu
Trong những năm gần đây, vấn đề bội chi ngân sách ngày càng được dư
luận quan tâm, và luôn là chủ đề được bàn cãi trong các kỳ họp quốc hội. Chúng
ta luôn cho rằng: Bội chi ngân sách nhà nước là “một căn bệnh” làm cản trở sự
phát triển nền kinh tế, gây nên lạm phát, mất cân đối tài chính quốc gia, tuy nhiên
bội chi ngân sách ở một mức độ nhất định, sẽ là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế. Có thể ví bội chi ngân sách như con dao hai lưỡi, quan
trọng là “người cầm dao” sử dụng nó như thế nào? Nếu bội chi ngân sách hợp lí
sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đáp ứng được sự thiếu hụt nguồn vốn đối với
các dự án quan trọng. nhưng nếu không thực hiện tốt, điều tiết kịp thời thì bội chi
ngân sách là một trong những nguyên nhân chính gây khủng hoảng nền kinh tế,
gây lên lạm phát, nợ quốc gia. Tuy nhiên mức độ thâm hụt ngân sách ở nước ta
đang có xu hướng gia tăng và ngày càng tác động tiêu cực đến đời sống nhân dân
cũng như toàn bộ nền kinh tế. Nói cách khác, đây chính là một trong những nguy
cơ làm khủng hoảng nền kinh tế, gây khó khăn cho chính phủ trong việc thực
hiện các chính sách tài khóa và tiền tệ. Vậy thâm hụt ngân sách là gì? Thực trạng
vấn đề thâm hụt ngân sách ở Việt Nam thế nào? Giải pháp để hạn chế và khắc
phục tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước ra sao? Nhóm chúng tôi sẽ cùng các
bạn giải đáp trong bài thảo luận về đề tài: ‘Trình bày các biện pháp mà chính phủ
việt nam đã sử dụng để bù đắp thâm hụt ngân sách. Lấy số liệu thực tế làm vd
minh họa trong 5 năm trở lại đây’’
I. Khái niệm
a. Bội chi ngân sách nhà nước:
Thâm hụt ngân sách nhà nước, hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước, là
tình trạng khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu
"không mang tính hoàn trả" của ngân sách nhà nước. Để phản ánh mức độ thâm
hụt ngân sách người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ thâm hụt so với GDP hoặc so
với tổng số thu trong ngân sách nhà nước. Thâm hụt ngân sách nhà nước có thể
ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh tế một nước tùy theo tỉ lệ thâm hụt
và thời gianthâm hụt. Nói chung nếu tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước với
tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây ra lạm phát, ảnh hưởng tiêu cực
Các dạng thâm hụt NSNN
Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành hai loại: thâm
hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ. Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được
quyết định bởi những chính sách tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất,
trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu cho giáo dục, quốc phòng,... Thâm
hụt chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ kinh tế, nghĩa
là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ khi nền
kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm
xuống trong khi chi ngân sách cho cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.
Giá trị tính ra tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ được tính toán như
sau:
Ngân sách thực có: liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt tính bằng tiền trong
một giai đoạn nhất định (thường là một quý hoặc một năm).
Ngân sách cơ cấu: tính toán thu, chi và thâm hụt của chính phủ sẽ là bao nhiêu
nếu nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng.
Ngân sách chu kỳ: là chênh lệch giữa ngân sách thực có và ngân sách cơ cấu.
Việc phân biệt giữa ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ phản ánh sự khác nhau
giữa chính sách tài chính: chính sách ổn định tùy biến và chính sách ổn định tự
động.
Việc phân biệt hai loại thâm hụt trên đây có tác dụng quan trọng trong việc đánh
giá ảnh hưởng thực sự của chính sách tài chính khi thực hiện chính sách tài chính
mở rộng hay thắt chặt sẽ ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách như thế nào giúp cho
chính phủ có những biện pháp điều chỉnh chính sách hợp lý trong từng giai đoạn
của chu kỳ kinh tế
b. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc
tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân
trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định.
Đo lường tăng trưởng kinh tế
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc
độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một
giai đoạn.
Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so
sánh.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh
tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức:
y = dY/Y × 100(%),
trong đó Y là qui mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng. Nếu quy mô
kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng
GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay
GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông
thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa.
Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế
Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các
nước đang phát triển, những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của
phát triển kinh tế phải được đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng
trưởng kinh tế là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn
nhân tố này khác nhau ở mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác
nhau đưa đến kết quả tương ứng.
Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến thức và kỷ
luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu
hết các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể mua hoặc
vay mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Các yếu
tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát
huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức khỏe
và kỷ luật lao động tốt. Thực tế nghiên cứu các nền kinh tế bị tàn phá sau Chiến
tranh thế giới lần thứ II cho thấy mặc dù hầu hết tư bản bị phá hủy nhưng những
nước có nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn có thể phục hồi và phát triển kinh tế
một cách ngoạn mục. Một ví dụ là nước Đức, "một lượng lớn tư bản của nước
Đức bị tàn phá trong Đại chiến thế giới lần thứ hai, tuy nhiên vốn nhân lực của
lực lượng lao động nước Đức vẫn tồn tại. Với những kỹ năng này, nước Đức đã
phục hồi nhanh chóng sau năm 1945. Nếu không có số vốn nhân lực này thì sẽ
không bao giờ có sự thần kỳ của nước Đức thời hậu chiến."[1]
Nguồn tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển, những
tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và
nguồn nước. Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế, có
những nước được thiên nhiên ưu đãi một trữ lượng dầu mỏ lớn có thể đạt được
mức thu nhập cao gần như hoàn toàn dựa vào đó như Ả rập Xê út. Tuy nhiên, các
nước sản xuất dầu mỏ là ngoại lệ chứ không phải quy luật, việc sở hữu nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú không quyết định một quốc gia có thu nhập cao.
Nhật Bản là một nước gần như không có tài nguyên thiên nhiên nhưng nhờ tập
trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng lao động, tư bản, công nghệ cao nên
vẫn có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới về quy mô.
Tư bản: là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà người
lao động được sử dụng những máy móc, thiết bị...nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên
mỗi lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản, phải thực
hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng
trong sự phát triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao
thường có được sự tăng trưởng cao và bền vững. Tuy nhiên, tư bản không chỉ là
máy móc, thiết bị do tư nhân dầu tư cho sản xuất nó còn là tư bản cố định xã hội,
những thứ tạo tiền đề cho sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản cố định xã
hội thường là những dự án quy mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và
nhiều khi có lợi suất tăng dần theo quy mô nên phải do chính phủ thực hiện. Ví
dụ: hạ tầng của sản xuất (đường giao thông, mạng lưới điện quốc gia...), sức khỏe
cộng đồng, thủy lợi....
Công nghệ: trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế rõ ràng không phải
là sự sao chép giản đơn, là việc đơn thuần chỉ tăng thêm lao động và tư bản,
ngược lại, nó là quá trình không ngừng thay đổi công nghệ sản xuất. Công nghệ
sản xuất cho phép cùng một lượng lao động và tư bản có thể tạo ra sản lượng cao
hơn, nghĩa là quá trình sản xuất có hiệu quả hơn. Công nghệ phát triển ngày càng
nhanh chóng và ngày nay công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ
vật liệu mới... có những bước tiến như vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả của sản
xuất. Tuy nhiên, thay đổi công nghệ không chỉ thuần túy là việc tìm tòi, nghiên
cứu; công nghệ có phát triển và ứng dụng một cách nhanh chóng được là nhờ
"phần thưởng cho sự đổi mới" - sự duy trì cơ chế cho phép những sáng chế, phát
minh được bảo vệ và được trả tiền một cách xứng đáng.
II. Nguyên nhân BCNSNN và ảnh hưởng
a. Nguyên nhân của bội chi ngân sách nhà nước.
Có hai nguyên nhân cơ bản gây ra bội chi ngân sách nhà nước.
- Thứ nhất: Do tác động của chu kỳ kinh doanh, khủng hoảng lạm chi làm cho
thu nhập của nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên, để giải quyết khó
khăn mới về kinh tế xã hội. Điều đó làm cho mức độ bội chi ngân sách ngân sách
nhà nước tăng lên trong giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của nhà nước sẽ tăng
lên, trong khi chi không phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi
ngân sách nhà nước. Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được
gọi là bội chi chu kỳ.
- Thứ hai: Do tác động của chính sách cơ cấu thu chi của nhà nước. Khi nhà nước
thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm tăng mức bội
chi ngân sách nhà nước. Ngược lại thực hiện chính sách giảm đầu tư và tiêu dùng
của nhà nước thì mức bội chi ngân sách nhà nước sẽ giảm bớt. Các bội chi do tác
động của chính sách cơ cấu thu chi gọi là bội chi cơ cấu.
Trong điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai lớn...),
tổng hợp của bội chi chu kỳ và bội chi cơ cấu sẽ là bội chi ngân sách nhà nước.
b. Ảnh hưởng của bội chi ngân sách nhà nước tới nền kinh tế
Bội chi ngân sách nhà nước là một căn bệnh tác hại đến sự phát triển kinh tế
nếu xử lý bội chi ngân sách nhà nước không đúng đắn, cho dù bội chi ngân sách
nhà nước từ nguyên nhân nào đi chăng nữa. Bội chi ngân sách nhà nước là căn
bệnh không chỉ dành riêng cho bất kỳ quốc gia nào. Nó mang tính phổ biến tồn
tại khắp các quốc gia trên thế giới, từ những nước đang phát triển , chậm phát
triển cho đến những nước có nền kinh tế phát triển. Đó là nhu cầu chi tiêu và thực
tế của nhà nước không thể cắt giảm được mà ngày càng tăng lên, trong khi đó
việc tăng thu ngân sách nhà nước từ công cụ thuế sẽ dẫn đến sự phản hồi từ phía
dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội, và hậu quả nhận được là kìm hãm tốc độ
tích lũy vốn cho sản xuất, hạn chế tiêu dùng dẫn đến nguy cơ suy thoái nền kinh
tế cao. Còn đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là những nước nghèo thì
bội chi ngân sách nhà nước là điều không thể tránh khỏi bởi tình trạng thu nhập
bình quân đầu ngươi quá thấp không cho phép chính phủ tăng tỉ lệ động viên từ
GDP vào ngân sách nhà nước, trong khi đó nhu cầu chi tiêu theo chức năng của
chính phủ lại tăng lên, nhất là khi nhà nước thực hiện các chương trình đầu tư
nhằm cải thiện cơ cấu kinh tế và hướng dần tới sự tăng trưởng.
