Thực tế cho thấy , bộ i ch i ngân sách nhà nước không có nguồn bù đắp h ợp
lý sẽ dẫn đến lạm phát, gây tác h ại xấu tới nền kinh tế cũng như đời sống xã hội.
Nếu bộ i ch i ng ân sách nhà nước được bù đắp bằng cách phát hành thêm tiền sẽ
bù đắp ngân sách nhà n ước một cách nhanh chóng , không phải trả lãi, không
phải gánh thêm các gánh nặng n ợ nần , nhưng việc in thêm v à phát hành thê m
tiền sẽ khiến cho cung tiền vượt cầu tiền, nó đẩy cho việc lạm phát trở nên không
thể kiểm soát nổ i. Hay như giải quyết bội chi ngân sách bằng cách vay nợ trong
nước, g iải pháp này có thể giảm bội chi ng ân sách mà không cần phả i tăng cơ sở
tiền tệ hoặc g iảm dự trữ quốc tế. Vì vậy, biện pháp này được coi là một cách
hiệu quả để kiềm ch ế lạm ph át. Tuy nhiên, v iệc khắc phục bội ch i ngân sách
bằng vay nợ tuy không gây ra lạm phát trước mắt nhưng nó lại có thể làm tăng
áp lực lạm phát trong tương lai nếu như tỷ lệ nợ trong GDP liên tục tăng. Thứ
nữa, việc vay trực tiếp từ dân sẽ làm giảm khả năng khu vực tư nhân trong việc
tiếp cận tín dụng và gây sức ép làm tăng lãi suất trong nước
Đặc biệt, ở nh ững n ước trải qua g iai đoạn lạm phát cao (như nước ta h iện nay),
giá trị th ực của trái phiếu chính phủ giảm nhanh chóng, làm cho chúng trở nên ít
hấp dẫn. Ch ính phủ có thể sử dụng quyền lực của mình để buộc các chủ thể kh ác
trong nền kinh tế phả i giữ trái ph iếu. Tuy nhiên, nếu việc làm này kéo d ài sẽ gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của chính phủ và khiến cho việc huy động
vốn thông qua kênh này sẽ trở nên khó khăn hơn vào các năm sau. Còn đối với
vay nợ nước ngoài thì nó là một biện pháp giảm bội chi ngân sách h ữu hiệu. Đây
cũng là một nguồn vốn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong nước,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
27 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2119 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và bội chi ngân sách Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng phú
của nền kinh tế, nguyên nhân của lạm phát cũng theo đó càng trở nên phức tạp.
Trong sự nghiệp phát t riển kinh tế th ị t rường th eo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta có sự điều t iết của nhà nước, việc nghiên cứu về lạm phát, tìm hiểu
nguyên nhân và các biện pháp chống lạm phát có va i trò to lớn góp phần vào sự
nghiệp phát triển của đất nước.
Bên cạnh đó, bội chi ngân sách nhà nước hay còn gọi là thâm hụt ngân
sách cũng là một trong những vấn đề đáng lo ngại cho ngân sách nhà nước, cho
sự phát triển kinh tế mỗi quốc gia. Bội chi ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng
tích cực hoặc t iêu cực đến nền kinh tế một nước, tùy theo tỉ lệ thâm hụt và thời
gian thâm hụt . Nếu tình t rạng thâm hụt ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong
thời gian dài sẽ gây ra lạm phát, ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế.
Bội chi ngân sách nhà nước và lạm phát là hai vấn đề không phải xa lạ
trong nền kinh tế vĩ mô. Chúng có mối quan hệ nhân quả với nhau. Chính sự bội
chi ngân sách nhà nước là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát cao cho
nền kinh tế. Do vậy việc xác định mối quan hệ giữa bội chi ngân sách nhà nước
và lạm phát là một vấn đề cấp thiết t rong t ình hình hiện nay. Vậy lạm phát và bội
chi ngân sách Nhà nước có mối quan hệ như thế nào? Cái nào là nguyên nhân
của cái nào? Giải pháp xử lý như thế nào? Trong bà i t iểu luận này chúng ta sẽ
làm rõ những vấn đề trên.
NỘI DUNG
I. Khái niệm và bản chất của lạm phát
1. Các quan điểm về lạm phát
Lạm phát là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh từ chế độ lưu thông
tiền giấy. Có nhiều nhà kinh tế đã đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ lạm
phát nhưng nói chung chưa có một sự thống nhất hoàn toàn.
Trong kinh tế học, thuật ngữ “lạm phát” dùng để chỉ sự tăng lên theo thời
gian của mức giá chung của nền kinh tế. Theo nghĩa này th ì ng ười ta hiểu là lạm
phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị th ị trường hay giảm sức
mua của đồng tiền . Theo nghĩa th ứ hai này thì người ta hiểu là lạm phát của một
loại t iền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Khi so sánh với các nền kinh tế
khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại t iền tệ so với các loại tiền tệ
khác.
Theo L.V.chandeler, D.C cliner với trường phái lạm phát g iá cả thì khẳng
định: lạm phát là sự tăng giá hàng bất kể dài hạn hay ngắn hạn, chu kỳ hay đột
xuất.
G. G. Mtrukhin lại cho rằng: có thể xem sự mất giá của đồng tiền là lạm
phát. Trong đời sống, tổng mức giá cả tăng trước hết thông qua việc tăng giá
không đồng đều ở từng nhóm hàng hoá và rút cuộc dẫn tới v iệc tăng giá cả nói
chung. Ông cũng chỉ rõ: lạm phát, đó là hình thức t ràn t rề tư bản một cách tiềm
tàng (tự phát hoặc có dụng ý) là sự phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập
quốc dân thông qua giá cả giữa các khu vực của quá trình tái sản xuất xã hội, các
ngành kinh tế và các giai cấp, các nhóm dân cư xã hội.
Ở mức bao quát hơn P.A.Samuelson và W.D.Nordhaus trong cuốn “Kinh
tế học” đã được dịch ra tiếng việt, xuất bản năm 1989 cho rằng: lạm phát xảy ra
khi mức chung của giá cả chi phí tăng lên.
Với luận thuyết “Lạm phát lưu thông t iền tệ” J.Bondin và M. Friendman
lại cho rằng: lạm phát là đưa nhiều t iền thừa vào lưu thông làm cho giá cả tăng
lên.
M.Friedman lại nói rằng : “Lạm phát ở mọi lúc mọi nơi đều là hiện tượng
của lưu thông tiền tệ. Lạm phát xuất hiện và chỉ có thể xuất h iện khi nào số
lượng tiền trong lưu thông tăng lên nhanh hơn so với sản xuất”.
C .Mác lại cho rằng: khi khối lượng tiền g iấy do nhà nước phát hành và
lưu thông vượt quá mức giới hạn số lượng vàng hoặc bạc mà nó đại diện thì g iá
trị của tiền giấy sẽ giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện.
Theo quan điểm của Keynes thì: “Chỉ khi nào có toàn dụng, sử dụng hết
nhân công và năng lực sản xuất, mới tạo nên cầu dư thừa và giá cả hàng hoá tăng
lên từ cầu cá b iệt làm thay đổi cầu tổng quát và mức giá chung từ đó gây ra lạm
phát”.
Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát và mỗi quan điểm đều
có sự chắc chắn về luận điểm và nh ững lý luận của mình . Những luận thuyết,
những quan điểm về lạm ph át đã nêu trên đều đưa ra những biểu hiện ở một mặt
nào đó của lạm phát
Theo quan điểm cổ điển thì: Lạm phát xảy ra khi số tiền lưu hành vượt quá
dự t rữ vàng làm đảm bảo của ngân hàng phát hành. Cụ thể người ta dựa vào tỷ lệ
đảm bảo của tiền tệ để xem xét có lạm phát hay không. Quan điểm này coi trọng
cơ sở đảm bảo của t iền . Trong thực tế, có những t rường hợp tỷ lệ đảm bảo pháp
định vẫn được tôn trọng nhưng giá cả của hàng hóa đều lên cao.
