Tiểu luận Tóm lượt lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và bội chi ngân sách nhà nước

Qua phân tich mối quan hệ g iữa bội chi NSNN với lạm phát có thể rút ra một số kết luận sau: - NSNN có mối quan hệ nhân quả với lạm phát. Nếu thâm hụt NSNN qu á mức có thể dẫn đến lạm phát cao. Đặc biệt, nếu bù đắp thâm hụt NSNN bằng việc phát hành tiền sẽ tất yếu dẫn đến lạm phát. - Tăng ch i NSNN để kích thích tiêu dùng và tăng cầu tiêu dùng, sẽ kích thích đầu tư phát triển và tăng đầu tư phát triển sẽ đưa đến tăng trưởng cao. Tuy nhiên , nếu tăng chi quá mức cho phép, tức là tăng chi đến mức làm cho thâm hụt NSNN qu á cao v à để bù đắp thâm hụt này phải đi vay nợ quá lớn th ì sẽ đưa đến gánh nặng nợ. Kết quả là đưa đến kích th ích tiêu dùng (kích cầu quá mức) thì ở chu kỳ sau sẽ kéo theo lạm phát, mà lạm phát cao lại làm giảm đầu tư ph át triển và giảm đầu tư phát triển kéo theo giảm tăng trưởng. Như vậy, thực tế ở đây là cần có liều lượng của chi tiêu NSNN ở mức cho phép nhằm đẩy đầu tư phát triển tăng lên v à tiếp theo là đưa tăng trưởng kinh tế lên cao mà không kéo theo lạm phát cao.

pdf31 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2252 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tóm lượt lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và bội chi ngân sách nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẫn cũng như truyền đạt kiến thức trong thời gian qua để nhóm sinh viên chúng em hoàn thành đề tài một cách tốt nhất. 2 CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT VÀ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC I. LẠM PHÁT: 1/ Khái niệm lạm phát: Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất g iá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên đồng loạt. Lạm phát có những đặc trưng là:  Hiện tượng gia tăng quá mức của lượng tiền có trong lưu thông dẫn đến đồng tiền bị mất giá.  Mức giá cả chung tăng lên. Chính vì vậy khi t ính mức độ lạm phát các nhà kinh tế sử dụng chỉ số giá cả và phổ biến nh ất là chỉ số “giá tiêu dùng CPI” phản ánh mức thay đổi giá cả của một giỏ hàng hóa t iêu dùng so với năm gốc cụ thể. Ngoài ra người ta còn sử dụng các ch ỉ số khác như “giảm lạm phát GDP” đo lường sự khác biệt giữa GDP theo giá hiện hành và giá cố định cùng các thành phần của nó (Ví dụ : nếu GDP tăng theo mức cố định là 2% và theo mức giá danh nghĩa hiện hành là 5%, nó hàm ý mức lạm phát trong toàn bộ nền kinh tế là 3%). 2/ Phân loại lạm phát: Các nh à kinh tế thường dựa vào tỷ lệ tăng giá phân loại lạm phát thành 3 mức độ khác nhau: - Lạm phát vừa phải (lạm phát nước kiệu hay lạm phát một con số): xảy ra khi g iá cả hàng hóa tăng chậm ở mức độ 1 con số hàng năm (dưới 10% một năm). Loại lạm phát này th ường được các nước duy trì như một chất xúc tác để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. - Lạm phát cao (lạm phát phi mã): xảy ra khi g iá cả hàng hóa tăng ở mức độ 2 con số hàng năm (từ 10% đến dưới 100% một năm). Lạm phát phi mã gây ra nhiều tác hại đến sự phát triển kinh tế - xã hội. 3 - Siêu lạm phát (lạm phát siêu tốc): xảy ta khi g iá cả hàng hóa tăng ở mức độ 3 con số hàng năm trở lên (từ 100% trở lên). Siêu lạm phát gây ra những tác hại rất lớn đến kinh tế - xã hội. Người ta còn phân loại lạm phát dựa vào việc so sánh hai chỉ t iêu là “Tỷ lệ tăng giá” và “Tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ” lạm phát sẽ ở trong 2 giai đoạn: - Giai đoạn 1: “Tỷ lệ tăng giá” nhỏ hơn “Tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ”. Một bộ phận của khối tiền g ia tăng về cơ bản đáp ứng như cầu lưu thông của nền kinh tế. Lạm phát này có thể chấp nhận được và đôi khi còn là liều thuốc để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. - Giai đoạn 2: “Tỷ lệ tăng giá” lớn hơn “Tỷ lệ tăng trưởng t iền tệ”. Nguyên nhân là do lạm phát với tỷ lệ cao kéo dà i làm cho nền kinh tế suy thoái. Hệ quả là khối lượng tiền phát hành vượt mức khối lượng t iền cần th iết cho lưu thông. Trường hợp này lạm phát gây nghuy hiểm trầm trọng cho nền kinh tế. 3/ Nguyên nhân lạm phát: 3.1/ Lý thuyết số lượng tiền tệ và lạm phát: a. Quan điểm các nhà thuộc trường phái tiền tệ: Trước hết , bằng việc sử dụng phân t ích của các nhà kinh tế t iền tệ, chúng ta hãy xem kết quả gia tăng cung tiền tệ liên tục được minh họa ở bên dưới. Hình 1: Phản ứng giá cả đối với sự gia tăng tiền tệ liên tục 4 Khởi đầu nền kinh tế cân bằng ở điểm 1 (g iao giữa AD1 và AS1 ). Nếu cung tiền g ia tăng qua mỗi năm, làm cho tổng cầu dịch chuyển sang phải đến AD2. Khi đó nền kinh tế tiến đến cân bằng ở điểm 1’ với đặc điểm: sản lượng gia tăng, thất nghiệp giảm.Thế nhưng, với sự mở rộng sản xuất đến lượt nó sẽ làm gia tăng chi phí. Và đường AD2 sẽ lập tức di chuyển qua trái, cắt đường AS2 tạo ra điểm cân bằng mới ở đ iểm 2, với mức giá gia tăng từ P1>P2. Cứ như vậy, nếu cung tiền cứ gia tăng th ì mức giá gia tăng và lạm phát xảy ra. Ngh ĩa là M tăng lên à P tăng lên. Trong phân t ích cùa các nhà kinh tế tiền tệ, cung t iền được xem như là nguồn duy nhất làm dịch chuyển đường cầu AD, không có yếu tố khác làm di chuyển nền kinh tế từ điểm 1 đến 2 và 3 và hơn nữa. b. Quan điểm thuộc trường phái của Keynes: Trường phái Keynes cũng giống như t rường phá i tiền tệ nhưng còn phải dựa vào các yếu tố như chính sách tài khóa và những thay đổi của cung để phân tích tác động đến tổng cung và tổng cầu. Hình 2: Mô hình cân bằng tổng quát Chi tiêu hoặc đầu tư của chính phủ tăng lên đẩy tổng cầu tăng tại mọi mức giá P khiến đường AD1 dịch sang phả i trở thành AD2. Trong ngắn hạn, do lương của người lao động không đổi, các nhà cung ứng có lợi hơn và v ì thế sản xuất nhiều hơn, mức cân bằng của toàn bộ nền kinh tế d ịch chuyển từ đ iểm “a” sang điểm “b” – với sản lượng GDP cao hơn và mức giá cũng cao hơn một chút. 5 Tuy nhiên về dài hạn , lương sẽ được điều chỉnh lên theo đúng mặt bằng giá cả mới, đẩy nền kinh tế về điểm cân bằng “c” với mức sản lượng đúng bằng mức sản lượng của điểm “a” nhưng mức giá lại cao hơn. Vì thế việc tăng chi t iêu hoặc đầu tư của chính phủ tăng lên trong điều kiện nền kinh tế đang ở giới hạn khả năng sản xuất không chỉ làm tăng GDP trong một g iai đoạn rất ngắn, sau đó lại giảm đi, nhưng tác dụng phụ của nó là gây ra tình trạng lạm phát trong suốt th ời gian nền kinh tế điều chỉnh từ điểm “a” tới “b” rồi tới “c”. 