Tiểu luận Tổng quan về các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro ngân hàng quốc tế

Đối với những nội dung không phù h ợp với mức độ phát triển thấp của thị trường VN, cần có quan điểm thân trọng hơn. Vd: Đối với các thị trường còn non yếu, nhiều yếu tố phi kinh tế tác động đến giá cả thị trường, chế độ tài chính kế toán không nên cho phép đánh giá lại giá trị tài sản khi giá trị thị trường lớn hơn giá trị ghi sổ để ghi nhận và kết quả kinh doanh Doanh nghiệp tuân theo hệ thống chuẩn mực kế toán trong nước, đồng thời sẽ có bản đối chiếu bổ sung những điều chỉnh cần thiết để lập thêm báo cáo tài chính theo hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế. Với thuế cần chú ý điều chỉnh biểu thuế suất phù hợp, theo hướng tạo điều kiện cho hàng hóa được giao dịch với số lượng lớn, cần đối giữa hàng xuất khẩu và nhập khẩu để nhu cầu về phái sinh tăng cao

pdf32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3812 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tổng quan về các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro ngân hàng quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giảm xuống mức tối thiểu đã thoả thuận trước đó, bạn sẽ bị yêu cầu nộp một khoản ký gửi bổ sung, tài khoản ký quỹ của bạn phải được bổ sung như cũ hoặc là vị thế của bạn sẽ bị đóng. Hợp đồng giao sau rất giống với một danh mục các hợp đồng kỳ hạn. Tuy nhiên, hợp đồng giao sau và một danh mục các hợp đồng kỳ hạn chỉ giống nhau khi lãi suất là có thể xác định trước, tức là biết được một cách chắc chắn. Vào lúc đóng cửa mỗi ngày, các hợp đồng giao sau mang tính kỳ hạn đang tồn tại sẽ được thanh toán cũng như 1 hợp đồng mới được ký kết. Tính chất thanh toán hàng ngày kết hợp với yêu cầu ký quỹ cho phép hợp đồng giao sau giảm thiểu đáng kể rủi ro tín dụng vốn có của hợp đồng kỳ hạn . Quyền chọn: Là hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, trong đó cho người mua quyền nhưng không phải nghĩa vụ, để mua hoặc bán một tài sản nào đó vào ngày trong tương lai với giá đã đồng ý vào ngày hôm nay. Người mua quyền chọn trả cho người bán một số tiền gọi là phí quyền chọn. Người bán quyền chọn sẵn sàng bán hoặc tiếp tục nắm giữ tài sản theo điều khoản của hợp đồng nếu người mua muốn thế. Một quyền chọn để mua tài 12 sản gọi là quyền chọn mua (call), một quỳên chọn bán một tài sản gọi là quyền chọn bán (put). Mặc dù các quyền chọn được giao dịch trong một thị trường có tổ chức nhưng phần lớn các giao dịch quyền chọn được quản lý riêng rẽ giữa hai bên. Những người này tự tìm đến với nhau, loại thị trường này gọi là thị trường OTC, đây chính là loại thị trường quyền chọn xuất hiện đầu tiên. Hầu hết các quyền chọn chúng ta quan tâm là mua bán các loại tài sản tài chính chẳng hạn như cổ phiếu, trái phiếu… Mặc dù vậy, chúng ta cũng thấy xuất hiện loại thoả thuận tài chính khác như hạn mức tín dụng, đảm bảo khoản vay, và bảo hiểm cũng là một hình thức khác của quyền chọn. Ngoài ra, bản thân cổ phiếu cũng là quyền chọn trên tài sản công ty. Quyền chọn cũng có những nét giống với một hợp đồng kỳ hạn nhưng quyền chọn không bắt buộc phải thực hiện giao dịch còn người sở hữu hợp đồng kỳ hạn bắt buộc phải thực hiện giao dịch. Hai bên trong hợp đồng kỳ hạn có nghĩa vụ phải mua và bán hàng hoá, nhưng người nắm giữ quyền chọn có thể quyết định mua hoặc bán tài sản với giá cố định nếu giá tri của nó thay đổi. Hoán đổi là một hợp đồng trong đó hai bên đồng ý hoán đổi dòng tiền, một giao dịch mà cả hai bên đồng ý thanh toán cho bên còn lại một chuỗi các dòng tiền trong một khoảng thời gian xác định. Ví dụ, một bên đối tác đang nhận được một dòng tiền từ một khoản đầu tư, nhưng lại thích một loại đầu tư khác với dòng tiền mà mình đang thị hưởng. Bên đối tác này sẽ liên lạc với một dealer hoán đổi, thường là một công ty hoạt động trên OTC, và họ sẽ thực hiện vị thế đối nghịch trong giao dịch. Tuỳ thuộc vào lãi suất hay giá sau đó thay đổi như thế nào mà 1 bên sẽ thu được lợi nhuận hay là bị lỗ. Lãi của bên này chính là lỗ của bên kia. Có 4 loại hoán đôỉ là hoán đổi tiền tệ, hoán đổi lãi suất, hoán đổi chứng khoán và hoán đổi hàng hoá. Và cũng giống như hợp đồng kỳ hạn, các hoán đổi cũng gánh chịu những rủi ro nếu một bên bị vỡ nợ. Hoán đổi được xem như là kết hợp giữa các hợp đồng kỳ hạn. Nó là cải tiến tài chính mới nhất nhưng về thực chất không phức tạp hơn một danh mục các hợp đồng kỳ hạn và rủi ro tín dụng hiện diện trong hoán đổi cũng có phần thấp hơn so với rủi ro tín dụng của hợp đồng kỳ hạn có cùng kỳ hạn. II. QUẢN TRỊ RỦI RO NGÂN HÀNG QUỐC TẾ 2.1 Vai trò của các công cụ tài chính phái sinh trong quản trị rủi ro NHQT Theo các tiêu chuẩn quốc tế của Hiệp hội Kiểm toán nộ bộ quốc tế (IIA) định nghĩa Rủi ro là khả năng một sự kiện có thể xảy ra và sẽ có ảnh hướng đến việc đạt được các mục tiêu. Rủi ro được đánh giá dựa trên sự tác động và khả năng xảy ra. Quản trị rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro. 13 Thị trường sản phẩm phái sinh cho phép những người muốn làm giảm rủi ro của mình chuyển giao rủi ro cho những người sẵn sàng chấp nhận nó, đó là những nhà đầu cơ. Vì vậy, thị trường này rất có hiệu quả trong việc phân phối lại rủi ro giữa các nhà đầu tư, không có ai cần phải chấp nhận một mức rủi ro không phù hợp với bản thân mình. Và cũng vì thế mà họ sẵn sàng cung cấp nhiều vốn hơn cho thị trường tài chính, điều này tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, phát huy khả năng huy động vốn và giảm chi phí sử dụng vốn. Bên cạnh đó, thị trường các sản phẩm phái sinh cũng là một công cụ hiệu quả cho hoạt động đầu cơ. Bởi ngưòi muốn phòng ngừa rủi ro phải tìm được một người khác có nhu cầu đối lập hoàn toàn với mình, tức là rủi ro của người muốn phòng ngừa rủi ro phải được hấp thụ bởi các nhà đầu cơ. Tại sao các giao dịch này lại có thể được thực hiện, khi mà thực tế rõ ràng là khi một bên có lợi thì tất yếu bên còn lại sẽ không thể tránh khỏi những thiệt hại? Bởi mỗi nhà đầu tư có một “khẩu vị rủi ro” khác nhau, khả năng chấp nhận rủi ro cũng khác nhau. Tuy nhiên, ai cũng có mong muốn là giữ cho các khoản đầu tư của mình ở một mức rủi ro có thể chấp nhận được. Và thế là họ gặp nhau và tiến hành việc chuyển giao một phần rủi ro của mình cho đối tác. Và cũng không giống như người ta thường nghĩ, thị trường phái sinh không dẫn vốn trong nền kinh tế vào những âm mưu đầu