Có quan điểm khác cho rằng : Lạm phát là sự mất cân đối giữa tiền và hàng
trong nền kinh tế. Có thể tóm tắt trong phương t rình Fisher: M.V=P.Y. Nếu tổng
khối lượng tiền lưu hành (M) tăng thêm trong khi tổng lượng hàng hóa – d ịch vụ
được trao đổi (Y) giữ vững, tất nhiên mức giá trung bình (P) phải tăng. Và nếu
thêm vào đó tốc độ lưu thông tiền tệ (V) tăng thì P lại tăng rất nhanh. Quan điểm
tĩnh về lạm phát nêu trên tuy giúp ta h iểu rõ về lạm phát, nhưng không cho biết
nguyên nhân của lạm phát và khiến cho ta lầm tưởng lạm phát cao là kết quả của
việc tăng trưởng mức cung tiền tệ cao.
Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng giá của các loại hàng hóa (tư
liệu t iêu dùng, tư liệu sản xuất và hàng hóa sức lao động). Lạm phát xảy ra khi
mức chung của giá cả và chi phí tăng. Theo quan điểm này thì giá cả tăng lên
cho dù bất kỳ nguyên nhân nào đều là lạm phát.
Ngoài những quan điểm nêu t rên, từ sau chiến t ranh thế giới thứ hai đã
xuất hiện nhiều lý thuyết khác nhau về lạm phát. Trong các số đó có các lý
thuyết chủ yếu là:
+ Lý thuyết cầu: do nhà kinh tế Anh nổi tiếng John Keynes đề xướng. Ông
đã quy nguyên nhân cơ bản của lạm phát về sự biến động cung cầu. Khi mức
cung đã đạt đến tột đỉnh vượt quá mức cầu, d ẫn đến đ ình đốn sản suất, th ì nhà
nước cần phả i tung thêm tiền vào lưu thông, tăng các khoản chi nhà nước, tăng
tín dụng, nghĩa là tăng cầu để đạt tới mức cân bằng với cung và vượt cung. Khi
đó đã xuất hiện lạm phát, và lạm phát ở đây có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát
triển.
+ Lý thuyết ch i phí cho rằng: Lạm phát nảy sinh do mức tăng các chi phí
sản xuất , kinh doanh đã nhanh hơn mức tăng năng suất lao động. M ức tăng chi
phí này chủ yếu là do t iền lương được tăng lên , g iá các nguyên nh iên vật liệu
tăng, công nghệ cũ kỹ không được đổi mới, thể chế quản lý lạc hậu không giảm
được chi ph í... Đặc biệt là trong những năm 70 do giá dầu mỏ tăng cao , đã làm
cho lạm phát gia tăng ở nh iều nước. Vậy là chi phí tăng đến mức mà mức tăng
năng suất lao động xã hội đã không bù đắp được mức tăng chi ph í khiến cho giá
cả tăng cao, lạm phát xuất hiện. Ở đây suy thoái kinh tế đã đi liền với lạm phát
+ Lý thuyết cơ cấu được phổ biến ở nh iều nước đang phát t riển. Theo lý
thuyết này thì: Lạm phát nảy sinh là do sự mất cân đố i sâu sắc trong chính cơ cấu
cơ của nền kinh tế mất cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng , giữa công ngh iệp nặng
và công nghiệp nhẹ, giữa công nghiệp và nông nghiệp giữa sản xuất và dịch vụ ...
Chính sự mất cân đối t rong cơ cấu kinh tế đã làm cho nền kinh té phát t riển
không có hiệu quả, khuyến khích các lĩnh vực đòi hỏi chi phí tăng cao phát triển.
Còn rất nhiều lý thuyết khác về lạm phát như: lý thuyết tạo lỗ t rống lạm
phát, lý thuyết số lượng t iền tệ, v.v… Song dù có khác nhau về cách lý g iải
nhưng hầu như tất cả các lý thuyết đều th ừa nhận: lạm phát chỉ xuất hiện khi
mức giá cả chung tăng lên, do đó làm cho giá trỊ của đồng tiền giảm xuống.
2. Các loại lạm phát và nguyên nhân của lạm phát:
2.1 Các loại lạm phát
a. Lạm phát vừa phải
Lạm phát vừa phải còn gọi là lạm phát một con số, có t ỉ lệ lạm phát dưới
10% một năm. Lạm phát ở mức độ này không gây ra nh ững tác động nguy hiểm
đối với nền kinh tế mà t rái lại nó còn có tác dụng kích th ích sản xuất thúc đẩy
các hoạt động đầu tư.
b. Lạm phát phi mã
Lạm phát phi mã hay còn gọi là lạm phát bột phát là lạm phát xảy ra khi
giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số trong một năm. Loại lạm
phát này khi đã t rở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm
trọng.
c. Siêu lạm phát
Siêu lạm ph át xảy ra khi lạm phát đột b iến tăng lên với tốc độ cao vượt xa
lạm phát ph i mã. Chẳng hạn, như tại Việt Nam năm 1988 t ỉ lệ lạm ph át ở nước ta
là 308% đứng thứ 3 sau Brazil (934%) và Peru (1722%.). Trong tình trạng đó,
cuộc sống nói chung trở nên đắt đỏ hơn, thu nhập thực tế g iảm sút mạnh mẽ,
“thuế lạm phát”' là một sắc thuế vô h ình , thuế phi chính thức đánh vào những ai
đang cầm giữ tiền. Đặc biệt là tình trạng trật tự kinh tế bị rối loạn, không ai dám
tính toán đầu tư lâu dài, những hoạt động kinh tế ngắn hạn từng thương vụ, từng
đợt, từng chuyến diễn ra phổ biến.
2.2. Nguyên nhân của lạm phát
Như trên đã trình bày, lạm phát là một quá t rình giá tăng liên tục, t ức là
mức giá chung tăng lên hoặc là quá t rình đồng t iền liên tục giảm giá. Vậy
nguyên nhân nào gây ra lạm phát? Thực tế cho thấy, có rất nhiều nguyên nhân
gây ra lạm phát, bao gồm:
- Lạm phát là do sự mất cân đố i về cơ cấu kinh tế, mâu thuẫn về phân phối
gây ra tăng giá. Cơ chế lan truyền đã tạo căng thẳng thêm các mâu thuẫn đó và
dẫn đến lạm phát tăng lên . Lạm phát là tất yếu của nền kinh tế khi muốn tăng
trưởng cao, nhưng lại tồn tạ i nhiều khiếm khuyết, hạn chế và yếu kém. Lạm phát
do mất cân đối cơ cấu kinh tế xuất h iện khi có quan hệ không bình thường trong
các cân đối lớn của nền kinh tế như công nghiệp - nông nghiệp, công nghiệp
nặng - công nghiệp nhẹ, sản xuất - d ịch vụ, xuất khẩu - nhập khẩu, t ích luỹ - t iêu
dùng. Những thay đổi cơ bản trong cơ cấu kinh tế - xã hội do tăng trưởng kinh tế
thường dẫn đến giá tăng lên khi cơ cấu thị trường chưa được hoàn chỉnh, các
nguồn vật lực có giới hạn, các quan hệ không được đặt trong một sự cân đố i hợp
lý, năng lực sản xuất không được khai thác hết, trạng thá i vừa thừa vừa th iếu
xuất hiện.
- Lạm phát là do tăng cung tiền tệ. Giá tăng lên ít nhiều là do tăng cung
tiền tệ quá mức cầu của nền kinh tế. Với quan điểm này , lạm phát xuất hiện khi
có một khối lượng tiền bơm vào lưu thông lớn hơn khối lượng tiền cần thiết cho
lưu thông của th ị trường. Điều này, được biểu hiện ở chỗ đồng t iền nội địa mất
giá. Nguyên nhân khác dẫn đến lạm phát khi tăng lượng t iền vào nền kinh tế là
để bù đắp các thiếu hụt của ngân sách : Đây là nguyên nhân thông thường nhất do
sự thiếu hụt ngân sách chi t iêu của Nhà nước (y tế, g iáo dục, quốc phòng) và do
nhu cầu khuếch t rương nền kinh tế. Nhà nước của một quốc gia chủ trương phát
hành thêm tiền vào lưu thông để bù đắp cho các chi phí nói trên đang thiếu hụt.
