Tóm lại từ những phân tích ở trên cho thấy giữa nợ công và sự tăng trưởng kinh
tế có 1 mối quan hệ mật thiết với nhau.Khi chính phủ vay nợ để bù đắp cho
thâm hụt ngân sách do cắt giảm các nguồn thu từ thuế trong khi mức chi tiêu
công không thay đổi sẽ tác động đến hành vi tiêu dùng của người dân, từ đó hạn
chế tăng trưởng kinh tế, dẫn đến nền kinh tế trì trệ, chậm phát triển .Ngược lại,
xét về mặt tích cực, Chính phủ các quốc gia có thể sử dụng nợ công như là một
công cụ để tài trợ vốn, đáp ứng nhu cầu đầu tư cho các dự án, công trình trọng
điểm quốc gia, khuyến khích phát triển sản xuất, kích thích tăng trưởng kinh tế.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, nợ công vẫn thật sự cần thiết cho nền kinh
tế mọi quốc gia. Bài toán về nợ công vốn phức tạp và hiệu ứng của nó vẫn luôn
là khó lường, chính vì vậy mỗi quốc gia cần phải đánh giá đúng quy mô, năng
lực của mình để có thể hấp thụ một luồng vốn tương ứng, để từ đó chủ động
nhận thức, kiểm soát, quản lý việc vay- sử dụng nợ một cách hợp lý cả trong
ngắn hạn và dài hạn, đảm bảo khả năng thanh toán và xử lý các vấn đề phát
sinh từ nợ công một cách hiệu quả, giảm thiểu các tác động tiêu cực, giữ vững
sự ổn định và phát triển nền kinh tế.
18 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 3254 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 1
Tiểu luận
Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ
giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế
Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 2
LỜI MỞ ĐẦU
Nợ công đang trở thành vấn đề nóng bỏng không chỉ ở riêng Châu Âu, Mỹ,
Nhật Bản mà nhiều nước đang phát triển trên thế giới cũng đang phải đối
mặt, trong đó có Việt Nam. Bộ Tài chính dự kiến nợ công của Việt Nam năm
2011 ở mức khoảng 1.375 nghìn tỷ đồng, tương đương 58,7% GDP. Mặc dù
chỉ số trên vẫn được xem là trong ngưỡng an toàn nhưng nếu không có một
chương trình và kế hoạch quản lý nợ công hiệu quả, đặc biệt là nợ nước ngoài
thì nguy cơ mất kiểm soát nợ công trong tương lai là điều có thể xảy ra.
Nợ công đang đe dọa đến đà phục hồi và sự ổn định của nền kinh tế toàn thế
giới, viễn cảnh của cuộc tái suy thoái kinh tế toàn cầu cũng đã được đặt ra.
Trong khi đó, đối với những quốc gia phát triển và những nền kinh tế thị trường
mới nổi, mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế biểu hiện rõ nhất khi nợ vượt
mức 90-100% GDP; lúc này, nợ càng tăng, tăng trưởng kinh tế giảm đáng kể.
Như vậy, việc đánh giá đúng nợ công và "thực chất" nợ công của một nền kinh
tế, một quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy
cảm. Bởi lẽ, nếu chỉ chú trọng vào con số tỉ lệ nợ công cao một cách thuần tuý
sẽ gây nên hiệu ứng tâm lý dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế
đến bên bờ vực phá sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỉ lệ nợ công còn trong giới
hạn an toàn, mà không phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó
được hình thành như thế nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và
khả năng trả nợ thế nào..., cũng sẽ dễ đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm
hụt ngân sách - "thắt lưng buộc bụng" - tác động tiêu cực đến tăng trưởng.
Trong bài tiểu luận này nhóm 27 phân tích mối quan hệ giữa nợ công và tăng
trưởng kinh tế, tron g qu á t rình ngh iên cứu nh óm hẳn còn nhiều thiếu
s ót , mong nh ận được sự góp ý nhiệt tình từ thầy và các bạn.
Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 3
I. QUAN ĐIỂM VỀ NỢ CÔNG
Tại hầu hết các nước trên thế giới, Luật Quản lý nợ công đều xác định nợ
công gồm nợ của chính phủ và nợ được chính phủ bảo lãnh. Ở một số nước, nợ
công còn bao gồm nợ của chính quyền địa phương ( Đài Loan, Bungari,
Rumani), nợ của doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận ( Thái Lan, Macedonia ).