cơ khủng khiếp. Những nhà đầu cơ không phải là những tay cờ bạc. Chỉ đơn giản là thay vì giao dịch cổ phiếu, họ giao dịch các sản phẩm phái sinh và chính việc đầu tư vào công cụ tài chính phái sinh lại tạo điều kiện cho việc phòng ngừa các rủi ro ít tốn kém hơn và hiệu quả hơn. Bởi cần khẳng định chắc chắn rằng, thị trường phái sinh không hề tạo ra mà cũng chẳng thể phá huỷ được tài sản, chúng chỉ là những phương tiện chuyển giao rủi ro trên thị trường, những rủi ro sẵn có cuả thị trường tài sản, chuyển những khoảnrủi ro đó từ những không đủ khả năng chấp nhận nó sang những người sẵn sàng tiếp nhận nó, chính là những nhà đầu cơ. Không có thêm bất kỳ một rủi ro nào được sinh ra trên thị trường này. Và lợi ích từ thị trường không chỉ bó hẹp trong lợi ích của những nhà đầu cơ mà nó lan toả ra toàn xã hội. 2.2 Quản trị rủi ro NHQT: 2.2.1 Rủi ro về lãi suất: - Theo Timothy W.Koch cho rằng: Rủi ro lãi suất là sự thay đổi tiềm tàng về thu nhập lãi ròng và giá thị trường của vốn ngân hàng xuất phát từ sự thay đổi của mức lãi suất. - Yếu tố làm xuất hiện rủi ro lãi suất: Lãi suất biến động và lợi nhuận của NH giảm do chênh lệch lãi suất đầu ra - đầu vào giảm hoặc giá trị ròng của NH giảm. - Nguyên nhân của rủi ro lãi suất: Sự không phù hợp về kỳ hạn, tính thanh khoản và qui mô của tài sản so với kỳ hạn, tính thanh khoản và qui mô của nợ. 14 Rủi ro lãi suất xuất hiện có thể làm tăng chi phí vay nợ của ngân hàng, giảm giá trị thị trường của tài sản có cũng như vốn chủ sở hữu của ngân hàng, làm giảm thu nhập của ngân hàng. Các dạng rủi ro lãi suất: - Rủi ro định giá lại: là rủi ro lãi suất phát sinh từ những chênh lệch về kỳ hạn (đối với lãi suất cố định) & định giá lại (đối với lãi suất thả nổi) đối với tài sản có, tài sản nợ & các trạng thái ngoại bảng của ngân hàng - Rủi ro cơ sở: là rủi ro lãi suất phát sinh từ tương quan không hoàn hảo trong sự điều chỉnh các lãi suất thu được & phải trả đối với các công cụ khác nhau có những đặc điểm định giá tương tự - Rủi ro tính tùy chọn: Một nguồn rủi ro lãi suất ngày càng trở nên quan trọng phát sinh từ các tùy chọn trong nhiều tài sản có, tài sản nợ & danh mục đầu tư ngoại bảng của ngân hàng. Các công cụ phái sinh hạn chế rủi ro lãi suất: Hợp đồng kỳ hạn lãi suất (FRA) FRA là một hợp đồng kỳ hạn mà theo đó các bên tham gia đồng ý thanh toán cho nhau bằng tiền mặt khoản chênh lệch lãi suất (không có giao nhận khoản tiền gốc) của 1 khoản vay ngắn hạn. Cũng như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng FRA được giao dịch trên thị trường phi tập trung OTC Ví dụ: Giả sử vào thời điểm hiện tại, ngân hàng X cho vay 100 triệu USD,lãi suất cố định 4,5%/năm, kỳ hạn 6 tháng & huy động được 100 triệu USD,lãi suất cố định 4,3%/năm với kỳ hạn 3 tháng. Như vậy sau 3 tháng, ngân hàng phải trả lãi 4,3%/năm cho khoản vay cũ & đi vay mới. Nếu như lãi suất trên thị trường tại thời điểm đó là 5,2%, ngân hàng sẽ phải chịu chi phí lãi vay tăng lên khá cao. Đứng trước tình hình trên,để cố định lãi suất huy động vào 3 tháng tiếp theo. Ngân hảng đã quyết định ký 1 hợp đồng FRA 3x6 như sau: Ngân hàng quyết định cho công ty B vay với lãi suất thả nổi Libor 3 tháng sau 3 tháng nữa, đổi lại công ty B chấp nhận cho ngân hàng vay với lãi suất cố định 4,4%/năm (có thể nhỏ hơn, tùy thương lượng) sau 3 tháng nữa. Ta có bảng phân tích sau: 15 * Ngân hàng huy động thêm 100tr vốn bên ngoài từ sau tháng thứ 3 & phải chịu lãi suất huy động bằng lãi suất thả nổi. Trên thưc tế, việc lãi suất trao đổi là 4,4% ở trên sẽ được tính toán kỹ lưỡng sao cho dung hòa được lợi ích của cả ngân hàng X & doanh nghiệp B. Vậy bằng cách sử dụng hợp đồng FRA, ngân hàng không những phòng ngừa được rủi rolai4 suất mà còn thu về cho mình 1 khoản thu nhập Hợp đồng hoán đổi lãi suất (IRS) IRS là 1 thỏa thuận giữa 2 bên, theo đó 2 bên sẽ thực hiện trao đổi các dòng tiền lãi cho nhau. Thông thường 1 bên sẽ nhận lãi suất cố định & bên còn lại sẽ nhận lãi suất thả nổi tại những ngày xác định trước gọi là những ngày giá trị giao dịch,dựa trên khung thời gian & khoản tiền danh nghĩa đã được xác định trước Ví dụ: Ngân hàng A vay vốn bẳng ngoại tệ của 1 ngân hàng B để đầu tư dự án mới, thời hạn 5 năm trả lãi từng năm với lãi suất được quy định là SIBOR (lãi suất liên ngân hàng Singapore) + 1,5%. Đây là mứa lãi suất dao động phụ thuộc vào biến động thị trường có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với lãi suất tại thời điểm vay vốn. Do lãi suất biến động, việc tính toán chi phí cho đầu tư vào dự án đó sẽ rất khó khăn cho ngân hàng A, ảnh hưởng lớn tới việc xác định hiệu quả đầu tư. Lãi suất vay vào thời điểm trả nợ xuống thấp giúp giảm chi phí vốn cho ngân hàng & lợi nhuận đầu tư sẽ cao hơn nhưng ngược lại cúng có thể rất rủi ro nếu lãi suất tăng quá cao có thể làm ngân hàng bị thua lỗ. Để tránh rủi ro như vậy & để xác định chính xác hiệu quả đầu tư ngay từ giai đoạn lập dự án, ngân hàng A có thể áp dụng công cụ hoán đổi lãi suất trong vay vốn ngân hàng B. Cụ thể, ngân hàng A sẽ ký hợp đồng với ngân hàng B xác định 1 mức lãi suất cụ thể cho dự án (chẳng hạn 5% cho suốt thời gian vay). Nếu lãi suất thị trường xuống thấp hơn mức lãi suất trên, ngân hàng B được lợi do cho vay ở mức lãi suất cao hơn thông thường, ngân hàng A chiu thiệt do phải trả ngân hàng B ở mức lãi suất cao. Nhưng ngước lại, khi lãi suất 16 thị trường tăng lên cao hơn mức trên, ngân hàng A sẽ được lợi do vay lãi suất thấp, còn ngân hàng B chịu thiệt do cho vay rẻ. Bản chất của nghiệp vụ hoán đổi lãi suất là cố định chi phí lãi suất ngay từ khi đi vay vốn, loại bò những biến động thị trường. Như phân tích trên, cho dù ngân hàng A có thể bị thiệt khi cố định lãi suất nhưng sẽ loại bỏ rủi ro khi lãi suất đột biến tăng lên. Hơn nữa, nếu ngân hàng Acó chịu lỗ khi lãi suất giảm thì việc cố định lãi suất như vậy cũng giúp ngân hàng A xác định được rõ cho phí đi vay cho dự án đầu tư của mình. Về nội dung thì hợp đồng hoán đổi lãi suất khá tương đồng với FRA do cùng bản chất như hợp đồng kỳ hạn. Hình thức phòng ngửa rủi ro lãi suất bằng IRS hiện đang rất phổ biến ở các quốc gia phát triển trên thế giới. Tại Việt Nam, T1/2007, ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ban hành quyết định cho phép các ngân hàng thương mại được thực hiện trao đổi lãi suất với doanh nghiệp không phải ngân hàng Hợp đồng quyền chọn Sử dụng hợp đồng quyền chọn lãi