Về tăng trưởng chúng ta khả năng duy trì được ở mức 6%, đem lại niềm tin
về sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Chỉ số tồn kho có xu hướng giảm dần, từ 34,9% trong tháng 3 giảm xuống
lần lượt là 32,1% và 29,4% trong tháng 4 và tháng 5, đến tháng 6 giảm xuống 26%
so với cùng thời điểm năm trước.
Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản phát triển tương đối ổn định. Giá trị
sản xuất toàn ngành ước tính tăng 3,8%. Trong đó nông nghiệp tăng 3%, lâm
nghiệp tăng 5,7%, thủy sản tăng 5,8%.
Khu vực dịch vụ tiếp tục phát triển khá. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán
lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2012 ước tính tăng 19,5% so
với cùng kỳ năm 2011. Hoạt động du lịch tiếp tục diễn ra sôi động, 6 tháng đầu
năm 2012, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam ước trên 3,36 triệu lượt, tăng
13,9% so với cùng kỳ năm 2011.
Trong 6 tháng đầu năm 2012, cơ bản đã giải quyết việc làm cho khoảng
735.000 lao động, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm 2011, đạt 45,9% chỉ tiêu kế
hoạch năm.
30 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2156 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng giá hàng
bất kể dài hạn hay ngắn hạn, theo chu kỳ hay đột xuất.
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 6
(6) G.G. Mtrukhin lại cho rằng: Trong đời sống, tổng mức giá cả tăng trước
hết thông qua việc tăng giá không đồng đều ở từng nhóm hàng hoá và rút cuộc dẫn
tới việc tăng giá cả nói chung. Với ý nghĩa như vậy có thể xem sự mất giá của
đồng tiền là lạm phát. Ông cũng chỉ rõ: lạm phát là hình thức tràn trề tư bản một
cách tiềm tàng (tự phát hoặc có dụng ý), là sự phân phối lại sản phẩm xã hội và thu
nhập quốc dân thông qua giá cả giữa các khu vực của quá trình tái sản xuất xã hội,
các ngành kinh tế và các giai cấp, các nhóm dân cư xã hội.
(7) P.A.Samuelson và W.D.Nordhaus trong cuốn “Kinh tế học” đã được dịch
ra tiếng Việt, xuất bản năm 1989 cho rằng lạm phát xảy ra khi mức chung của giá
cả chi phí tăng lên.
2. Phân loại
2.1. Căn cứ vào tốc độ lạm phát
a. Lạm phát vừa (còn gọi là lạm phát nước kiệu):
Xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng chậm ở mức độ một con số hàng năm (dưới
10% một năm).
Lạm phát vừa phải thường được các nước duy trì như một chất xúc tác để
thúc đẩy kinh tế phát triển.
Đồng tiền ổn định.
b. Lạm phát cao (còn gọi là lạm phát phi mã):
Xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ hai con số hàng năm (từ 10% -
100% một năm).
Lạm phát phi mã gây ra nhiều tác hại đến sự phát triển kinh tế xã hội.
Đồng tiền mất giá nhanh chóng.
c. Siêu lạm phát (còn gọi là lạm phát siêu tốc):
Xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ ba con số hàng năm trở lên.
Không có điều gì là tốt khi nền kinh tế rơi vào tình trạng siêu lạm phát.
Đồng tiền mất giá nghiêm trọng.
2.2. Căn cứ vào tính chất
a. Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:
Lạm phát cân bằng: tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao
động, tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do
đó không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và nền kinh
tế nói chung.
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 7
Lạm phát không cân bằng: tăng không tương ứng với thu nhập của người
lao động. Trên thực tế loại lạm phát này không thường xảy ra.
b. Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường:
Lạm phát dự đoán trước: là lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kỳ
tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định. Loại lạm phát này ta có thể dự đoán trước
được nên có sự chuẩn bị trước. Do đó nó không gây ảnh hưởng đến đời sống và
kinh tế.
Lạm phát bất thường: là lạm phát xảy ra đột biến nằm ngoài mức dự đoán
nên gây ảnh hưởng đến tâm lý đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi. Do đó
loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế.
2.3. Căn cứ vào quá trình hiện hình lạm phát
Lạm phát ngầm: là loại lạm phát đang ở trong giai đoạn ẩn náu, bị kiềm chế
về tốc độ tăng giá.
Lạm phát công khai: là loại lạm phát mà sự tăng giá hàng hóa, dịch vụ rõ rệt
trên thị trường.
3. Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến lạm phát. Các nguyên nhân này có thể
xuất phát từ phía cầu trong nền kinh tế, cũng có thể là các nguyên nhân xuất phát
từ phía cung hay chúng cũng có thể xuất hiện đồng thời cả phía cung lẫn phía cầu.
3.1 Lạm phát do cầu kéo
Nguyên nhân này xảy ra khi tổng cầu nền kinh tế cao hơn tổng cung trong
cùng thời điểm đó. Trường hợp này xuất hiện có thể là do tổng cầu tăng nhưng
tổng cung không thay đổi, hoặc tổng cung cũng tăng nhưng không tăng bằng tổng
cầu.
Khi tổng cầu tăng như vậy tức là có nhiều người muốn mua và sẵn sàng mua
hàng hóa, trong khi đó lượng cung không tăng hoặc tăng ít hơn thì trên thị trường
lúc này sẽ xảy ra tình trạng thiếu hụt hàng hóa. Theo quy luật cung cầu thì trong
trường hợp này giá cả thị trường tăng lên là điều tất yếu. Như vậy xuất hiện lạm
phát.
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 8
Tổng cầu trong nền kinh tế bao gồm chi tiêu của hộ gia đình (C), chi tiêu của
chính phủ (G), đầu tư trong nền kinh tế (I), nhu cầu hàng hóa cho xuất khẩu (X),
lượng hàng hóa nhập khẩu (M). Nếu gọi tổng cầu là AD thì AD = C + I + G + X –
M
Tổng cầu tăng có thể do một số các yếu tố trong vế phải của biểu thức tăng
lên: các hộ gia đình tăng chi tiêu do thu nhập tăng hoặc được chính phủ giảm
thuế…; các doanh nghiệp đầu tư do xuất hiện nhiều cơ hội kinh doanh hấp dẫn;
kim ngạch xuất nhập khẩu thay đổi theo hướng chênh lệch (X – M) ngày càng tăng
do đồng nội tệ mất giá so với ngoại tệ, do chất lượng sản phẩm ngày càng tốt hơn
nên bán được nhiều hơn, do công tác quảng cáo giới thiệu tốt hơn; ngân hàng
Trung ương thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ làm lãi suất giảm, các doanh
nghiệp vay tiền đầu tư nhiều hơn, bên cạnh đó người dân hạn chế tiền gửi ngân
hàng mà rút ra mua hàng hóa hay đầu tư vào chứng khoán, cũng tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp mở rộng đầu tư.