Thực tế cho thấy, bội chi ngân sách nhà nước không có nguồn bù đắp hợp lý sẽ
dẫn đến lạm phát, gây tác hại xấu tới nền kinh tế cũng như đời sống xã hội. Nếu
bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng cách phát hành tiền thêm vào sẽ
dẫn tới bùng nổ lạm phát.
Bội chi ngân sách nhà nước cũng không hoàn toàn là tiêu cực. Nếu bội chi
ngân sách ở một mức độ nhất định (dưới 5% so với tổng chi ngân sách trong
năm) thì lại có tác dụng kích thích sản xuất phát triển. Vì thế ở những quốc gia có
nền kinh tế phát triển, nguời ta vẫn chỉ cố gắng thu hẹp bội chi ngân sách nhà
nước chứ không hề có ý loại trừ nó hoàn toàn. Nhưng cho dù bội chi ngân sách
nhà nước ở mức độ nào đi chăng nữa thì nó vẫn đòi hỏi mọi chính phủ phải có
biện pháp thích hợp để kiểm soát và kiềm chế bội chi ngân sách.
c. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong
một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm gốc sẽ
phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng sản lượng kinh tế nhanh hay chậm
so với thời điểm gốc.
Hiện nay, mức gia tăng tổng giá trị của cải Xã Hội được tính bằng các đại lượng
tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Vì vậy,
tăng trưởng kinh tế là mức gia tăng GDP hay GNP năm sau so với năm trước.
Các nhân tố tăng trưởng kinh tế:
- Vốn là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra được tích lũy lại và tài
nguyên thiên nhiên như đất đai, khoáng sản … Vốn được thể hiện dưới hình thức
hiện vật và tiền tệ. Đó là yếu tố đầu vào của sản xuất, có vai trò rất quan trọng để
tăng trưởng kinh tế.
Mối quan hệ giữa tăng GDP với tăng vốn đầu tư gọi là hiệu suất sử dụng vốn sản
phẩm gia tăng. Đó là tỷ lệ tăng đầu tư chia cho tỷ lệ tăng của GDP. Những nền
kinh tế thành công thường khởi đầu quá trình phát triển với chỉ số này thấp,
thường là tăng 3% vốn để tăng 1% GDP.
- Con người là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững. Con người có
sức khỏe, trí tuệ, kỹ năng cao, có ý chí, nhiệt tình lao động và được tổ chức hợp
lý. Tài năng, trí tuệ của con người là vô hạn và là nhân tố quyết định trong nền
kinh tế tri thức, còn vốn là tài nguyên hữu hạn.
Con người sáng tạo ra kỹ thuật, công nghệ và sử dụng nó và vốn để sản xuất. Nếu
không có con người thì các yếu tố này không thể tự phát huy tác dụng. Vì vậy,
cần phát triển giáo dục, đào tạo, y tế … để phát huy nhân tố con người. Đó chính
là sự đầu tư cho tăng trưởng kinh tế.
- Cơ cấu kinh tế gồm cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế và cả cơ cấu
ngành kinh tế. cơ cấu hợp lý thể hiện ở chỗ xác định đúng tỷ trọng, vai trò, thế
mạnh của từng ngành, từng vùng, từng thành phần kinh tế. nếu kết hợp tốt các
nguồn lực của nền kinh tế để tăng năng suất lao động, nâng cao hiểu quả của nền
kinh tế, là yếu tố quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
- Thể chế chính trị và quản lý nhà nước:
Thể chế chính trị tiến bộ có khả năng định hướng sự tăng trưởng kinh tế vào
những mục tiêu mong muốn, khắc phục những nguyên nhân gây ô nhiễm môi
trường, phân hóa giàu nghèo sâu sắc.
Hệ thống chính trị mà đại diện là Nhà nước có vai trò hoạch định đường lối,
chiến lược phát triển KT- XH, cùng hệ thống chính sách đúng đắn sẽ hạn chế
được những tiêu cực của kinh tế thị trường, làm cho nền kinh tế phát triển nhanh
và đúng hướng.