suất có thể giúp cho ngân hàng chắc chắn được chi phí lãi vay, tránh được rủi ro lãi suất. Để hiểu rõ hơn có thể xem trường hợp mua quyền chọn mua dưới đây. Khi tài sản nợ của ngân hàng có lãi suất thả nổi trongkhi tài sản có có lãi suất cố định hay khi tài sản nợ có thời lượng ngắn hơn tài sản có. Dự kiến lãi suất trong thời gian tới sẽ tăng để phòng ngừa rủi ro lãi suất ngân hàng mua quyền chọn mua và phải trả một khoản phí cho ngân hàng bán. Nếu lãi suất thị trường tăng cao hơn so với lãi suất trong hợp đồng, ngân hàng mua quyền chọn sẽ nhận được một khoản bù đắp từ ngân hàng bán tại thời điểm nhất định đã được thỏa thuận trong hợp đồng. Khoản bù đắp này bằng giá trị hợp đồng nhân với chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất của hợp đồng. Khoản tiền này dùng để bù đắp cho chi phí huy động vốn tăng do lãi suất thị trường tăng hoặc bù đắp cho sự giảm giá trái phiếu trong tài sản có của ngân hàng. Nếu lãi suất thị trường giảm thấp hơn so với lãi suất trong hợp đồng thì người bán không phải thanh toán khoản tiền nào cho người mua. Ngân hàng sẽ bị mất một khoản phí quyền chọn đã cố định trước. Như vậy, công cụ phái sinh có thể coi là một trong những biện pháp hữu hiệu và hiệu quả giúp cho ngân hàng thương mại khắc phục rủi ro lãi suất. Bên cạnh rủi ro lãi suất, Ngân hàng thương mai cũng phải đương đầu với các rủi ro lớn khác mà trong đó, công cụ phái sinh lại một lần nữa phát huy tác dụng. 2.2.2 Rủi ro hối đoái: 17 Rủi ro ngoại hối là sự không chắc chắn về giá trị của một khoản thu nhập hay chi phí bằng ngoại tệ trong tương lai do sư biến động tỷ giá gây ra, có thể làm tổn thất đến giá dự kiến của khoản thu nhập hay chi phí đó. Kinh doanh ngoại hối đang là một trong những nghiệp vụ quan trọng của NHTM hiện nay, tuy nhiên nó cũng đem rủi ro ngoại hối lại cho ngân hàng. Để giảm thiểu rủi ro ngoại hối, ngân hàng thương mại có thể sử dụng một công cụ hiệu quả, đó là các hợp đồng phái sinh. Giao dịch kỳ hạn. Trong sự lựa chọn nào đó, ngân hàng có thể chọn giải pháp phòng ngừa rủi ro ngoại hối của mình bằng cách sử dụng nghiệp vụ giao dịch có kỳ hạn một năm nghĩa là ngân hàng sẽ bán ngoại tệ để nhận lại nội tệ. Mục đích của các hợp đồng kỳ hạn là nhằm loại trừ những khả năng không chắc chắn về tỷ giá giao ngay tại thời điểm tín dụng đến hạn. Giả sử ngân hàng muốn đổi VNĐ lấy USD vào cuối năm nay, nhưng việc đồng USD biến đổi như hiện giờ làm ngân hàng không chắc chắn về tỷ giá. Tới cuối năm, tỷ giá USD/VND có thể tăng, gây ra bất lợi cho ngân hàng. Vì thế ngân hàng quyết định ký một hợp đồng kỳ hạn, cố định mức tỷ giá sẽ trao, cố định được số tiền cần cho trao đổi. Việc giao nhận giữa ngoại tệ và nội tệ được thực hiện tại thời điểm cuối năm. Như vậy, bằng cách bán kỳ hạn số ngoại tệ dự tính thu được với một tỷ giá đã được xác định ngay ngày hôm nay, ngân hàng đã tránh được rủi ro do tỷ giá biến động tại thời điểm cuối năm và do đó, đảm bảo được mức lợi tức dự tính trong hoạt động tín dụng bằng ngoại tệ. Nghiệp vụ kỳ hạn được giao dịch phổ biến trên thị trường OTC (over the counter), do đó thỏa mãn được hầu hết các đối tác có nhu cầu bảo hiểm rủi ro, mà chủ yếu là các ngân hàng và các công ty xuất nhập khẩu. Hợp đồng tương lai ‘Thay vì sử dụng nghiệp vụ kỳ hạn, ngân hàng có thể sử dụng các hợp đồng tương lai để bảo hiểm rủi ro ngoại hối. Các hợp đồng tương lai được giao dịch trên cơ sở có tổ cức. Hợp đồng tương lai khác biệt so với kỳ hạn ở chỗ hợp đồng tương lại được chuẩn hóa từ loại ngoại tệ, khối lượng giao dịch, ngày thanh toán. Ví dụ như, ngân hàng A sau 2 tháng nữa sẽ phải thanh toán 1.000.000 USD cho ngân hàng B. Để phòng ngừa rủi ro ngoại hối từ việc USD lên giá so với VND, ngân hàng quyết định bán hợp đồng tương lai với tỷ giá xác định trước. Vậy ngân hàng có thể chốt được tỷ giá sau 2 tháng tới và không cần phải để ý tới tỷ giá giao ngay trên thị trường. Để làm được việc này thì ngân hàng phải đặt ký quỹ khoản tiền và sở giao dịch hợp đồng tương lai sẽ tất toán các dòng tiền mỗi ngày, ngân hàng sẽ phải đặt cọc thêm mức ký quỹ nhỏ hơn một giới hạn nào đó. 2.2.3 Rủi ro tín dụng 18 Theo cách hiểu thông thường, rủi ro tín dụng là rủi ro xảy ra khi con nợ không có khả năng thanh toán cả gốc và lãi vay. Sự kiện này còn gọi là “default”. Tuy nhiên trong thực tế trước khi xảy ra “default”, một chủ thể phát hành chứng khoán nợ phải trải qua các giai đoạn khác nhau. Về cơ bản, chúng ta có thể phân ra làm 4 giai đoạn mà trong tiếng anh người ta sử dụng 4 thuật ngữ bắt đầu bằng 4 chữ “D”. - Khả năng trả nợ suy giảm (deterioration): thể hiện thông qua việc các chỉ số tài chính xấu đi, các nguồn thu nhập giảm sút. Doah nghiệp có thể mất thị phần do cạnh tranh khốc liệt hoặc sản phẩm không còn được thị trường ưa chuộng. hệ quả của việc này có thể là việc xuống hạn mức tín nhiệm, lãi suất huy động vốn tăng lên. - Tình trạng hết sức khó khăn (distressed): doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính do tình hình kinh doanh kém, các nguồn thu nhập giảm sút nghiêm trọng, bắt đầu có các khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp chưa nhìn thấy nguồn. hệ quả của việc này có thể xuất phát từ việc xuống hạn định mức tín nhiệm, lãi suất huy động vốn tăng lên, sự tiếp cận với các nguồn tín dụng trở nên rất khó khăn với các điều tín dụng hết sức ngặt nghèo. - Mất khả năn trả nợ (default): đây là giai đoạn doanh nghiệp không thể thanh toán được các khoản nợ khi đến hạn. Các chủ nợ phải áp dụng các biện pháp siết nợ và phong tỏa tài sản. việc giải quyết thanh toán nợ sẽ được thực hiện qua tòa án. - Phá sản (dead): doanh nghiệp phá sản hoàn toàn Các sản phẩm phái sinh rủi ro tín dụng - Hoán đổi toàn bộ lợi ích: + Hoán đổi tổng tỉ suất sinh lời là một giao dịch hoán đổi tương tự như một hoán đổi thông thường, trong đó một bên đồng ý trả tổng tỉ suất sinh lời trên một tài sản cụ thể. + Sử dụng hoán đổi tổng tỉ suất sinh lời để phòng ngừa rủi ro tín dụng: chẳng hạn một người mua trái phiếu nhận một mức lãi suất như LIBOR cộng chênh lệch với một bên khác thông qua việc hoán đổi tổng tỉ suất sinh lời. Tổng tỉ suất sinh lời bao gồm các khoản thanh toán lãi cũng như lãi vốn chưa thực hiện. Nếu trái phiếu bị lỗ vốn thì bên nắm giữ công cụ phái sinh nhận được một khoản thanh toán tuơng đương từ người bán công cộng phái sinh tín dụng. Thật vậy, bên nắm giữ trái phiếu do bên kia phát hành