3.2 Lạm phát do chi phí đẩy
Lạm phát này xuất hiện khi chi phí đầu vào cho sản xuất tăng hoặc năng suất
sản xuất của nền kinh tế giảm sút. Chi phí đầu vào tăng có thể do giá các nguyên
vật liệu đầu vào cho sản xuất tăng. Điều kiện khai thác khó khăn hơn đòi hỏi chi
phí nhiều hơn, thiên tai làm mất mùa, lụt bão…khủng hoảng ngành dầu mỏ do các
liên minh dầu mỏ tăng giá. Khi giá dầu tăng làm tăng chi phí trong ngành năng
lượng, từ đó làm tăng chi phí đầu vào trong các ngành khác. Các chi phí sản xuất
tăng làm tăng giá thành sản phẩm và buộc doanh nghiệp tăng giá bán để bù đắp chi
phí. Giá bán của các hàng hóa tăng – tạo lạm phát. Nhưng mặt khác giá bán tăng
kéo dài, theo quy luật cung cầu sẽ làm tổng cầu giảm xuống, các doanh nghiệp sẽ
cắt giảm sản xuất, sa thải công nhân. Hậu quả dẫn đến cho nền kinh tế lúc này là
vừa có lạm phát lại vừa có suy thoái.
Nếu lạm phát do cầu kéo ở mức vừa phải là một điều kiện tốt cho nền kinh tế,
nó sẽ kích thích đầu tư mở rộng sản xuất. Nhưng lạm phát chi phí đẩy thì dù bất kì
mức độ nào cũng đều không tốt vì bản thân nó mang trong mình sự suy thoài kinh
tế. Cùng một hiện tượng là lạm phát, nhưng bản chất và nguyên nhân khác nhau
nên tác động của chúng là khác nhau.
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 9
3.3 Lạm phát do những nguyên nhân liên quan đến sự thiếu hụt mức
cung
Khi nền kinh tế đạt mức toàn dụng, nghĩa là các yếu tố sản xuất: công nhân,
nguyên vật liệu, máy móc thiết bị…gần như được khai thác tối ưu.. Khi đó, mức
cung hàng hóa và dịch vụ trên thị trường có khuynh hướng giảm dần. Bên cạnh đó,
tình trạng tắc nghẽn của thị trường cũng làm giới hạn mức cung hàng hóa. Đó là
tình trạng mất cân đối các yếu tố sản xuất giữa các khu vực nhưng thị trường lại
không tạo ra cơ chế điều phối có hiệu quả, khiến cho khối lượng hàng hóa không
đáp ứng tốt nhu cầu tăng lên của thị trường. Hàng hóa khan hiếm làm cho giá cả
tăng lên hay ngay lúc nền kinh tế chưa đạt mức toàn dụng nhưng nếu cơ cấu kinh
tế tổ chức bất hợp lý thì cũng không cho phép tạo ra một khối lượng hàng hóa và
dịch vụ đầy đủ để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của thị trường. Đây cũng là
nguyên nhân gây ra hiện tượng lạm phát.
3.4 Một số nguyên nhân khác
Những nguyên nhân chủ quan có liên quan đến chính sách quản lý kinh tế
của nhà nước: chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách tiền tệ và tài chính… của nhà
nước không phù hợp làm cho nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối, kinh tế tăng
trưởng chậm ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia. Một khi ngân sách của nhà
nước bị thâm hụt thì lúc này nhà nước phải tăng chỉ số phát hành tiền. Đặc biệt đối
với một số quốc gia, trong những điều kiện nhất định, nhà nước chủ trương dung
lạm phát như là một công cụ để thực hiện chính sách phát triển kinh tế.
Những nguyên nhân khách quan đưa đến như thiên tai, chiến tranh, tình hình
biến động của thị trường nguyên vật liệu, nhiên liệu trên thế giới…
Những nguyên nhân khác liên quan đến nội tại của đất nước: chiến tranh, nội
chiến, khủng hoảng chính trị làm cho đồng tiền không còn giữ được chức năng
thước đo giá trị.
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 10
4. Những hậu quả của lạm phát
Tác động kinh tế - xã hội của lạm phát rất khác nhau tùy thuộc vào mức độ
lạm phát, khả năng dự đoán chính xác sự biến động của mức lạm phát. Khi giá cả
có xu hướng tăng lên từ thời gian này qua thời gia khác, mọi người đều nhận thấy
được thực tế đó và đang cố gắng dự đoán tỷ lệ lạm phát trong thời gian tới.
4.1. Đối với lạm phát dự tính được
Trong trường hợp lạm phát có thể dự tính được thì các thực thể tham gia vào
nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó. Tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất
cho xã hội.
Ví dụ:
Chi phí da giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền
và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm
cho người ta giữ ít tiền hơn hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ sẽ rút tiền gửi ngân
hàng ra nhiều hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ “chi phí mòn giày” để chỉ
những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta phải
hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.
Chi phí thực đơn: lạm phát thường dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh
nghiệp sẽ mất thêm chi phí in ấn, phát hánh bảng giá sản phẩm.
Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý
muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm
phát. Trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu
nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần
chênh lệch giữa thu nhập thực tế và thu nhập danh nghĩa.
4.2. Đối với lạm phát không dự tính được
Điều nguy hiểm của lạm phát không chỉ nằm ở mức độ lạm phát mà nó còn
ở sự xuất hiện bất ngờ của nó. Khi tỷ lệ lạm phát biến động ngoài dự tính, nó tạo
nên sự biến động bất thường về giá trị tiền tệ và làm sai lệch toàn bộ thước đo các
quan hệ giá trị, ảnh hưởng đến mọi hoạt động kinh tế - xã hội.
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 11
Lạm phát tạo nên sự bất ổn trong môi trường kinh tế - xã hội. Trong điều
kiện lạm phát biến động, các quyết định tài chính cũng bị bóp méo, các doanh
nghiệp thích vay ngắn hạn hơn là bị rang buộc vào các hợp đồng cho vay dài hạn
với lãi suất cố định, chứa đựng rủi ro lãi suất tiềm năng
Lạm phát làm phân phối lại thu nhập quốc dân và của cải xã hội. Khi lạm
phát tăng tổng thu nhập danh nghĩa tăng lên nhưng trong đó chứa đựng sự phân
phối lại thu nhập giữa các nhóm dân cư với nhau: giữa giới chủ và người làm công,
giữa người cho vay và người đi vay, giữa chính phủ với người đóng thuế. Tóm lại,
tác động chính của lạm phát về mặt phân phối lại nảy sinh từ những tá động không
thể đoàn trước đối với giá trị thực tế của thu nhập và của cải của nhân dân.
Lạm phát làm cho lãi suất tăng. Vấn đề này nảy sinh khi tỷ lệ lạm phát dự
tính cấu thành trong mức lãi suất danh nghĩa không phù hợp với tỷ lệ lãm phát thực
tế và ảnh hưởng đến mức lãi suất thực. Điều này có nghĩa, chính lạm phát gây ra
những ảnh hưởng đến tiết kiệm, đầu tư và cuối cùng ảnh hưởng đến khả năng tăng
trưởng kinh tế.
Lạm phát ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế.
Lạm phát ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp.
5. Biện pháp giải quyết vấn đề của lạm phát
Ngày nay trong thời đại lưu thông tiền giấy bất khả hoán, lạm phát hầu như
là hiện tượng tất yếu ở các nước song chỉ khác nhau ở mức độ cao, thấp. Vì vậy để
kiềm chế lạm phát, thì chúng ta phải thực hiện những biện pháp sau:
5.1 Biện pháp cấp bách
Áp dụng biện pháp này với mục đích giảm tức thời cơn sốt lạm phát, để có
cơ sở áp dụng những biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài như:
Áp dụng biện pháp về chính sách tài khóa: tiết kiệm triệt để trong chi tiêu
ngân sách nhà nước, cắt giảm những khoản chi chưa cấp bách; tăng thuế trực thu
để tăng nguồn vốn thu cho ngân sách; vay nợ trong và nước ngoài không đi kèm
điều kiện chính trị.