Tại Việt Nam , theo luật quản lý nợ công được ban hành ngày 29/6/2009
và có hiệu lực từ ngày 01/01/2010: “Nợ công bao gồm: Nợ chính phủ, nợ được
chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương”.
Cũng theo luật này:
Nợ chính phủ: Là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước,
nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh
Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ
quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao
gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực
hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Nợ được Chính phủ bảo lãnh: Là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ
chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo
lãnh.
Nợ chính quyền địa phương: Là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương ( gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh)
ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Như vậy, các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính
phủ (trong cũng như ngoài nước), hay một tập đoàn kinh tế vay nợ nước ngoài
được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công. Trước nay mọi người
thường chỉ nghĩ đến nợ Chính phủ khi nói đến tổng nợ công. Khi Chính phủ
phát hành 1 tỷ đô-la trái phiếu ở nước ngoài, ai cũng biết nó được tính vào tổng
Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 4
nợ công nhưng khi đọc tin một doanh nghiệp thu xếp ký kết một khoản vay 2 tỷ
đô-la với một ngân hàng nước ngoài nào đó, có sự bảo lãnh của Chính phủ, có
thể có người vẫn nghĩ đó là nợ doanh nghiệp, không phải nợ công.
Ngoài ra cần chú ý thêm khái niệm “nợ nước ngoài của quốc gia”: Là
tổng các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ
của doanh nghiệp và tổ chức khác vay theo phương thức tự vay, tự trả (Luật
quản lý nợ công năm 2009). Vốn vay từ ADB hay WB đương nhiên là nợ nước
ngoài rồi nhưng một doanh nghiệp vay từ đối tác nước ngoài vài trăm triệu đô-
la, chẳng hạn, dù có hay không có bảo lãnh của chính phủ, thì khoản tiền đó vẫn
phải tính vào tổng nợ nước ngoài của quốc gia.
Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của chính phủ, khi chi tiêu của
chính phủ lớn hơn số thuế, phí, lệ phí thu được. Do đó, Nhà nước phải đi vay
(trong hoặc ngoài nước) để trang trải thâm hụt ngân sách. Các khoản vay này sẽ
phải hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn, Nhà nước sẽ phải thu thuế tăng lên để bù
đắp. Vì vậy, suy cho cùng nợ công chỉ là sự lựa chọn thời gian đánh thuế: hôm
nay hay ngày mai, thế hệ này hay thế hệ khác. Vay nợ thực chất là cách đánh
thuế dần dần, được hầu hết chính phủ các nước sử dụng để tài trợ cho các hoạt
động chi ngân sách. Nợ chính phủ thể hiện sự chuyển giao của cải từ thế hệ sau
(thế hệ phải trả thuế cao) cho thế hệ hiện tại (thế hệ được giảm thuế).
Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 5
II. TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ - Ý
NGHĨA CỦA NGƯỠNG NỢ VÀ TRẦN NỢ QUỐC GIA
“Nợ công là một trong những nguồn cần thiết của cấu trúc vốn mỗi quốc
gia. Nó góp phần tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn
hạn, nhưng lại gây tổn hại cho nền kinh tế trong dài hạn, do gánh nặng
thực hiện nghĩa vụ trả nợ cả vốn gốc và lãi. Theo tính toán của những nhà kinh
tế học, khi vay nợ tăng vượt ngưỡng 90-100% GDP, tốc độ tăng trưởng kinh tế
sẽ suy giảm với tất cả các nhóm nước, nhóm nước phát triển, mới nổi và cả khu
vực sử dụng đồng tiền chung Châu Âu. Tuy nhiên, môi trường kinh tế khác nhau
lại đưa ra kết quả tác động khác nhau của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế,
minh chứng cụ thể với Nigeria và Nam Phi. Do đó, quản lý nợ công của mỗi
quốc gia đòi hỏi phải dựa trên trần nợ hợp lý, tạo khoảng trống bù đắp những rủi
ro tiềm ẩn phát sinh thông qua tham khảo ngưỡng nợ tính toán được phù hợp
cho mỗi quốc gia. Mức trần nợ nàyđược IMF khuyến nghị là khoảng 35-40%
GDP đối với những nước mới nổi và trong đó có Việt Nam.”