hứa trả cho một bên khác tổng tỉ suất sinh lời của trái phiếu và nhận một lãi suất tương ứng, vì thế họ đã không phải chịu rủi ro thay đổi giá cả do các nhân tố không liên quan đến biến động lãi suất gây ra. Có lẽ sự thay đổi giá cả như vậy xảy ra chủ yếu từ thay đổi rủi ro tín dụng của người đi vay. Tuy nhiên, lưu ý rằng trong khi hoán 19 đổi được thiết kế để loại trừ rủi ro tín dụng, thì hai bên tham gia hoán đổi đã thừa nhận rủi ro tín dụng của nhau. + Trong hoán đổi tổng tỉ suất sinh lời thì trái phiếu vẫn được lưu giữ trên sổ sách của bên nắm giữ trái phiếu lúc ban đầu. Bên bán công cụ phái sinh tín dụng đang tìm lợi nhuận trên trái phiếu mà lại không mua trái phiếu. Lưu ý rằng rủi ro thị trường do biến động lãi suất không được loại trừ vì các rủi ro này phản ánh trong thanh toán LIBOR. Một cách ngẫu nhiên, chúng ta lại thấy rằng khoản thanh toán LIBOR có thể là lãi suất cố định hoặc có thể chuyển từ LIBOR sang lãi suất cố định với một hoán đổi vanilla thuần nhất. Cuối cùng chúng ta có thể tóm lại: hoán đổi tổng tỉ suất sinh lời giống với hoán đổi thông thường nhưng thanh toán lãi tương ứng với một trái phiếu đặc trưng và khoản lãi, lỗ vốn chưa được thực hiện cũng lại được thanh toán. + Hoán đổi tổng tỉ suất sinh lời chỉ thiết thực đối với trái phiếu có tính thanh khoản hợp lý và không thích hợp đối với các khoản vay thông thường. Điều này là bởi vì các bên phải có khả năng nhận diện tổng tỷ suất sinh lời trên kỳ thanh toán để xác định một bên nợ bên kia bao nhiêu. Do đó phải có một thước đo xác thực giá trị thị trường trái phiếu. - Hoán đổi rủi ro tín dụng + Mặc dù là một loại hoán đổi, nhưng hoán đổi tín dụng thực sự lại giống với một chính sách bảo hiểm hơn. Một bên nắm giữ một trái phiếu hoặc một khoản vay tiến hành thực hiện một chuỗi các khoản thanh toán định kì với bên kia + Sử dụng hoán đổi tín dụng: Nếu bên nắm giữ một trái phiếu hoặc một khoản vay kí một hợp đồng hoán đổi tín dụng với một tổ chức bảo hiểm. Trong trường hợp trái phiếu hoặc khoản vay trên bị vỡ nợ hoặc bị đánh giá thấp về tín dụng, bên bảo hiểm trả cho bên đối tác (bên được bảo hiểm) một số tiền bù trừ khoản lỗ. Các hoán đổi tín dụng đều được sử dụng hiệu quả đối với các trái phiếu và khoản vay nhưng chúng lại đòi hỏi một định nghĩa cẩn thận về sự cố tín dụng là gì. Hoán đổi tín dụng đòi hỏi một định nghĩa rất cẩn thận các sự cố mà công ty bảo hiểm có thể đền bù. Có nhiều loại sự cố tín dụng có thể xảy ra và được xác định cụ thể trong hợp đồng. Các biến cố này bao gồm việc không thực hiện chi trả lãi hoặc thanh toán tiền vốn theo định kì trong thời gian ân hạn, việc tuyên bố phá sản, quyết định khước từ khoản nợ, có nghĩa là người đi vay khẳng định không mắc nợ trên phương diện pháp lý. Ngoài ra, các sự cố này cũng bao gồm quá trình tái cấu trúc khoản nợ của người đi vay và việc tăng tốc thanh toán của một khoản nợ nào đó. Khoản thanh toán này được tạo ra bởi một khoản nợ trước kỳ hạn. Các khả năng này phải được giải thích rõ ràng trong hợp đồng. 20 - Trái phiếu liên kết phái sinh rủi ro tín dụng Chứng khoán liên kết tín dụng là loại công cụ giống như một trái phiếu hoặc tín phiếu thường, đó là phải trả lãi và vốn. Mặc dù vậy, về cơ bản tín phiếu là chất lượng tín dụng của bên thứ ba. Nếu bên thứ ba bị vỡ nợ một vài công cụ hoặc một nghĩa vụ cụ thể khác thì chứng khoán liên kết tín dụng sẽ thanh toán lại ít hơn số vốn đầy đủ ban đầu. - Quyền chọn biên độ tín dụng 21 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ PHÁI SINH I. CƠ SỞ PHÁP LÝ Trên cơ sở Luật Các TCTD, Pháp lệnh Ngoại hối, NHNN đã ban hành các quy định làm nền tảng cho triển khai các công cụ tài chính phái sinh, tỷ giá giao dịch và quy định nhằm ngăn ngừa, hạn chế rủi ro đối với các ngân hàng thông qua yêu cầu về trạng thái ngoại hối. Từ năm 1999, NHNN Việt Nam đã ban hành quy định tạo điều kiện cho sự ra đời của công cụ tài chính phái sinh tại Việt Nam theo Quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN 7 ngày 25/2/1999 về Giao dịch kỳ hạn. Theo đó, các giao dịch kỳ hạn được thực hiện trong hợp đồng mua bán USD và VND giữa NHTM với doanh nghiệp (DN) xuất nhập khẩu hoặc với các NHTM khác được phép của NHNN. Giao dịch hoán đổi đã có cơ sở pháp lý từ những năm 90, cụ thể là Quyết định số 430/QĐ-NHNN13 ngày 24/12/1997, sửa đổi, bổ sung Quyết định số 893/2001 /QĐ-NHNN ngày 17/7/2001. Tiếp đến là Quyết định số 1133/QĐ-NHNN ngày 30/09/2003 về quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cho phép mở rộng danh mục các NHTM và các TCTD, các DN được sử dụng công cụ hoán đối lãi suất. Hoán đổi lãi suất được thực hiện đối với cả VND và ngoại tệ giữa các ngân hàng với DN vay vốn tại NH; giữa NH với những DN vay vốn tại các tổ chức tín dụng (TCTD) khác, kể cả vay vốn nước ngoài; giữa các NH trong nước với nhau và giữa các NHTM trong nước với các TCTD nước ngoài. Giao dịch quyền chọn tiền tệ được thực hiện theo Quyết định số 1452/2004/QĐ- NHNN của Thống đốc NHNN, chỉ bao gồm giao dịch giữa các ngoại tệ (không liên quan đến VND). Đối tượng được tham gia giao dịch hối đoái bao gồm TCTD được phép, tổ chức kinh tế, tổ chức khác, cá nhân và NHNN Việt Nam. TCTD được duy trì tổng giá trị hợp đồng quyền chọn không có giao dịch đối ứng tối đa là 10% so với vốn tự có. Cũng trong Quyết định này, các TCTD không được mua quyền chọn của tổ chức kinh tế, tổ chức khác và cá nhân mà họ chỉ được phép bán quyền chọn cho các đối tượng này mà thôi. Về tỷ giá giao dịch, Quyết định số 648/2004 do Thống đốc NHNN ban hành ngày 28/5/2004 quy định kì hạn của giao dịch kỳ hạn (Forward) và giao dịch hoán đổi (Swap) có thời hạn từ 3 ngày đến 365 ngày với tỷ giá kì hạn được xác định trên cơ sở: (i) Tỷ giá giao ngay của ngày kí hợp đồng kì hạn, hoán đổi; (ii) chênh lệch giữa 2 mức lãi suất hiện hành là lãi suất cơ bản của VND (tính theo năm) do NHNN công bố và lãi suất mục tiêu do Cục dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) công bố; và (iii) kì hạn của hợp đồng. Quy định về cách thức tính tỷ giá kì hạn này đã tiến gần với thông lệ quốc tế và là tiền đề pháp lý quan trọng cho sự phát triển của thị trường ngoại hối Việt Nam nói chung và giao dịch ngoại hối kì hạn nói riêng. 