- Lạm phát do cầu kéo hay là do sự mất cân đối g iữa tổng cung và tổng
cầu hàng hoá và dịch vụ. Khi tổng cầu hàng hoá và dịch vụ có khả năng thanh
toán lớn hơn tổng cung hàng hoá và dịch vụ, đã đẩy giá tăng lên để thiết lập một
sự cân bằng mới trên th ị trường, trong đó tổng cung bằng tổng cầu. Lạm phát
phụ thuộc v ào độ co dãn của giá cung hàng hoá và dịch vụ. Cung hàng hoá và
dịch vụ có thể tăng nhanh do tăng giá một chút nếu độ co dãn của giá là lớn. Một
mặt, nếu các cơ sở sản xuất đang ho ạt động thấp hơn công suất hiện có và còn
nhiều công suất sản xuất chưa được sử dụng , cung hàng hoá sẽ tăng nhờ tác động
tăng cầu hàng hóa và có thể không gây ra lạm phát. Bản chất của lạm phát cầu
kéo là chi t iêu quá nh iều tiền để mua một lượng cung hạn chế về hàng hóa có thể
sản xuất được trong điều kiện thị trường lao động đã đạt cân bằng.
- Lạm phát (ch i phí đẩy) xảy ra khi có tác động của các yếu tố bên ngoài
tác động vào không gắn với t ình hình tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế.
Như chúng ta đều biết, ở hầu hết các nước đang phát triển thường phải nhập một
lượng lớn nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất trong nước, nếu giá của những
loại nguyên vật liệu này trên th ị trường thế giới tăng lên làm cho chi phí sản xuất
các sản phẩm sẽ tăng lên và để tồn tại, buộc các nhà sản xuất phải đưa giá bán
trên thị t rường trong nước tăng lên theo. Bên cạnh đó, trong điều kiện cơ chế thị
trường, không có quố c gia nào lại có thể duy trì được t rong một thời gian dài với
công ăn việc làm đầy đủ cho mọi người, giá cả ổn định và có một th ị t rường
hoàn toàn tự do. Trong điều kiện hiện nay , xu hướng tăng giá cả các loại hàng
hoá luôn luôn diễn ra trước khi nền kinh tế đạt được một khối lượng công ăn
việc làm nhất định. Điều đó có nghĩa là chi phí sản xuất đã đẩy giá cả tăng lên
ngay cả trong các yếu tố sản xuất chưa được sử dụng đầy đủ, lạm phát xảy ra.
Chính những nguyên nhân trên đã gây ra lạm phát cao và là t iền đề tạo ra
mối quan hệ giữa lạm phát và bội chi ngân sách nhà nước:
II. Bội chi ngân sách Nhà nước
1. Khái niệm bội chi Ngân sách Nhà nước
Một nhà nước dù tồn tại trong bất kì giai đoạn nào của lịch sử đều luôn cố
gắng hoàn thành được sứ mạng lịch sử của nó. Nhà nước ta cũng như vậy, và để
hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao thì nhà nước cần có nh ững công cụ riêng
của mình. Một trong những công cụ đắc lực giúp Nhà nước đó ch ính là ngân
sách Nhà nước. Trong những năm qua thì vai trò của ngân sách Nhà nước đã
được thể h iện rõ trong việc giúp Nhà nước hình thành các quan hệ th ị trường góp
phần kiểm soát lạm phát, tỷ lệ lãi suất thích hợp để từ đó làm lành mạnh hoá nền
tài ch ính quốc gia, đảm bảo sự ổn định và phát t riển của nền kinh tế. Tuy nhiên
bên cạnh những mặt tích cực th ì việc sử dụng ngân sách Nhà nước chưa đúng
cách, đúng lúc, t ình t rạng bao cấp tràn lan, sự yếu kém trong việc quản lý thu chi
ngân sách đã đặt ra cho chúng ta cái nh ìn sâu hơn về t ình trạng thâm hụt ngân
sách Nhà nước, ảnh hưởng của bội chi ngân sách Nhà nước đến các hoạt động
kinh tế - xã hội là hết sức rộng lớn.
Vậy thế nào là bội chi ngân sách Nhà nước? nguyên nhân nào dẫn đến bội
chi? thực trạng và các biện pháp xử lí bộ i chi ngân sách Nhà nước ở nước ta h iện
nay như thế nào?... Tất cả những vấn đề nó i trên đã và đang đặt ra nhiều đòi hỏi
đối với các nhà nghiên cứu, các nh à hoạch định chính sách để có thể tìm ra
những nguyên nhân và các biện pháp xử lí tình hình bội chi ngân sách Nhà nước.
Trước khi đi vào khá i niệm bội chi ngân sách Nhà nước chúng ta tìm hiểu
khái niệm chi ngân sách nhà nước để hiểu được quy t rình vận hành của ngân
sách nhà nước nh ư thế nào? Chi ngân sách nhà nước là việc phân phối và sử
dụng quỹ ngân sách nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện chức năng của nhà nước
theo những nguyên tắc nhất đ ịnh. Chi ng ân sách nhà nước là quá trình phân phối
lại các nguồn tài chính đã được tập t rung vào ngân sách nhà n ước và đưa chúng
đến mục đích sử dụng. Do đó, Chi ngân sách nhà nước là những việc cụ thể
không chỉ dừng lại trên các định hướng mà phải phân bổ cho từng mục tiêu , từng
hoạt động và từng công việc thuộc chức năng của nhà nước.
Quá trình của chi ngân sách nhà nước:
1. Quá trình phân phối: là quá t rình cấp phát kinh phí từ ngân sách nhà
nước để hình thành các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng;
2. Quá trình sử dụng: là trực t iếp chi dùng khoản t iền cấp phát từ ngân sách
nhà nước mà không phải t rải qua việc hình thành các loại quỹ t rước khi
đưa vào sử dụng.
Bội chi ngân sách Nhà nước hay còn gọi là thâm hụt ngân sách Nhà nước
trong một thời kỳ (một năm, một chu kỳ kinh tế) là t ình trạng các khoản chi của
ngân sách Nhà nước (ngân sách chính phủ) lớn hơn các khoản thu của thời kỳ
đó, phần chênh lệch chính là thâm hụt ngân sách.
Để phản ánh mức độ thâm hụt ngân sách người ta thường sử dụng chỉ tiêu
tỉ lệ thâm hụt so với GDP hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà nước.
Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành hai loại: thâm
hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ.
Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những chính
sách tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã
hội hay quy mô chi tiêu cho giáo dục, quốc phòng,...
Thâm hụt chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ
kinh tế, ngh ĩa là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc
dân. Ví dụ khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu
ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi chi ngân sách cho cho trợ cấp thất
nghiệp tăng lên.
Giá t rị tính ra tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ được tính toán
như sau:
Ngân sách thực có: liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt tính bằng t iền
trong một giai đoạn nhất định (thường là một quý hoặc một năm).
Ngân sách cơ cấu: tính toán thu, chi và th âm hụt của chính phủ sẽ là bao
nhiêu nếu nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng.
Ngân sách chu kỳ: là chênh lệch giữa ngân sách thực có và ngân sách cơ
cấu.
Việc phân biệt g iữa ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ phản ánh sự
khác nhau giữa ch ính sách tài chính: chính sách ổn định tùy biến và ch ính sách
ổn định tự động.
Việc phân biệt hai loại thâm hụt t rên đây có tác dụng quan trọng trong
việc đánh giá ảnh hưởng thực sự của chính sách tà i ch ính khi thực hiện chính
sách tài chính mở rộng hay thắt chặt sẽ ảnh h ưởng đ ến thâm hụt ngân sách như
thế nào giúp cho chính phủ có những biện pháp điều chỉnh chính sách hợp lý
trong từng giai đoạn của chu kỳ kinh tế
2. Nguyên nhân bội chi ngân sách Nhà nước
Trong lịch sử phát triển nền tà i chính th ì bội chi ngân sách đã và đang trở
thành một h iện tượng khá phổ biến ở các nước đang phát triển và các nước chậm
phát triển, nếu như chúng ta không t ìm ra những nguyên nhân ch ính xác gây ra
hiện tượng trên th ì khó có thể có được những biện pháp hữu hiệu để kịp thời dự
báo và hạn chế tác động của nó tới nền kinh tế. Sau khi tổng hợp th ì có năm
nhóm nguyên nhân chính gây ra hiện tượng bội chi ngân sách Nhà nước.