3.2/ Chính sách tài khóa và lạm phát: Khi thiếu hụt tài khóa, chính phủ có thể tài t rợ bằng v iệc tăng thuế, vay nợ bằng ph át hành t rái ph iếu và in t iền. Thiếu hụt tà i khóa (DEF) là khoản chênh lệch chi tiêu của chính phủ (G) vượt quá thuế (T) và sẽ bằng tổng thay đổi cơ số MB và thay đổi trái phiếu chính phủ mà công chúng nắm giữ (B). Có thể biểu diễn qua phương trình: DEF = G – T = MB + B Thiếu hụt tài khóa được tà i t rợ qua phát hành trái phiếu, th ì sẽ không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ và vì thế ảnh hưởng đến cung t iền tệ. Nhưng nếu thiếu hụt từ in tiền, thì cơ số tiền và cung tiền gia tăng. 3.3/ Lạm phát do cầu kéo: Việc tăng mức cầu dẫn đến lạm phát do cầu kéo hay lạm phát nhu cầu. Khi nền kinh tế chưa đạt sản lượng tiềm năng (nền kinh tế toàn dụng ): cung tăng mạnh theo sự tăng của giá. Mức cầu tăng chỉ làm cho giá cả tăng rất ít. Khi nền kinh tế đạt sản lượng tiềm năng: cung tăng ít theo sự tăng của giá. Mức cầu (tiêu dùng trong nước hoặc xuất khẩu) tăng làm cho giá cả tăng rất cao, khi đó sẽ xảy ra lạm phát. 6 3.4/ Lý thuyết lạm phát do chi phí đẩy: Lạm ph át do chi ph í đẩy là một hiện tượng t iền tệ bởi vì nó không thể xảy ra mà không có sự thực hiện một chính sách tiền tệ mở rộng kèm theo như sau: a. Chi phí tiền lương: nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí ngh iệp tăng. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng. b. Lợi nhuận: Doanh nghiệp có quyền lực thị trường đẩy giá tăng lên độc lập với tổng cầu để thu được lợi nhuận cao. c. Nhập khẩu lạm phát: - Tỷ giá hối đoái: đồng nội tệ b ị mất giá thì các doanh ngh iệp phải trả nhiều tiền hơn để nhập khẩu nguyên vật liệu. - Thay đổi giá cả hàng hóa: khi có sự gia tăng giá cả hàng hóa trên thế giới, các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với chi phí cao hơn khi họ sử dụng các hàng hóa này làm nguyên vật liệu. - Những cú sốc bên ngoài: các cuộc khủng hoảng về nguyên, nh iên vật liệu cơ bản như dầu mỏ, sắt thép…cũng làm giá cả nhập khẩu hàng hóa này tăng lên và đẩy chi phí sản xuất tăng lên. d. Thiếu hụt các nguồn tài nguyên: Nguồn tài nguyên khai thác bị cạn kiệt , tình trạng giá cả dần dần sẽ tăng. Chi phí sản xuất cũng sẽ tăng đến khi tìm được nguồn lực khác có thể thay thế. Ngoài ra lạm phát còn xảy ra do: - Cơ cấu: ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, v ì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động t rong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. 7 - Lạm phát đẻ ra lạm phát: khi nhận thấy có lạm phát, g iá tăng lên người dân tự phán đoán với dự t ính duy lý đó là tâm lý dự trữ, hàng hóa sẽ càng t rở nên khan hiếm kích thích giá lên, gây ra lạm phát. 4/ Tác động của lạm phát: 4.1/ Tác động tích cực: Lạm phát vừa phải có lợi cho nền kinh tế: - Mức lạm phát vừa phải sẽ làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi, điều này khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. - Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm. 4.2/ Tác động tiêu cực: Đối với lạm phát dự kiến được: các thực thể tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất cho xã hội: - Chi phí mòn giày - Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn. - Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý muốn của người làm luật. - Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện. Đối với lạm phát không dự kiến được: đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó ph ân phối lại của cải của các cá nhân một các độc đoán. Lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác động của nó rất lớn. 8 II. NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC: 1/ Sơ lược về nguồn gốc ra đời và phát triển của NSNN: Ngân sách nhà nước (NSNN) là phạm trù kinh tế và là phạm trù lịch sử. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, Ngân sách nhà nước ra đời là một tất yếu khách quan, gắn liền với sự ra đời, tồn tại của Nhà nước và nền kinh tế hàng hoá- tiền tệ. Trong tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước", Ăng- ghen đã chỉ ra rằng: Nhà nước ra đời t rong cuộc đấu t ranh của xã hội có giai cấp, nó là sản phẩm của đấu t ranh giai cấp. Nhà nước xuất hiện với tư cách là cơ quan có quyền lực công cộng để duy t rì và phát t riển xã hội. Để thực hiện chức năng đó, Nhà nước phải có nguồn lực tài chính. Bằng quyền lực công cộng, Nhà nước đã ấn định các thứ thuế, bắt công dân phải đóng góp lập ra quỹ tiền tệ riêng có - quỹ NSNN - để chi t iêu cho bộ máy nhà nước, quân đội, cảnh sát... Nhưng dần dần những tham vọng về lãnh thổ, về chủ quyền đưa đến những cuộc ch iến tranh xâm lược làm cho bộ máy thống t rị, quân đội ngày một lớn. Thuế không đảm bảo được nhu cầu chi tiêu buộc Nhà nước phải vay nợ bằng cách phát hành công trái để bù đắp sự thiếu hụt của NSNN. Như vậy, qua việc phân tích nói t rên của Ăng- ghen chúng ta có thể thấy rằng: sự ra đời của NSNN luôn gắn liền với sự ra đời và phát triển của Nhà nước. Bản chất của Nhà nước quyết định bản chất giai cấp của NSNN. Dưới chế độ ch iếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến, nguồn thu của NSNN chủ yếu dựa trên sự đóng góp bắt buộc của dân chúng để hình thành quỹ NSNN và quỹ này dùng để ch i tiêu cho nhà vua, quân đội, bộ máy công quyền cai trị xã hội. Người dân được hưởng rất ít các phúc lợi công cộng từ NSNN. Khi giai cấp tư sản lên nắm chính quyền, g iai đoạn đầu họ chủ trương xây dựng một Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của các lực lượng kinh tế trên thị trường. Nhà nước chỉ đơn thuần đảm nhận nh iệm vụ giữ gìn an ninh, 9 quốc phòng . NSNN lúc này ch ỉ đóng va i trò là một quỹ tiền tệ của nhà nước để duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước. Bước vào những năm 1929-1933, nền kinh tế của các nước tư bản lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Để đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, Nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế bằng cách lập ra các chương trình chi tiêu lớn và thực hiện tá i phân phối lại thu nhập xã hội thông qua các công cụ tài chính. Trong số các công cụ đó th ì NSNN là công cụ quan trọng, sắc bén để nhà nước thực hiện điều chỉnh nền kinh tế và nâng cao phúc lợi công cộng cho người dân. Đối với Nhà nước trong thời đại hội nhập quốc tế h iện nay , có những vấn đề mang tính toàn cầu mà khu vực tư nhân không thể g iải quyết được (chẳng hạn vấn đề bảo vệ môi trường, s inh thái, thiên ta i, v iệc chống khủng bố,...) do vậy nhà nước phải đứng ra giải quyết các vấn đề đó. Trong