22 Các giao dịch mua bán ngoại tệ của NHTM làm chuyển giao quyền sở hữu về ngoại tệ, từ đó, làm phát sinh trạng thái ngoại tệ trường (dương) hoặc đoản (âm). NHTM sẽ có khả năng rủi ro khi duy trì trạng thái ngoại tệ mở và tỷ giá trên thị trường biến động. Nói cách khác, nếu NHTM duy trì trạng thái ngoại tệ trường sẽ gặp rủi ro hối đoái nếu như tỷ giá ngoại tệ trong tương lai giảm giá; và ngược lại, NH sẽ gặp rủi ro khi ngoại tệ tăng giá trong trường hợp NHTM đó duy trì trạng thái ngoại tệ đoản. Để kiểm soát và giới hạn rủi ro cho NHTM, Quyết định số 1081/2002/QĐ-NHNN ban hành ngày 7/10/2002 và Quyết định 1168/2003/QĐ-NHNN ban hành ngày 2/10/2003 quy định giới hạn trạng thái ngoại tệ đối với các NHTM Việt Nam, ngân hàng liên doanh và công ty tài chính. Theo đó, các ngân hàng phải thực hiện tổng trạng thái ngoại tệ dương hoặc âm cuối ngày không được vượt quá 30% vốn tự có của mình. Trên nền tảng các cơ sở pháp lý trên, các NHTM Việt Nam đã triển khai hoạt động kinh doanh tiền tệ và thực hiện các công cụ tài chính phái sinh tiền tệ đạt một số kết quả nhất định với những mức độ khác nhau. II. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ PHÁI SINH TẠI CÁC NGÂN HÀNG Từ khi NHNN cho phép thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất trên thị trường Việt Nam (từ 1/2003), đã có một só ngân hàng như ABN, Citibank thực hiện hoán đổi lãi suất trong phạm vi đồng USD từ ngày 1/3/2005 tới 2/2006. Tuy nhiên, giao dịch hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền USD và VND (hoán đổi lãi suất chéo) đã được thực hiện, từ trước khi có quy định chính thức của ngân hàng nhà nước. Cho tới lần đầu tiên, khi được NHNN cho phép, HSBC đã cung cấp gói Swaps tiền Đồng cho một công ty đa quốc gia với số vốn lên tới 15 triệu USD trên tại trường Việt Nam. Theo đó, HSBC sẽ đưa VND và nhận USD từ khách hàng, tới tháng 12/2007, HSBC sẽ đưa USD và nhận lại VND từ khách hàng. Với giao dịch này, khách đã đạt được mức lãi suất cạnh tranh nhất trên thị trường nội địa cho việc vay vốn tiền Đồng kỳ hạn 3 năm mà không chịu bất cứ một rủi ro nào về tỷ giá USD/VND. Chính hành động của HSBC, tạo ra nền tảng phát triển cho các giao dịch hoán đổi sau này. Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại Việt Nam thực hiện hoán đổi lãi suất chéo giữa hai đồng tiền chéo đối với các khoản vay ngoại tệ của khách hàng sử khi khách hàng vay ngoại tệ. Và trong tương lai, Standard Chartered sẽ còn cung cấp nhiều sản phẩm phái sinh nữa trên thị trường Việt Nam, hứa hẹn tương lai phát triển thị trường. Ở một mức cao hơn, các công cụ lai tạp có nguồn gốc từ hoán đổi như hoán đổi lãi suất cộng dồn, hoán đổi lãi suất kèm theo điều kiện quyền chọn, hoán đổi lãi suất bắt đầu thực hiện trong tương lai …cũng đã xuất hiện và triển khai trên thị trường ngoại hối trong thời gian gần đây. Điều đặc biệt là các hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng đã được thí điểm áp dụng tại 23 Việt Nam theo công văn 3324/NHNN-CSTT, tháng 4/2006 cho phép HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh thực hiện. Mặc dù là một loại hoán đổi nhưng hoán đổi rủi ro tín dụng thực sự lại giống một chính sách bảo hiểm hơn. Tức một bên nắm giữ trái phiếu hoặc các khoản vay, định kỳ sẽ thanh toán cho bên kia. Trường hợp trái phiếu bị đánh giá thấp hay các khoản vay trên bị vỡ nợ, bên bảo hiểm ở đây là HSBC sẽ trả cho bên đối tác, khách hàng các khoản bù trừ lỗ. Sản phẩm hoán đổi rủi ro tín dụng của HSBC Việt Nam chỉ gắn với rủi ro tín dụng của các loại trái phiếu do chính phủ hoặc các DN Việt Nam phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế, các khoản vay dài hạn của DN Việt nam tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam. Khách hàng chuyển nhượng rủi ro tín dụng cho HSBC là các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam và bên nhận chuyển nhượng là các chi nhánh HSBC ở nước ngoài. Thời hạn của giao dịch không quá 5 năm. Khách hàng mua loại công cụ này cũng giống như thực hiện một khoản đầu tư gián tiếp. Việc tiếp cận với các công cụ này cho phép nhà đầu tư có cơ hội tìm kiếm những mức lợi nhuận cao hơn so với hoạt động tín dụng tiền gửi bình thường, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn của các TCTD. Hơn nữa, việc sử dụng các công cụ mới này còn góp phần nâng cao mức độ tín nhiệm của chính phủ và các DN Việt Nam khi phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế. Quyền chọn ngoại tệ, lãi suất và vàng dường như là những công cụ phái sinh được thị trường hoan nghênh và đón nhận nhiều nhất do những ưu điểm vốn có của nó trong bối cảnh lãi suất và tỷ giá và giá vàng luôn ở trạng thái tăng liên tục. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng đầu tiên được phép thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất. Các giao dịch quyền chọn lãi suất được phép thực hiện đối với những khoản cho vay và đi vay trung hạn (dưới 5 năm) bằng USD hoặc bằng EURO và chỉ được thực hiện đối với các DN hoạt động tại VN, các NHTM hoạt động ở VN được NHNN cho phép và các NH ở nước ngoài. Sau BIDV là hàng loạt các NHTM khác, bao gồm cả NHTM cổ phần cũng được cho phép thực hiện nghiệp vụ này. Bên cạnh quyền chọn lãi suất, quyền chọn ngoại tệ cũng được nhiều ngân hàng cung cấp, điển hình là BIDV, Eximbank, ACB, Techcombank, Agribank, Citibank, Vietcombank, ICB, và ngân hàng Hồng Kông bank chi nhánh thành phố HCM. Nguyên tắc chính của loại quyền chọn này là các DN và cá nhân được quyền đặt mua hay đặt bán USD với VNĐ thông qua một tỷ giá do khách hàng tự chọn, được gọi là tỷ giá thực hiện. Đặc biệt, quyền chọn USD và VNĐ đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu và quyền chọn bán áp dụng cho nhà xuất khẩu. Sau khi NHNN cho phép ACB, Sacombank và Agribank thực hiện quyền chọn mua bán vàng, ngày 10/12/2004 ACB là ngân hàng đầu tiên công bố triển khai dịch vụ này. Dịch vụ này được tung ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế giá vàng liên tục tăng, tuy nhiên cũng cần có thời gian để đo lường mức độ đón nhận của thị trường đối với công cụ. Tới nay, đã có rất nhiều ngân hàng 24 được phép của Ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện các nghiệp vụ Option. Đặc biệt, Ngân hàng nhà nước cũng đã cho phép thực hiện các Options tiền Đồng tại BIDV, ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, ngân hàng cổ phần thương mại quốc tế. Với nghiệp vụ này, chắc chắn tương lai sẽ được mở rộng bởi khi đó VND sẽ có cơ hội tiếp cận với thị trường tài chính thế giới. Vị thế của VND và Việt Nam cũng qua đó mà tăng lên. Tuy nhiên, vì