Biện pháp thắt chặt tiền tệ: ngưng phát hành tiền lưu thông; nâng cao lãi
suất tín dụng; quản lý và hạn chế khả năng tạo tiền của các ngân hàng thương mại
bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Biện pháp kiềm chế giá cả bằng cách: nhập hàng hóa của nước ngoài để bổ
sung cho khối lượng hàng hóa trong nước tạo ra một sự cân bằng giữa cung và cầu
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 12
hàng hóa; nhà nước bán vàng và ngoại tệ nhằm thu hút tiền mặt trong lưu thông, ổn
định giá vàng, ổn định tỷ giá hối đoái, từ đó tạo tâm lý ổn định giá cả các mặt hàng
khác; quản lý thị trường, tránh đầu cơ tích trữ…
5.2 Biện pháp chiến lược
Đây là biện pháp nhằm tác động đồng bộ lên mọi mặt hoạt động của nền
kinh tế. trong thực tiễn, những biện pháp thường được áp dụng như:
Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn.
Kiểm soát thường xuyên thu chi ngân sách nhà nước.
Thực hiện chiến lược thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
Dùng lạm phát để chống lạm phát: đối với các quốc gia còn nhiều tiềm năng
về lao động, đất đai, tài nguyên…nhà nước có thể tăng chỉ số phát hành, tăng chi
phí cho việc mở rộng đầu tư. Việc áp dụng biện pháp này đòi hỏi phải có một tiềm
lực mạnh về các yếu tố sản suất, có trình độ khoa học – kỹ thuật tiên tiến, trình độ
quản lý kinh tế cao…
II/ Tăng trưởng kinh tế
1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế là gì?
Tăng trưởng kinh tế (Economic Growth) là một khái niệm mang tính định
lượng, được biểu hiện bằng một trong hai cách sau:
Cách 1: Sự gia tăng thực tế của tổng sản phẩm quốc dân (GNP – Gross
National Product); tổng sản phẩm quốc nội (GDP – Gross Domestic Product) hay
sản phẩm quốc dân ròng (NNP – Net National Product) trong một thời kỳ nhất
định.
Cách 2: Sự gia tăng thực tế theo đầu người của GNP, GDP hay NNP trong
một thời kỳ nhất định.
2. Bản chất của tăng trưởng kinh tế
Là sự phản ánh thay đổi về lượng của nền kinh tế. Đầu tư phát triển không
những làm gia tăng tài sản của nhà đầu tư mà còn trực tiếp làm tăng tài sản của nền
kinh tế quốc dân. Chẳng hạn khi nhà đầu tư xây dựng một nhà máy thì nhà máy đó
không những là tài sản của nhà đầu tư mà còn là tiềm lực sản suất của cả nền kinh
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 13
tế, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Như vậy đầu tư phát triển chính
là một yếu tố không thể thiếu đối với quá trình tăng trưởng của một nền kinh tế.
3. Quan điểm về tăng trưởng kinh tế
3.1. Quan điểm cổ điển về tăng trưởng kinh tế:
Do các nhà kinh tế học cổ điển nêu ra mà các đại diện tiêu biểu là Adam
Smith và David Ricardo.
Adam Smith được xem là người sáng lập ra kinh tế học và là người đầu tiên
nghiên cứu lý luận tăng trưởng kinh tế một cách có hệ thống. Theo Adam Smith,
chính lao động được sử dụng trong những công việc có ích và hiệu quả là nguồn
tạo ra giá trị cho xã hội. Số công nhân “hữu ích và hiệu quả” cũng như năng suất
của họ phụ thuộc vào lượng tư bản tích lũy. Sự gia tăng tư bản là yếu tố quyết định
tăng trưởng kinh tế. Trong tác phẩm “Của cải của các quốc gia”, ông đã nghiên
cứu về tính chất, nguyên nhân tăng trưởng kinh tế và làm thế nào để tạo điều kiện
cho kinh tế tăng trưởng. Với nội dung cơ bản của tác phẩm này là:
o Học thuyết về “Giá trị lao động”, với quan điểm lao động là nguồn gốc
cơ bản để tạo ra của cải cho đất nước.
o Học thuyết về “Bàn tay vô hình”, quan niệm nếu không bị chính phủ
kiểm soát, người lao động sẽ được lợi nhuận thúc đẩy để sản xuất ra dịch vụ
và hàng hóa cần thiết. Đồng thời, thông qua thị trường tự do này, lợi ích cá
nhân sẽ gắn liền với lợi ích xã hội. Từ đó ông cho rằng: chính phủ không có
vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
o Lý thuyết về phân phối thu nhập theo nguyên tắc “Ai có gì được nấy”.
Theo nguyên tắc này, tư bản có vốn thì được lợi nhuận, địa chủ có đất đai thì
thu được địa tô, công nhân có sức lao động thì nhận được tiền công.
Nếu Adam Smith được coi là người sáng lập ra kinh tế học thì David
Ricardo được coi là tác giả cổ điển xuất sắc nhất. Những quan điểm của ông về
tăng trưởng kinh tế được thể hiện như sau:
o Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trong nhất, các yếu tố cơ bản của tăng
trưởng kinh tế là đất đai, lao động và vốn, trong từng ngành và phù hợp với
một trình độ kỹ thuật nhất định, các yếu tố này kết hợp với nhau theo một tỷ
lệ cố định, không thay đổi. David Ricardo cho rằng trong nông nghiệp, năng
suất cận biên của đất đai, lao động đều giảm dần và bất cứ biện pháp nào có
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 14
thể thúc đẩy việc nâng cao năng suất cận biên đều là làm tăng lợi nhuận, từ
đó tăng tỷ lệ hình thành tư bản, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
o Tuy xuất phát từ góc độ phân phối thu nhập để nghiên cứu tăng trưởng
kinh tế, nhưng ông vẫn đặc biệt nhấn mạnh tích lũy tư bản là nhân tố chủ
yếu quyết định sự tăng trưởng kinh tế còn các chính sách của chính phủ
không có tác động quan trọng tới hoạt động của nền kinh tế.
3.2. Quan điểm của K.Marx về tăng trưởng kinh tế:
Theo K.Marx các yếu tố tác động đến quá trình tái sản xuất là đất đai, lao
động, vốn và tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là vai trò của lao động trong việc tạo ra giá
trị thặng dư. Sức lao động đối với nhà tư bản là một loại hàng hóa đặc biệt, giá trị
sử dụng của hàng hóa sức lao động không giống như giá trị sử dụng của các loại
hàng hóa khác, vì nó có thể tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. Giá
trị đó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.
Về yếu tố kỹ thuật, K.Marx cho rằng tiến bộ kỹ thuật làm tăng số máy móc và
dụng cụ lao động dành cho người thợ. Do các nhà tư bản cần nhiều vốn để khai
thác tiến bộ kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động của công nhân nên nhà tư bản đã
chia giá trị thặng dư thành hai phần: một phần để tiêu dùng cho nhà tư bản, một
phần để tích lũy phát triển sản xuất. Đó là nguyên nhân tích lũy của chủ nghĩa tư
bản.