thời kỳ này NSNN có thêm nhiệm vụ đảm bảo nguồn tà i ch ính cho những hoạt động đối ngoại nói trên của nhà nước. Như vậy cùng với việc mở rộng các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và sự phát t riển của các quan hệ hàng hoá- t iền tệ, các h ình thức thu, chi của NSNN ngày càng phát triển phong phú hơn và NSNN đã trở thành một công cụ quan trọng của Nhà nước trong v iệc đảm bảo chi tiêu cho nhà nước và tác động đến đời sống xã hội cho đất nước. 2/ Khái niệm ngân sách nhà nước: NSNN là một khâu của hệ thống tài chính quốc gia, nó phản ánh quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ t iền tệ tập trung của Nhà nước khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định. 3/ Đặc điểm của ngân sách nhà nước : Từ việc phân t ích nguồn gốc ra đời và khái niệm của NSNN, chúng ta rút ra một số đặc điểm cơ bản của NSNN: 10 Việc tạo lập và sử dụng quỹ NSNN luôn gắn với quyền lực của Nhà nước và được Nhà nước tiến hành trên cơ sở luật định. NSNN luôn gắn chặt với sở hữu Nhà nước, nh ằm thực hiện các chức năng của Nhà nước, luôn chứa đựng lợi ích chung, lợi ích công cộng. Hoạt động thu, chi NSNN được thực hiện theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu. Tính chất không hoàn trả t rực tiếp của hoạt động thu, chi NSNN được thể hiện trên các khía cạnh sau: - Sự chuyển giao thu nhập của xã hội vào quỹ NSNN chủ yếu thông qu a hình thức thuế. - Mọi người dân sẽ nhận được một phần các hàng hoá, d ịch vụ công cộng mà Nhà nước đã cung cấp cho cả cộng đồng. Phần giá t rị mà người đó được hưởng thụ không nhất thiết tương đồng với khoản đóng góp mà họ đã nộp vào NSNN. Ngoài ba đặc đ iểm nêu trên, NSNN cũng có những đặc điểm như các quỹ tiền tệ khác (thể h iện t ính mục đích và tính vận động thường xuyên). Tuy nhiên , nét riêng biệt của NSNN với tư cách là một quỹ t iền tệ tập trung của Nhà nước là nó được chia thành nhiều quỹ nhỏ, có tác dụng riêng và chỉ sau đó NSNN mới được chi dùng cho những mục đích nhất định đã định trước. 4/ Vai trò của ngân sách nhà nước: NSNN có va i t rò rất quan trọng t rong toàn bộ hoạt động kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Tuy nhiên , vai trò của NSNN bao giờ cũng gắn liền với vai trò của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định. Trong nền kinh tế th ị t rường, vai trò của NSNN có thể xem xét trên một số mặt sau đây: - NSNN là công cụ tà i ch ính quan trọng nhất để cung ứng nguồn tài chính cho hoạt động của bộ máy nhà nước. - NSNN là công cụ thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định và bền vững. 11 - NSNN là công cụ để điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và kiềm chế lạm phát - Ngân sách là công cụ hữu hiệu của Nhà nước để đ iều chỉnh trong lĩnh vực thu nhập, thực hiện công bằng xã hội. 5/ Khái niệm chi ngân sách nhà nước: Chi ngân sách nhà nước là v iệc phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện chức năng của nhà nước theo những nguyên tắc nhất định. 6/ Khái niệm bội chi ngân sách nhà nước: Bội ch i ngân sách nhà nước là t ình trạng mất cân đối của ngân sách nhà nước khi mà thu ngân sách nhà nước không đủ bù đắp cho chi ngân sách nhà nước trong một thời kỳ nhất định 7/ Nguyên nhân của bội chi ngân sách: Có hai nguyên nhân cơ bản của bội chi ngân sách nhà nước: - Do tác động của chu kỳ kinh doanh, khủng hoảng lạm chi làm cho thu nhập của nhà nước co lại, nhưng nhu cầu ch i lại tăng lên, để g iải quyết khó khăn mới về kinh tế xã hội. Điều đó làm cho mức độ bội chi ngân sách ngân sách nhà nước tăng lên trong giai đoạn kinh tế phồn th ịnh, thu của nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi không phải tăng tương ứng. điều đó làm giảm mức bội chi ngân sách nhà nước. Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội chi chu kỳ - Do tác động của chính sách cơ cấu thu chi của nhà nước. Khi nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích th ích tiêu dùng sẽ làm tăng mức bội chi ngân sách nhà nước. Ngược lại thực hiện ch ính sách giảm đầu tư và t iêu dùng của nhà nước thì mức bội ch i ngân sách nhà nước sẽ g iảm bớt . Các bội chi do tác động của cơ chính sách cơ cấu thu chi gọi là bội chi cơ cấu. Trong điều kiện bình thường ( không có chiến t ranh, không cóthiên tai lớn...), tổng hợp của bội chi chu kỳ và bội chi cơ cấu sẽ là bội chi ngân sách nhà nước. 12 CHƯƠNG II: THỰC TIỄN LẠM PHÁT VÀ BỘI CHI NGÂN SÁCH Ở VIỆT NAM I. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM: Việc các nước thắt chặt t iền tệ thông qua tăng lãi suất chủ đạo cùng với giá dầu, giá lương thực, thực phẩm tiếp tục tăng cao chính là nguyên nhân cơ bản đẩy nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái. Và việc cứu vãn kinh tế thế g iới rơi vào suy thoái bằng cách đưa hàng ngàn tỉ USD vào nền kinh tế lại càng đẩy lạm phát toàn cầu tiếp tục tăng cao. Mức lạm phát ở Việt Nam tăng cao t rong thời gian vừa qua ngoài những yếu tố thế g iới còn có các nguyên nhân khác. Cụ thể là nguyên nhân chính từ nội tại nền kinh tế Việt Nam: Do lạm phát cầu kéo: biểu h iện rõ nhất của lạm phát cầu kéo là nhu cầu nhập lương thực t rên thị t rương thế giới tăng, làm cho giá xuất khẩu tăng kéo theo cầu về lương thực trong nước cho xuất khẩu tăng, trong khi đó nguồn cung trong nước bị tác động bởi thiên tai, dịch bệnh nên không thể tăng kịp. Lạm phát về chi ph í đẩy: trước bối cảnh lạm phát toàn cầu gia tăng đã tác động làm cho giá của hầu hết các nhóm hàng nhập khẩu của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ như xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu – đây là những nguyên, nhiên vật liệu đầu vào chính của sản xuất. Lạm phát do nguyên nhân cung tiền ch ính là nguyên nhân gây nên bùng nổ lạm phát ở Việt Nam. Nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh, năm 2007 vốn đầu tư trực t iếp (FDI) là 8 t ỉ USD, năm 2008 lên tới 11.7 tỉ USD, chiếm gần 1/3 lượng vốn đầu tư trong ngành kinh tế. Dòng vốn đầu tư gián t iếp (FPI) vào Việt Nam cũng tăng lên nhanh chóng, trong năm 2007 ước t ính có trên 7 t ỉ USD đầu tư g ián tiếp vào Việt Nam. Vốn viện trợ phát t riển (ODA) hàng năm Việt Nam nhận được khỏng 2 tỉ USD. Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam hàng năm từ 5 đến 7 tỉ USD. 13 Diễn biến lạm phát ở Việt Nam từ năm 2008 đến nay: - Năm 2008: nếu so với tháng 12/2007 lạm phát kỷ lục 19.89% - Năm 2009: suy thoái kinh tế thế giới khiến sức cầu suy g iảm, giá nhiều hàng hóa xuống mức thấp, lạm phát t rong nước được khống chế. Đến tháng 7/2009 so với tháng 12/2008 lạm phát chỉ tăng 3.22%, CPI năm 2009 tăng 6.52% thấp hơn đáng kể so với nh ững năm gần đây. Chính sách tiền tệ được mở rộng, lãi suất và tỷ lệ dự t rữ bắt buộc được ấn định ở mức thấp. Tăng trưởng tính dụng năm 2009 lên đến 37.74% là mức khá cao so với trung bình những năm qua. - Năm 2010: chỉ số tiêu dùng (CPI) th áng 12/2010 tăng 1.98%, qua đó đẩy mức lạm phát năm 2010 của cả nước lên 11.75% so với năm 2009. - Năm 2011: lạm phát tăng 18,13% so với 2010. Tháng 12/2011 chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước tăng 0,53%, đẩy CPI cả năm tăng 18,58% so năm 2010. So cùng kỳ tháng 12/2010, CPI cả nước tăng 18,13%. (Nguồn: Báo điện tử Doanh nhân Việt Nam toàn cầu | 23/12/2011,số liệu từ Tổng cục thống kê) II. THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM: 1/ Tình hình bội chi ngân sách Nhà nước: Trong 20 năm đất nước ta t iến hành công cuộc đổi mới cho đến nay thì năm 1993 là năm ngân sách Việt Nam có mức bội chi cao nhất, lên tới 6,5% GDP. Những năm sau đó thì bội chi được kiềm chế ở mức thấp dưới 5% GDP. Bình quân trong g iai đoạn này bội ch i ngân sách Nhà nước đạt khoảng 4% GDP, đồng thời số thu từ thuế, phí, lệ phí dành cho chi đầu tư phát t riển ngày càng tăng, cụ thể năm 1991 là 0,2%, đến năm 2000 đã là 1,8% và trong những năm gần đây là xấp xỉ 3% GDP. Từ năm 1993 Nhà nước ta đã chủ trương chấm dứt việc phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước. Trong những năm qua th ì tình hình ngân sách Nhà nước ta đã có những bước cải tiến và đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ.Thu ngân sách đã có sự tăng trưởng nhanh, cơ cấu thu chuyển hướng t ích cực, nền tài chính ngày 14 càng đi vào thế tự chủ.Thu ngân sách đã tăng từ13,1 và GDP năm 1991 và càng ngày càng tăng trong những năm tiếp theo, đến nay nguồn thu trong nước ngày cang chiếm một tỷ lệ cao trong tổng thu ngân sách cụ th ể là chiếm khoảng 97% tổng thu, đ iều đó không những đáp ứng được nhu cầu chi thường xuyên mà còn giành ra một khoản ngày càng tăng giành cho đầu tư phát t riển và ch i trả nợ.Thuế đã thực sự t rở thành nguồn thu chủ yếu t rong nước chiếm khoảng 90% tổng thu ngân sách Nhà nước.Về chi ngân sách đã từng bước được cơ cấu theo hướng xoá bỏ bao cấp, thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu t rách nhiệm, tăng chi đầu tư xã hội cơ sở hạ tầng phát t riển nguồn nhân lực xoá đói giảm nghèo.Chú trọng chi t rả nợ theo đúng cam kết, năng cao năng lực đảm bảo chi ngân sách ngày càng t iết kiệm và có hiệu quả hơn.Điều hành ngân sách Nhà nước từng bước chủ động và linh hoạt hơn, dự trữ dự phòng của ngân sách đã góp phần tích cực vào việc ổn định quá t rình sản xuất kinh doanh và đời sống khi nền kinh tế có những biến động bất th ường như khủng hoảng tài chính t iền tệ, thiên tai lũ lụt…Chính vì lẽ đó mà t ình hình bội chi ngân sách t rong những năm qua đã có những cải thiện đáng kể góp phần quan t rọng vào việc ổn định và phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được đó thì chúng ta cũng đã gặp phải không ít những sai lầm, còn có những hạn chế cần phải rút kinh nghiệm và khắc phục.Tiềm lực tài chính tuy đã được tăng lên đáng kể nhưng còn nhỏ bé và vẫn không theo kịp nhu cầu tăng chi để g iải quyết những nhu cầu bức xúc của nền kinh tế.Nền tảng của nguồn thu ngân sách chua thực sự vững chắc, cơ cấu thu đã được đổi mới nhưng chưa th ực sự toàn diện .Trong khi nhu cầu về xây dựng cơ sở hạ tầng, phát t riển g iáo dục, khoa học công nghệ, xoá đói giảm nghèo, thực hiện quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước đang là áp lực lớn cho ngân sách Nhà nước. Thêm vào đó thì v iệc phân bổ sử dụng ngân sách Nhà nước còn nhiều bất cập, h iệu quả đã được nâng lên nhưng chưa cao, vẫn còn t ình t rạng th ất thoát trong sử dụng nguồn ngân sách . Chi cho đầu tư xây dựng cơ bản còn phân 15 tán, công tác quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, lập dự án chưa được chú trọng nên chất lượng công trình không cao. Chế độ tiêu chuẩn, định mức chi ng ân sách vừa thiếu vừa lạc hậu so với thực tế gây khó khăn cho việc cấp kinh phí, kiểm tra, kiểm soát trong chi ngân sách.Trong chi thường xuyên của chi ngân sách Nhà nước thì chi cho lương còn chiếm tỷ t rọng lớn(chiếm 50% tổng chi thường xuyên) điều đó là do việc t inh giảm biên chế t rong khu vực hành chính sự nghiệp hiệu quả còn thấp. Việc thực hành chống lãng phí, tiết kiệm chưa được các cấp quan tâm đầy đủ, vẫn còn có nhiều hoạt động mang tính phô trương hình thức, hội họp, chiêu đãi không cần th iết vẫn diễn ra ở nhiều nơi.Công tác kiểm tra còn mang tính hình thức, chưa thực sự ph át huy hiệu quả. Chính điều này đã góp phần làm cho ngân sách không đủ để chi, t ình trạng bội chi ngân sách vẫn còn diễn ra ở nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực trong đời sông kinh tế-xã hội. 2/ Nguyên nhân chủ yếu của bội chi ngân sách Nhà nước: Trong thời g ian qua thì t ình hình bội chi ngân sách ở nước ta có nhiều diễn biến phức tạp, điều đó do nhiều nguyên nhân tác động. Có những thời kì mà nền kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính t iền tệ trong khu vực, do đó mà dẫn đến tình trạng nền kinh tế bị g iảm sút t rong các năm 1997-2000.Để kích cầu nền kinh tế thì Nhà nước ta đã sử dụng nguồn ngân sách quốc gia chi cho đầu tư phát triển. - Chi ngân sách vẫn đảm bảo ch i cho đầu tư phát t riển ổn định ở mức 6,4% GDP, đảm bảo các nghĩa vụ t rả nợ đến hạn.Sau cuộc khủng hoảng th ì nước ta lâm vào tình trạng giảm phát kéo dà i có năm xuống 0,1% năm 1999, thậm chí là -0,6% năm 2000, tình hình đầu tư trong nước gặp nhiều khó khăn, sản xuất thì lâm vào khủng hoảng, có rất nhiều doanh ngh iệp đã bị phá sản, tổng sản phẩm xã hội b ị g iảm sút, kinh tế giảm sút…Chính vì lẽ đó mà Chính phủ không thế đứng ngoài cuộc được, để tháo gỡ bế tắc th ì Nhà nước ta đã chủ động tăng chi, kích cầu hàng hoá trong nước lên.Việc làm đó là rất cần th iết để đẩy nhanh tốc 16 độ đầu tư, chặn đứng tốc độ giảm phát kéo dài, từ đó thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế. Hơn nữa Nhà nước cũng đảm bảo những nhiệm vụ quan trọng của chi thường xuy ên như: chi cho sự nghiệp giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, môi trường…đây là những khoản chi rất quan t rọng và cần thiết đối với nền kinh tế, nhưng chúng cũng chiếm một tỷ lệ khá lớn t rong tổng chi của ngân sách Nhà