đang trong giai đoạn thí điểm nên các ngân hàng này bị giới hạn bởi thời gian thực hiện. Nhìn chung, hoạt động này đang đem lại một cơ cấu sản phẩm hiện đại cho các ngân hàng trong điều kiện hội nhập. Hơn nữa, nhu cầu của khách hàng đối với các giao dịch Options đang có xu hướng tăng, do vậy ngân hàng nhà nước đã tiến hành gia hạn thí điểm hợp đồng các nghiệp vụ này. Quyền chọn USD và VNĐ đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu và quyền chọn bán áp dụng cho nhà xuất khẩu. Nhìn vào tình hình phát triển việc sử dụng các công cụ phái sinh trong thời gian qua tại các ngân hàng để phục vụ cho việc phòng ngừa rủi ro thì ta có thể thấy được rằng các ngân hàng ngày càng chú trọng hơn đến việc sử dụng các công cụ này trong việc bảo đảm sức khỏe trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng mình. Bảng: Lợi nhuận từ các công cụ tài chính phái sinh tại một số NHTM ĐVT: Triệu đồng Nguồn: Tổng hợp từ BCTC của các ngân hàng Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy được là các ngân hàng trong nước ngày càng quan tâm đến việc sử dụng các công cụ phái sinh để ngăn ngừa rủi ro khi mà doanh thu và chi phí cho các công cụ này ngày càng tăng. Tuy nhiên, hiệu quả của các NHTM Việt Nam trong việc sử dụng công cụ này vẫn chưa mang lại hiệu quả cao khi mà mức lợi nhuận nhận được là không cao thậm chí còn bị lỗ liên tục trong khoảng thời gian 2009-2011. Điều này cũng có thể hiểu được khi mà dư âm của cuộc khủng hoảng tài chính 2008 vẫn còn ảnh hưởng nặng 25 nề đến sự ổn định của thị trường tài chính trong nước và trên thế giới dẫn đên mặt bằng tỷ giá cũng như lãi suất thay đổi liên tục. Điểm lại những mốc chính xuất hiện của các công cụ phái sinh ở VN, dễ nhận thấy rằng nó chưa được thị trường đón nhận như là công cụ không thể thiếu trong phòng ngừa rủi ro. III. ĐÁNH GIÁ VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH TẠI VIỆT NAM Bên cạnh một số kết quả nhất định và nổi bật thì sau hơn 10 năm quy định và triển khai các công cụ tài chính phái sinh tiền tệ vẫn còn không ít những trở ngại, bất cập, cản trở sự phát triển các công cụ này tại Việt Nam. Một số hạn chế về sự phát triển các công cụ tài chính phái sinh tiền tệ tại NHTM Việt Nam trong thời gian qua như: - Các giao dịch mua bán ngoại tệ tại NHTM Việt Nam chủ yếu là giao dịch giao ngay với tỷ trọng giao dịch lên đến hơn 85% trong tổng số các giao dịch ngoại tệ. - Số lượng NHTM Việt Nam triển khai công cụ tài chính phái sinh tiền tệ còn quá ít chủ yếu là các ngân hàng lớn với vốn điều lệ mạnh, công nghệ ngân hàng hiện đại, có uy tín trên thị trường quốc tế dẫn đến doanh số thực hiện công cụ tài chính phái sinh tiền tệ chiếm tỷ trọng thấp, chưa đến 10%. - Các công cụ tài chính phái sinh tiền tệ đã triển khai tại một số NHTM Việt Nam chưa phong phú, chưa đa dạng, chưa tạo nhiều tiện ích nên chưa hấp dẫn đối với khách hàng, vì vậy số lượng khách hàng tham gia còn khá khiêm tốn. - Hoạt động mua bán ngoại tệ nói chung và thực hiện công cụ tài chính phái sinh chủ yếu tập trung tại hội sở chính của từng hệ thống NHTM Việt Nam và một số chi nhánh lớn của NH. - Phần lớn các NHTM chưa thật sự quan tâm và đầu tư đúng mức để triển khai có hiệu quả các công cụ tài chính phái sinh tiền tệ. - Phần lớn các NHTM chưa chuẩn bị nguồn lực, hệ thống công nghệ để triển khai công cụ tài chính phái sinh tiền tệ. - Một số NHTM triển khai công cụ tài chính phái sinh tiền tệ thiếu sự kiểm soát dẫn đến tổn thất lớn cho NH. Điển hình là sự kiện kinh doanh ngoại tệ tại một NHTM Việt Nam theo kết quả của Thanh tra NHNN, đến ngày 31/12/2004 kinh doanh ngoại tệ lỗ của NH này lên tới 499,8 tỷ đồng, riêng quý IV/2004 chiếm 98,9% số lỗ nói trên (447,6 tỷ đồng). Trong số này, hoạt động kinh doanh đồng EUR và USD lỗ tới 28,3 triệu USD. Đặc biệt, liên tiếp trong những ngày cuối năm 2004, có 10 giao dịch mua ngoại tệ lên tới 30 triệu EUR/giao dịch. Rủi ro chủ yếu từ rủi ro hoạt động, trong đó lỗ chủ yếu xuất phát từ các giao dịch không phải do cán bộ phòng kinh doanh ngoại tệ thực hiện mà do lãnh đạo không trực tiếp kinh doanh hoặc chỉ đạo cho nhân viên giao dịch thực hiện, giao dịch vượt quá hạn mức quy định. 26 Các báo cáo trạng thái ngoại tệ của NH này gửi về NHNN cũng không phản ánh chính xác thực tế trạng thái của NH. - Các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh tiền tệ và công cụ tài chính phái sinh chậm thay đổi, chưa tương thích với thay đổi của thị trường. Chẳng hạn như Quyết định số 1820/NHNN-QLNH ban hành ngày 18/3/2009 trong đó quyền chọn chỉ được thực hiện giữa ngoại tệ và ngoại tệ, không được thực hiện quyền chọn giữa ngoại tệ và VND, chưa có quy định rõ ràng về kế toán đối với DN về phí quyền chọn sẽ được ghi nhận như một khoản chi phí hợp lý khi xác định thuế thu nhập DN, quy định về tỷ giá của NHNN vẫn còn tạo sự chênh lệch giữa tỷ giá niêm yết và tỷ giá trên thị trường. - Chất lượng đội ngũ cán bộ ngân hàng thực hiện việc phát triển hay kinh doanh các sản phẩm phái sinh tại các NHTM vẫn còn hạn chế do tại Việt Nam, các sản phẩm phái sinh vẫn được xem là “mới” nên các cán bộ, nhân viên ngân hàng vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc khi xử lý các nghiệp vụ liên quan đến các sản phẩm này. 27 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÔNG CỤ PHÁI SINH TẠI VIỆT NAM I. GIẢI PHÁP VĨ MÔ 3.1 Hoàn thiện hệ thống pháp lý liên quan tới các công cụ phái sinh Hệ thống pháp luật về các công cụ tài chính cần phải được quy định cụ thể về các CCPS trong các văn bản pháp luật chính thức chứ không dừng lại ở mức độ các văn bản hướng dẫn cấp Bộ, ngành. Các văn bản pháp luật chính thức có độ phổ cập cao sẽ giúp thị trường CCPS được vận hành quy củ, thông suốt và CCPS trở nên phổ biến. Tiến tới, Nhà nước nên định hướng xây dựng một văn bản luật riêng điều chỉnh các quan hệ, hoạt động phức tạp liên quan đến CCPS. Trong tình hình hiện nay, khi mà Việt Nam đã bước đầu hội nhập quốc tế, các giao dịch với nước ngoài tăng nhanh về số lượng và giá trị, việc nhanh chóng có luật điều chỉnh các CCPS để giúp vấn đề phòng ngừa rủi ro và kinh doanh thu lợi từ hoạt động phái sinh là vấn đề phải được đặt ra cấp thiết. Theo nhóm chúng tôi, nên xây dựng lộ trình 3 năm để dự thảo và triển khai bước đầu cho văn bản luật riêng về CCPS. Luật về công cụ phái sinh cần có các quy định chi tiết về:  Tiêu chuẩn về mặt tư cách pháp lý, xếp hạng tín dụng, lượng vốn tối thiểu, giấy tờ cần thiết... cho phép các cá nhân, pháp nhân được phép tham gia thị trường phái sinh tương ứng với các mục đích phòng vệ, đầu cơ và ăn chênh lệch.  