2.1 Tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế - Bằng chứng thực
nghiệm
Khủng hoảng tài chính toàn cầu đưa đến những hậu quả rất nặng nề cho
nền kinh tế thế giới. Kéo theo nhiều vấn đề về quản trị tài chính quốc gia được
lật lại nhưng nổi trội hơn hẳn là vấn đề nợ công. Nhiều vấn đề được đưa trao
đổi: Nguy cơ khủng hoảng nợ công của toàn cầu và nhìn lại nợ công ở Việt
Nam, Chính Phủ cần phải lưu ý những vấn đề gì trong chính sách quản lý nợ
công nói riêng và tài chính công nói chung? Qua nghiên cứu và tìm hiểu những
quan điểm của các nhà kinh tế học trên thế giới, có năm quan điểm như sau:
Thứ nhất:
Nợ công là một nguồn rất cần thiết thuộc cấu trúc vốn tài chính của
các quốc gia, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển, góp phần vào sự
Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 6
phát triển kinh tế đất nước trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn có nguy
cơ gây tổn hại cho nền kinh tế bởi những yêu cầu thanh toán cả vốn gốc
và lãi của nó.
Theo quan điểm của Folorunso S. Ayadi và Felix O. Ayadi
(2008): Nợ là mộttrong những nguồn thuộc cấu trúc vốn tài chính của bất kỳ
một nền kinh tế nào, đặc trưng bởi một cấu trúc vốn nội bộ không thỏa đáng. Do
đó, luôn gặp phải vòng luẩn quẩn của năng suất thấp vì thiếu nguồn vốn đầu tư
nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng, cập nhật công nghệ kỹ thuật, thu nhập thấp,
kéo theo là tiết kiệm cũng thấp và tiếp tục quay lại với cấu trúc vốn nội bộ thiếu
thốn. Vì vậy, lúc này, những kiến thức thuộc về chuyên môn, bộ máy quản lý tài
chính quốc gia và sự hỗ trợ tài chính từ những nước Phương Tây để khắc phục
sự khó khăn về nguồn lực là điều trở nên rất cần thiết. Mặt khác, nợ nước ngoài
như là một sự ràng buộc chính yếu đến cấu trúc vốn của nhữngquốc gia đang
phát triển. Trong đó, nợ dồn tích lại bởi vì những yêu cầu thanh toán cả vốn gốc
và lãi của nó, dần dần nợ không góp phần một cách đáng kể cho sự phát triển
kinh tế tại những đất nước đang phát triển trong dài hạn. Phát triển những ý
tưởng trên.
Theo Elmendorf và Mankiw (1999): Nợ công có ảnh hưởng quan trọng
đến nền kinh tế cả trong ngắn và dài hạn. Các khoản nợ (phản ánh tài trợ thâm
hụt) có thể kích thích tổng cầu và sản lượng trong ngắn hạn, đáp ứng nhu cầu
huy động vốn của những cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế. Nợ công cao có
thể ảnh hưởng bất lợi đến tích lũy vốn và tăng trưởng thông qua lãi suất dài hạn
cao hơn, bóp méo hệ thống thuế trong tương lai cao hơn, lạm phát và sự không
chắc chắn cao hơn về các triển vọng và chính sách.
Thứ hai:
Đối với những quốc gia phát triển và những nền kinh tế thị trường
mới nổi, mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế biểu hiện rõ
Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 7
nhất khi nợ vượt mức 90-100% GDP; lúc này, nợ càng tăng, tăng trưởng
kinh tế giảm đáng kể.
Theo M. Reinhart và S. Rogoff : Đã xem xét mối quan hệ giữa nợ công
và tăng trưởng kinh tế với các mức độ khác nhau của nợ công ở những nền kinh
tế tiên tiến và mới nổi. Nghiên cứu gần đây được thực hiện bởi hai tác giả này,
thông qua thống kê tương quan đơn giản về những mức khác nhau của nợ công
và tốc độ tăng trưởng GDP thực dài hạn trong mẫu 20 quốc gia phát triển trải dài
khoảng hai thế kỷ (1790 – 2009), và mẫu 24 nền kinh tế thị trường mới nổi giai
đoạn 1946 - 2009 nhận thấy rằng:
(i) Mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng dài hạn thì yếu đối với tỷ số
nợ/GDP dưới ngưỡng90% GDP;
(ii) Trên 90%, khi nợ tăng, tốc độ tăng trưởng giảm đáng kể. Như vậy,
đâychính là điểm mấu chốt trong việc đề ra những chính sách quản lý nợ
công và trần nợ công phù hợp cho mỗi quốc gia dựa vào ngưỡng nợ cảnh
báo. Từ đó, tránh vay mượnquá đà, rơi vào trạng thái mất khả năng chi
trả và ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởngkinh tế.