III. Quan điểm về mối liên hệ giữa bội chi ngân sách và tăng trưởng kinh tế:
Năm quan điểm về tác động của bội chi ngân sách đến tăng trưởng kinh
tế:
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 diễn ra đưa đến những hậu quả rất
nặng nề cho nền kinh tế thế giới, theo đó, nhiều vấn đề về quản trị tài chính quốc
gia được lật lại nhưng nổi trội hơn hẳn là vấn đề Bội chi ngân sách. Những câu hỏi
liên tục được đặt ra: Sức mạnh của bộ chi ngân sách và ảnh hưởng của nó đến tăng
trưởng kinh tế là gì? Chính Phủ cần phải lưu ý những vấn đề gì trong chính sách
quản lý Bội chi ngân sách nói riêng và tài chính công nói chung? Với mục tiêu
trọng tâm hướng về chính sách quản lý Bội chi ngân sách của các quốc gia trên thế
giới và từ đó đưa ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, phần đầu tiên trong
bài nghiên cứu, chúng tôi sẽ trình bày mối quan hệ giữa Bội chi ngân sách và tăng
trưởng kinh tế - nguyên nhân giúp Chính Phủ nhận thấy cần phải có một chính
sách quản lý Bội chi ngân sách phù hợp để đảm bảo tác động tích cực đến tăng
trưởng kinh tế.
Qua nghiên cứu và tìm hiểu những quan điểm của các nhà kinh tế học trên
thế giới, chúng tôi tìm ra được năm quan điểm như sau:
Thứ nhất, Bội chi ngân sách là một nguồn rất cần thiết thuộc cấu trúc vốn
tài chính của các quốc gia, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển, góp phần
vào sự phát triển kinh tế đất nước trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn có nguy
cơ gây tổn hại cho nền kinh tế bởi những yêu cầu thanh toán cả vốn gốc và lãi
của nó.
Theo quan điểm của Folorunso S. Ayadi và Felix O. Ayadi (2008)
1
, nợ là
một trong những nguồn thuộc cấu trúc vốn tài chính của bất kỳ một nền kinh tế
nào, đặc biệt, đối với những đất nước đang phát triển thuộc Châu Phi, Châu Á,
Châu Mỹ La Tinh, đặc trưng bởi một cấu trúc vốn nội bộ không thỏa đáng, do
đó, luôn gặp phải vòng luẩn quẩn của năng suất thấp do thiếu nguồn vốn đầu tư
nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng, cập nhật công nghệ kỹ thuật, rồi dẫn đến
thu nhập thấp, kéo theo là tiết kiệm cũng thấp và tiếp tục quay lại với cấu trúc
vốn nội bộ thiếu thốn. Vì vậy, lúc này, những kiến thức thuộc về chuyên môn, bộ
máy quản lý tài chính quốc gia và sự hỗ trợ tài chính từ những nước Phương Tây
để khắc phục sự khó khăn về nguồn lực là điều trở nên rất cần thiết. Mặt khác,
nợ nước ngoài như là một sự ràng buộc chính yếu đến cấu trúc vốn của những
quốc gia đang phát triển. Trong hầu hết các trường hợp, nợ dồn tích lại bởi vì
những yêu cầu thanh toán cả vốn gốc và lãi của nó, do đó, nợ dần trở nên không
góp phần một cách đáng kể cho sự phát triển kinh tế tại những đất nước đang
phát triển trong dài hạn. Phát triển những ý tưởng trên, theo Elmendorf và
Mankiw (1999)2, Bội chi ngân sách có ảnh hưởng quan trọng đến nền kinh tế cả
trong ngắn và dài hạn. Các khoản nợ (phản ánh tài trợ thâm hụt) có thể kích
thích tổng cầu và sản lượng trong ngắn hạn do lượng vốn cung cấp cho nền kinh
tế tăng cao, đáp ứng nhu cầu huy động vốn của những cá nhân và tổ chức trong
nền kinh tế, nhưng chèn lấn vốn đầu tư và làm giảm sản lượng trong dài hạn. Bội
chi ngân sách cao có thể ảnh hưởng bất lợi đến tích lũy vốn và tăng trưởng thông
qua lãi suất dài hạn cao hơn, bóp méo hệ thống thuế trong tương lai cao hơn, lạm
phát và sự không chắc chắn cao hơn về các triển vọng và chính sách.
Có thể nói rằng: trong ngắn hạn, Bội chi ngân sách tác động tích cực lên
tăng trưởng kinh tế bởi cung cấp một lượng vốn thiết yếu đối với chi tiêu cho
đầu tư phát triển của quốc gia, nâng cao năng suất nhưng kèm theo đó là những
nghĩa vụ nợ phải thực hiện trong tương lai, dẫn đến những ảnh hưởng bất lợi đến
tích lũy vốn và tăng trưởng kinh tế dài hạn nếu không có một chính sách quản lý
Bội chi ngân sách phù hợp và hữu hiệu.