K.Marx cũng bác bỏ ý kiến về “cung tạo nên cầu”. Theo ông khủng hoảng
kinh tế là một giải pháp nhằm khôi phục lại thế thăng bằng đã bị rối loạn. Các
chính sách kinh tế của nhà nước có ý nghĩa quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng,
đặc biệt là chính sách khuyến khích nâng cao mức cầu hiện có.
3.3. Quan điểm tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế:
Trường phái tân cổ điển, đứng đầu là Alfred Marshall với tác phẩm chính
“Các nguyên lý của kinh tế học”, gồm những nội dung cơ bản sau:
o Bác bỏ quan điểm cổ điển quan niệm sản xuất trong một tình trạng nhất
định đòi hỏi những tỷ lệ nhất định về lao động và vốn, quan điểm của trường
phái tân cổ điển cho rằng vốn và lao động có thể thay thế cho nhau, và trong
quá trình sản xuất có thể có nhiều cách kết hợp giữa các yếu tố đầu vào.
o Alfred Marshall cho rằng tiến bộ khoa học kỹ thuật là yếu tố cơ bản để
thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Do chú trọng đến các nhân tố đầu vào của sản
xuất, lý thuyết tân cổ điển còn được gọi là lý thuyết trọng cung.
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 15
Điểm giống với các nhà kinh tế cổ điển là các nhà kinh tế tân cổ điển cho rằng
trong điều kiện thị trường cạnh tranh, khi nền kinh tế có biến động thì sự linh hoạt
về giá cả và nhân công là nhân tố cơ bản khôi phục và đưa nền kinh tế về vị trí sản
lượng tiềm năng với việc sử dụng hết nguồn lao động. Các nhà kinh tế tân cổ điển
cũng cho rằng chính phủ không có vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh
tế.
3.4. Quan điểm của Keynes về tăng trưởng kinh tế:
Keynes cho rằng có hai đường tổng cung: đường tổng cung dài hạn AS-LR
phản ánh mức sản lượng tiềm năng, và đường tổng cung ngắn hạn phản ánh khả
năng thực tế. Cân bằng của nền kinh tế không nhất thiết ở mức sản lượng tiềm
năng, mà thường cân bằng sản lượng dưới mức tiềm năng.
Keynes cũng đánh giá cao vai trò của tiêu dùng trong việc xác định sản lượng.
Theo ông, thu nhập của cá nhân được sử dụng cho tiêu dùng và tích lũy. Nhưng xu
hướng chung là khi mức thu nhập tăng lên thì xu hướng tiêu dùng trung bình giảm,
xu hướng tiết kiệm trung bình tăng. Việc giảm xu hướng tiêu dùng sẽ làm cho nhu
cầu tiêu dùng giảm. Ông cho rằng đây chính là một trong những nguyên nhân cơ
bản dẫn đến sự trì trệ trong hoạt động kinh tế.
Keynes cũng cho rằng đầu tư đóng vai trò quyết định đến quy mô việc làm,
khối lượng đầu tư phụ thuộc lãi suất cho vay và năng suất cận biên của vốn. Ông
cũng cho rằng, chính phủ có vai trò to lớn trong việc sử dụng những chính sách
kinh tế: chính sách thuế, chính sách tiền tệ, lãi suất…nhằm thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.
3.5. Quan điểm tăng trưởng kinh tế của trường phái kinh tế học hiện đại:
Các nhà kinh tế học ủng hộ việc xây dựng một nền kinh tế hỗn hợp, trong đó
thị trường trực tiếp xác định những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế, nhà nước
tham gia vào điều tiết có mức độ nhằm hạn chế những tiêu cực của thị trường.
Thực chất nền kinh tế hỗn hợp là sự xích lại gần nhau của học thuyết kinh tế tân cổ
điển và học thuyết kinh tế của Keynes. Những ý tưởng này được trình bày trong tác
phẩm “Kinh tế học” của P.Samuelson (1948). Với nội dung cơ bản sau:
Sự cân bằng kinh tế:.
o Thừa nhận quan điểm của Keynes là điểm cân bằng không nhất thiết ở
mức sản lượng tiềm năng mà thường ở dưới mức sản lượng đó.
o Trong nền kinh tế hoạt động bình thường vẫn có thể có thất nghiệp và
lạm phát.
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 16
Các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế:
o Giống với trường phái tân cổ điển về các yếu tố tác động sản xuất: K, L,
R, T.
o Đồng ý với tân cổ điển về quan hệ giữa các yếu tố, nhà sản xuất kinh
doanh có thể lựa chọn kĩ thuật, tỷ lệ kết hợp giữa các yếu tố, vai trò của đầu
tư tăng trưởng và cho rằng vốn là cơ sở để sử dụng các yếu tố khác
Vai trò của chính phủ: chính phủ là trung tâm định hướng, phối hợp các
hoạt động của toàn xã hội, ổn định, cân bằng tổng thể, kích thích tạo nhân tố mới
cho sự phát triển.
4. Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế
Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các
nước đang phát triển, những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của phát
triển kinh tế phải dựa vào bốn nhân tố của tăng trưởng kinh tế là nguồn nhân lực,
nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn nhân tố này khác nhau ở mỗi quốc gia
và cách phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa đến kết quả tương ứng. Theo đó,
ta có:
Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến thức
và kỷ luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế.
Hầu hết các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể mua
hoặc vay mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Các
yếu tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể
phát huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức
khỏe và kỷ luật lao động tốt. Thực tế nghiên cứu các nền kinh tế bị tàn phá
sau Chiến tranh thế giới lần thứ II cho thấy mặc dù hầu hết tư bản bị phá hủy
nhưng những nước có nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn có thể phục hồi và phát
triển kinh tế một cách ngoạn mục. Ví dụ nước Đức, với một lượng lớn tư bản bị tàn
phá trong Đại chiến thế giới lần thứ hai, tuy nhiên vốn nhân lực của lực lượng lao
động nước này vẫn tồn tại. Nhờ đó, nước Đức đã phục hồi nhanh chóng sau năm
1945. Nếu không có số vốn nhân lực này thì sẽ không bao giờ có sự thần kỳ của
nước Đức thời hậu chiến.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển,
những tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng
và nguồn nước. Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế,
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 17
có những nước được thiên nhiên ưu đãi một trữ lượng dầu mỏ lớn có thể đạt được
mức thu nhập cao gần như hoàn toàn dựa vào đó như Ả rập Xê út. Tuy nhiên, các
nước sản xuất dầu mỏ là ngoại lệ chứ không phải quy luật, việc sở hữu nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú không quyết định một quốc gia có thu nhập
cao. Nhật Bản là một nước gần như không có tài nguyên thiên nhiên nhưng nhờ tập
trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng lao động, tư bản, công nghệ cao nên
vẫn có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới về quy mô trong thời kỳ này.
Tư bản: là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà
người lao động được sử dụng những máy móc, thiết bị...nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản
trên mỗi lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản, phải thực
hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng
trong sự phát triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao
thường có được sự tăng trưởng cao và bền vững. Tuy nhiên, tư bản không chỉ là
máy móc, thiết bị do tư nhân đầu tư cho sản xuất nó còn là tư bản cố định xã hội,
những thứ tạo tiền đề cho sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản cố định xã hội
thường là những dự án quy mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và nhiều khi
có lợi suất tăng dần theo quy mô nên phải do chính phủ thực hiện. Ví dụ: hạ tầng
của sản xuất (đường giao thông, mạng lưới điện quốc gia...), sức khỏe cộng đồng,
thủy lợi...
