Tiểu luận Tóm lượt lý thuyết mối quan hệ giữa kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và thị giá chứng khoán
Lý thuyết “thị trường biến động ngẫu nhiên” (Random Walk) cho
rằng diễn biến của giá trong tương lai là hoàn toàn ngẫu nhiên và không
phụ thuộc, quan hệ với bất cứ yếu tố nào. Như vậy theo lý thuyết này sẽ
không có cơ sở cho chúng ta dự đoán điệu nhảy sắp tới của thị giá.
Thế nhưng những chuyên gia theo hai trường phái khác nhau chứng
minh rằng họ có thể dự đoán được xu hướng giá với số lần đúng “nhỉnh”
hơn số lần sai.
Trường phái thứ nhất là trường phái phân tích kỹ thuật. Trường phái
này tuân theo ba nguyên tắc cơ bản: giá thể hiện tất cả mọi thông tin - nghĩa
là đường đen không tồn tại, còn nếu tồn tại thì nó phải trùng với đường
xanh; giá có khuynh hướng tiếp tục xu hướng lên hay xuống của nó - giống
một người đang chuyển động qua trái thì có khuynh hướng đi tiếp hướng
đó hơn là quay lại và đi sang phải; và những gì xảy ra trong quá khứ sẽ lập
lại trong tương lai - vì chúng thể hiện một số tâm lý nhất định của con
người và đám đông.
Dựa vào đó, trường phái này tạo ra nhiều công cụ trợ giúp như đồ
thị, đường xu hướng, mẫu hình, các đường chỉ báo. giúp các nhà phân tích
dự đoán xu hướng giá trong tương lai.
9 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2369 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tóm lượt lý thuyết mối quan hệ giữa kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và thị giá chứng khoán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐH KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA KẾ TOÁN
LỚP VB 15KT002
BÀI TIỂU LUẬN
Môn: TÀI CHÍNH – TIỀN TỆ
Đề tài:(câu 8)
Tóm lượt lý thuyết mối quan hệ giữa kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp và thị giá chứng khoán.
Giáo viên giảng dạy: Trương Minh Tuấn
Sinh viên thực hiện (nhóm 35):
Nguyễn Minh Tiến Mssv: 33121021595
Tô Minh Đức Mssv: 33121021600
Trần Nhật Cường Mssv: 33121021559
Đặng Quang Trung Mssv:
Phạm Quang Huy Mssv:
TP.HCM 11/2012
Trang 2/9
LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện kinh tế hiện nay, nền kinh tế nước ta đã chuyển đổi
từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường. Sự thay đổi này đã làm thay đổi
mạnh mẽ nền kinh tế. Để duy trì và phát triển doanh nghiệp của mình thì
trước hết đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải có hiệu quả.
Không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh,
không chỉ là mối quan tâm của bất kỳ ai mà là mối quan tâm của tất cả mọi
người, mọi doanh nghiệp. Khi làm bất cứ điều gì. Đó cũng là vấn đề bao
trùm và xuyên suốt, thể hiện trong công tác quản lý, bởi suy cho cùng quản
lý kinh tế là để đảm bảo tạo ra kết quả và hiệu quả cao nhất trong quá
trình sản xuất kinh doanh. Tất cả những cải tiến, những đổi mới về nội
dung, phương pháp, biện pháp áp dụng trong quản lý chỉ thực sự đem lại ý
nghĩa khi chúng làm tăng được hiệu quả kinh doanh, không những là thước
đo về chất lượng, phản ánh tổ chức, quản lý kinh doanh, mà còn là vấn đề
sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn tồn tại và vươn lên thì
trước hết đòi hỏi kinh doanh phải có hiệu quả. Hiệu quả sản xuất kinh
doanh càng cao, doanh nghiệp càng có điều kiện tái sản xuất mở rộng, đầu
tư nâng cấp máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ tiên tiến hiện đại. Kinh
doanh có hiệu quả là tiền đề nâng cao phúc lợi cho người lao động, kích
thích người lao động tăng năng suất lao động và là điều kiện nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh.