Thứ hai, đối với những quốc gia phát triển và những nền kinh tế thị trường
mới nổi, mối quan hệ giữa Bội chi ngân sách và tăng trưởng kinh tế biểu hiện rõ
nhất khi nợ vượt mức 90-100% GDP; lúc này, nợ càng tăng, tăng trưởng kinh tế
giảm đáng kể.
Theo M. Reinhart và S. Rogoff3, hai nhà kinh tế học nổi tiếng về nghiên cứu lĩnh
vực nợ công, đã xem xét mối quan hệ giữa Bội chi ngân sách và tăng trưởng
kinh tế với các mức độ khác nhau của Bội chi ngân sách ở những nền kinh tế
tiên tiến và mới nổi, dựa trên chuỗi số liệu quá khứ dài hạn và mô tả thực
nghiệm đã đưa ra kết quả tác động phi tuyến của Bội chi ngân sách đối với tăng
trưởng kinh tế. Nghiên cứu gần đây (2010) được thực hiện bởi hai tác giả này,
thông qua thống kê tương quan đơn giản về những mức khác nhau của Bội chi
ngân sách và tốc độ tăng trưởng GDP thực dài hạn trong mẫu 20 quốc gia phát
triển
4
trải dài khoảng hai thế kỷ (1790 – 2009), và mẫu 24 nền kinh tế thị trường
mới nổi
5
giai đoạn 1946-2009 nhận thấy rằng: (i) mối quan hệ giữa Bội chi ngân
sách và tăng trưởng dài hạn thì yếu đối với tỷ số nợ/GDP dưới ngưỡng 90%
GDP; (ii) trên 90%, khi nợ tăng, tốc độ tăng trưởng giảm đáng kể. Điều này sẽ
được trình bày rõ hơn ở phần bằng chứng thực nghiệm tiếp theo và bảng thống
kê về nợ và tăng trưởng kinh tế của một số quốc gia chọn lọc trong phần phụ lục
A1.
Như vậy, đây chính là điểm mấu chốt trong việc đề ra những chính sách
quản lý Bội chi ngân sách và trần Bội chi ngân sách phù hợp cho mỗi quốc gia
dựa vào ngưỡng nợ cảnh báo, từ đó, tránh vay
mượn quá đà, rơi vào trạng thái mất khả năng chi trả và ảnh hưởng tiêu cực đến
tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, có thể xem xét sự tác động của Bội chi ngân sách lên tăng trưởng
kinh tế thông qua dữ liệu nợ nước ngoài cùng với những rủi ro và hệ lụy mà nó
đưa lại: sự không khuyến khích đầu tư, giới hạn sự tham gia của các quốc gia
đang phát triển với nền kinh tế toàn cầu, sự trống rỗng trong dự trữ ngoại hối
quốc gia, cứng nhắc trong chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.
Một số nghiên cứu của Krugman (1988) và Sachs (1989)
6
đã xem xét tác
động của Bội chi ngân sách lên tăng trưởng kinh tế thông qua sự tác động của
một yếu tố đóng vai trò quan trọng: đó là nợ nước ngoài, lên tăng trưởng kinh tế
ở những nền kinh tế đang phát triển. Hầu hết động cơ của các nghiên cứu này là
giả thuyết "số dư nợ quá mức" – một tình huống trong đó, gánh nặng nghĩa vụ
nợ của một quốc gia là quá nặng đến nỗi một phần sản lượng lớn phải tích lũy
cho các chủ nợ nước ngoài và do đó gây nên sự không khuyến khích đầu tư.
Cũng theo đánh giá của Ayadi (1999) và Ayadi et. al. (2003)
7
, gánh nặng nợ
nước ngoài đã giới hạn sự tham gia của những quốc gia đang phát triển với nền
kinh tế toàn cầu và kèm theo đó là những nghĩa vụ nợ đã gây trở ngại đến tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Khi vay nợ của một quốc gia tăng lên và càng cao,
những e ngại về vấn đề mất khả năng chi trả được đặt nặng, các quốc gia khác
tiến hành thẩm định môi trường đầu tư kỹ càng hơn và từ đó, đưa ra những điều
khoản khắt khe hơn gây ảnh hưởng đến hội nhập kinh tế của nền kinh tế chính
quốc. Hơn thế nữa, gánh nặng nợ quốc gia gây cản trở chi tiêu công cho đầu tư
phát triển, hạn chế việc tích lũy nguồn vốn (sự trống rỗng trong dự trữ) và có
khuynh hướng cản trở áp dụng những chính sách tiền tệ linh hoạt để củng cố
những doanh nghiệp vừa và nhỏ do nguồn thu được phải đáp ứng phần lớn nghĩa
vụ nợ cả gốc và lãi. Điều này đã ảnh hưởng một cách gián tiếp đến việc làm, học
vấn và sự bần cùng, nghèo khó của người dân trong một quốc gia.