Các sản phẩm phái sinh được phép lưu hành trên thị trường phái sinh, tiêu chuẩn về giá trị, thời hạn của các công cụ này.  Quy trình giao dịch các loại công cụ phái sinh, quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ giao dịch, mua bán, môi giới... các loại công cụ phái sinh  Hoạt động của sàn giao dịch tương lai, sàn giao dịch quyền chọn để hướng tới xây dựng sàn giao dịch tập trung cho hai loại công cụ này, đảm bảo luật có khả năng đón đầu xu thế mới. Một điểm quan trọng để thúc đẩy các chú thể tham gia TTPS là cần thông thoáng hơn trong các quy định về mục đích sử dụng các CCPS. Nên cho phép nhà đầu tư được phép đầu cơ, ăn chênh lệch giá từ việc sử dụng CCPS, chỉ không chỉ dùng các CCPS để phòng vệ. Có như vậy, TTPS mới trở nên hấp dẫn vì doanh nghiệp đồng thời vừa có thể phòng vệ vừa có thể kiếm được lợi nhuận. Để đảm bảo hoạt động đầu cơ được phép diễn ra nhưng không ảnh hưởng đến giá cả, có thể cho phép triển khai quyền chọn điều kiện đưa ra những quy định về các mức trần và sàn. 28 Đối với các nhà môi giới trên các hợp đồng phái sinh, yêu cầu về vốn là rất quan trọng, vì chúng giúp cho hệ thống các NHTM của Việt Nam giảm bớt những nguy cơ về động cơ sẵn sàng chấp nhận rủi ro để tránh tình trạng mất khả năng thanh toán của nhà môi giới. Ngoài ra để đảm bảo tính bền vững của thị trường phái sinh, cần yêu cầu bắt buộc về tái phòng ngừa rủi ro trên các thị trường quốc tế, như vậy sẽ khống chế và bắt buộc hệ thống NHTM trong nước không được gánh chịu rủi ro từ người mua các hợp đồng quyền chọn hoặc kỳ hạn. Đối với Luật chứng khoán, Nhà nước và các cơ quan quản lý nên ban hành và triển khia các văn bản dưới luật hướng dẫn, chủ trương hướng tới một thị trường chứng khoán vận hành quy củ, thông suốt, thông tin minh bạch, tinh giản thủ tục hành chính. Trong đó, Ủy ban Chứng khoán cần xem xét về quy định cấm bán khống và xác định phạm vi hợp lý trong đó cho phép bán khống, vì bán khống là điều kiện cần thiết cho thị trường tương lai. 3.2 Hoàn thiện phát triển thị trường tài chính Cần có biện pháp để thị trường chứng khoán Việt Nam hiện đại, minh bạch, phát triển một cách có tổ chức, phù hợp với quốc tế, hỗ trợ thị trường phái sinh. Thực hiện hoạt động lưu ký, thanh toán chứng khoán tập trung, tập trung hoạt động quản lý rr trên thị trường và để hoạt động này được nhận thức một cách nghiêm túc. Tiêu chuẩn hóa hoạt động của trung tâm lưu ký chứng khoán và các thành viên lưu ký. Từng bước phát triển và hoàn thiện các nghiệp vụ của trung tâm lưu ký chứng khoán theo các chuẩn mực quốc tế. Nhanh chóng hoàn thành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và việc các công ty này nhanh chóng phát hành cổ phiếu ra công chúng, có những ưu đãi thuế để các tổ chức niêm yết có động lưc hoạt động mạnh hơn, để gia tăng số lượng chứng khoán gốc của chứng khoán phái sinh. Để hạn chế tình trạng giao dịch nội gián, lạm dụng thông tin từ việc cổ phần hóa doanh nghiệp do khép kín quá trình cổ phần hóa, tù định giá đến xác định nhà đầu tư, cần xem xét chuyển Ủy ban chứng khoán thành một cơ quan nhà nước độc lập, tách các sàn giao dịch chứng khoán khỏi Ủy ban chứng khoán. Trong trường hợp các trung tâm giao dịch tách khỏi Ủy ban chứng khoán nhưng vẫn là doanh nghiệp Nhà nước thì các vấn đề về tổ chức, cán bộ vẫn do Bộ chủ quản quyết định Đối với trái phiếu, đầu tiên và chủ lực vẫn là trái phiếu chính phủ, cần phải được đa dạng hóa để phù hợp với mục tiêu đa dạng của các nhà đầu tư, trong đó có cả mục tiêu phòng ngừa rủi ro. Tù đó phát triển sản phẩm phái sinh phòng ngừa rủi ro lãi suất dựa trên các tài 29 sản gốc là các loại trái phiếu. Thị trường thứ cấp của trái phiếu cũng cần có giải pháp phát triển để tăng độ thanh khoản cho trái phiếu. 3.3 Thị trường tiền tệ Cần phải đặt mục tiêu hướng tới một đồng tiền quốc gia tự do chuyển đổi. Ban đầu, cần tạo điều kiện để VND được trao đổi ra vào quốc gia linh hoạt hơn Thị trường cần thong thoáng hơn ở khâu kiểm soát cung cầu ngoại tệ cũng như giao dịch ngoại tệ. Như vậy sẽ làm tăng cung cầu đối với công cụ phái sinh và NHTM – vốn có lợi thế và kinh nghiệm về kinh doanh ngoại hốicó động lực để cung cấp các dịch vụ này hơn. Cần phải có cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt hơn, tạo ra 1 thị trường ngoại hối phản ánh đúng hoạt động cung-cầu ngoại tệ. NHNN cần tiếp tục nới rộng biên độ này cho phù hợp với thị trường hơn. Đây là cơ sở để các ngân hàng cũng như doanh nghiệp quen vời công cụ phòng chống cũng như kinh doanh trên tỷ giá. Vai trò của NHNN trên thị trường ngoại tệ lien ngân hàng cũng cần được củng cố, NHNN phải làm tốt vai trò người mua và người bán cuối cùng, có sự can thiệp vừa phải trên thị trường này. Cụ thể, cần nghiên cứu đưa ra một mức sán hợp lý, có tác dụng điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng, không để cho tỷ giá lên quá cao. Đối với hoạt động của VinaForex, cần định hướng để VinaForex vươn ra tầm khu vực và quốc tế. Như vậy sẽ giúp gia tăng nhu cầu mua bán, chuyển đổi ngoại tệ tăng lên, được đa dạng hóa hơn, từ đó làm tăng nhu cầu với các công cụ phái sinh Ngoài ra đối với thị trường tài chính cân có các nhà tạo lập thị trường. Để trở thành người tạo lập thị trường thì cần phải có vốn lớn, có chuyên môn, tổ chức quy củ. Cần phải có biện pháp khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp trở thành nhà tạo lập thị trường , trước tiên là các NHTM thuận lợi với vai trò trung gian tài chính, là người thực hiện số lượng lớn các giao dịch đến chứng khoán, ngoại tệ… 3.4 Hoàn thiện quy chế kế toán và thuế Tiến hành hài hòa Chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán Quốc tế. Cụ thể: Các nội dung trọng yếu, nền tảng và nguyên tắc cơ bản cần được quán triệt. Ví dụ: Đối với công cụ tài chính cần phân theo 4 loại tương tư như nội dung chuẩn mực kế toán quốc tế để xứ lý kế toán theo các nguyên tắc kế toán khác nhau phù hợp tương ứng với mỗi loại; để công bố thông tin phù hợp. Cần phải sửa đổi ngân hàngững quy định không phù hợp của Luật kế toán, của chế độ kế toán doanh nghiệp đồng xây dựng bổ sung các chuẩn mực kế toán VN về công cụ tài chính phù hợp với thực tiễn VN và chuẩn mực kế toán Quốc tế. 30 Loại bỏ những nội