Công nghệ: trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế rõ ràng không
phải là sự sao chép giản đơn, hay đơn thuần chỉ tăng thêm lao động và tư bản, mà
ngược lại, nó là quá trình không ngừng thay đổi công nghệ sản xuất. Công nghệ
sản xuất cho phép cùng một lượng lao động và tư bản có thể tạo ra sản lượng cao
hơn, nghĩa là quá trình sản xuất có hiệu quả hơn. Công nghệ phát triển ngày càng
nhanh chóng và ngày nay công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật
liệu mới... có những bước tiến như vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả sản xuất.
Tuy nhiên, thay đổi công nghệ không chỉ thuần túy là việc tìm tòi, nghiên cứu; mà
công nghệ có phát triển và ứng dụng một cách nhanh chóng được là nhờ "phần
thưởng cho sự đổi mới" - sự duy trì cơ chế cho phép những sáng chế, phát minh
được bảo vệ và được trả tiền một cách xứng đáng
5. Hạn chế của chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế
Các chỉ tiêu đo lường mức tăng trưởng kinh tế được sử dụng làm thước đo
trình độ phát triển nền kinh tế một cách cụ thể và nó trở thành mục tiêu phấn đấu
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 18
của chính phủ vì đây là tiêu chí để người dân đánh giá hiệu quả việc điều hành đất
nước của chính phủ.
Nhưng tăng trưởng kinh tế không phản ảnh được chính xác phúc lợi của các
nhóm dân cư khác nhau trong xã hội, chênh lệch giàu nghèo có thể tăng lên, chênh
lệch giữa nông thôn và thành thị có thể tăng cao, bất bình đẳng xã hội cũng có thể
tăng. Tăng trưởng có thể cao nhưng chất lượng cuộc sống có thể không tăng, môi
trường có thể bị hủy hoại, tài nguyên bị khai thác quá mức trở nên cạn kiệt và
nguồn lực có thể sử dụng không hiệu quả, lãng phí.
6. Các công cụ phản ánh chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc
độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai
đoạn. Theo đó:
Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ
cần so sánh.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô
kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ
trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức.
y = dY/Y × 100(%)
Trong đó
Y là qui mô của nền kinh tế
y là tốc độ tăng trưởng
Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc
độ tăng trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo
bằng GDP (hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế.
Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh
nghĩa.
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 19
PHẦN II: MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
I/ Các quan điểm về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
Lạm phát và tăng trưởng kinh tế là hai mặt của xã hội, là hai vấn đề kinh tế
trong nền kinh tế. Giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát có mối quan hệ “chế ước”
lẫn nhau. Đây là hai vấn đề luôn tồn tại song song với nhau. Tuy nhiên, mức độ
gắn kết giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế như thế nào vẫn là một vấn đề còn
nhiều tranh cãi.
Theo quan điểm của nhiều nhà kinh tế, lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến
tăng trưởng kinh tế vì làm giảm năng suất lao động. Lạm phát còn làm giảm mức
khấu trừ thực tế cho phép trong thuế doanh nghiệp đối với khấu hao tài sản cố định
và làm tăng giá thuê tư bản, do đó làm giảm tích lũy vốn, dẫn đến giảm năng suất.
Tuy nhiên, không ít nhà kinh tế lại lập luận rằng: lạm phát ở mức nhẹ có tác
động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn, nhà kinh tế học nổi tiếng Tobin
cho rằng lạm phát làm cho nhà đầu tư tái phân bổ danh mục đầu tư của mình từ
tiền sang chứng khoán, làm giảm lãi suất thực tế và do đó làm tăng đầu tư và nâng
cao năng suất lao động.
Trước nhiều ý kiến, nhiều quan điểm trái chiều thì mối quan hệ giữa tăng
trưởng và lạm phát vẫn đang là một vấn đề được nhiều nhà kinh tế học quan tâm:
Theo lý thuyết Keynes: trong ngắn hạn sẽ có sự đánh đổi giữa lạm phát và
tăng trưởng; nghĩa là, muốn cho tăng trưởng đạt tốc độ cao thì phải chấp nhận
một tỷ lệ lạm phát nhất định. Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng và lạm
phát di chuyển cùng chiều; sau giai đoạn này, nếu tiếp tục chấp nhận tăng lạm
phát để thúc đẩy tăng trưởng thì GDP cũng không tăng thêm mà có xu hướng
giảm (đường cong Phillips nổi tiếng về sự đánh đổi giữa mục tiêu lạm phát và
thất nghiệp).
Theo chủ nghĩa trọng tiền (đại diện là Milton Fredman): lạm phát là sản
phẩm của việc tăng cung tiền hoặc tăng hệ số tạo tiền ở mức lớn hơn tốc độ
tăng trưởng kinh tế; nghĩa là, trong dài hạn, giá cả bị ảnh hưởng bởi cung tiền
chứ không thực sự tác động lên tăng trưởng; nếu cung tiền tăng nhanh hơn tốc
độ tăng trưởng thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra; nếu giữ cung tiền và hệ số tạo
tiền ổn định thì tăng trưởng cao sẽ làm giảm lạm phát.
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 20
Theo lý thuyết tân cổ điển Mundell (1965) và Tobin (1965): lạm phát là
nguyên nhân làm cho con người tránh giữ tiền mà chuyển thành các tài sản
sinh lời. Theo mô hình này giữa lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ tỉ lệ
thuận
Qua 3 quan điểm trên, nhóm nhận thấy, tuy lý thuyết về mối quan hệ giữa tăng
trưởng và lạm phát của các trường phái có sự khác nhau, nhưng điểm chung của
các trường phái là mối quan hệ ấy không phải một chiều, mà là sự tác động qua lại.
Nếu muốn tăng trưởng cao thì phải chấp nhận lạm phát, tuy nhiên đến một lúc nào
đó, nếu lạm phát tiếp tục tăng cao sẽ làm giảm tăng trưởng. Trong dài hạn, khi tăng
trưởng đã đạt đến mức tối ưu thì lạm phát không tác động đến tăng trưởng nữa mà
lúc này lạm phát là hậu quả của việc tăng cung tiền quá mức vào nền kinh tế.
Sau này, một số các nhà nghiên cứu như Sarel (1996), Gosh và Philíp(1998),
Shan và Senhadji (2001), và một số các nhà nghiên cứu khác đã cố gắng tìm ra đặc
điểm về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế thông qua ngưỡng lạm
phát. Bằng các nghiên cứu khác nhau họ đã tìm ra một ngưỡng lạm phát, mà tại
ngưỡng đó nếu lạm phát vượt ngưỡng sẽ có tác động tiêu cực (tác động ngược
chiều) đến tăng trưởng.
Theo Sarel: ngưỡng lạm phát là 8%.
Theo Shan và Senhadji: ngưỡng lạm phát cho các nước đang phát triển là
11-12%, các nước công nghiệp khoảng 1-3%.
Theo Khan (2005): mức lạm phát tối ưu đối với các nước vùng Trung đông
và Trung Á là khoảng 3.2%.
Nhận thấy mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, một số nước đã
sử dụng lạm phát cao để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên
cứu kinh tế cho rằng, đây là giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng
kém bền vững. Hay còn nói đó là giải pháp tăng trưởng “bong bóng”.