nước, nhất là t rong hoàn cảnh khó khăn của nước ta lúc đó th ì việc chi tiêu này cũng gây ra nh ững ảnh hưởng không nhỏ đối với việc thâm hụt ngân sách Nhà nước. Mặt khác tỷ lệ bội chi t rong những năm nay tăng cao còn do t ác động của nguyên nhân tỷ lệ động viên ngân sách Nhà nước giảm do tăng t rưởng giảm sút. Do những tác động xấu của cuộc khủng hoảng nên làm cho tốc độ phát triển kinh tế nước ta g iảm xuống t ừ mức cao 9,5% năm 1995 xuống còn 4,8% năm 1999. Chính vì vậy mà ngân sách Nhà nước phải được sử dụng nhiều hơn. Một nguyên nhân cũng rất quan trọng nữa là do đất nước ta đang là một nước đang phát triển , nền kinh té còn gặp nhiều khó khăn , muốn xây dựng và phát triển đất nước theo kịp các nước trên thế giới thì chúng ta phải có một lượng vốn rất lớn để xây dựng cơ sở vật chất, đào tạo nguồn nhân lực cũng như mở rộng các ngành nghề t rong nước.Chính vì vậy mà chi của ngân sách luôn ở mức cao, trong khi đó thì nguồn thu có hạn và chưa thực sự đủ mạnh đáp ứng nhu cầu chi tiêu của đất nước cho nên ngân sách Nhà nước luôn ở một mức bội chi nào đó. III. MỐI QUAN HỆ GIỮA BỘ I C HI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ LẠM PHÁT: Giai đoạn t rước năm 1986, tình hình tài chính nước ta t rong tình trạng yếu kém, thu không đủ ch i th ường xuyên, thâm hụt NSNN cao quá mức, chi tiêu Chính phủ chủ yếu nhờ vào sự viện t rợ của nước ngoài là chính. Đến g iai đoạn từ năm 1986-1990, trước tình hình khó khăn về kinh tế và chính t rị, Liên Xô và các nước XH CN Đông Âu đã cắt g iảm dần viện trợ của họ cho nước ta. Trước tình hình khó khăn đó, Đảng ta tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, 17 chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập t rung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có định hướng XHCN. Với những bước đi chập chững ban đầu, chính sách tài chính đã có đổi mới một bước. Tuy nhiên, thu NSNN càng không đủ chi và bù đắp thâm hụt NSNN không chỉ phải vay trong và ngoài nước mà còn phải lấy từ nguồn tiền phát hành. Chính yếu kém về NSNN nêu t rên , là một yếu tố quan trọng gây nên lạm phát trong thập kỉ 80 của thế kỉ XX. Chi NSNN đã tăng cao tới mức bùng nổ ở trong những năm 1985-1988, đã gây ra thâm hụt NSNN trầm trọng vì không có sự tăng lên tương ứng về số thu. Giai đoạn từ năm 1986 – 1990, khi mà tỷ lệ t ích luỹ nội bộ nền kinh tế rất thấp (có thể nói là không đáng kể), làm không đủ ăn nhưng chi đầu tư phát t riển là quá lớn và nguồn bù đắp cho thâm hụt NSNN lại chủ yếu do tiền phát hành thì lạm phát cao là điều khó tránh khỏi. Trong thời g ian 5 năm 1986 – 1990: 59,7% mức thâm hụt này được hệ thống Ngân hàng thanh toán bằng cách phát hành t iền. Năm 1984, phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách là 0,4 tỷ đồng , năm 1985: 9,3 tỷ đồng, năm 1986: 22,9 tỷ đồng, năm 1987: 89,1 tỷ đồng , năm 1988: 450 tỷ đồng, năm 1989: 1655 tỷ đồng và năm 1990 là 1200 tỷ đồng. Số còn lại được bù đắp bằng các khoản vay nợ và viện t rợ của nước ngoài (so với bội chi, khoản vay và viện t rợ năm 1984 là 71,3%, năm 1985 là 40,8%, năm 1986: 38,4%, năm 1987: 32,1%, năm 1988: 32,6%, năm 1989: 24,9%, năm 1990 là 46,7%) và một số nhỏ do các khoản thu từ bán công trái trong nước. Mặc dù có nhiều cố gắng đáng kể trong năm 1989, nhưng t ình trạng thiếu hụt NSNN vẫn trầm trọng. Tổng chi đã tăng gấp đôi so với năm 1988, một phần do lạm phát chuyển từ năm 1988 sang và đã làm tăng giá đáng kể một số mặt hàng và dịch vụ th iết yếu do Nhà nước cung cấp. Tất cả những phân t ích ở trên cho thấy, có nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát cao t rong giai đoạn từ năm 1986-1990, trong đó có việc bù đắp thâm hụt NSNN bằng sự phát hành tiền. Bước vào giai đoạn từ năm 1991-1995, t ình hình đất nước đã có nhiều chuyển biến t ích cực, sản xuất và lưu thông hàng hoá đ ã có động lực mới, tình 18 trạng thiếu lương thực đã được giải quyết căn bản, lạm phát siêu mã đã được đẩy lùi, nhưng lạm phát cao vẫn còn. Cơ cấu ch i NSNN đã dần dần thay đổi theo hướng tích cực. Nguồn thu trong nước đã đủ cho chi th ường xuyên, tình trạng đi vay hoặc dựa vào phát hành cho chi thường xuyên đã chấm dứt. Trong giai đoạn này, chi đúng đối tượng , có h iệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội được đặt ra. Nhờ những giải pháp t rên, số thâm hụt NSNN đã giảm dần qua từng năm và được bù đắp bằng vay của dân và vay nước ngoài. Trong giai đoạn từ năm 1991-1995, tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP chỉ ở mức 1,4% đến 4,17% (1991: 1,4%, 1992:1,5%, 1993: 3,9%, 1994: 2,2% và năm 1995 là 4,17%). Như vậy, có thể thấy bội chi NSNN trong những năm 1991-1995 là rất thấp, thể hiện chính sách thắt chặt chi t iêu của Chính phủ trong thời kỳ này và đây cũng là yếu tố rất quan trọng góp phần kiềm chế lạm phát. Gia i đoạn từ năm 1996-2000, tình hình thu chi NSNN đã có nhiều chuyển biến t ích cực, thu không những đủ chi thường xuyên mà còn cho đầu tư phát triển, thâm hụt NSNN được khống chế ở mức thấp. Tuy nhiên, giai đoạn từ năm 1996-2000, do tác động của khủng hoảng tài chính ở các nước Đông Nam Á nên nền kinh tế có gặp không ít khó khăn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm dần từ năm 1996 đến năm 1999 và đến năm 2000, tốc độ này mới tăng lên chút ít, chặn đứng đ à giảm sút. Trong những năm này, tỷ lệ bội chi NSNN ở mức từ 3,0% GDP năm 1996 lên 4,95% GDP năm 2000 (năm 1996: 3%, năm 1997: 4,05%, năm 1998: 2,49%, năm 1999: 4,37%, năm 2000: 4,95%). Tỷ lệ bội chi bình quân 5 năm là 3,87% GDP, cao hơn mức bình quân năm 1991-1995 (2,63%). N ăm 2000 có mức bội chi cao nhất là 4,95% GDP và năm 1998 có mức bội chi thấp nhất là 2,49%. Đây là thời kỳ suy thoái và th iểu phát, nên mức bội chi NSNN như trên không tác động gây ra lạm phát mà có tác động làm cho nền kinh tế chuyển sang giai đoạn đi lên. Gia i đoạn từ năm 2001-2007, NSNN cũng đã có chuyển biến đáng kể. Tốc độ tăng thu hằng năm bình quân là 18,8%. Tốc độ tăng chi b ình quân hằng năm đạt 18,5%. Bội chi NSNN trong giai đoạn này về cơ bản đuợc cân đối ở 19 mức 5% GDP và thực hiện ở mức 4,9%-5% GDP. Nếu chỉ xét ở tỷ lệ so với GDP, cũng thấy bội chi NSNN trong 7 năm trở lại đây tăng cao hơn các năm trước đó khá nhiều (bình quân khoảng 4,95% GDP) vì g iai đoạn năm 1991-1995, mức bội ch i NSNN so với GDP chỉ ở mức 2,63% và giai đoạn từ năm 1996- 2000 ở mức 3,87% so với GDP. Nếu chỉ xem xét bội chi NSNN so với GDP th ì chưa thấy hết sự tăng lên của nó t rong