Thứ tư, tăng trưởng kinh tế, tiết kiệm và đầu tư có mối quan hệ với nhau,
khi vốn nội địa không đủ để tài trợ cho chi tiêu đầu tư trong nước thì vay nợ là
tất yếu để phục vụ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, vay nợ luôn kèm theo những rủi
ro do lãi suất, thời hạn, cơ cấu vay mượn, gây ảnh hưởng tiêu cực lên tăng
trưởng kinh tế, do đó vấn đề quản lý nợ hiệu quả đang trở nên cấp thiết.
Theo Hunt (2007)
8
, sự tăng lên trong tiết kiệm và đầu tư của nền kinh tế
dẫn đến tăng trưởng kinh tế. Sachs (2002) tranh luận rằng sự tăng trưởng sẽ
không tăng cho đến khi tổng lượng vốn tăng đạt đến một ngưỡng nhất định. Khi
lượng vốn tăng, đầu tư và sản lượng đầu ra tăng, trong vòng xoắn tiến lên, tiết
kiệm sẽ tiếp tục tăng. Sau khi đạt được một mức độ, sự tăng lên trong cả vốn và
tiết kiệm sẽ kích thích sự tăng lên trong tăng trưởng một cách tự lực. Lý thuyết
“dual-gap” nói rằng đầu tư là một hàm của tiết kiệm, và trong những quốc gia
đang phát triển, mức độ tiết kiệm nội địa không đủ để tài trợ cho đầu tư cần thiết
để đảm bảo phát triển kinh tế, vì vậy, thật hợp lý khi tìm kiếm sử dụng những
sản phẩm và dịch vụ từ bên ngoài. Colaco (1985) đã giải thích tính chất nhạy
cảm của việc thanh toán nợ đối với những nước đang phát triển thông qua sử
dụng ba kịch bản: (i) quy mô khoản nợ nước ngoài đạt đến một mức độ mà lớn
hơn so với vốn tự có, dẫn đến sự không cân bằng giữa nợ và vốn tự có; (ii) tỷ lệ
nợ với lãi suất thả nổi tăng đột ngột, vì vậy những người vay mượn phải đối mặt
trực tiếp với việc lãi suất tăng cao; (iii) thời hạn vay rút ngắn đáng kể, một phần
bởi vì sự giảm đi của những nguồn chính thức. Bên cạnh đó, Mehran (1986) cho
rằng quản lý nợ tương xứng là thiết yếu trong môi trường tài chính ngày càng
phức tạp. Mehran cũng xác định môi trường quản lý nợ là sự kết hợp về chính
sách, môi trường kiểm soát, kế toán, phân tích thống kê và những yếu tố khác
như chính sách minh bạch và chống tham nhũng, sự cải tiến của cấu trúc quản lý
nợ và quá trình đưa ra quyết định. Vấn đề tiếp theo trong việc nhận và quản lý
nợ là quyết định quy mô nợ thực tế. Vay mượn nước ngoài trong thực tế được
đo lường bởi những tỷ số riêng, ví dụ như nợ trên xuất khẩu, thanh toán nợ trên
xuất khẩu, nợ trên GDP (hoặc GNP), và nợ nước ngoài so với tổng thu nhập
quốc dân (GNI). Tuy nhiên, quyết định mức phù hợp của những chỉ số này khó
xác định và việc hữu ích bây giờ là giảm thiểu nguy cơ bùng nổ trong tăng
trưởng nợ nước ngoài. Ví dụ, nếu nợ nước ngoài tăng cao, thanh toán gánh nặng
nợ cao hơn so với khả năng chịu đựng gánh nặng nợ của quốc gia, việc nhận nợ
sẽ trở nên rắc rối và tình huống này phải được đảo ngược thông qua mở rộng
xuất khẩu; nếu xuất khẩu không được mở rộng, vay mượn nhiều hơn sẽ cần thiết
cho thanh toán nợ, và nợ nước ngoài sẽ chồng chất vượt quá khả năng chịu đựng
của một quốc gia.
Do đó, điều cần tham khảo ở đây chính là xác định đúng những yếu tố
thuộc môi trường quản lý Bội chi ngân sách của mỗi quốc gia, đặc trưng vốn có
của chúng để có thể đề ra được chính sách quản lý phù hợp: môi trường kiểm
soát, hệ thống kế toán Bội chi ngân sách, vấn đề thực hiện minh bạch và chống
tham nhũng, quy trình ra quyết định khi vay nợ và xét duyệt dự án.
Thứ năm, nợ tích lũy theo thời gian và dòng chi trả nợ đã gây cản trở lớn
đến tăng trưởng kinh tế do những trở ngại thuế khóa, bất ổn vĩ mô và sự giảm
bớt chi tiêu cho đầu tư phát triển của Chính Phủ.