2.1 Tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Nhà nước
Ngay từ khi ra đời thì Nhà nước đã mang trong mình những trọng trách
nhất định. Mỗi một Nhà nước có thể chế, đường lối, chính sách khác nhau nhằm
phục vụ cho những đối tượng khác nhau. Nhưng mục t iêu quan trọng của Nhà
nước là làm cho kinh tế của đất nước ngày càng phát t riển , nâng cao vị thế của
đất nước mình trên trường quốc tế. Để thực hiện được điều đó thì Nhà nước đã
đề ra hàng loạt những biện pháp, chính sách quan trọng. Đất nước tiến hành công
cuộc cải cách kinh tế từ một nước lạc hậu với một xuất phát điểm rất thấp, nền
kinh tế còn mang nặng t ính bao cấp, trì trệ, người dân chủ yếu sống bằng nghề
nông, thu nhập còn rất thấp. Bên cạnh đó cơ sở vật chất, trình độ khoa học kĩ
thuật, công nghệ của ta còn rất lạc hậu so với thế g iới. Chính vì lẽ đó mà Nhà
nước ta đã đề ra đường lố i đổi mới toàn diện trên tất cả các mặt của đời sống
kinh tế - xã hội. Việc bao cấp tràn lan, đầu tư dàn t rải không có hiệu quả, thêm
vào đó là năng lực quản lí quản lí ngân sách còn nhiều bất cập , chưa thực sự
minh bạch và khoa học là những nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng thu
không đủ chi, rất nhiều công t rình xây dựng xong không thể sử dụng được gây
lãng phí rất nh iều tiền của Nhà nước và nhân dân. Ngoài ra, khi Nhà nước thực
hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích t iêu dùng sẽ làm tăng mức bội chi
ngân sách Nhà nước. Mức bội chi do tác động của chính sách cơ cấu thu chi gây
ra được gọi là bội chi cơ cấu.
2.2 Tác động của chu kỳ kinh doanh:
Khi đất nước chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính t iền tệ làm cho
kinh tế b ị g iảm sút, t ình hình đầu tư t rong nước gặp khó khăn, sản xuất lâm vào
khùng hoảng, nhiều doanh nghiệp bị phá sản, tổng sản phẩm xã hội bị giảm sút,
nền kinh tế giảm sút ngh iêm trọng ... Trong tình hình đó, Nhà nước tháo gỡ bế tắc
bằng cách chủ động tăng chi, kích cầu hàng hóa, sử dụng nguồn ngân sách quốc
gia để chi cho đầu tư phát triển. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đảm bảo những
nhiệm vụ quan trọng của ch i thường xuyên như: chi cho sự ngh iệp giáo dục, y tế,
khoa học công nghệ, môi trường…đây là những khoản chi rất quan trong và cần
thiết đối với nền kinh tế, chúng chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng chi của ngân
sách Nhà nước vì vậy thâm hụt ngân sách Nhà nước là điều khó tránh khỏi. Mức
bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội chi chu kỳ.
3. Định hướng xử lý bội chi ngân sách Nhà nước
3.1 Phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách
Phát hành t iền để bù đắp bội chi ng ân sách có nhược điểm lớn là chứa
đựng nguy cơ lạm phát, tác động tiêu cực đến mọi mặt của đời sống chính t rị,
kinh tế, xã hội. Thực tế đã cho chúng ta những bài quý g iá về việc phát hành t iền
quá dễ dãi để bù đắp bội chi ngân sách gây ra lạm phát cao t rong thập niên 80.
Từ ngày 1/4/1990 chúng ta đã thành lập hệ thống kho bạc Nhà nước trực thuộc
bộ tài ch ính (người chịu trách nhiệm về bội chi ng ân sách Nhà nước) độc lập với
ngân hàng Nhà nước (người chịu trách nhiệm về việc phát hành tiền vào trong
lưu thông) được xem là một cuộc cách mạng cơ cấu nhằm tách chức năng quản lí
quỹ ngân sách Nhà nước ra khỏ i chức năng ph át hành tiền , tránh được t ình
trạng” mang t iền túi nọ bỏ vào túi kia”. Cơ chế đó đã góp phần tích cực trong
việc kiềm chế bội chi và lạm phát trong những năm qua. Thực tế thì t rong những
năm qua Nhà nước ta đã không phát hành tiền để trang trải thâm hụt ngân sách
nữa mà thay vào đó là v iệc phát hành t ín phiếu, t rái phiếu kho bạc Nhà nước và
vay nợ nước ngoài để bù đắp bội chi, những việc làm này cũng gốp phần tích cực
trong việc kiềm chế lạm phát.
Tuy nhiên t rong điều kiện nền kinh tế ở vào t rạng thái suy thoái, mức độ
lạm phát không cao, vật g iá không leo thang, thì khi đó việc phát hành tiền cần
phải được chủ động tiến hành nhằm mục tiêu trước mắt là có tiền để trang t rải
các chương trình đầu tư phát triển , có tiền để tăng lương theo đúng kế hoạch, bù
đắp bội chi ngân sách. Sau nữa việc phát hành tiền ở mức độ và thời điểm hợp lí
sẽ tạo ra mức lạm phát nhẹ, từ đó kích tiêu dùng, giảm gánh nặng về nghĩa vụ t rả
nợ của Nhà nước, thúc đẩy kinh tế phát t riển. Nhất là nếu chủ động một phần
(15-20% ) nguồn vốn phát hành cho đầu tư hạ tầng sẽ có tác dụng rất tốt đối với
nền kinh tế, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế đang bị suy giảm.
Như vậy th ì biện pháp phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách luôn có
hai mặt của nó, nếu như ta biết áp dụng khéo léo, linh hoạt sao cho thật s ự phù
hợp trong từng tình huống cụ thể của nền kinh tế thì sẽ làm giảm bớt nh ững ảnh
hưởng của bội ch i ngân sách, kích thích nền kinh tế phát triển nhanh hơn nữa.
Nhưng ngược lại nếu nh ư chúng ta quá lạm dụng vào biện pháp này để bù đắp
thâm hụt ngân sách thì sẽ gây ra những hậu quả khôn lường đến sự ổn đ ịnh và
phát triển của nền kinh tế cũng như làm nguy hại đến những giá trị mà chúng ta
đã đạt được trong những năm qua.
3.2 Vay để bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước
Vay để bù đắp th âm hụt ngân sách bao gồm có vay t rong nước và vay
nước ngoài. Để vay đ ược tiền thì Chính phủ phải đa dạng hoá các hình thức vay
(tín phiếu, trái phiếu, công trái..), đồng thời phải thực hiện nhiều biện pháp để
tăng mức độ hấp dẫn người cho vay như tăng lãi suất, mở rộng ưu đãi về thuế
thu nhập… Tuy nhiên tổng lượng tiền mà nhân dân có thể có để cho Chính phủ
vay bị g iới hạn t rong tổng lượng tiền t iết kiệm của xã hội. Nếu Chính phủ huy
động được nhiều thì đương nhiên phần tiền còn lại giành cho đầu tư phát triển
sản xuất kinh doanh ở ngoài khu vực quốc doanh sẽ b ị g iảm đi. Nếu các b iện
pháp thu hút t iền vay của Chính phủ và các ngân hàng càng có lãi suất hấp dẫn
thì càng tạo ra luồng tiền vốn dịch chuyển từ các khu vực doanh nghiệp và dân
cư sang hệ thống tài chính ngân hàng mà không chảy vào sản xuất kinh doanh.
Do đó vay trong nước để bù đắp thâm hụt ngân sách luôn chứa đựng nguy cơ
kìm hãm hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Mục tiêu chấn hưng nền
kinh tế của Chính phủ thông qua con đường phát hành t rái phiếu, tín phiếu bị
chính giải pháp nay cản trở. Nhưng cũng phải nên thấy một đ iều rằng vay trong
nước lại dễ triển kha i tránh bị ảnh hưởng hoặc o ép từ bên ngoài, do đó khi đi
vay và sử dụng vốn vay là một điều khó t ránh khỏi cần phả i có những biện pháp
khắc phục.
Đối với vay nước ngoài th ì lại phụ thuộc vào đối tác cho vay thường được
thực hiện dưới các h ình thức kể cả ODA và vay t rên thị trường tài chính quốc tế.