Xu hướng hiện nay, các nước phát triển chọn giải pháp tăng trưởng kinh tế
thực chất, đó là dựa trên cơ sở giá cả ổn định ở mức thấp. Trong nền kinh tế thị
trường, lạm phát ổn định thì tính dự báo được nâng cao. Điều đó giúp các nhà đầu
tư có thể xây dựng được các phương án đầu tư hiệu quả. Đối với người tiêu dùng
thì chi tiêu yên tâm, họ không phải lo cân nhắc các mặt hàng khác để thay thế do
giá tăng. Tất cả điều đó đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thực chất.
Hiện nay các nước phát triển chọn mức lạm phát gần 2% là mức tối ưu cho
tăng trưởng. Tuy nhiên, cần phải hiểu, lạm phát ổn định chỉ là điều kiện đủ cho
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 21
tăng trưởng kinh tế, còn điều kiện cần cho tăng trưởng phải là vấn đề của Chính
phủ trong việc phát triển nguồn lực, vốn và công nghệ kỹ thuật.
Trong thực tế, không một quốc gia nào tránh khỏi lạm phát. Bất cứ một nền
kinh tế của quốc gia nào đều cũng đã trải qua các cuộc khủng hoảng kinh tế và tỷ
lệ lạm phát tăng với những quy mô khác nhau. Tỷ lệ lạm phát tăng cao sẽ đẩy giá
cả hàng hoá chung tăng lên mà tiền lương danh nghĩa của các công nhân không
tăng. Do đó, tiền lương thực tế của họ sẽ giảm đi. Để tồn tại các công nhân sẽ tổ
chức đấu tranh, bãi công đòi tăng lương và làm cho sản xuất trì trệ, đình đốn khiến
cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm. Khi nền kinh
tế gặp khó khăn, suy thoái sẽ làm thâm hụt ngân sách và đó là điều kiện, nguyên
nhân gây ra lạm phát.
II/ Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
Theo quan sát và nghiên cứu của nhiều nhà kinh tế ở Việt Nam, mối quan hệ
giữa tăng trưởng và lạm phát của nước ta (trong dài hạn và ngắn hạn) về cơ bản
thống nhất với lý thuyết và kết quả kiểm nghiệm trên thế giới của Tobin (1965),
Mallik và Chowdhury (2001), Frria và Carneiro (2001) đã công bố. Có thể khẳng
định: mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát của nền kinh tế Việt Nam tuân
theo quy luật chung. Ở mức lạm phát thấp (thường là một chữ số) thì lạm phát
không tác động tiêu cực lên tăng trưởng. Ở mức lạm phát thấp, gia tăng lạm phát
thường gắn liền với tăng trưởng cao hơn (giai đoạn 1992-2007). Tuy nhiên, khi
lạm phát đạt đến một ngưỡng nhất định, thì lạm phát bắt đầu tác động tiêu cực đến
tăng trưởng (giai đoạn trước năm 1992).
Để xác định mức lạm phát tối ưu ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã phân tích
số liệu lạm phát từ năm 1990 – 2011. Họ nhận thấy:
6 năm có mức lạm phát >13 - 14% và khi mức lạm phát >13 - 14%/năm thì
lạm phát tác động tiêu cực tới tăng trưởng.
15 năm có mức lạm phát <13% và đây là khoảng thời gian lạm phát tác
động tích cực ở mức vừa phải tới tăng trưởng. Cụ thể như sau:
Có 3 năm lạm phát xoay quanh ngưỡng 13%/năm. Lúc này, tăng
trưởng bình quân khoảng 5.26%/năm.
Có 3 năm lạm phát xoay quanh ngưỡng 8 - 9%/năm. Lúc này, tăng
trưởng bình quân khoảng 7.33%/năm.
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 22
Có 4 năm lạm phát xoay quanh ngưỡng 5 - 6%/năm. Lúc này, tăng
trưởng bình quân khoảng 7.74%/năm.
Nhận xét:
Trong tình hình hiện nay, lạm phát tối ưu cho Việt Nam khoảng 6%/năm là
phù hợp. Tuy nhận định của IMF và Khan là mức lạm phát <5%/năm sẽ ảnh hưởng
tích cực tới tăng trưởng nhưng mức này rất khó thực hiện trong bối cảnh của nước
ta.
Giả sử mức lạm phát ở Việt Nam khoảng 3.6%/năm, thì lúc này môi trường
đầu tư sẽ khó năng động, nền kinh tế có thể rơi vào trạng thái thiểu phát, thiếu tiền
mặt trong lưu thông hiện tượng này cũng không kém phần nguy hiểm so với
lạm phát.
Xác định được mức lạm phát tối ưu của Việt Nam khoảng 6%/năm sẽ giúp
Chính phủ có các phương án hợp lý để nâng cao tăng trưởng kinh tế:
Nếu lạm phát ở dưới mức này để tăng tốc độ tăng trưởng, Chính phủ có thể
thực hiện các giải pháp để tăng lạm phát và việc tăng lạm phát cho đến
ngưỡng 6%/năm không quá nguy hại đến nền kinh tế.
Còn nếu lạm phát đang ở ngưỡng 6% năm, để tăng trưởng kinh tế, Chính
phủ lại phải điều tiết giảm lạm phát.
Như vậy, lạm phát ở một mức nhất định mới phù hợp cho tăng trưởng kinh tế.
Vì thế, kiểm soát lạm phát là một trong những mục tiêu quan trọng của chính sách
kinh tế vĩ mô. Về lý thuyết, nếu lạm phát ở mức có thể kiểm soát được thì nền kinh
tế có thể tránh được mọi hậu quả xấu. Nếu không sẽ xảy ra những hậu quả như:
Lạm phát cao sẽ kìm hãm sự tăng trưởng vì nó làm lệch lạc cơ cấu giá cả,
kéo theo tài nguyên, nguồn lực không được phân bố hiệu quả, kết cục là tăng
trưởng chậm.
Lạm phát là kẻ thù của tăng trưởng và đầu tư dài hạn. Nếu các nhà đầu tư
không biết chắc chắn mức giá cả trong tương lai, kéo theo không biết lãi suất
thực thì không ai dám liều lĩnh đầu tư vào các dự án dài hạn. Lạm phát sẽ đẩy
lãi suất lên cao do chủ nợ muốn có sự đảm bảo cho mức rủi ro lớn. Lãi suất
cao kìm hãm đầu tư, do đó làm chậm tốc độ tăng trưởng.
Lạm phát cao khuyến khích mọi người quan tâm đến lợi ích trước mắt.
Lạm phát cao gây khó khăn trong cân đối thu chi ngân sách nhà nước.
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 23
Những nước đã từng trải qua lạm phát cao đều cho rằng không kiểm soát được
lạm phát là điều đáng sợ nhất. Toàn bộ hoạt động kinh tế sẽ bị méo mó, biến dạng
nghiêm trọng, tâm lý xã hội phức tạp, lãng phí tiềm lực trong sản xuất.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát là sự biểu hiện tập trung về
các cân đối vĩ mô của nền kinh tế, như: cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, tiết
kiệm, đầu tư, thu chi ngân sách, thanh toán quốc tế, …Nếu một trong những cân
đối này bị vi phạm sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống cân đối vĩ mô của nền kinh
tế, đến mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Khi đó, sẽ có 2 trường
hợp xảy ra:
Trường hợp 1: lạm phát gia tăng. Hậu quả là đầu tư quá mức, hiệu quả
thấp, lãng phí vốn, giá cả tăng, nhu cầu có khả năng thanh toán giảm sút, tốc
độ sản xuất chậm lại.