dung không trọng yếu, không phải là nền tảng Đối với những nội dung không phù hợp với mức độ phát triển thấp của thị trường VN, cần có quan điểm thân trọng hơn. Vd: Đối với các thị trường còn non yếu, nhiều yếu tố phi kinh tế tác động đến giá cả thị trường, chế độ tài chính kế toán không nên cho phép đánh giá lại giá trị tài sản khi giá trị thị trường lớn hơn giá trị ghi sổ để ghi nhận và kết quả kinh doanh Doanh nghiệp tuân theo hệ thống chuẩn mực kế toán trong nước, đồng thời sẽ có bản đối chiếu bổ sung những điều chỉnh cần thiết để lập thêm báo cáo tài chính theo hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế. Với thuế cần chú ý điều chỉnh biểu thuế suất phù hợp, theo hướng tạo điều kiện cho hàng hóa được giao dịch với số lượng lớn, cần đối giữa hàng xuất khẩu và nhập khẩu để nhu cầu về phái sinh tăng cao 3.5 Thành lập Sở giao dịch chứng khoán phái sinh Sau giai đoạn một vài loại sản phẩm đơn giản như Hợp đồng tương lai, quyền chọn, chứng quyền… được giao dịch ngay trên thị trường cổ phiếu và trái phiếu, có thể tiến hành xây dựng Sở giao dịch chứng khoán phái sinh riêng biệt và phát triển các loại chứng khoán phái sinh riêng biệt và các loại chứng khoán phái sinh hỗn hợp. Mô hình thích hợp là sở hữu nhà nước, sở hữu thành viên với các thành viên là các công ty môi giới chứng khoán đang hoạt động hiên nay hoặc kết hợp sở hữu tùy thuộc vào điều kiện vật chất của các công ty chứng khoán. Về sản phẩm, ưu tiên phát triển trước hợp đồng tương lai về chỉ số cổ phiếu ( đơn giản, phổ biến và hữu dụng vì chỉ số cổ phiếu của SGD rất dễ thiết lập; trong khi đó nhu cầu đối với dịch vụ rào chắn rủi ro bằng hợp đồng tương lai d/v chỉ số cổ phiếu ngày càng tăng) và hợp đồng tương lai về lãi suất ngắn hạn ( sự dao động mạnh của lãi suất ngắn hạn trong thời gian qua các tác động tràn lan của lãi suất ngắn hạn d/v hoạt động kinh tế cho thấy rằng ngày càng cần thiết phải có dịch vụ phòng hộ lãi suất. Đối với hoạt động thanh toán bù trừ trên SGD chứng khoán phái sinh, chỉ nên lập 1 trung tâm thanh toán bù trừ thống nhất trực thuộc Sở hoặc 1 tổ chức độc lập, có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu của Sở II. GIẢI PHÁP TỪ CÁC NGÂN HÀNG  Đối với NHTM đã triển khai thực hiện công cụ tài chính phái sinh tiền tệ cần phát triển hơn nữa về chiều rộng và chiều sâu các công cụ này bằng cách chuẩn bị các điều kiện để không chỉ hội sở mà các chi nhánh NH có thể thực hiện các giao dịch này với khách hàng.  NHTM cần tăng cường hội thảo, tư vấn khách hàng theo chuyên đề về những lợi ích mang lại của công cụ tài chính phái sinh tiền tệ để mở rộng khách hàng áp dụng. NHTM cần tư vấn cho DN phân tích, đánh giá nhiều yếu tố để có quyết định về mặt tài chính thông qua các sản phẩm phái sinh vì việc lựa chọn các sản phẩm phái sinh một mặt mang lại lợi ích cho 31 DN, nhưng DN cần phải hiểu biết về sản phẩm và có biện pháp bảo hiểm rủi ro đi kèm.  NHTM cần nghiên cứu các sản phẩm, công cụ tài chính phái sinh tiền tệ của các NH trên thế giới, của chi nhánh NH nước ngoài tại Việt Nam và các NHTM có thế mạnh về hoạt động này (VCB, Eximbank...) để áp dụng phù hợp đối với NHTM mới triển khai công cụ này.  Tăng cường hoạt động phân tích, dự báo, giám sát rủi ro thông qua hệ thống hạn mức để giới hạn mức lỗ, ghi nhận kế toán, hạn chế tổn thất cho NH do thực hiện các giao dịch phái sinh.  Đối với NHTM chưa thực hiện công cụ tài chính phái sinh, cần chuẩn bị nguồn lực, cơ cấu tổ chức, nghiên cứu kinh nghiệm của các NH khác để khi đủ điều kiện có thể triển khai có lộ trình từ thí điểm đến mở rộng, góp phần đáp ứng nhu cầu khách hàng, đa dạng hóa nghiệp vụ và nâng cao thu nhập NH. III. GIẢI PHÁP TỪ HIỆP HỘI NGÂN HÀNG, NHNN VÀ BỘ TÀI CHÍNH Hiệp hội NH cần kết hợp với các cơ sở đào tạo (học viện, đại học...) làm cầu nối tổ chức các hội thảo, đào tạo chuyên đề giữa NH và DN để phát triển các công cụ tài chính phái sinh tiền tệ từ sự hiểu biết, từ lợi ích mang lại để tạo sự quan tâm áp dụng các công cụ này. - Hiệp hội NH cần là cầu nối tiếp nhận, tập hợp các ý kiến, kiến nghị từ NHTM và DN liên quan đến công cụ tài chính phái sinh tiền tệ để tư vấn với các cơ quan quản lý sửa đổi quy định phù hợp, góp phần tạo điều kiện áp dụng công cụ tài chính phái sinh tiền tệ hiệu quả. - Tạp chí chuyên ngành nên có phần dành riêng giới thiệu các sản phẩm mới, các sản phẩm phái sinh tiền tệ đã được triển khai, phát hành giới thiệu đến các NH, DN để thu hút sự quan tâm của các chủ thế này. - NHNN cần đánh giá sản phẩm phái sinh trên cả hai mặt tích cực và hạn chế, xem xét mở rộng phạm vi thực hiện các công cụ phái sinh, đồng thời có giải pháp hạn chế những nhược điểm của sản phẩm này. NHNN cần nghiên cứu, sửa đổi các quy định liên quan đến kinh doanh tiền tệ, công cụ tài chính phái sinh tiền tệ theo xu hướng hội nhập quốc tế phù hợp điều kiện môi trường Việt Nam trong từng thời kỳ. - NHNN cần tăng cường giám sát rủi ro từ xa qua hệ thống thông tin báo cáo của các NHTM và kiểm tra tại chỗ để kịp thời phát hiện, ngăn chặn rủi ro kinh doanh tiền tệ, đảm bảo an toàn hệ thống NHTM Việt Nam. - Bộ Tài chính cần nghiên cứu ban hành chuẩn mực liên quan đến công cụ tài chính phái sinh và ghi nhận về kế toán thuế liên quan đến công cụ này đối với DN. 32 KẾT LUẬN Với xu thế ngày càng phát triển, ngày càng biến đổi của các rủi ro trên, việc sử dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro đang là cách thức quản trị rủi ro hiệu quả nhất cho các Ngân hàng quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, do thị trường Việt Nam vẫn chưa phát triển toàn diện, do đó việc sử dụng các công cu tài chính phái sinh này trong hoạt động quản trị rủi ro vẫn còn chưa phát triển. Các ngân hàng TMCP tại Việt Nam vẫn sử dụng các phương thức truyền thống để quản trị rủi ro. Một phần của tồn tại này là do bộ khung pháp lý về các công cụ phái sinh cũng như việc sử dụng nó, đồng thời sự chưa phát triển của thị trường tài chính cũng là các nguyên ngân khiến cho việc sử dụng các công cụ này thiếu hiệu quả tại hệ thống các ngân hàng. Với một thế giới đang ngày càng phát triển nói chung và sự phát triển của Việt Nam nói riêng, có thế trong vài năm tới, các công cụ phái sinh này sẽ được sử dụng phổ biến tại Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhom_4_1_nhdem1_k22_tong_quan_ve_cong_cu_phai_sinh_trong_quan_tri_rui_ro_nhqt_9571.pdf
Luận văn liên quan