Dù vay dưới h ình th ức nào đi chăng nữa thì việc đ i vay nước ngoài luôn phải
chịu những ràng buộc, áp đặt bằng điều kiện từ nước cho vay. Hiện tại nước ta
chủ yếu đang vay nước ngoài để bù đắp bội chi bằng các nguồn vay ưu đãi, lãi
suất thấp, thời gian dài. Gắn vào đó là phải tuân thủ các điều kiện ràng buộc của
người cho vay. Ví dụ: quỹ Miyazawa của Nhật quy đ ịnh t rong tổng số vốn được
cho vay tài t rợ th ì phải có ít nhất 50% được dùng để mua hàng hoá của Nhật
hoặc của các công ty Nhật Bản đóng tại nước sở tại. Ngoài ra còn kèm theo các
điều kiện thủ tục không thành văn khác như phải qua ngân hàng trung gian xuất
nhập khẩu Nhật Bản.Vay nước ngoài tuy còn phụ thuộc vào rất nhiều vào uy t ín
và khả năng t rả nợ của nền kinh tế nhưng không xâm hại đến nguồn vốn trong
nước giành cho đầu tư, lại thường có khối lượng đáng kể, có nh iều cơ hội đổi
mới công nghệ kỹ thuật và quản lý, có thời hạn đủ dài để vốn vay phát huy hiệu
quả. Do đó cũng cần quan tâm đúng mức đến biện pháp vay nước ngoài để bù
đắp bội chi.
Thêm vào đó càng tăng cường đi vay Chính phủ càng chất thêm gánh
nặng nợ và càng làm giảm quyền lực tài chính của mình. Thật vậy ngh ĩa vụ nợ
đến hạn bắt buộc phải t rả hàng năm đương nhiên được trích từ ngân sách Nhà
nước do đó mà khi đến hạn trả nợ th ì vô hình chung các khoản ch i trả của Chính
phủ tăng lên một cách trông thấy. Như vậy một chính phủ đi vay quá nhiều cả ở
trong và ngoài nước sẽ gây ra nhiều biến động bất lợi của nền kinh tế, làm giảm
uy t ín cũng như khả năng tự chủ về tài chính của Nhà nước đó . Do vậy chúng ta
cần phải cân đối, tính toán cho thật chính xác thời điểm đi vay, vay ở đâu, và vay
của những đối tượng nào là tốt nhất, đem lại hiệu quả cao nhất.
3.3 Bù đắp sự thiếu hụt ngân sách bằng biện pháp tăng thuế
Tăng thuế bằng biện pháp trực tiếp tăng thuế suất là g iải pháp khó triển
khai và tốn kém. Mặc dù Nhà nước hoàn toàn có quy ền tăng thuế hoặc ban hành
thêm thuế mới để tạo nguồn bù đắp bội chi ngân sách. Tuy nhiên cần tính đến tác
động nhiều chiều của giải pháp này.
Theo La-phe nhà kinh tế học người Mỹ, hồi thập niên 70 đã đồ thị hoá 2
tác động trái ngược nhau của việc tăng thuế tuỳ theo mức thuế suất áp dụng. Khi
còn ở trong vùng có thể chịu đựng đ ược th ì tăng sẽ thuế suất sẽ làm tăng nguồn
thu cho ngân sách Nhà nước, đồng thời còn kích th ích các đối tượng nộp thuế
phát t riển kinh doanh, mở mang các hoạt động kinh tế, tăng khả năng s inh lời có
một phần nộp cho ngân sách Nhà nước còn một phần làm thặng dư cho mình.
Trong trường hợp này tăng thuế có tác dụng kích th ích sự phát triển kinh tế,
nhưng khi vượt quá giới hạn chịu đựng của nền kinh tế th ì khi tăng thuế lại làm
giảm nguồn thu từ ngân sách, mặt khác nó còn thúc đẩy tình trạng trốn lậu thuế,
kìm hãm hoặc không kích thích được nền kinh tế phát triển.
Trên thực tế, tăng thuế là giải pháp không mấy dễ áp dụng và tốn kém.
Tăng thuế có khả th i hay không còn phụ thuộc vào sức chịu đựng cuả nền kinh
tế, sự h iệu quả của hệ thống thu, phụ thuộc vào hiếu suất của từng sắc thuế.
Trong thời kì nền kinh tế suy thoái, hoạt động kinh tế mờ nhạt th ì việc tăng thuế
không những không khả thi mà còn làm cản trở của hoạt động sản xuất kinh
doanh, tăng số lượng nợ đọng thuế của các doanh nghiệp, đẩy các doanh nghiệp
lâm vào tình trạng tài chính không lành mạnh và làm giảm nguồn thu ngân sách.
Nếu tăng thuế chỉ nhằm vào các giải pháp tăng thuế suất và ban hành thêm
các sắc thuế mới, nhất là tăng thuế t rực thu thì về mặt lý thuyết là có thể tăng thu
ngay nhưng trên thực tế rất khó đ ược áp dụng đúng đắn và khó có thể đạt được
ngay kết quả. Hơn nữa nếu thuế suất quá cao còn dẫn đến t ình trạng trốn lậu
thuế, tác động xấu đến môi trường kinh tế.
Tình hình thực t iễn ở nước ta cho thấy muốn tăng thu từ thuế cho ngân
sách Nhà nước, cần triển khai mạnh mẽ các g iải pháp nhằm làm hợp lí hoá và
nâng cao hiệu quả của hệ thống thuế, mở rộng diện thu thuế sẽ phù hợp với th ực
tế và có tính khả thi cao h ơn các giải pháp nhằm vào tăng thuế hoặc ban hành
thêm các sắc thuế mới. Những giải pháp nâng cao hiệu quả của hệ thống thuế
bao gồm cải cách hành chính thuế (bộ máy , quy trình, phương thức tổ chức thu
thuế và hoàn thiện các sắc thuế).
3.4 Cắt giảm chi tiêu nhằm làm giảm thâm hụt ngân sách Nhà nước
Cắt g iảm chi tiêu với hi vọng làm giảm tổng chi nhằm giảm bội chi ngân
sách là biện pháp “t iêu cực” xét dưới góc độ kinh tế học bởi vì Chính phủ sẽ cắt
giảm chi tiêu thường xuyên (chi lương, chi mua sắm trang thiết bị) thậm chí sẽ
trì hoãn hoặc cắt giảm chi đầu tư phát t riển, như vậy sẽ thu hẹp khả năng t iêu thụ
sản phẩm và dịch vụ củ a khu vực sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ không
tiêu thụ th ì sản phẩm sẽ tồn đọng , kinh tế sẽ gặp khó khăn, sản xuất đ ình đốn.
Trong thực tế cần xuất phát từ bối cảnh kinh tế - xã hội từng năm, căn cứ mục
tiêu các kế hoạch tài chính ngắn hạn , t rung hạn, dài hạn…cũng như căn cứ t ình
hình tài chính, tiền tệ, t ình hình nợ nước ngoài…để xác định các giải pháp khai
thác nguồn tài chính bù đắp bội chi th ích hợp. Ngoài ra Nhà nước cần tích cực
triển khai các chương t rình cải thiện cơ sở hạ tầng, hoàn th iện mạng lưới g iao
thông, kích thích t iêu dùng nhằm tăng cường khả năng phát triển của nền kinh tế.
Tuy nhiên cần tách bạch phạm trù kích cầu với phạm trù kích cầu với phạm trù
tiết kiệm chống lãng phí. Trong điều kiện tiềm lực ngân sách Nhà nước có hạn,
thì kích cầu không để xảy ra tình trạng vung t iền bừa bãi, bỏ qua các quy định,
quy phạm tài chính về thực hành tiết kiệm chống lãng phí, t iến hành đầu tư có
trọng điểm, cải thiện thực chất chế độ t iện lương theo hướng tăng thu nhập cho
người hưởng lương nhưng không tăng biên chế để làm tăng tổng quỹ lương.
Tóm lại mỗi g iải pháp đều có ưu nhược điểm nhất đ ịnh, cần tuỳ thuộc và
điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nền kinh tế đất nước để lựa chọn những giải pháp
thích hợp. Tuy nhiên nhìn một cách toàn diện thì thực hiện tốt công tác quản lí
và điều hành ngân sách Nhà nước vẫn là biện pháp tốt nhất cho các quốc gia để
hạn chế, khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách Nhà nước.
III. Mối quan hệ giữa lạm phát và bội chi ngân sách Nhà nước Trang
1. Bội chi ngân sách Nhà nước với lạm phát (Phân tích mối quan hệ này qua
tình hình thực tiễn nước ta từ trước đổi mới đến nay)
Giai đoạn trước năm 1986, tình hình tài chính nước ta trong tình trạng yếu
kém, thu không đủ chi thường xuyên, thâm hụt ngân sách Nhà nước cao quá
mức, chi t iêu Chính phủ chủ yếu nhờ vào sự viện trợ của nước ngoài là chính.