Trường hợp 2: lạm phát quá thấp. Khi đầu tư trong nước giảm sút, một
phần vốn đáng kể di chuyển ra ngoài hoặc rút về tích trữ, sản xuất và lưu
thông trì trệ, thất nghiệp gia tăng.
Cả hai trường hợp trên đều làm ảnh hưởng tiêu cực đến nhịp độ tăng trưởng
của nền kinh tế. Ảnh hưởng của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế tồn tại 2 quan
điểm cơ bản:
Quan điểm 1: sự ổn định về giá cả là nền tảng tốt nhất cho sự tăng trưởng
nhanh. Những nhà chính trị và kinh tế theo quan điểm này cho rằng sự ổn định
giá trị tiền tệ là vấn đề cần phải bảo vệ và duy trì.
Quan điểm 2: tư tưởng “lạm phát vừa phải” sẽ có tác dụng khuyến khích
sản xuất phát triển với tốc độ cao thông qua lạm phát. Những người theo quan
điểm này cho rằng: suy thái kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng hơn vấn đề lạm
phát. Ở một mức vừa phải, lạm phát cũng cần cho kinh tế để giảm bớt gánh
nặng nợ nần và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trở lại
Trong tình hình kinh tế hiện nay, nhóm nhận thấy: chính phủ hầu hết các
nước đều công nhận lạm phát thấp là điều kiện cần thiết cho sự tăng trưởng. Trong
ngắn hạn, mức lạm phát vừa phải được chấp nhận để giảm thất nghiệp, và điều
quan trọng ở đây là phải giữ được lạm phát ở mức vừa phải – không tăng lên. Trên
thực tế, mức lạm phát vừa phải được xác định là tùy hoàn cảnh, nhiệm vụ, điều
kiện cụ thể ở mỗi giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia.
Quan điểm mới ở Việt Nam:
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 24
Những năm 2008, ở Việt Nam xuất hiện thêm quan điểm mới về mối quan hệ
giữa lạm phát và tăng trưởng, đó là “tỷ lệ lạm phát tốt nhất là không vượt quá tốc
độ tăng trưởng”.
Đây là quan điểm của ông Lê Đức Thuý, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam (NHNN). Ông đã phát biểu quan điểm này trước Quốc hội: “Tôi
cho rằng một nền kinh tế phát triển bền vững thì lạm phát ở mức thấp hơn tăng
trưởng 1-2%. Chẳng hạn GDP năm 2006 là 8% thì lạm phát là 6-7%” (?).
Theo PGS.TS. Nguyễn Ái Đoàn, quan điểm này không có cơ sở lý thuyết rõ
ràng, đây là cách phát biểu mang tính ứng dụng trong những điều kiện nhất định.
Trên thực tế, luận điểm này đã trở thành nền tảng cho việc thực thi chính sách tiền
tệ nới lỏng kéo dài ở Việt Nam và hệ quả tất yếu là lạm phát ở mức báo động.
Hiện nay, có một số quan điểm cho rằng: tăng cung tiền đẩy lạm phát
thúc đẩy tăng trưởng. Rõ ràng, lạm phát do tăng cung tiền sẽ thêm vốn đầu tư từ
ngân sách, đây là giải pháp tốt để đạt mức tăng trưởng nhanh.
Tuy nhiên, các nhà kinh tế cho rằng tỉ lệ lạm phát cao, tác động tiêu cực đến
sản lượng sản xuất của nền kinh tế thông qua các kênh như đầu tư, tín dụng, tiêu
dùng. Người cho vay không có động lực để cho vay vì lãi suất cho vay thường âm
trong thời kỳ này và cho vay thời hạn càng dài càng bị lỗ. Các doanh nghiệp dù
thiếu vốn cũng rất e ngại vay vốn vì làm chi phí tăng cao, hệ quả là kênh tín dụng
bị thu hẹp.
Những kết quả thực tế theo công bố của Ngân hàng nhà nước cho thấy:
Dư nợ tín dụng 10 tháng đầu năm 2008 chỉ tăng hơn 19,6%, thấp hơn mức
tăng 37,73% so với cùng kỳ năm 2007.
Tỷ lệ lạm phát cao làm cho thu nhập hộ gia đình giảm, chỉ số lạm phát đến
tháng 10/2008 là 22,14% cũng đồng nghĩa với việc giảm hơn 22% thu nhập so
với cuối năm 2007.
Mọi người phải tiết kiệm chi tiêu dẫn đến giảm tiêu dùng. Các nhà đầu tư
tiềm năng sẽ giảm đầu tư vì độ rủi ro cao và hậu quả là làm giảm sản lượng sản
xuất của nền kinh tế. Như vậy, việc sử dụng lạm phát cao để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế thực chất là liệu pháp “sốc” với mong muốn tăng trưởng nhanh để đạt được
thành tích mong muốn. Tuy nhiên, hậu quả tiêu cực gây ra cho nền kinh tế và ảnh
hưởng đến đời sống của dân cư, nhất là tầng lớp nghèo, thu nhập thấp bị tác động
nhiều nhất. Các nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng, đây là giải pháp thúc đẩy tăng
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 25
trưởng kinh tế nhanh, nhưng kém bền vững; hay còn gọi đó là giải pháp tăng
trưởng “bong bóng”.
PHẦN III: TÌNH HÌNH KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY
Tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa 13, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng
nêu rõ: Mục tiêu tổng quát của năm 2012 là ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với mô hình tăng trưởng và cơ
cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; bảo đảm phúc
lợi xã hội, an sinh xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn định chính
trị, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả
công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Chỉ tiêu lạm phát năm 2012, phấn đấu
kiềm chế lạm phát dưới 10%, các năm sau thấp hơn, đến năm 2015 lạm phát
khoảng 5-7%. Chỉ tiêu tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2012 tăng GDP
khoảng 6-6,5% (trong giai đoạn 5 năm 2011-2015, tăng trưởng GDP bình quân
khoảng 6,5-7%, phấn đấu đạt 7%); bội chi ngân sách nhà nước bằng 4,8% GDP,
các năm sau giảm dần để đến năm 2015 giảm xuống còn 4,5%; đến năm 2015, nợ
công khoảng 60-65% GDP; tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012 dự kiến tăng
khoảng 12-13% so với năm 2011; nhập siêu 11,5-12% tổng kim ngạch xuất khẩu
(phấn đấu đến năm 2015, nhập siêu khoảng 10%); tổng vốn đầu tư phát triển toàn
xã hội năm 2012 bằng khoảng 33,5-34% GDP, bình quân 5 năm 33,5-35% GDP.
Kết quả đạt được cuối năm 2011, nhất là 6 tháng đầu năm 2012, đã cho thấy
kinh tế Việt Nam đã có dấu hiệu khởi sắc và bắt đầu có tăng trưởng vững chắc.
CPI trong 6 tháng đầu năm 2012 đã ở mức thấp, nếu không có biến cố gì
xảy ra thì CPI cả năm chỉ ở mức 7-8% và sang năm tới còn có thể xuống nữa.