Thứ ba:
Có thể xem xét sự tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế
thông qua dữ liệu nợ nước ngoài cùng với những rủi ro và hệ lụy mà nó
đưa lại: sự không khuyến khích đầu tư, giới hạn sự tham gia của các quốc
gia đang phát triển với nền kinh tế toàn cầu, sự trống rỗng trong dự trữ
ngoại hối quốc gia, cứng nhắc trong chính sách tiền tệ và chính sách tài
khóa.
Một số nghiên cứu của Krugman (1988) và Sachs (1989): Đã xem
xét tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế thông qua sự tác động của
một yếu tố đóng vai trò quan trọng: Đó là nợ nước ngoài. Hầu hết động cơ của
các nghiên cứu này là giả thuyết "số dư nợ quá mức" – một tình huống
Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 8
trong đó, gánh nặng nghĩa vụ nợ của một quốc gia là quá nặng đến nỗi một phần
sản lượng lớn phải tích lũy cho các chủ nợ nước ngoài và do đó gây nên sự
không khuyến khích đầu tư.
Theo đánh giá của Ayadi (1999) và các cộng sự (2003): Gánh nặng nợ
nước ngoài đã giới hạn sự tham gia của những quốc gia đang phát triển với nền
kinh tế toàn cầu và kèm theo đó là những nghĩa vụ nợ đã gây trở ngại đến
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Hơn thế nữa, gánh nặng nợ quốc gia
gây cản trở chi tiêu công cho đầu tư phát triển, hạn chế việc tích lũy nguồn vốn
và có khuynh hướng cản trở áp dụng những chính sách tiền tệ linh hoạt để củng
cố những doanh nghiệp vừa và nhỏ do nguồn thu được phải đáp ứng phần lớn
nghĩa vụ nợ cả gốc và lãi. Điều này đã ảnh hưởng một cách gián tiếp đến việc
làm, học vấn và sự bần cùng, nghèokhó của người dân trong một quốc gia.
Thứ tư:
Tăng trưởng kinh tế, tiết kiệm và đầu tư có mối quan hệ với
nhau, khi vốn nội địa không đủ để tài trợ cho chi tiêu đầu tư trong nước
thì vay nợ là tất yếu để phục vụ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, vay nợ luôn
kèm theo những rủi ro do lãi suất, thời hạn, cơ cấu vay mượn, gây ảnh
hưởng tiêu cực lên tăng trưởng kinh tế, do đó vấn đề quản lý nợ hiệu quả
đang trở nên cấp thiết.
Theo Hunt (2007): Sự tăng lên trong tiết kiệm và đầu tư của nền kinh tế
dẫn đến tăng trưởng kinh tế. Sachs (2002) tranh luận rằng sự tăng trưởng
sẽ không tăng cho đến khi tổng lượng vốn tăng đạt đến một ngưỡng nhất
định. Lý thuyết “dual-gap” nói rằng đầu tư là một hàm của tiết kiệm, và trong
những quốc gia đang phát triển, mức độ tiết kiệm nội địa không đủ để tài trợ cho
đầu tư cần thiết để đảm bảo phát triển kinh tế và thật hợp lý khi tìm kiếm sử
dụng những sản phẩm và dịch vụ từ bên ngoài.
Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 9
Colaco (1985): Đã giải thích tính chất nhạy cảm của việc thanh
toán nợ đối với những nước đang phát triển thông qua sử dụng ba kịch bản:
(i) Quy mô khoản nợ nước ngoài đạt đến một mức độ mà lớn hơn so với vốn
tự có, dẫn đến sự không cân bằng giữa nợ và vốn tự có;
(ii) Tỷ lệ nợ với lãi suất thả nổi tăng đột ngột, vì vậy những người vay mượn
phải đối mặt trực tiếp với việc lãi suất tăng cao;
(iii) Thời hạn vay rút ngắn đáng kể, một phần bởi vì sự giảm đi của những
nguồn chính thức. Do đó, điều cần tham khảo ở đây chính là xác định
đúng những yếu tố thuộc môi trường quản lý nợ công của mỗi quốc gia,
đặctrưng vốn có của chúng để có thể đề ra được chính sách quản lý phù
hợp: môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán nợ công, vấn đề thực hiện
minh bạch và chống tham nhũng, quy trình ra quyết định khi vay nợ và
xét duyệt dự án.
Thứ năm:
Nợ tích lũy theo thời gian và dòng chi trả nợ đã gây cản trở lớn đến
tăng trưởng kinh tế do những trở ngại thuế khóa, bất ổn vĩ mô và sự giảm
bớt chi tiêu cho đầu tư phát triển của Chính Phủ.
Cohen (1993) và Clements (2003): Cũng làm vững thêm cho tác động đã
nói ở trên của nợ, như họ quan sát thấy tác động tiêu cực của nợ lên tăng trưởng
không chỉ thông qua sự tồn đọng của nợ, mà còn thông qua dòng chi trả nợ, điều
mà giống như sự giảm bớt chi tiêu cho đầu tư Chính Phủ. Điều này rất quan
trọng cho việc đánh giá, xem xét vì chi tiêu công được xem là yếu tố quyết định
chủ yếu của các hoạt động kinh tế trong nhiều vấn đề chức năng. Nợ tích lũy
làm giảm sức mạnh của nền kinh tế và bất ổn định vĩ mô. Trở ngại thuế khóa
nghĩa là tồn nợ lớn không khuyến khích đầu tư vì những người đầu tư tiềm năng
nhận thấy rằng sẽ có thuế cao hơn trên thu nhập tương lai để tạo nên khoản hoàn
trả nợ. Bất ổn vĩ mô có liên quan đến việc gia tăng thiếu hụt tài chính, không
Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 10
chắc chắn do sự huy động vốn bất thường, sự suy giảm giá trị đồng nội tệ, mở
rộng tiền tệ và lạm phát dự đoán.
2.2 Ý nghĩa của ngưỡng nợ và trần nợ Quốc gia.
Theo quan điểm thứ hai: Khi nợ công vượt ngưỡng 90% GDP thì tăng
trưởng kinh tế sẽ giảm – Bằng chứng ở các nước phát triển, mới nổi và nhóm
nước sử dụng đồng tiền chung châu Âu
Nhóm nước phát triển
Hình 1: Nợ công, tăng trưởng và lạm phát: Những thị trường mới nổi được chọn
lọc,1946-2009.Nguồn: IMF, World Economic Outlook, World Bank, Global
Development Finance, and Reinhart and Rogoff (2009b) và những nguồn được
trích dẫn tại đó
Sau đây là mối quan hệ giữa tỷ lệ tăng trưởng GDP và các mức nợ khác
nhau của 20 nước phát triển trong khoản gthời gian 1946 - 2009. Quan sát hàng
Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 11
năm được gộp thành 4 nhóm, dựa theo tỷ lệ nợ trên GDP trong suốt phạm vi
quan sát, cụ thể như: những năm khi nợ công/GDP dưới 30% (nợ thấp) , những
năm mà nợ công/GDP từ 30% đến 60% (nợ trung bình), 60 đến 90% (nợ cao),và
trên 90% (rất cao).