Đến giai đoạn từ năm 1986-1990, trước tình hình khó khăn về kinh tế và chính
trị, Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu đã cắt giảm dần viện trợ của họ cho
nước ta. Trước t ình hình khó khăn đó, Đảng ta tiến hành đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế
thị trường có định hướng XHCN. Với những bước đi chập chững ban đầu, chính
sách tài chính đã có đổi mới một bước. Tuy nhiên, thu ngân sách Nhà nước càng
không đủ chi và bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước không chỉ phải vay trong
và ngoài nước mà còn phải lấy từ nguồn tiền phát hành.
Chính yếu kém về ngân sách Nhà nước nêu t rên, là một yếu tố quan trọng
gây nên lạm phát trong thập kỉ 80 của thế kỉ XX. Chi ngân sách Nhà nước đã
tăng cao tới mức bùng nổ ở trong những năm 1985-1988, đã gây ra thâm hụt
ngân sách Nhà nước trầm trọng vì không có sự tăng lên tương ứng về số thu.
Giai đoạn từ năm 1986 - 1990, khi mà tỷ lệ tích luỹ nội bộ nền kinh tế rất thấp
(có thể nói là không đáng kể), làm không đủ ăn th ì tỷ lệ chi đầu tư phát triển như
ở đồ thị 1 là quá lớn và nguồn bù đắp cho thâm hụt ngân sách Nhà nước lại chủ
yếu do tiền phát hành thì lạm phát cao là điều khó tránh khỏi.
0500
1000
1500
2000
2500
1986 1987 1988 1989 1990
TiÒn ph¸t hµnh ®Ò bï ®¸p béi chi NSNN
Th©m hôt NSNN
Đồ thị 1: Tổng bội chi ngân sách Nhà nước và việc phát hành tiền để bù đắp bội
chi ngân sách Nhà nước (1985 - 1990) - Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Trong thời gian 5 năm 1986 - 1990, 59,7% mức thâm hụt này được hệ
thống Ngân hàng thanh toán bằng cách phát hành tiền. Năm 1984, phát hành t iền
để bù đắp thâm hụt ngân sách là 0,4 tỷ đồng, năm 1985: 9,3 tỷ đồng, năm 1986:
22,9 tỷ đồng, năm 1987: 89,1 tỷ đồng, năm 1988: 450 tỷ đồng, năm 1989: 1655
tỷ đồng và năm 1990 là 1200 tỷ đồng. Số còn lại được bù đắp bằng các khoản
vay nợ và viện trợ của nước ngoài (so với bộ i chi, khoản vay và v iện trợ năm
1984 là 71,3%, năm 1985 là 40,8%, năm 1986: 38,4%, năm 1987: 32,1%, năm
1988: 32,6%, năm 1989: 24,9%, năm 1990 là 46,7%) và một số nhỏ do các
khoản thu từ bán công trái trong nước.
Mặc dù có nhiều cố gắng đáng kể trong năm 1989, nhưng t ình trạng th iếu
hụt ngân sách Nhà nước vẫn t rầm trọng . Tổng chi đã tăng gấp đôi so với năm
1988, một phần do lạm phát chuyển từ năm 1988 sang và đã làm tăng giá đáng
kể một số mặt hàng và dịch vụ thiết yếu do Nhà nước cung cấp . Tất cả những
phân tích ở trên cho thấy, có nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát cao trong giai
đoạn từ năm 1986-1990, trong đó có việc bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước
bằng sự phát hành tiền như ở đồ thị 1.
Bước vào giai đo ạn từ năm 1991-1995, t ình hình đất nước đã có nhiều
chuyển biến tích cực, sản xuất và lưu thông hàng hoá đ ã có động lực mới, t ình
trạng th iếu lương thực đã được giải quyết căn bản, lạm phát siêu mã đã được đẩy
lù i, nhưng lạm phát cao vẫn còn. Cơ cấu chi ngân sách Nhà nước đã dần dần
thay đổi theo hướng t ích cực. Nguồn thu t rong nước đã đủ cho chi thường xuyên,
tình t rạng đi vay hoặc dựa vào phát hành cho chi thường xuyên đã chấm d ứt.
Trong giai đoạn này, chi đúng đối tượng , có hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế
- xã hội được đặt ra. Nhờ những giải pháp t rên, số thâm hụt ngân sách Nhà nước
đã g iảm dần qua từng năm và được bù đắp bằng vay của dân và vay nước ngoài.
Trong giai đoạn từ năm 1991-1995, tỷ lệ bội ch i ngân sách Nhà nước so với
GDP chỉ ở mức 1,4% đến 4,17% (1991: 1,4%, 1992:1,5%, 1993: 3,9%, 1994:
2,2% và năm 1995 là 4,17%). Như vậy, có thể thấy bội chi ngân sách Nhà nước
trong những năm 1991-1995 là rất thấp, thể hiện chính sách thắt chặt chi t iêu của
Chính phủ trong thời kỳ này và đây cũng là yếu tố rất quan trọng góp phần kiềm
chế lạm phát.
Giai đoạn từ năm 1996-2000, t ình hình thu chi ng ân sách Nhà nước đã có
nhiều chuyển biến t ích cực, thu không những đủ chi thường xuyên mà còn cho
đầu tư phát triển, thâm hụt ngân sách Nhà nước được khống chế ở mức thấp . Tuy
nhiên , giai đoạn từ năm 1996-2000, do tác động của khủng hoảng tài chính ở các
nước Đông Nam Á nên nền kinh tế có gặp không ít khó khăn. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế giảm dần từ năm 1996 đến năm 1999 và đến năm 2000, tốc độ
này mới tăng lên chút ít, chặn đứng đà giảm sút. Trong những năm này, tỷ lệ bội
chi ngân sách Nhà nước ở mức từ 3,0% GDP năm 1996 lên 4,95% GDP năm
2000 (năm 1996: 3%, năm 1997: 4,05%, n ăm 1998: 2,49%, năm 1999: 4,37%,
năm 2000: 4,95%). Tỷ lệ bội chi bình quân 5 năm là 3,87% GDP, cao hơn mức
bình quân năm 1991-1995 (2,63%). Năm 2000 có mức bội chi cao nhất là 4,95%
GDP và năm 1998 có mức bội chi thấp nhất là 2,49%. Đây là thời kỳ suy thoái
và th iểu phát, nên mức bội chi ngân sách Nhà nước như trên không tác động gây
ra lạm phát mà có tác động làm cho nền kinh tế chuyển sang giai đoạn đi lên.
Giai đoạn từ năm 2001-2007, ngân sách Nhà nước cũng đã có chuyển biến
đáng kể. Tốc độ tăng thu hằng năm bình quân là 18,8%. Tốc độ tăng chi b ình
quân hằng năm đạt 18,5%. Bội chi ngân sách Nhà nước t rong giai đoạn này về
cơ bản đuợc cân đối ở mức 5% GDP và thực hiện ở mức 4,9%-5% GDP. Nếu
chỉ xét ở tỷ lệ so với GDP, cũng thấy bội chi ngân sách Nhà nước t rong 7 năm
trở lạ i đây tăng cao hơn các năm trước đó khá nhiều (bình quân khoảng 4,95%
GDP) vì giai đoạn năm 1991-1995, mức bội chi ngân sách Nhà nước so với GDP
chỉ ở mức 2,63% và giai đoạn từ năm 1996-2000 ở mức 3,87% so với GDP.
0
1
2
3
4
5
6
19
91
19
92
19
93
19
94
19
95
19
96
19
97
19
98
19
99
20
00
20
01
20
02
20
03
20
04
20
05
20
06
20
07
Béi chi NSNN/GDP
Đồ thị 2: Bội chi ngân sách Nhà nước so với GDP - Nguồn: Bộ Tài chính
Nếu chỉ xem xét bội chi ngân sách Nhà nước so với GDP th ì chưa thấy hết
sự tăng lên của nó trong những năm gần đây, đặc biệt nh ững năm gần đây, ngoài
ngân sách Nhà nước được cân đối, đã có một lượng vốn lớn được đưa ra đầu tư
các công t rình giao thông và thuỷ lợi thông qua hình thức phát hành t rái phiếu
Chính phủ không cân đố i vào ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, phải kể đến lượng
công trái giáo dục được phát hành để thu hút t iền cho đầu tư kiên cố hoá t rường
lớp học cũng là một lượng tiền lớn cân đối ngoài ngân sách Nhà nước. Nếu cộng
cả ha i loại trên vào cân đối ngân sách Nhà nước, bội chi ngân sách Nhà nước
trong những năm qua không phả i chỉ 5% GDP mà cao hơn (khoảng 5,8-6,2%
GDP).