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 26
Về tăng trưởng chúng ta khả năng duy trì được ở mức 6%, đem lại niềm tin
về sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Chỉ số tồn kho có xu hướng giảm dần, từ 34,9% trong tháng 3 giảm xuống
lần lượt là 32,1% và 29,4% trong tháng 4 và tháng 5, đến tháng 6 giảm xuống 26%
so với cùng thời điểm năm trước.
Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản phát triển tương đối ổn định. Giá trị
sản xuất toàn ngành ước tính tăng 3,8%. Trong đó nông nghiệp tăng 3%, lâm
nghiệp tăng 5,7%, thủy sản tăng 5,8%.
Khu vực dịch vụ tiếp tục phát triển khá. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán
lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2012 ước tính tăng 19,5% so
với cùng kỳ năm 2011. Hoạt động du lịch tiếp tục diễn ra sôi động, 6 tháng đầu
năm 2012, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam ước trên 3,36 triệu lượt, tăng
13,9% so với cùng kỳ năm 2011.
Trong 6 tháng đầu năm 2012, cơ bản đã giải quyết việc làm cho khoảng
735.000 lao động, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm 2011, đạt 45,9% chỉ tiêu kế
hoạch năm.
Dấu hiệu phục hồi còn được biểu hiện các góc độ khác nhau, như: tăng trưởng
GDP của quý II với tốc độ cao hơn quý I (4,66% so với 4%). Nhóm ngành công
nghiệp - xây dựng tăng 4,52% so với 2,94% và nhóm ngành dịch vụ tăng 5,83% so
với 5,31%). Ngành công nghiệp nếu quý I tăng 4,03% thì quý II đã tăng cao hơn,
nên tính chung 6 tháng đã tăng 4,76%, trong đó ngành tăng nhiều nhất là công
Biểu đồ chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của các tháng so với cùng kỳ năm 2011
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 27
nghiệp chế biến tăng 3,85% so với tăng 3,04%. Lãi suất huy động đã giảm nhanh
từ 14% xuống còn 9%. Nhập siêu giảm về kim ngạch tuyệt đối, cả về tỷ lệ nhập
siêu, góp phần cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoái hối, ổn định tỷ giá (6
tháng đã giảm 0,8%); giá vàng giảm (6 tháng giảm 7,51%).
Chỉ số giá tiêu dùng cả nước
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 28
Lạm phát đã được kiềm chế, kinh tế vĩ mô bước đầu được ổn định, tăng
trưởng kinh tế đã có dấu hiệu thoát đáy vượt dốc đi lên. Đạt được kết quả trên do
nhiều nguyên nhân, trong đó có yếu tố quan trọng thuộc về mặt điều hành. Mục
tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát đã được đề ra sớm, việc thực hiện đã kiên trì, nhất
quán và quyết liệt. Khi lạm phát đã được kiềm chế, Chính phủ đã liên tục yêu cầu
giảm lãi suất và đã ban hành Nghị quyết 13 về những giải pháp tháo gỡ khó khăn
cho sản xuất, hỗ trợ thị trường, vừa để thực hiện mục tiêu tăng trưởng hợp lý, vừa
phù hợp với nguồn lực, vừa phù hợp với việc khẩn trương đẩy mạnh tái cơ cấu,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng, vừa tránh được việc lặp lại lạm phát cao (hai năm
tăng cao, một năm tăng thấp hơn) trong 8 năm qua.
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 29
PHẦN IV: LỜI KẾT
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều theo đuổi bốn mục tiêu
chung: tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư.
Trong các mục tiêu này, tăng trưởng cao và lạm phát thấp là hai mục tiêu có tầm
quan trọng hàng đầu, quan hệ chặt chẽ với nhau.
Muốn tăng trưởng cao thì phải tăng đầu tư, tăng chi ngân sách, hạ lãi suất
cho vay, kích cầu tiêu dùng, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu…nhưng nếu làm
như vậy thì lạm phát sẽ tăng. Chưa kể các yếu tố bên ngoài tác động như: giá nhập
khẩu tăng làm tăng chi phí đầu vào hay các yếu tố thiên tai, dịch bệnh…vừa làm
tăng chi phí đầu vào, vừa làm giảm nguồn cung, tăng chi ngân sách...
Muốn lạm phát thấp, thì phải thắt chặt chi ngân sách, thắt chặt đầu tư, tăng
lãi suất cho vay, tăng dự trữ bắt buộc…nhưng như thế thì tăng trưởng kinh tế
không cao.
Rõ ràng, lạm phát và tăng trường kinh tế là hai vấn đề có quan hệ rất chặt chẽ,
phức tạp. Lạm phát có thể là động lực thúc đẩy kinh tế và ngược lại cũng có thể là
tác nhân kìm hãm sự phát triển kinh tế. Vì vậy cần chú trọng sự cân đối, mối quan
hệ hài hòa giữa hai vấn đề này. Chỉ có vậy mới đảm bảo sự phát triển bền vững
của Việt Nam trong giai đoạn đổi mới.
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần chấp nhận đánh đổi giữa mục tiêu
kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế, nghĩa là “hy sinh” mục tiêu tăng trưởng
cho mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm được tăng trưởng
ở mức hợp lý, khi có điều kiện thuận lợi phấn đấu đạt mức tăng trưởng có hơn.
Đây là một quyết định khó khăn, nhưng lạm phát hiện tại đã ở mức tiêu cực và ưu
tiên hàng đầu kiềm chế lạm phát là cần thiết và điều này phù hợp với quan điểm,
chủ trương của Chính phủ: "kiềm chế lạm phát là ưu tiên số một, khi có điều kiện
thuận lợi sẽ phấn đấu để đạt mức tăng trưởng cao hơn" trong mục tiêu của năm
2012 và kế hoạch 5 năm 2011 - 2015.
Nhập môn Tài chính – Tiền tệ GVHD: T rương Minh Tuấn
Nhóm 3 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS.Sử Đình Thành, TS. Vũ Thị Minh Hằng, …; Nhập môn Tài chính –
Tiền tệ; Nhà xuất bản Lao động xã hội; 2008.
2. TS. Nguyễn Như Ý, ThS. Trần Thị Bích Dung; Kinh tế vĩ mô; Nhà xuất bản
Thống kê; 2009.
3.
hoc-thong-ke-so-5-nam-2002/1107-gioi-thieu-nguyen-nhan-gay-nen-lam-phat-
theo-quan-diem-cua-mot-so-truong-phai-kinh-te.
4.
chuyen-bien-tich-cuc.htm.
5.
6. Giáo sư James Riedel; Tài liệu Tăng trưởng trong dài hạn và ngắn hạn; Đại
học tổng hợp John Hopskin.
7. Giáo sư James Riedel, TS. Phạm Thị Thu Trà; Kỳ vọng và cái giá phải trả cho
giảm lạm phát ở Việt Nam; Dự thảo tháng 08/2011.
8. Vikesh Gokal và Subrina Hanif; Relationship between Inf lation and Economic
Growth; Economics Department, Reserve Bank of Fiji 04/2004.
9. Th.s Lê Quốc Hưng; Lạm phát Việt Nam - Nguyên nhân căn bản và giải pháp
kiềm chế trong thời gian tới.
10. Nguyễn Trung Chính; Mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát qua kết quả
phân tích tại Việt Nam; Đại học Ngoại thương.
11. Các trang web tham khảo www.worldbank.org, www.mof.gov.vn,
www.imf.org, tạp chí phát triển kinh tế, tạp chí tài chính (2008).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom_3_de_tai_1_doc_1641.pdf