những năm gần đây; đặc biệt những năm gần đây, ngoài NSNN được cân đối, đã có một lượng vốn lớn được đưa ra đầu tư các công trình giao thông và thuỷ lợi thông qua hình thức phát hành t rái phiếu Chính phủ không cân đối vào NSNN. Ngoài ra, phải kể đến lượng công t rái g iáo dục được phát hành để thu hút tiền cho đầu tư kiên cố hoá t rường lớp học cũng là một lượng tiền lớn cân đối ngoài NSNN. Nếu cộng cả ha i loại trên vào cân đối NSNN, bội chi NSNN trong những năm qua không phải chỉ 5% GDP mà cao hơn (khoảng 5,8- 6,2% GDP). Thực tế t rong 8 năm qua, từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng bội chi NSNN là khá cao, ở mức 17-18%/ năm. Tốc độ này nếu trừ đi yếu tố tăng trưởng thì còn cao hơn tỷ lệ lạm phát hằng năm (năm 2001: 0,2%; năm 2002: 1,6%; năm 2003: 9,7%; năm 2004: 8,1%; năm 2005: 9,0%; năm 2006: 11,1%; năm 2007: 7,8%). Thực tế trong những năm gần đây, mặc dù chúng ta đã kiểm soát bội chi NSNN từ hai nguồn là vay nước ngo ài và vay trong nước nên sức ép tăng tiền cung ứng thêm ra th ị t rường là không có, nhưng sức ép tăng chi tiêu của Chính phủ cho tiêu dùng thường xuyên và cho đầu tư là tăng lên. Có thể thấy, chính sách tài khoá trong những năm qua có phần nới lỏng như những năm chúng ta đang phải kích cầu đầu tư. Nếu so sánh tổng chi NSNN so với GDP trong những năm qua cho thấy, NSNN đã ch i một khối lượng lớn tiền tệ không chỉ ở số tuyệt đối mà cả ở số tương đối. Như trên đã phân t ích , bội chi NSNN tăng cao thể h iện chính sách t ài khoá lỏng lẻo , nó i lên sự chi tiêu của Chính phủ cho đầu tư và thường xuyên 20 vượt quá mức có thể của nền kinh tế. Nếu như bù đắp bội chi NSNN bằng phát hành thêm tiền th ì trực tiếp tác động gây ra lạm phát, vì đã làm tăng cung tiền tệ nhiều hơn cầu tiền tệ t rên th ị trường như giai đoạn từ năm 1986-1990. Tuy nhiên , v iệc bù đắp thâm hụt NSNN bằng nguồn huy động từ bên ngoài và từ trong nước về cơ bản, cũng tăng cung t iền vào th ị t rường t rong nước. Điều này, có thể g iải thích là do ph ần huy động từ vay nước ngoài đã làm tăng cung lượng tiền vào th ị trường trong nước, v ì số tiền vay nước ngoài về để bù đắp thâm hụt NSNN phải đổi ra VND để chi tiêu trên cơ sở bán cho NHNN là ch ính , mà NHNN lại phát hành t iền ra để mua ngoại tệ là cơ bản. Đây chính là phần làm cho lạm phát tăng lên nếu lượng vay từ bên ngoài vào bù đắp thâm hụt NSNN quá lớn. Thực tế trong những năm qua, lượng vay tiền từ bên ngoài vào bù đắp thâm hụt NSNN chiếm khoảng 1/3 số thâm hụt, tức là khoảng 1,5%-1,7% so với GDP. Nếu cộng thêm cả phần vay về cho vay lại, lượng t iền từ bên ngoài vào nền kinh tế nước ta qua bù đắp thâm hụt NSNN khoảng 2%-2,5% GDP. Đây chính là một nguyên nhân gây ra lạm phát cao của nước ta t rong năm 2007 và các tháng đầu năm 2008. Qua đồ thị 5 cho thấy, chi NSNN đã tăng từ 27% GDP năm 2001 lên 40,4% năm 2007 là một con số khá lớn trong chi t iêu của Chính phủ. Còn phần bù đắp thâm hụt NSNN từ nguồn vay trong dân về cơ bản, chỉ thu t iền từ trong lưu thông vào NSNN và sau đó, lại chuyển ra lưu thông nên không làm tăng lượng t iền cơ bản trên thị trường mà chỉ làm cho vòng quay t iền tệ có thể tăng nhanh hơn, tạo ra hệ số nở t iền cao hơn mức cần thiết. Điều này, cũng tạo ra tăng cung t iền tệ do vòng quay t iền tệ lớn, có tạo ra tác động một phần gây ra lạm phát, nhưng không lớn bằng trực tiếp phát hành tiền ra và vay vốn từ bên ngoài để bù đắp thâm hụt NSNN. Nhìn lại quá trình những năm trước đây có thể thấy, chúng ta đã thực hiện một ch ính sách tài kho á lỏng lẻo thể h iện tỷ lệ bội chi NSNN bằng khoảng 5% GDP hằng năm, cộng v ới đó là phát hành trái ph iếu, công trái g iáo dục cho đầu tư. Hơn nữa, chúng ta cũng đã có lúc phát hành tiền ra để kích cầu đầu tư, 21 đầu tư cho một số công trình lớn, phát hành tiền cho một số công việc… mà chưa thống kê hết. Đây ch ính là sự tích tụ t iền tệ các năm trước đó góp một phần làm cho lượng tiền tệ trong lưu thông tăng cao , thể h iện ở tốc độ tăng hệ số tạo tiền của nền kinh tế nước ta tăng trên 10% hằng năm và tăng 79,2% năm 2007 so với năm 2001, trong khi cũng chỉ t iêu này các nước chỉ tăng 1-3%/năm và tăng 10%-15% năm 2007 so với năm 2001. 22 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT BỘI CHI NGÂN SÁCH NHẰM KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM I. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ XỬ LÍ BỘI CHI NGÂN SÁCH NH À NƯỚC NHẰM KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM: Thực tế trong những năm qua, chúng ta đã kiểm soát được mức bội chi NSNN ở giới hạn cho phép (không quá 5% GDP/năm) và nguồn vay chủ yếu chi đầu tư phát triển . Ngoài ra, chúng ta cũng tích lũy đ ược một phần từ nguồn thu thuế, phí, lệ phí chi đầu tư phát triển. Đây là những thành công bước đầu đáng ghi nhận trong công tác quản lý cân đối NSNN cũng như kiểm soát vấn đề bội chi NSNN. Tuy nhiên, trong quá trình xử lý bội chi NSNN, đặc biệt trong tình hình h iện nay khi vấn đề lạm phát đang gây ra những khó khăn rất lớn cho nền kinh tế và đời sống nhân dân, chúng ta cần lưu ý đến những vấn đề sau trong việc xử lý bội chi NSNN: - Sự thiếu hụt ngân sách do nhu cầu vốn tài trợ cho sự phát triển nền kinh tế quá lớn đòi hỏi phải đi vay để bù đắp. Điều này được thể hiện qua việc chúng ta chỉ vay để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình t rọng điểm quốc gia phục vụ lợi ích phát triển của đất nước. Nhưng, t rên thực tế số t iền vay, đặc biệt của nước ngoài, chưa được quản lý chặt chẽ. Tình trạng đầu tư dàn trải ở các đ ịa phương vẫn chưa được khắc phục triệt để, t iến độ thi công những dự án trọng điểm quốc gia còn chậm và thiếu h iệu quả. Chính vì vậy, các khoản đầu tư phát triển lấy từ nguồn vốn vay (cả t rong và ngoài n ước) cần bảo đảm các quy định của Luật NSNN và mức bội chi cho phép hằng năm do Quốc hội quyết định. - Sự thiếu hụt ngân sách trong những năm qua được sử dụng như một công cụ trong chính sách tài khó a để kích th ích sự tăng t rưởng kinh tế. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điều này thông qua cân đối NSNN hằng năm. Về nguyên tắc, sau khi lấy tổng thu trừ đ i tổng chi trong năm sẽ xác định được số thặng dư hoặc thiếu hụt ngân sách trong năm. Tuy nhiên, khi cân đối ngân sách chúng ta 23 thường xác định số bội chi trước (thông thường tương đương với mức Quốc hội cho phép) và nguồn còn lại được Quốc hội cho phép chuyển nguồn sang năm sau. Đây là chính sách ngân sách thận t rọng khi áp dụng lý thuyết bội chi một cách chủ động và điều đó không gây xáo t rộn t rong chính sách kinh tế v ĩ mô, nhưng phải cân nhắc và kiểm tra xem toàn bộ số bội chi có được sử dụng để chi đầu tư phát triển cho các dự án trọng điểm và hiệu quả qua đó tạo th êm công ăn việc làm, tạo đà cho nền kinh tế phát triển, tăng khả năng thu NSNN trong tương lai hay không. - Chưa chú trọng mối qu an hệ g iữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Đây là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ng ân sách áp lực bội chi ngân sách (nhất là ngân sách các địa phương ). Chúng ta có thể thấy, thông qua cơ chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách và cơ chế bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới. Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu ứng với các nhiệm vụ ch i cụ thể và được xác định cụ thể trong dự toán ngân sách hằng năm. Vì vậy, khi các đ ịa phương vay vốn để đầu tư sẽ đòi hỏi bảo đảm nguồn chi thường xuyên để bố trí cho việc vận hành các công trình khi hoàn thành và đ i vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công trình, làm giảm hiệu quả đầu tư. Chính điều đó luôn tạo sự căng thẳng về ngân sách, để công t rình vận hành và phát huy tác dụng, luôn phải đòi hỏi nhu cầu kinh phí cho hoạt động. Để có nguồn kinh ph í này hoặc phải đi vay để duy t rì ho ạt động hoặc yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách, cả hai trường hợp đều tạo áp lực bội chi NSNN. - Liệu có tồn tại vấn đề bội ch i ngân sách địa phương ở Việt Nam h ay không? Biện pháp xử lý ra sao? Quản lý vấn đề này thế nào? Đó là những vấn đề cần được xem xét kỹ càng hơn. Theo khoản 3, Điều 8, Luật NSNN năm 1996, ngân sách địa phương được cân đối theo nguyên tắc tổng số ch i không vượt quá tổng số thu, trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhu cầu đầu tư kết cấu hạ tầng thì được phép huy động vốn theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và phải cân đối vào ngân sách địa phương để t rả nợ khi đến hạn. 24 Luật NSNN sửa đổi năm 2002 mở rộng thêm quyền chủ động trong việc huy động vốn của ngân sách địa phương . Vay vốn đầu tư thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm do hội đồng nhân dân tỉnh quyết đ ịnh (không phải theo quyết đ ịnh của Thủ tướng Chính phủ quy định như trước đây). Như vậy, mặc dù chúng ta chấp nhận về nguyên tắc là không có việc bội chi ngân sách địa phương nhưng thực tế lại vẫn cho phép địa phương vay để đầu tư. Vấn đề là ở chỗ, h iện nay, các địa phương vay vốn để đầu tư theo quy định tại khoản 3 Điều 8 của Luật NSNN tương đối lớn và chưa được quản lý một cách chặt chẽ. Với nhiều địa phương đây là điều kiện để tăng cường cơ sở vật chất, tạo đ iều kiện phát triển kinh tế. Điều đáng lưu ý là trong khi nguồn vốn ngân sách hiện có chưa tận dụng hết, các đ ịa phương vẫn tiến hành vay vốn; tỷ lệ vốn vay chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi đầu tư phát t riển . Trong khi phải đi vay th ì ngân sách địa phương lại để kết dư lớn, có t ỉnh cuối năm kết dư bằng 78,5% số bổ sung từ ngân sách trung ương và bằng 24,9 % so với tổng chi ngân sách địa phương. Mặt khác, còn một số khoản vay không cân đối vào ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tạo nên khoản thu chi ngo ài ngân sách và khi đến hạn, ngân sách địa phương không có nguồn để thanh toán gốc và lãi. Thực chất các khoản vay của ngân sách địa phương ch ính là bội chi NSNN. Một trong những nguyên tắc quản lý NSNN ở Việt Nam là tuân theo theo nguyên tắc thống nhất, tổng thể NSNN bao gồm ngân sách các cấp, điều đó đòi hỏi các khoản bội chi của ngân sách địa ph ương phải được tổng hợp để tính bội chi NSNN. Tuy nhiên khi vay, các địa phương phải cân đối ngân sách nên không thể hiện đầy đủ bội chi khi quyết toán NSNN. Mức bội chi NSNN hằng năm trình Quốc hội mới chỉ phản ánh được mức bội chi của ngân sách trung ương. Đây là một trong những mắt xích cần phải được giải quyết trong việc xử lý bội chi NSNN. 25 Để giải quyết tổng thể vấn đề bội chi NSNN ở Việt Nam theo chúng tôi cần thiết phải có những quy đ ịnh chặt chẽ hơn, theo đó có thể áp dụng các giải pháp sau: 1. Tập trung các khoản vay do Trung ương đảm nhận. 2. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. 3. Nếu chấp nhận bội chi ngân sách địa phương thì cần quản l ý và giám sát chặt chẽ việc vay vốn. II. GIẢI PHÁP XỬ LÝ BỘI CHI NSNN NHẰM KIỀM CHẾ LẠM PHÁT: Như t rên đã phân tích nguyên nhân của lạm phát cao về cơ bản đã rõ, trong đó có một phần quan trọng của chính sách tài khoá lỏng lẻo t rong những năm qua mà thể hiện ở bội chi NSNN tăng liên tục qua các năm. Tập trung các khoản vay do Trung ương đảm nhận. Các nhu cầu đầu tư của đ ịa phương cần được xem xét và thực hiện bổ sung t ừ ngân sách cấp trên. Thực hiện như vậy tránh được đầu tư tràn lan, kém hiệu quả và để tồn ngân sách quá lớn và quản lý chặt chẽ số bội chi NSNN. Hiện tại, chúng ta đang đứng trước mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển với nguồn lực hạn hẹp. Nếu thực hiện thắt chặt , hạn chế vay để đầu tư sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế đang có nhu cầu vốn rất cao. Nhưng nếu chúng ta không kiểm soát chặt chẽ các khoản vay nợ của NSNN, nhất là vay của ngân sách địa phương, thì nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh tài ch ính quốc gia, sự bền vững của NSNN. Thực hiện đầu tư tập trung cũng có lợi là bảo đảm phát t riển hài hoà, cân đối giữa các vùng, miền t rong toàn quốc. Kinh nghiệm của Trung Quốc: nghiêm cấm ngân sách các địa phương vay vốn dưới bất kỳ hình thức nào, các khoản chi đầu tư của địa phương được xem xét tính to án và bổ sung từ ngân sách trung ương. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, nhất là ngân sách các đ ịa phương nhất là ngân sách các đ ịa phương. Do vậy, khi các đ ịa phương vay vốn để đầu tư, sẽ kiên quyết không bố trí nguồn chi 26 thường xuyên cho việc vận hành các công trình khi hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như ch i phí duy tu, bảo dưỡng các công trình, làm giảm hiệu quả đầu tư. Có như vậy, các địa phương phải tự cân đối nguồn kinh phí này chứ không thể yêu cầu cấp t rên bổ sung ngân sách. Về ch i tiêu thường xuyên, cũng nên rà soát lại tất cả các khâu hoạt động để tổ chức lại bộ máy cho hợp lý hơn, đồng thời cắt giảm các khoản chi chưa thật cần thiết để tập trung nguồn lực cho các công tác khác quan trọng và cấp thiết hơn. Nếu chấp nhận bội chi ngân sách địa phương th ì cần quản lý và giám sát chặt chẽ việc vay vốn. Các khoản vốn vay chỉ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và phát triển các cơ sở kinh tế. Các khoản vay của ngân sách địa phương cần được tổng hợp và báo cáo Quốc hội để tổng hợp số bội chi NSNN hằng năm. Vấn đề vay vốn của các địa phương không được kiểm soát chặt chẽ chẳng những tạo ra nguy cơ vay vốn tràn lan, đầu tư kém hiệu qu ả mà còn ảnh hưởng đến tính bền vững của NSNN trong tương lai. Bội chi NSNN hằng năm không được kiểm soát chặt chẽ trước khi trình Quốc hội, mức bội chi thực tế khác với mức bội ch i báo cáo cáo Quốc hội. Điều đó tạo nên gánh nặng n ợ cho NSNN, bởi NSNN là một thể thống nhất và đa số các địa phương t rông chờ chủ yếu vào ngân sách trung ương, do vậy suy cho cùng, các khoản nợ của ngân sách địa phương sẽ là gánh nợ của NSNN trong khi việc đầu tư lại dàn t rải, kém hiệu quả. Tăng thu giảm chi: kểm soát bội chi NSNN và triệt để thực hiện chính sách có thu mới chi, không để bội chi NSNN tăng cao, nếu cần th iết nên giảm tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP dưới mức 5%, tức là nên ở khoảng 3-4%. Đồng thời, tiến tới tính toán cân đối các nguồn ph át hành trái phiếu, công trái giáo dục một cách h iệu quả hơn, nếu chưa thật cần thiết hoặc chưa đủ thủ tục th ì nên cắt giảm. Tăng cường vai trò quản lí của nhà nước. Rà soát cắt giảm chi t iêu NSNN chưa thật cần th iết và kém hiệu quả như đề ra các t iêu chí, t iêu chuẩn để cắt bỏ, đình hoãn những công trình đầu tư chưa th ật bức bách, kém hiệu quả hoặc chưa khởi công. Đây là một trong những nh iệm vụ cực kỳ khó khăn, 27 nhưng v ới số NSNN hiện có thì với tình hình trượt giá như hiện nay sẽ không thể có điều kiện thực hiện được hết các dự án, công trình đã bố t rí. Do vậy, cần có sự rà soát để chuyển vốn từ các công trình chưa khởi công, khởi công chậm, hoặc thủ tục không đầy đủ sang cho các công trình chuyển t iếp, công t rình cấp bách, công trình có hiệu quả kinh tế cao . Việc làm này, đỏi hỏi phải có sự đồng tâm nhất trí và quyết tâm cao của tất cả các Bộ, ngành và địa phương trong việc thực hiện chính sách của Nhà nước. CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN Qua phân tich mối quan hệ g iữa bội chi NSNN với lạm phát có thể rút ra một số kết luận sau: - NSNN có mối quan hệ nhân quả với lạm phát . Nếu thâm hụt NSNN quá mức có thể dẫn đến lạm phát cao. Đặc biệt, nếu bù đắp thâm hụt NSNN bằng việc phát hành tiền sẽ tất yếu dẫn đến lạm phát. - Tăng ch i NSNN để kích thích tiêu dùng và tăng cầu t iêu dùng, sẽ kích thích đầu tư phát triển và tăng đầu tư phát triển sẽ đưa đến tăng trưởng cao. Tuy nhiên , nếu tăng chi quá mức cho phép, tức là t ăng chi đến mức làm cho thâm hụt NSNN quá cao và để bù đắp thâm hụt này phải đi vay nợ quá lớn th ì sẽ đưa đến gánh nặng nợ. Kết quả là đưa đến kích th ích tiêu dùng (kích cầu quá mức) thì ở chu kỳ sau sẽ kéo theo lạm phát , mà lạm phát cao lại làm giảm đầu tư phát triển và giảm đầu tư phát triển kéo theo giảm tăng t rưởng. Như vậy, thực tế ở đây là cần có liều lượng của chi t iêu NSNN ở mức cho phép nhằm đẩy đầu tư phát t riển tăng lên và tiếp theo là đưa tăng trưởng kinh tế lên cao mà không kéo theo lạm phát cao.  28 MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU………………………………………...……………………………1 CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT VÀ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC I. LẠM PHÁT 1/ Khái niệm lạm phát……………………………….…………………………2 2/ Phân loại lạm phát……………..……….……………………………………2 3/ Nguyên nhân lạm phát………………………………………………………3 4/ Tác động của lạm phát…………………………………………………..7 II. NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 1/ Sơ lượt về nguồn gốc ra đời và phát triển của NSNN……………….……8 2/ Khái niệm NSNN…………..………………………………………...………9 3/ Đặc điểm của NSNN………………………………...………………………9 4/ Vai trò của NSNN………………………………………………………….10 5/ Khái niệm chi NSNN…………..…………………………………..………11 6/ Khái niệm bội chi NSNN………………………………………..…………11 7/ Nguyên nhân của bội chi NSNN……………………..………………...…11 CHƯƠNG II: THỰC TIỄN LẠM PHÁT VÀ BỘI CHI NGÂN SÁCH Ở VIỆT NAM I. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM………………..………………12 II. THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 1/ Tình hình bội chi NSNN……………………………...……………………13 2/ Nguyên nhân chủ yếu của bội chi NSNN………………………...………15 III. MỐI QUAN HỆ GIỮA BỘI CHI NSNN VÀ LẠM PHÁT…………....…..16 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP KIỂM SO ÁT BỘ I C HI NSNN NHẰM KIỀM C HẾ LẠM PHÁT Ở VN I. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ XỬ LÝ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NHẰM KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM………..……...22 II. GIẢI PHÁP XỬ LÝ BC NSNN NHẰM KIỀM CHẾ LẠM PHÁT...…25 CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN…………………………………………………………………………27 29 TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách – Tạp chí: 1/ Nhập môn Tài chính – Tiền tệ; NXB Lao động xã hội – 2008 2/ Phạm T. Anh (2008). “Ứng dụng mô hình SVAR trong việc xác định hiệu ứng của chính sách tiền tệ và dự báo lạm phát ở Việt Nam” – Tạp chí Tài chính 9/2008. 3/ Lê V. Đức và cộng sự (2009) “Kiểm nghiệm nguyên nhân của lạm phát ở nước ta trong thời kỳ 1976-1995 bằng kỹ thuật kinh tế lượng” – Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 2/2009 4/ Lê Quốc Lý (2008). “Bội chi ngân sách nhà nước trong mối quan hệ với lạm phát”- Tạp chí Ngân hàng số 8/2010. 5/ Aiyagary và Gerlert (1985) “The backing of government bonds and monetarisme” – Journal of Monetary Economics 16 (1) trang 19-44. 6/ Kornai J., Maskin, G. Roland trong “Understanding soft budget constraint” – Journal of Economic Literature, số 41 tháng 12/2003. 7/ Akinboede và cộng sự (2004) “The determinant of inflation in south Africa: an econometric analysis” – AERC Research paper 143. 30 TÀI LIỆU THAM KHẢO Các trang web: ạm_phát _lam_phat_o_viet_nam-3-15769.html i-chi-ngan- sach-voi-lam-phat-.229315.html ?p=16714 -tin-khtk/179-thong-t in-khoa- hoc-thong-ke-so-5-nam-2002/1107-gioi-thieu-nguyen-nhan-gay-nen-lam-phat- theo-quan-diem-cua-mot -so-truong -phai-kinh-te ội-chi-ngân-sách-nhà-nước- trong-mối-quan-hệ-với-lạm-phát-ở-việt-nam-hiện-nay/ =vn ress.com/2011/09/14/chinh-sach-tai-khoa-va-lạm- phat-bai-học-từ-ly-thuyết-va-kinh-ngh iệm-việt-nam/

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftieu_luan_nhom_10_de_tai_3_5924.pdf
Luận văn liên quan