05
10
15
20
25
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tèc ®é t¨ng béi chi NSNN Tèc ®é t¨ng GDP CPI
Đồ thị 3: Bội chi ngân sách Nhà nước so với GDP - Nguồn: Bộ tài chính,
Tổng cục Thống kê và tính toán của PGS.TS Lê Quốc Lý
Thực tế, từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng bội ch i ngân sách Nhà nước là
khá cao, ở mức 17-18%/ năm. Tốc độ này nếu trừ đ i yếu tố tăng trưởng thì còn
cao hơn tỷ lệ lạm phát hằng năm (năm 2001: 0,2%; năm 2002: 1,6%; năm 2003:
9,7%; năm 2004: 8,1%; năm 2005: 9,0%; năm 2006: 11,1%; năm 2007: 7,8%).
Trong những năm gần đây, mặc dù chúng ta đã kiểm soát bội chi ngân
sách Nhà nước từ hai nguồn là vay nước ngoài và vay trong nước nên sức ép
tăng tiền cung ứng thêm ra th ị t rường là không có, nhưng sức ép tăng chi t iêu
của Chính phủ cho tiêu dùng thường xuyên và cho đầu tư là tăng lên.
0
10
20
30
40
50
60
70
19
96
19
97
19
98
19
99
20
00
20
01
20
02
20
03
20
04
20
05
20
06
20
07
20
08
Béi chi NSNN
Đồ thị 4: Bội chi ngân sách Nhà nước từ 1996 -2008 - Nguồn: Bộ Tài chính
Có thể thấy, chính sách tài khoá trong những năm qua có phần nới lỏng
như những năm chúng ta đang phải kích cầu đầu tư. Nếu so sánh tổng chi ngân
sách Nhà nước so với GDP trong những năm qua cho thấy, ng ân sách Nhà nước
đã chi một khối lượng lớn tiền tệ không chỉ ở số tuyệt đối mà cả ở số tương đối.
Như t rên đã ph ân tích, bội chi ngân sách Nhà nước tăng cao thể h iện chính
sách tài khoá lỏng lẻo, nói lên sự chi t iêu của Chính phủ cho đầu tư và thường
xuyên vượt quá mức có thể của nền kinh tế. Nếu nh ư bù đắp bội ch i ngân sách
Nhà nước bằng phát hành thêm t iền thì trực tiếp tác động gây ra lạm phát, vì đã
làm tăng cung tiền tệ nh iều hơn cầu tiền tệ trên thị t rường như giai đoạn từ năm
1986-1990. Tuy nhiên, việc bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước bằng nguồn
huy động từ bên ngoài và từ t rong nước về cơ bản, cũng tăng cung tiền vào thị
trường trong n ước. Điều này, có thể giải th ích là do phần huy động từ vay nước
ngoài đã làm tăng cung lượng tiền vào thị trường trong nước, vì số tiền vay nước
ngoài về để bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước phải đổi ra Việt Nam đồng để
chi t iêu trên cơ sở bán cho ngân hàng Nhà nước là ch ính, mà ngân hàng Nhà
nước lại phát hành tiền ra để mua ngoại tệ là cơ bản. Đây chính là phần làm cho
lạm phát tăng lên nếu lượng vay từ bên ngoài vào bù đắp thâm hụt ngân sách
Nhà nước quá lớn. Thực tế trong những năm qua, lượng vay tiền từ bên ngoài
vào bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước chiếm khoảng 1/3 số thâm hụt, tức là
khoảng 1,5%-1,7% so với GDP. Nếu cộng thêm cả phần vay về cho vay lại,
lượng t iền từ bên ngoài vào nền kinh tế nước ta qua bù đắp thâm hụt ngân sách
Nhà nước khoảng 2%-2,5% GDP. Đây ch ính là một nguyên nhân gây ra lạm
phát cao của nước ta trong năm 2007 và các tháng đ ầu năm 2008. Qua đồ thị 5
cho thấy, chi ngân sách Nhà nước đã tăng từ 27% GDP năm 2001 lên 40,4%
năm 2007 là một con số khá lớn trong chi tiêu của Chính phủ.
05
10
15
20
25
30
35
40
45
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Töí ng chi NSNN (bao göì m TPCP, SXKT, CTGD)
Chi àêì u tû/GDP
Chi thûúâng xuy ï n/GDP
Đồ thị 5: Chi ngân sách Nhà nước so với GDP từ 2001 – 2007 - Nguồn: Bộ Tài chính
Còn phần bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước từ nguồn vay t rong dân về
cơ bản, chỉ thu t iền từ t rong lưu thông vào ngân sách Nhà nước và sau đó, lại
chuyển ra lưu thông nên không làm tăng lượng tiền cơ bản t rên thị trường mà chỉ
làm cho vòng quay t iền tệ có thể tăng nhanh hơn, tạo ra hệ số nở tiền cao hơn
mức cần thiết. Điều này , cũng tạo ra tăng cung t iền tệ do vòng quay tiền tệ lớn,
có tạo ra tác động một phần gây ra lạm phát , nhưng không lớn bằng trực t iếp
phát hành tiền ra và vay vốn từ bên ngoài để bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà
nước
Nhìn lại quá trình những năm trước đây có thể thấy, chúng ta đã thực hiện
một chính sách tài khoá lỏng lẻo thể hiện tỷ lệ bội chi ngân sách Nhà nước bằng
khoảng 5% GDP hằng năm, cộng với đó là phát hành t rái phiếu, công trái g iáo
dục cho đầu tư. Hơn nữa, chúng ta cũng đã có lúc phát hành t iền ra để kích cầu
đầu tư, đầu tư cho một số công trình lớn, phát hành tiền cho một số công việc…
mà chưa thống kê hết. Đây chính là sự tích tụ tiền tệ các năm trước đó góp một
phần làm cho lượng tiền tệ trong lưu thông tăng cao, thể h iện ở tốc độ tăng hệ số
tạo tiền của nền kinh tế nước ta tăng trên 10% hằng năm v à tăng 79,2% năm
2007 so với năm 2001, t rong khi cũng chỉ t iêu này các nước chỉ tăng 1-3%/năm
và tăng 10%-15% năm 2007 so với năm 2001.
Tóm lại:
- Bội chi ng ân sách Nhà nước có mối quan hệ nhân quả với lạm phát . Nếu
thâm hụt ngân sách Nhà nước quá mức có thể dẫn đến lạm phát cao. Đặc biệt,
nếu bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước bằng việc phát hành tiền sẽ tất yếu dẫn
đến lạm phát. Trong thời gian, 1986- 1990 mức thâm hụt ng ân sách Nhà nước đã
là 59,7 % được hệ thống ngân hàng thanh toán bằng cách phát hành tiền th ì lạm
phát cao là điều khó tránh khỏi.
- Bội chi ngân sách Nhà nước là một t rong những yếu tố quan trọng dẫn
đến lạm phát. Tăng chi ngân sách Nhà nước để kích th ích tiêu dùng và tăng cầu
tiêu dùng, sẽ kích thích đầu tư phát triển và tăng đầu tư phát t riển sẽ đưa đến
tăng trưởng cao. Tuy nhiên , nếu tăng chi quá mức cho phép, tức là tăng chi đến
mức làm cho thâm hụt ngân sách Nhà nước quá cao và để bù đắp thâm hụt này
phải đi vay nợ quá lớn th ì sẽ đưa đến gánh nặng nợ. Kết quả là đưa đến kích
thích tiêu dùng (kích cầu quá mức) th ì ở chu kỳ sau sẽ kéo theo lạm phát , mà lạm
phát cao lại làm giảm đầu tư phát t riển và giảm đầu tư phát triển kéo theo giảm
tăng trưởng.
2. Một số giải pháp kiểm soát bội chi ngân sách Nhà nước và kiềm chế lạm
phát trong thời gian tới.