Như vậy hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế, biểu
hiện sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, nó phản ánh trình độ khai thác và
sử dụng các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục
tiêu kinh doanh, với chi phí bỏ ra ít nhất mà đạt hiệu quả cao nhất.
Trang 3/9
1. Khái niệm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh:
Kinh doanh là việc thực hiện một số hoặc thực hiện tất cả các công
đoạn của quá trình từ đầu tư sản xuất đến tiêu thụ hoặc thực hiện dịc vụ
trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Các doanh nghiệp quan tâm nhất
chính là vấn đề hiệu quả sản xuất. Sản xuất kinh doanh có hiệu quả giúp
cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Hiểu theo mục đích cuối cùng thì
hiệu quả kinh doanh đồng nghĩa với phạm trù lợi nhuận, là hiệu số giữa kết
quả thu về với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh cao hay thấp phụ thuộc vào trình độ tổ chức sản xuất và
qủa lý của mỗi doanh nghiệp .
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù kinh tế, gắn với cơ chế thị
trường có quan hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh
như: lao động, vốn, máy móc, nguyên vật liệu . nên doanh nghiệp chỉ có
thể đạt hiệu quả cao khi việc sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh
doanh có hiệu quả. Khi đề cập đến hiệu quả kinh doanh nhà kinh tế dựa vào
từng góc độ xem xét để đưa ra các định nghĩa khác nhau.
Đối với các doanh nghiệp để đạt được mục tiêu sản xuất kinh doanh
cần phải trú trọng đến điều kiên nội tại, phát huy năng lực hiệu quả của các
yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh là phải sử dụng các yếu tố đầu vào hợp lý nhằm đạt
được kêts quả tối đa và chi phí tối thiểu. Tuy nhiên để hiểu rõ bản chất của
hiệu quả cũng cần phân biệt khái niệm hiệu quả và kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh .
Ta có thể rút ra khái niệm về hiệu quả như sau: “ Hiệu quả là sự so
sánh kết quả đầu ra và yếu tố nguồn lực đầu vào”. Sự so sánh đó có thể là
sự so sánh tương đối và so sánh tuyệt đối.
Kết quả đầu ra thường được biểu hiện bằng GTTSL, DT, LN
Trang 4/9
Yếu tố nguồn lực đầu vào là lao động, chi phí , tài sản và nguồn vốn
Bên cạnh đó người ta cũng cho rằng “ Hiệu quả kinh doanh là phạm trù
kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực và trình
độ chi phí nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục
tiêu kinh doanh”. Hiệu quả sản xuất kinh doanh ngày nay càng trở lên quan
trọng đối với tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc
thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Hiệu quả tuyệt đối được xác định như sau:
A = K – C
Trong đó:
A: Hiệu quả sản xuất kinh doanh
K: Kết quả thu được
C: Nguồn lực đầu vào
Nếu căn cứ vào nguồn lực bỏ ra để thu kết quả thì chỉ tiêu hiệu quả
tương đối được xác định:
K
A = ------
C
Ta có thể hiểu:
Kết quả đầu ra được đo bằng các chỉ tiêu sau: GTTSL, Tổng DT, LN
.
Hệ thống các chỉ tiêu hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Để đánh giá chính xác và có cơ sở khoa học về hiệu quả sản xuất kinh
Trang 5/9
doanh của doanh nghiệp , cần phải xây dựng hệ thống các chỉ tiêu phù hợp
bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu chi tiết. Các chỉ tiêu này đã
phản ánh được sức sản xuất, sức sinh lợi cũng như sức hao phí của từng
yếu tố, từng loại vốn và phải thống nhất với công thức đánh giá hiệu quả
chung.
2. Thị giá chứng khoán
Theo Warren Buffett, nhà đầu tư hàng đầu trên thế giới, thì thị giá là
số tiền chúng ta bỏ ra để sở hữu cổ phiếu.
Còn giá trị (còn gọi là giá trị nội tại) là những gì chúng ta nhận được
từ cổ phiếu đó.