Có tổng số 1142 quan sát hàng năm, cụ thể là: 502 quan sát cho
Nợ/GDP dưới 30%, 385 cho Nợ/GDP từ 30 đến 60%, 145 cho Nợ/GDP từ
60 đến 90%, và 110 cho Nợ/GDP trên 90%. Đáng ngạc nhiên là mối quan
hệ giữa nợ công và tăng trưởng thì tương tự nhau một cách đáng chú ý ở cả
những thị trường mới nổi lẫn những nền kinh tế phát triển.Trong giai đoạn 1946
đến 2009, tốc độ tăng trưởng trung vị và bình quân xấp xỉ khoảng 4 - 4,5% cho
tất cả những mức độ nợ khoảng 90% GDP. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng GDP
trung vị giảm mạnh còn 2,9% đối với tỉ lệ nợ trên 90%, sự sụt giảm này còn lớn
hơn khi xét đến tốc độ tăng trưởng bình quân, giảm chỉ còn 1%. Như vậy, đối
với những nước mới nổi, tỷ lệ nợ có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế nhiều
nhất cũng được tìm thấy là mức 90% GDP. Do đó, có thể nói, mức nợ 90% GDP
là mức nợ đe dọa chung đến tăng trưởng kinh tế của tất cả các nhóm nước, từ
đó, giúp các Chính Phủ có thể nhận định được ngưỡng nợ trung bình tác động
tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế trên thế giới.Tuy nhiên, những kết quả trên
được tính toán cho trung bình các quốc gia, do đó, chưa kể đến môi trường kinh
tế đặc trưng, chính sách quản lý và điều hành đất nước của mỗi Chính Phủ, do
đó, việc phân tích những đặc trưng riêng cho mỗi nước là điều cần thiếtvà
ngưỡng nợ của mỗi quốc gia sẽ thay đổi khác nhau. Khu vực sử dụng đồng tiền
chung Châu Âu Cuộc khủng hoảng 2008 - 2009 đã tạo ra những căng thẳng
đáng kể lên lĩnh vực tài chính công trong khu vực đồng tiền chung châu Âu, cụ
thể là nợ công của mỗi quốc gia. Nhiều nước trong Liên Minh Châu Âu và khu
vực đồng tiền chung châu Âu đang ở mức rủi ro cao có liên quan đến việc duy
trì ổn định tài chính. Nợ công tăng lên đáng kể qua nhiều thập niên và xu hướng
này càng được thấy rõ khi quan sát sự mở rộng trong quy mô của Chính Phủ.
Đối với nhiều nước công nghiệp, tăng trưởng tổng chi tiêu Chính Phủ thì
Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 12
khổng lồ trong thế kỷ 20. Vào cuối giai đoạn hiện nay, tỷ lệ nợ công/GDP
trung bình là 79% đối với những Chính Phủ cỡ lớn, 60% đối với những Chính
Phủ cỡ vừa và 53% đối với Chính Phủ cỡ nhỏ.Khủng hoảng kinh tế và tài chính
có khuynh hướng đóng góp vào việc gia tăng nợ, cuộc khủng hoảng
2008-2009 đã tạo những căng thẳng đáng kể lên nợ, và tổng quát, lên lĩnh vực
tài chính công ở các nước trong khu vực đồng tiền chung Châu Âu. Tỷ lệ thâm
hụt chính phủ khu vực này được ước tính tăng lên nhanh chóng từ 0,6% GDP
năm 2007 lên đến 6,6% GDP năm 2011, trong khi tỷ lệ tổng nợ chính phủ được
cho là bùng phát từ 66,0% đến 88,5% GDP trong suốt cùng một giai đoạn. Nhìn
chung, sự duy trì ổn định tài chính dài hạn trong khu vực đồng tiền chungchâu
Âu đã trở nên xấu hơn một cách rõ rệt và nhiều nhận định rằng những ảnh
hưởng như thế sẽ tiếp tục kéo dài trong trung và dài hạn. Dựa theo bản báo cáo
mới nhất về sự bền vững của Hội đồng Châu Âu, nhiều quốc gia trong khu vực
đồng tiền chung và Liên Minh Châu Âu (8 nước trong khu vực đồng tiền chung
và 13 nước trong Liên Minh châuÂu) đang ở mức rủi ro cao về sự duy trì ổn
định tài chính. Điều này phản ánh sự thâm hụt tài chính lớn hiện tại, dự đoán về
khả năng tăng trưởng GDP bị chế ngự. Như vậy, chúng ta đều biết mức nợ kìm
hãm tăng trưởng kinh tế cho hầu hết các nước trên thế giới đều ở ngưỡng 90 –
100% GDP.
Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 13
Hình 2: Nợ công, tăng trưởng và lạm phát: những thị trường mới nổi được chọn
lọc,1946-2009.Nguồn: IMF, World Economic Outlook, World Bank, Global
Development Finance, and Reinhart and Rogoff (2009b) và những nguồn được
trích dẫn tại đó
Khi nợ công quá lớn cũng sẽ đặt các quốc gia vào tình trạng khó khăn:
Khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách
"thắt lưng buộc bụng" để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng
để được nhận sự hỗ trợ cần thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế, thế nhưng, "thắt
lưng buộc bụng" lại dẫn tới những cuộc biểu tình phản đối của quần chúng, gây
căng thẳng, bất ổn chính trị, xã hội, bởi những người nghèo, những người yếu
thế trong xã hội là những người bị tác động mạnh nhất từ chính sách cắt giảm
Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 14
phúc lợi, cắt giảm chi tiêu của chính phủ. Chẳng hạn, để được nhận gói cứu trợ
nhằm giải quyết khủng hoảng nợ, Chính phủ Hy Lạp đã phải quyết định tăng
nhiều loại thuế, từ thuế giá trị gia tăng đến thuế thu nhập, thuế bất động sản; và
đánh thuế vào nhiều sản phẩm như rượu, thuốc lá..., đồng thời chấp nhận áp
dụng các biện pháp cắt giảm chi tiêu mạnh tay. Để phản đối chính sách này của
chính phủ, các cuộc tổng đình công đã diễn ra, hàng chục ngàn người đã tham
gia biểu tình trên khắp đất nước Hy Lạp, nhất là tại thủ đô A-ten. Năm 2001,
Ác-hen-ti-na đã phải đối mặt với tình trạng rối loạn nghiêm trọng do các làn
sóng biểu tình khắp nơi phản ứng các biện pháp "thắt lưng buộc bụng", để rồi
Tổng thống Ác-hen-ti-na khi đó là ông Féc-nan-đô đơ la Rua đã phải từ chức, và
4 ngày sau đó, người kế nhiệm là A-đôn-phơ Rô-ri-get Saa phải tuyên bố tình
trạng vỡ nợ quốc gia, với khoản nợ 90 tỉ USD - mức nợ lớn nhất trong lịch sử
đất nước này.
Trong thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi khủng
hoảng, bắt đầu có dấu hiệu phục hồi do kết quả của các gói kích thích kinh tế mà
chính phủ các nước đã chi ra trong những năm trước đây, thì việc cắt giảm chi
tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm
chậm tốc độ tăng trưởng, thậm chí có thể đẩy nền kinh tế vào "khủng hoảng
kép". Nghiêm trọng hơn, việc tung ra các gói kích thích kinh tế chính là một
trong những nguyên nhân làm tăng nợ công của các chính phủ, vậy nếu như
khủng hoảng "tái xuất" thì liệu các chính phủ có còn đủ khả năng xoay xở, cứu
vãn nền kinh tế của mình? Vấn đề đặt ra cho các chính phủ là phải chèo lái để
giải quyết được thâm hụt ngân sách nhưng không đẩy nền kinh tế trở lại tình
trạng suy thoái, trong khi các biện pháp để giải quyết hai vấn đề này lại có tác
động không thuận chiều.
Khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo
cáo của các tổ chức chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia khác,
niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành
Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 15
mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế. Thí dụ, đối với Hy Lạp, khi tổ
chức xếp hạng tín dụng Standard & Poor's hạ bậc tín nhiệm đối với trái phiếu
chính phủ của A-ten, các quỹ đầu tư lớn lập tức bán ra loại trái phiếu này, đồng
thời từ chối mua vào trong các đợt phát hành tiếp theo. Nếu chính phủ muốn huy
động tiền từ thị trường tài chính sẽ phải chấp nhận chi phí vốn cao hơn và sau
đó, rơi vào vòng xoáy: tiếp tục bị tụt bậc tín nhiệm. Việc đưa ra xếp hạng tín
nhiệm trong thời điểm nhạy cảm, dễ tổn thương của nền kinh tế có nguy cơ làm
cho cuộc khủng hoảng thêm trầm trọng, có tác dụng như một "cú huých", đẩy
nền kinh tế lún sâu thêm vào khó khăn, bế tắc.