Xử lý bội chi ngân sách nhà nước là một vấn đề nhạy cảm, bởi nó không
chỉ tác động t rước mắt tới nền kinh tế mà còn tác động đến sự phát triển bền
vững của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang có những biến
động lớn nh ư: giá dầu tăng cao , khủng hoảng tài chính tại nhiều quốc gia t rên thế
giới, tình trạng lạm phát d iễn ra nhiều nước t rên thế giới, vấn đề kiềm chế lạm
phát đặt ra vô cùng cấp bách. Vậy xử lý bội chi ngân sách như thế nào để ổn
định vĩ mô, thực hiện hiệu quả các mục tiêu chiến lược về phát triển kinh tế - xã
hội, tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát hiện nay đang làm đau đầu các nhà
chính trị gia.
Như trên đã phân t ích, có nhiều cách để chính phủ bù đắp bội chi ngân
sách nhà nước, nh ưng phải sử dụng cách nào, nguồn nào th ì còn phụ thuộc nhiều
vào điều kiện kinh tế, chính sách kinh tế tài chính trong từng thời kỳ của mỗi
quốc gia, bởi mỗi giải pháp bù bắp đều có những ưu nhược điểm làm ảnh hưởng
đến cân đối kinh tế vĩ mô. Và hậu quả của bội chi ngân sách nhà nước là ảnh
hưởng nghiêm trọng tới kinh tế xã hội của đất nước dù mức nào đi chăng nữa. Vì
vậy, chính phủ Việt Nam cần phải t ính toán kỹ lưỡng để đưa ra các giải pháp bù
đắp phù hợp với thực t rạng hiện nay, khi nền kinh tế của Việt Nam đang hoạt
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nền tài chính quốc gia
cũng được đổi mới .
Như trên đã phân t ích nguyên nhân của lạm phát cao về cơ bản đã rõ,
trong đó có một phần quan trọng của chính sách tài khoá lỏng lẻo t rong những
năm qua, thể hiện ở bội chi ngân sách Nhà nước tăng liên tục qua các năm.
Kiểm soát bội chi ngân sách Nhà nước và triệt để thực hiện chính sách có
thu mới chi, không để bội chi ngân sách Nhà nước tăng cao, nếu cần thiết nên
giảm tỷ lệ bội chi ngân sách Nhà nước so với GDP dưới mức 5%, tức là nên ở
khoảng 3-4%. Đồng thời, tiến tới t ính toán cân đối các nguồn phát hành t rái
phiếu , công trái giáo dục một cách hiệu quả hơn, nếu chưa thật cần thiết hoặc
chưa đủ thủ tục thì nên cắt giảm.
Vấn đề đặt ra hiện nay là rà soát cắt g iảm ch i t iêu ngân sách Nhà nước
chưa thật cấp thiết và kém hiệu quả như đề ra các t iêu chí, tiêu chuẩn để cắt bỏ,
đình hoãn những công trình đầu tư chưa thật bức bách, kém hiệu quả hoặc chưa
khởi công. Đây là một trong những nh iệm vụ cực kỳ khó khăn, nhưng với số
ngân sách Nhà nước hiện có th ì với t ình hình trượt giá như hiện nay sẽ không thể
có điều kiện thực hiện được hết các dự án, công trình đã bố trí. Do vậy, cần có sự
rà soát để chuyển vốn từ các công trình chưa khởi công, khởi công chậm, hoặc
thủ tục không đầy đủ sang cho các công t rình chuyển t iếp, công trình cấp bách,
công trình có hiệu quả kinh t ế cao. Việc làm này, đỏi hỏi phải có sự đồng tâm
nhất trí và quyết tâm cao của tất cả các Bộ, ngành và địa phương trong việc th ực
hiện chính sách của Nhà nước.
Về chi tiêu thường xuyên, cũng nên rà soát lại tất cả các khâu hoạt động
để tổ chức lại bộ máy cho hợp lý hơn, đồng thời cắt g iảm các khoản chi chưa
thật cần th iết để tập trung nguồn lực cho các công tác khác quan trọng và cấp
thiết hơn.
Như vậy, thực tế ở đây là cần có liều lượng của chi tiêu ngân sách Nhà
nước ở mức cho phép nhằm đẩy đầu tư phát triển tăng lên và t iếp theo là đưa
tăng trưởng kinh tế lên cao mà không kéo theo lạm phát cao.
KẾT LUẬN
Thực tế cho thấy, bội ch i ngân sách nhà nước không có nguồn bù đắp hợp
lý sẽ dẫn đến lạm phát, gây tác hại xấu tới nền kinh tế cũng như đời sống xã hội.
Nếu bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng cách phát hành thêm t iền sẽ
bù đắp ngân sách nhà nước một cách nhanh chóng, không phải trả lãi, không
phải gánh thêm các gánh nặng nợ nần, nhưng việc in thêm và phát hành thêm
tiền sẽ khiến cho cung tiền vượt cầu tiền, nó đẩy cho việc lạm phát trở nên không
thể kiểm soát nổi. Hay như giải quyết bội chi ngân sách bằng cách vay nợ trong
nước, g iải pháp này có thể giảm bội chi ngân sách mà không cần phả i tăng cơ sở
tiền tệ hoặc giảm dự trữ quốc tế. Vì vậy, biện pháp này được coi là một cách
hiệu quả để kiềm ch ế lạm phát. Tuy nhiên, v iệc khắc phục bội ch i ngân sách
bằng vay nợ tuy không gây ra lạm phát trước mắt nhưng nó lại có thể làm tăng
áp lực lạm phát trong tương lai nếu như tỷ lệ nợ trong GDP liên tục t ăng. Thứ
nữa, việc vay t rực tiếp từ dân sẽ làm giảm khả năng khu vực tư nhân trong việc
tiếp cận tín dụng và gây sức ép làm tăng lãi suất t rong nước
Đặc biệt, ở những nước trải qua g iai đoạn lạm phát cao (như nước ta h iện nay),
giá trị thực của trái phiếu chính phủ giảm nhanh chóng, làm cho chúng trở nên ít
hấp dẫn. Ch ính phủ có thể sử dụng quyền lực của mình để buộc các chủ thể khác
trong nền kinh tế phả i giữ trái phiếu. Tuy nhiên, nếu việc làm này kéo dài sẽ gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy t ín của chính phủ và khiến cho việc huy động
vốn thông qua kênh này sẽ trở nên khó khăn hơn vào các năm sau. Còn đối với
vay nợ nước ngoài thì nó là một biện pháp giảm bội chi ngân sách hữu hiệu . Đây
cũng là một nguồn vốn quan t rọng bổ sung cho nguồn vốn thiếu hụt trong nước,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác, nó sẽ khiến gánh nặng
nợ nần, nghĩa vụ trả nợ tăng lên, giảm khả năng chi t iêu cho chính phủ. Đồng
thời, nó cũng dễ khiến cho nền kinh tế trở nên bị phụ thuộc vào nước ngoài.
Thậm ch í, nhiều khoản vay, khoản viện trợ còn đòi hỏi kèm theo đó là nhiều các
điều khoản về chính trị, quân sự, kinh tế khiến cho các nước đi vay bị phụ thuộc
nhiều.
Như vậy, để kiềm chế lạm phát và có ch ính sách thu chi hợp lý, không tạo
ra bội chi ngân sách Nhà nước hoặc mức bội chi không quá lớn, có thể chấp
nhận được t rong khuôn khổ của một nền kinh tế thì mỗi quốc gia phải có chính
sách hợp lý, tùy vào tình hình cụ thể của đất nước mà điều chỉnh cho phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Giao, 2008, Xử lý bội chi ngân sách Nhà nước nhằm k iềm chế lạm
phát hiện nay, Nghiên cứu – Trao đổi, số 18 năm 2008.
2. Lê Quốc Lý, 2008, Bội chi ngân sách Nhà nước trong mối quan hệ với lạm
phát ở Việt Nam, Nghiên cứu – Trao đổi, số 10 năm 2008.
3. Sử Đình Thành và Vũ Thị Minh Hằng (chủ biên), 2008, Nhập môn lý thuyết
tài chính tiền tệ, NXB lao động xã hội.
4. Trang web:
4.1 E1%BA%A1m_ph%C3%A1t
4.2 i-lieu/tieu-luan-lam-phat.199434.ht ml
4.3 i-lieu/ kinh-te-hoc-lam-ph at-inflat ion-la-gi-cac-
quan-diem-ve-lam- phat-.1245850.html
4.5 i-lieu/da-tai-lam-phat-va-nhung-van-de-chung-
.265886.ht ml
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- trang_bia_1_4533.pdf