Cohen (1993) và Clements et al. (2003) cũng làm vững thêm cho tác động
đã nói ở trên của nợ, như họ quan sát thấy tác động tiêu cực của nợ lên tăng
trưởng không chỉ thông qua sự tồn đọng của nợ, mà còn thông qua dòng chi trả
nợ, điều mà giống như sự giảm bớt chi tiêu cho đầu tư Chính Phủ. Điều này rất
quan trọng cho việc đánh giá, xem xét vì chi tiêu công được xem là yếu tố quyết
định chủ yếu của các hoạt động kinh tế trong nhiều vấn đề chức năng. Nợ tích
lũy làm giảm sức mạnh của nền kinh tế thông qua tác động “nợ tăng thêm” với
trở ngại thuế khóa và bất ổn định vĩ mô. Trở ngại thuế khóa nghĩa là tồn nợ lớn
không khuyến khích đầu tư vì những người đầu tư tiềm năng nhận thấy rằng sẽ
có thuế cao hơn trên thu nhập tương lai để tạo nên khoản hoàn trả nợ. Bất ổn vĩ
mô có liên quan đến việc gia tăng thiếu hụt tài chính, không chắc chắn do sự huy
động vốn bất thường, sự suy giảm giá trị đồng nội tệ, mở rộng tiền tệ và lạm phát
dự đoán.
Tóm lại, theo phân tích của giới kinh tế học trên thế giới, Bội chi ngân
sách là thành phần không thể thiếu được trong cấu trúc tài chính của mỗi quốc
gia. Nó có tác động tích cực đến nền kinh tế trong ngắn hạn, nhưng cũng có thể
gây nên nguy cơ tổn hại đối với nền
kinh tế trong dài hạn. Đó là do sự tồn đọng nợ theo thời gian, những yêu cầu chi
trả nợ cả vốn gốc và lãi, sự trở ngại thuế khóa, bất ổn vĩ mô và sự giảm bớt chi
tiêu đầu tư phát triển quốc gia một cách đáng kể. Do đó, chính sách quản lý Bội
chi ngân sách hiệu quả đòi hỏi phải lường trước những nguy cơ, rủi ro gặp phải,
xác định mức nợ phù hợp, cân đối hợp lý mức chi trả nợ trong tương lai, góp
phần tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Để minh họa cho sự tác động của
Bội chi ngân sách đối với tăng trưởng kinh tế và nhấn mạnh thêm vai trò quản lý
tài chính công của Chính Phủ, chúng tôi đã tiến hành thu thập thông tin và tìm
hiểu về diễn biến tác động của Bội chi ngân sách đến tăng trưởng kinh tế trên
thực tế của một số quốc gia, do các tác giả thuộc những tổ chức có uy tín thực
hiện, dựa vào những bộ dữ liệu thu thập được trong một quá trình dài từ các
nhóm quốc gia khác nhau. Đầu tiên, chúng tôi sẽ trình bày môi trường kinh tế
ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa Bội chi ngân sách và tăng trưởng kinh tế như
thế nào.
IV. Bình luận
Tình trạng bội chi ngân sách Nhà nước có những ảnh hưởng hết sức rộng
lớn trên tất cả các lĩnh vực, các hoạt đông kinh tế xã hội.Thâm hụt ngân sách Nhà
nước với một mức cao và triền miên sẽ làm cho Nhà nước phải tìm cách tăng các
khoản thu, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân, hơn nữa
khi đó các nguồn vốn trong các ngân hàng sẽ trở nên khan hiếm hơn điều đó sẽ
dẫn đến tình trạng lãi suất tăng cao, điều này gây ra những trở ngại trong việc vay
vốn của các nhà đầu tư.Về lâu về dài thì sẽ dẫn đến tình trạng đầu tư sẽ giảm sút
nghiêm trọng, sẽ có nhiều doanh nghiệp bị phá sản do không tìm được những
khoản vay thích hợp, sản xuất trong nước bị thu nhỏ lại từ đó sẽ toạ điều kiện
thúc đẩy quá trình nhập siêu, cán cân thương mại quốc tế mất cân bằng.Những
điều này dẫn đến tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng, thu nhập thực tế của
người dân giảm sút và ngày càng gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Do đó, nhiều người vẫn nghĩ rằng bội chi ngân sách nhà nước là “một căn
bệnh” làm cản trở sự phát triển nền kinh tế, gây nên lạm phát, mất cân đối tài
chính quốc gia, nói chung, bội chi quá mức sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc
phát triển kinh tế mà không biết rằng bội chi ngân sách ở một mức độ nhất định,
sẽ là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Có thể ví bội chi
ngân sách như con dao hai lưỡi, quan trọng là “người cầm dao” sử dụng nó như
thế nào? Nếu bội chi ngân sách hợp lí sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đáp ứng
được sự thiếu hụt nguồn vốn đối với các dự án quan trọng. Tuy nhiên nếu không
thực hiện tốt, điều tiết kịp thời thì bội chi ngân sách là một trong những nguyên
nhân chính gây khủng hoảng nền kinh tế, gây lên lạm phát, nợ quốc gia.
Qua phân tích những nét cơ bản về nhiệm vụ thu chi ngân sách thì rõ ràng
chi ngân sách là vấn đề quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hôi đất nước.