Trên đồ thị, đường xanh biểu diễn thị giá của cổ phiếu. Đây chính là
đường tập hợp của những giá đóng cửa đã điều chỉnh của cổ phiếu ABC.
Giá đóng cửa này sẽ được điều chỉnh mỗi khi công ty ABC chia cổ tức,
thưởng cổ phiếu hay bán cổ phiếu giá đặc biệt cho nhà đầu tư.
Còn đường đen là đường thể hiện giá trị nội tại của cổ phiếu ABC.
Đây chính là giá trị hiện tại của toàn bộ dòng tiền mà chúng ta nhận được
từ cổ phiếu đó.
Có thể thấy rằng đường đen khá ổn định, ít lên và xuống nhiều.
Trong khi đó đường xanh biến động khá nhiều, và hai đường này khá tách
biệt nhau.
Lý thuyết về tính hiệu quả của thị trường (Efficient market
hypothesis)
Lý thuyết “thị trường hiệu quả dạng mạnh” (strong-form) cho rằng
tất cả mọi thông tin - đại chúng và riêng biệt - về giá trị cổ phiếu sẽ thể hiện
qua thị giá. Nghĩa là hai đường xanh và đen này sẽ luôn trùng nhau.
Trang 6/9
Những nhà đầu tư theo phái giá trị, tiêu biểu như Benjamin Graham
và Warren Buffett không bao giờ đồng ý với lý thuyết “thị trường hiệu quả
dạng mạnh”. Vì nếu đúng như thế thì nguyên tắc đầu tư giá trị: mua cổ
phiếu khi thị giá của nó thấp hơn giá trị nội tại (under priced) sẽ không đem
lại một lợi nhuận nào cả.
Thực tế cho thấy đến thời điểm này chưa có thị trường nào trên thế
giới đạt được hiệu quả dạng mạnh.
Lý thuyết “thị trường hiệu quả dạng mạnh trung bình” (semi-strong)
cho rằng mọi thông tin đại chúng về giá trị cổ phiếu sẽ thể hiện qua thị giá.
Do vẫn còn những thông tin riêng biệt không thể hiện vào thị giá, hai
đường xanh và đen có dạng giống nhau và rất gần nhau nhưng không hoàn
toàn trùng nhau.
Theo IBSE, McKinsey, đồ thị hai đường giá trị và thị giá trong thời
gian từ 1962-2002 của một công ty đại điện cho các công ty niêm yết trên
thị trường chứng khoán Mỹ có dạng gần trùng nhau. Chúng chỉ tách ra xa
khi có những sự cố lớn.
Ví dụ vào những năm 1998-2001, khi xảy hiện tượng dot.com,
đường đen giá trị hơi đi xuống, trong khi đó đường xanh lại vượt hẳn lên.
Thị trường chứng khoán Mỹ, châu Âu là những thị trường hiệu quả dạng
mạnh trung bình.
Lý thuyết “thị trường hiệu quả dạng yếu” (weak-form) cho rằng thị
giá chỉ thể hiện những thông tin cơ bản của quá khứ và hiện tại, nhưng
không thể hiện được những thông tin dự đoán trong tương lai. Kết quả là
hai đường này, giống như đồ thị vẽ bên trên, mặc dù có khi biến động
giống nhau, nhưng hầu như là tách biệt nhau.
Trang 7/9
Với kinh nghiệm đối với những thị trường mới phát triển khác,
chúng ta có thể tạm chấp nhận thị trường chứng khoán Việt Nam đang ở
dạng hiệu quả yếu.
Những yếu tố làm nên điệu nhảy của thị giá
Vế cơ bản thị giá thể hiện giá trị của cổ phiếu. Do đó những gì làm
thay đổi giá trị nội tại của cổ phiếu, như tình hình kinh tế vĩ mô, tình hình
ngành, tình hình kinh doanh, sức khỏe tài chính của công ty, năng lực của
ban lãnh đạo, tiềm năng phát triển công ty... cũng sẽ làm thay đổi thị giá.
Tuy vậy, còn có một yếu tố khác quan trọng hơn ảnh hưởng mạnh
mẽ đến thị giá, đó là kỳ vọng khác nhau của từng người tham gia thị trường
và hiệu ứng của tâm lý đám đông.