Việc căn cứ vào mức nợ công trên GDP để xác định tình trạng nợ công là
hết sức quan trọng, tuy nhiên, điều quan trọng không kém là phân tích "thực
chất" nợ công. Đó là: nợ chính phủ là vay nợ trong nước hay vay nợ nước
ngoài; tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, hay tình trạng "sức khoẻ" nói
chung của nền kinh tế; Lượng dự trữ quốc gia... Chẳng hạn, hiện nay, dư
luận đang lo ngại liệu Nhật Bản có thể trở thành "một Hy Lạp thứ hai", thế
nhưng, một số nhà phân tích, khi phân tích nợ công của Nhật Bản đã cho thấy có
sự khác biệt khá lớn giữa nợ công của nước này với nợ công của Hy Lạp, thể
hiện ở chỗ, 95% trái phiếu chính phủ của Nhật Bản do người dân nước này nắm
giữ, trong khi 70% nợ chính phủ Hy Lạp do người nước ngoài nắm giữ. Bên
cạnh đó, Nhật còn tự chủ về tỉ giá hối đoái, dự trữ ngoại tệ của Nhật cũng ở mức
rất cao (theo con số mà Bộ Tài chính Nhật Bản công bố ngày 12-5, tính đến cuối
tháng 4-2010, dự trữ quốc gia của Nhật là 1.046,873 tỉ USD). Do vậy, nền kinh
tế Nhật Bản, mặc dù ngoài nợ công cao còn đứng trước nhiều khó khăn khác
nữa, nhưng vẫn được dự báo là khó có thể trở thành mục tiêu tấn công của giới
đầu cơ quốc tế. Như vậy, việc đánh giá đúng nợ công và "thực chất" nợ công của
một nền kinh tế, một quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời
điểm nhạy cảm. Bởi lẽ, nếu chỉ chú trọng vào con số tỉ lệ nợ công cao một cách
thuần tuý sẽ gây nên hiệu ứng tâm lý hoang mang, kích động, thiếu tin tưởng,
làm gia tăng căng thẳng xã hội, bị giới đầu cơ lợi dụng tấn công, dễ gây rối loạn
Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 16
nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên bờ vực phá sản. Ngược lại, nếu
yên tâm với tỉ lệ nợ công còn trong giới hạn an toàn, mà không phân tích cẩn
trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình thành như thế nào, bằng cách
nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả nợ thế nào..., cũng sẽ dễ đẩy
nền kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách - "thắt lưng buộc bụng" - tác
động tiêu cực đến tăng trưởng.
Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 17
KẾT LUẬN
Tóm lại từ những phân tích ở trên cho thấy giữa nợ công và sự tăng trưởng kinh
tế có 1 mối quan hệ mật thiết với nhau.Khi chính phủ vay nợ để bù đắp cho
thâm hụt ngân sách do cắt giảm các nguồn thu từ thuế trong khi mức chi tiêu
công không thay đổi sẽ tác động đến hành vi tiêu dùng của người dân, từ đó hạn
chế tăng trưởng kinh tế, dẫn đến nền kinh tế trì trệ, chậm phát triển .Ngược lại,
xét về mặt tích cực, Chính phủ các quốc gia có thể sử dụng nợ công như là một
công cụ để tài trợ vốn, đáp ứng nhu cầu đầu tư cho các dự án, công trình trọng
điểm quốc gia, khuyến khích phát triển sản xuất, kích thích tăng trưởng kinh tế.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, nợ công vẫn thật sự cần thiết cho nền kinh
tế mọi quốc gia. Bài toán về nợ công vốn phức tạp và hiệu ứng của nó vẫn luôn
là khó lường, chính vì vậy mỗi quốc gia cần phải đánh giá đúng quy mô, năng
lực của mình để có thể hấp thụ một luồng vốn tương ứng, để từ đó chủ động
nhận thức, kiểm soát, quản lý việc vay- sử dụng nợ một cách hợp lý cả trong
ngắn hạn và dài hạn, đảm bảo khả năng thanh toán và xử lý các vấn đề phát
sinh từ nợ công một cách hiệu quả, giảm thiểu các tác động tiêu cực, giữ vững
sự ổn định và phát triển nền kinh tế.
Nhóm 27 GVHD: Trương Minh Tuấn
Đề Tài 5: Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công và t ăng trưởng kinh t ế 18
Tài liệu tham khảo:
[1]
XHCN/2012/16541/No-cong-cua-Viet-Nam-Nhung-van-de-va-tac-dong-
tiem.aspx
[2]
sutacdong.pdf
[3]
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ti_u_lu_n_1665.pdf