Nhưng thực tế việc cân đối cán cân thu chi ngân sách của nhà nước là là một
công việc khó khăn và phức tạp. Nếu không có tính toán bước đi phù hợp gây
hậu quả nghiêm trọng đến tình hình kinh tế xã hội đất nước. có thể thấy như bội
chi ngân sách nhà nước đang là một vấn đề kinh tế xã hội nhiều nước đang quan
tâm và gặp phải, trong đó có cả Việt Nam.
Tăng trưởng là điều kiện cần để chúng ta hoàn thành các mục đích kinh tế
của xă hội. Mà mục đích kinh tế của xă hội là làm sao cho mức sống người dân
tăng lên và sự công bằng xă hội sẽ đến với những cá nhân là như nhau.
Vấn đề thiếu hụt ngân sách thường làm các nhà chính trị gia đau đầu giữa
một bên là phát triển bền vững, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế với một
bên là nguồn lực có hạn. Đòi hỏi các chính trị gia phải lựa chọn để phù hợp với
yêu cầu phát triển thực tế và sự phát triển trong tương lai.Từ sự lựa chọn đó họ
đưa ra mức bội chi hợp lý, bảo đảm nhu cầu tài trợ cho tiêu cũng như đầu tư phát
triển kinh tế, đồng thời bảo đảm cho nợ quốc gia ở mức hợp lý. Bội chi ngân sách
nhà nước được hiểu một cách chung nhất là là sự vượt trội về chi tiêu so với tiền
thu được trong năm tài khóa hoặc thâm hụt ngân sách do sự cố ý của chính phủ
tạo ra nhằm thực hiên chính sách kinh tế vĩ mô. Có nhiều cách để chính phủ bù
đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu từ thuế, phí, lệ phí ; giảm chi ngân sách; vay
nợ trong nước ,vay nợ nước ngoài ;phát hành thêm tiền để phù đắp chi tiêu ;…Sử
dụng phương pháp nào ,nguồn nào tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và chính sách
kinh tế tài chính trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia .
Để có được điều này chính phủ cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cũng
như đổi mới công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu tăng trưởng bền vững của đất
nước.
Tuy nhiên, chi như thế nào thì cần phải có sự quản lý chặt chẻ của nhà nước.
chính vì vậy mà cần Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước Tăng cường vai trò
quản lý của nhà nước nhằm bình ổn giá cả, ổn định chính sách kinh tế vĩ mô và
nâng cao hiệu quả hoạt động trong các khâu của nền kinh tế. Để thực hiện vai trò
của mình, nhà nước sư dụng một hệ thống chính sách và công cụ quản lý vĩ mô
để điều khiển, tác động vào đời sống kinh tế -xã hội, nhằm giải quyêt các mối
quan hệ trong nền kinh tế cũng như đời sống xã hội, nhất là mối quan hệ tăng
trưởng và công bằng xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với giữ gìn mội trường
v.v…Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi lạm phát là một vấn nạn của các nước
trên thế giới, vấn đề tăng cường vai trò quản lý của các nước trên thế giới, vấn đề
tăng cường vai trò vai trò quản lý của nhà nước đối với quản lý ngân sách nhà
nước nói chung và xử lý bội chi ngân sách nói riêng có ý nghĩa vô cùng cấp thiết.
Tăng trưởng kinh tế có tác động hai mặt đến việc thực hiện các chính sách
xã hội. Một mặt, nó làm biến đổi cơ cấu ngành kinh tế, hình thành nhiều ngành
mới, tạo ra nhiều việc làm. Mặt khác, do ứng dụng công nghệ tiên tiến, tăng nhu
cầu về nhân lực chất lượng cao, nếu giáo dục đào tạo không đáp ứng kịp sẽ dẫn
đến tình trạng dư thừa nhiều lao động giản đơn, tăng thất nghiệp nhưng lại thiếu
lao động lành nghề. Hoặc là, tăng trưởng kinh tế theo cơ chế thị trường, diễn ra
cạnh tranh gay gắt, vừa thúc đẩy sản xuất, vừa dẫn đến phân hóa hai cực: những
người chiến thắng thu lợi nhuận cao sẽ giàu lên, những người thua cuộc sẽ nghèo
đi, thậm chí bị phá sản, nảy sinh khoảng chênh lệch lớn về thu nhập giữa các tầng
lớp dân cư, đòi hỏi nhà nước phải có sự điều tiết thu nhập để giảm bớt bất bình
đẳng xã hội.
Phát triển bền vững đòi hỏi phải tăng trưởng theo chiều sâu, chủ yếu dựa
vào các nhân tố tăng sức sản xuất của lao động xã hội, như nâng cao trình độ của
người lao động, ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến, cải tiến tổ chức và
quản lý sản xuất, tăng hiệu suất của tư liệu lao động và tận dụng hiệu quả các
nguồn tài nguyên thiên nhiên gắn với bảo vệ môi trường. Nhờ đó tăng năng suất
lao động xã hội tăng nhanh giá trị gia tăng, nên có nhiều sản phẩm và dịch vụ để
nâng cao mức sống của nhân dân.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom_34_taichitiente_1052.pdf