Cùng một thông tin trên thị trường nhưng có khi người này tiếp nhận
được, người khác không tiếp nhận được, và sự cảm nhận, diễn dịch của họ
về thông tin cũng khác nhau. Nếu sự diễn dịch của họ là lạc quan thì họ sẽ
gia nhập lực lượng lạc quan và nếu ngược lại họ sẽ gia nhập vào lực lượng
bi quan.
Khi số tiền giao dịch - thể hiện kỳ vọng - của hai lực lượng bằng
nhau thì giá sẽ giằng co, nhưng khi số tiền giao dịch của hai lực lượng này
khác nhau thì sẽ làm cho giá lên hoặc xuống.
Khi có một bên thắng thế một cách rõ ràng trong thời gian dài, một
đám đông đa số đã được thành lập.
Đám đông này - khác hẳn với đám đông được tổ chức - chỉ biết nhau
qua những thông tin truyền miệng, qua phương tiện thông tin đại chúng,
qua những lệnh đặt mua bán trên bảng điện tử... Đám đông này tạo ra
những hành động chung và hầu hết những cá nhân sẽ có xu hướng hành
động theo hành động chung này. Đó chính là hiệu ứng tâm lý đám đông.
Trang 8/9
Khi đó xu hướng giá diễn ra một chiều và rất mạnh mẽ, không gì
ngăn cản nổi cho đến khi đám đông đổi suy nghĩ từ lạc quan, tham lam qua
bi quan, sợ hãi (hoặc ngược lại), lúc đó thị giá sẽ xoay chiều.
Có thể dự đoán điệu nhảy của thị giá?
Lý thuyết “thị trường biến động ngẫu nhiên” (Random Walk) cho
rằng diễn biến của giá trong tương lai là hoàn toàn ngẫu nhiên và không
phụ thuộc, quan hệ với bất cứ yếu tố nào. Như vậy theo lý thuyết này sẽ
không có cơ sở cho chúng ta dự đoán điệu nhảy sắp tới của thị giá.
Thế nhưng những chuyên gia theo hai trường phái khác nhau chứng
minh rằng họ có thể dự đoán được xu hướng giá với số lần đúng “nhỉnh”
hơn số lần sai.
Trường phái thứ nhất là trường phái phân tích kỹ thuật. Trường phái
này tuân theo ba nguyên tắc cơ bản: giá thể hiện tất cả mọi thông tin - nghĩa
là đường đen không tồn tại, còn nếu tồn tại thì nó phải trùng với đường
xanh; giá có khuynh hướng tiếp tục xu hướng lên hay xuống của nó - giống
một người đang chuyển động qua trái thì có khuynh hướng đi tiếp hướng
đó hơn là quay lại và đi sang phải; và những gì xảy ra trong quá khứ sẽ lập
lại trong tương lai - vì chúng thể hiện một số tâm lý nhất định của con
người và đám đông.
Dựa vào đó, trường phái này tạo ra nhiều công cụ trợ giúp như đồ
thị, đường xu hướng, mẫu hình, các đường chỉ báo... giúp các nhà phân tích
dự đoán xu hướng giá trong tương lai.
Trường phái thứ hai tìm kiếm và dự đoán những thông tin tạo ra sự
mất cân bằng về tương quan giữa hai lực lượng lạc quan và bi quan. Những
thông tin này có thể là thông tin về cơ bản của công ty - kiểu như hệ thống
Trang 9/9
CANSLIM của William J. O’Neil, hoặc có thể là những thông tin/tin đồn
hết sức “vĩ mô”, chẳng hạn Việt Nam vào WTO hay Chỉ thị 03.
Những người kinh doanh thành công tạo ra lợi nhuận nhờ phân tích
theo hai trường phái này, tuy vậy họ luôn xác định không phải lúc nào họ
cũng đoán đúng điệu nhảy của thị giá và vì thế họ luôn chuẩn bị cắt lỗ và
rút ra khi dự đoán sai.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- group35_topic_08_9413.pdf