Tiểu luận Tổng quan về vàng và thị trường vàng

Trong bối cảnh giá vàng thế giới vẫn tiềm ẩn các biến động lên xuống khó lường, yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là phải cải tổ việc quản lý vàng và phát triển thị trường vàng. Theo đó, vàng với hàm lượng vàng cao nên được quản lý với tích chất của một công cụ tiền tệ. Nhà nước cần phải nắm quyền và có các công c ụ hữu hiệu để điều chỉnh cung – cầu vàng, chủ động quản lý có hiệu quả, hiệu lực tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Bên cạnh việc quản lý vàng với tính chất của một công cụ tiền tệ, cần có lộ trình cụ thể cho việc phát triển phát triển theo thông lệ quốc tế, đa dạng hoá các kênh đầu tư, liên thông thị trường trong nước và quốc tế.

pdf37 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 7280 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tổng quan về vàng và thị trường vàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng 1%, tương ứng 14.2 tấn. 2.1.3.Tình hình nhập khẩu vàng - 95% trữ lượng vàng tiêu thụ trong nước đều được nhập khẩu. Nhập khẩu chiếm quy mô gần tuyệt đối trong thị trường vàng Việt Nam. Do vậy mọi biến động về giá vàng quốc tế đều gây ra những ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến thị trường vàng Việt Nam. - Việt Nam cho phép nhập khẩu vàng từ những năm 90. Năm 1997, Nhà nước cấm nhập vàng do khan hiếm ngoại tệ. Đến năm 2001, nhà nước Việt Nam chính thức cho phép nhập khẩu vàng trở lại, và được điều tiết bởi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các doanh nghiệp kinh doanh muốn nhập khẩu phải xin hạn ngạch và giấy phép từ ngân hàng nhà nước. Hoạt động nhập khẩu vàng bị quản lý chặt chẽ bởi NHNN. Tháng 5/2008, NHNN ngừng cấp phép nhập khẩu vàng trong động thái để kiềm chế thâm hụt thương mại, làm dịu áp lực lạm phát và giúp bình ổn nền kinh tế. Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 16 Năm 2006, Việt Nam nhập khẩu 91 tấn vàng, số vàng được nhập trong năm 2007 va năm 2008 lần lượt là 51 và 90.5 tấn. Hiệp hội kinh doanh vàng Việt Nam cho rằng Việt Nam hiện có thểđang nắm giữ khoảng 500 tấn vàng. Người Việt Nam quá quen với lạm phát cao và bất ổn trong nhiều năm, thường có thói quen dự trữ vàng. Người Việt Nam nắm giữ vàng tính trên mỗi đồng đô la thu nhập nhiều hơn bất kỳ người dân nước nào trên thế giới. nhap khau vang, quyet dinh nhap khau vang khien viet nam lo to, nhap khau vang co phai la quyet dinh dung dan? nhap khau vang – Trước mắt, toàn xã hội phải bù đắp 100 triệu USD cho việc nhập khẩu 5 tấn vàng và nhiều khả năng tăng lên 200 triệu USD nếu số vàng nhập khẩu lên 10 tấn như kế hoạch. Thông tin Ngân hàng (NH) Nhà nước cho phép nhập khẩu 5 tấn vàng và sẽ tiếp tục cấp phép nhập thêm 5 tấn nữa trong vài ngày tới đã làm giá vàng trong nước có phần hạ nhiệt. Tuy nhiên, cơ chế điều hành thị trường vàng còn bất ổn dẫn đến việc xuất khẩu vàng giá thấp, nhập khẩu vàng giá cao khiến nền kinh tế thiệt hại không nhỏ. nhap khau vang – Nước ngoài lời to Số liệu thống kê cho thấy 7 tháng đầu năm 2011 (giai đoạn xuất khẩu vàng nhiều nhất từ cuối tháng 5 đến giữa tháng 7-2011), Việt Nam đã xuất 30 tấn vàng, thu về 1,2 tỉ USD, tính trung bình 40 triệu USD/tấn vàng. Trong khi đó, nhiều quốc gia, tổ chức tài chính quốc tế lại ồ ạt mua vàng. Mexico, Hàn Quốc, Thái Lan…, mỗi quốc gia mua hàng chục đến cả trăm tấn vàng. Riêng tháng 7-2011, quỹ đầu tư hàng đầu thế giới SPDR Gold Trust mua gần 80 tấn vàng nhưng chỉ bán ra vài tấn. Thậm chí các doanh nghiệp của Nhật Bản, Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ… cũng mua vàng tái xuất từ Việt Nam. Đến tháng 8-2011, giá vàng thế giới tăng mạnh, những quốc gia đối tác nước ngoài mua vàng trước thời điểm này đã lời to. Tại Việt Nam, giới kinh doanh vàng tranh thủ giá vàng thế giới liên tục tăng, tâm lý kỳ vọng giá còn đi lên của người dân, đã dùng kỹ xảo đẩy giá vàng trong nước tăng nhanh, cao hơn giá thế giới 1-2 triệu đồng/lượng. Từ đó, các tổ chức, cá nhân đã bán khống vàng cắn răng mua lại vàng để cắt lỗ, kéo theo làn sóng mua vàng bao phủ thị trường. Nếu tính tại thời điểm 15 giờ ngày 10-8, giá vàng trong nước xuống còn 44,4 triệu đồng/lượng thì người mua vàng vào những ngày trước với giá 45-46 triệu đồng/lượng để trả nợ hoặc phòng thân đã thiệt hại nặng và sẽ thiệt hại nhiều hơn nữa nếu giá vàng giảm mạnh, nhất là khi 5 tấn vàng nhập khẩu sẽ về tới Việt Nam trong 2 ngày tới. Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 17 Giá vàng nhanh chóng hạ nhiệt sau thông tin NHNN nhập khẩu vàng. Cơ chế xuất nhập bất cập Thế nhưng, thiệt hại lớn nhất vẫn thuộc về nền kinh tế. Giả sử doanh nghiệp nhập khẩu tại mức giá 1.750 USD/ounce thì với 5 tấn vàng đã tiêu hóa hơn 300 triệu USD, trung bình 60 triệu USD/tấn vàng. Trong khi đó, nhiều tháng trước, Việt Nam chỉ xuất khẩu với giá 40 triệu USD/tấn vàng. Như vậy, trước mắt toàn xã hội phải bù đắp 20 triệu USD/tấn vàng, tính ra phải bù đắp 100 triệu USD cho việc nhập khẩu 5 tấn vàng và nhiều khả năng tăng lên 200 triệu USD nếu số vàng nhập khẩu lên tới 10 tấn trong vài ngày tới. Thực tế cho thấy những bất cập trong cơ chế điều hành xuất nhập khẩu vàng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến cơn sốt vàng và những thiệt hại không đáng có. Từ năm 2008 đến nay, mỗi năm, NH Nhà nước chỉ cho phép nhập khẩu vàng vài đợt với số lượng nhỏ giọt, gắn liền với những thời điểm người dân đổ xô mua vàng, giá trong nước cao hơn giá thế giới hàng triệu đồng/lượng. Trong khi đó, hạn ngạch xuất khẩu vàng gần như bỏ ngỏ. Doanh nghiệp chỉ cần có giấy phép hoặc giấy chứng nhận đủ điều kiện xuất khẩu; hạ hàm lượng, trọng lượng vàng để hưởng thuế suất 0% là xuất được hàng chục tấn vàng ra nước ngoài. Hệ quả là cung cầu về vàng nhiều thời điểm mất cân đối, giới đầu cơ tranh thủ làm giá. Biểu hiện rõ nhất là những ngày gần đây, chỉ trong vài giờ, giá vàng trong nước tăng – giảm 1-2 triệu đồng/lượng, trong khi sức mua bán vàng vào những thời điểm đó rất yếu. Giá vàng giảm mạnh – nhap khau vang Ngày 10-8, thị trường vàng TPHCM trở nên trầm lắng sau hai ngày “nổi sóng”, giá vàng giảm mạnh về mốc 44,5 triệu đồng/lượng. Lúc 16 giờ, Công ty Vàng bạc Đá quý Sài Gòn (SJC) niêm yết giá mua bán lần lượt là 44,1 triệu – 44,6 triệu đồng/lượng. Mức giá này cũng được các thương hiệu vàng lớn tại Hà Nội niêm yết. So với chiều hôm trước, vàng giảm 500.000 đồng/lượng và giảm gần 2 triệu đồng/lượng so với “đỉnh” ngày 9-8. Cùng ngày, giá vàng thế giới cũng có phiên biến động mạnh với biên độ rộng. Lúc 16 giờ ngày 10-8 (giờ Việt Nam), giá vàng thế giới giảm về mốc 1.743 USD/ounce, giảm 7 USD/ounce chiều hôm trước. Giá vàng thế giới giảm mạnh trước áp lực chốt lời của nhà đầu tư. Hiện quy đổi theo tỉ giá USD trong NH, vàng thế giới đang ở mốc 43,7 triệu đồng/lượng, thấp hơn giá trong nước gần 1 triệu đồng/lượng. T.Phương Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 18 Cần dự báo xu hướng thị trường TS Lê Xuân Nghĩa, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia, cho rằng cơ quan quản lý cần dự báo xu hướng thị trường vàng để từ đó đưa ra quyết định xuất nhập khẩu vàng linh hoạt, cân đối cung cầu thị trường. NH Nhà nước nên học tập NH Trung ương Trung Quốc, tức là điều hành xuất nhập khẩu vàng sao cho giá trong nước luôn ngang bằng với giá vàng thế giới để hạn chế tình trạng đầu cơ. Theo ông Trần Thanh Hải, Tổng Giám đốc Công ty Đầu tư Kinh doanh vàng Việt Nam, thời điểm này, NH Nhà nước không nên cho phép nhập khẩu thêm vàng mà giải pháp bình ổn nhanh nhất là sử dụng cơ chế đặc biệt, cho phép các NH bán ra hàng chục ngàn lượng vàng đang tồn kho. Cũng với cơ chế đặc biệt đó, các NH thương mại sẽ chọn thời điểm thuận lợi mua vàng bù lại số vàng đã bán ra. Về lâu dài, ông Hải cho rằng NH Nhà nước cần có cơ chế riêng cho các NH giao dịch vàng giao sau với nước ngoài. Trong khi đó, Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính (VAFI) vừa gửi văn bản kiến nghị thống đốc NH Nhà nước và bộ trưởng Bộ Tài chính về các giải pháp bình ổn thị trường vàng và hạ nhiệt lãi suất. Theo Tổng Thư ký Nguyễn Hoàng Hải, thị trường vàng hiện nay hầu như bị buông lỏng quản lý. Vàng có thể được coi như ngoại tệ, trong khi ngoại tệ bị cấm mua bán trên thị trường tự do, còn vàng không bị cấm, không bị đóng thuế. Do vậy, đề nghị thống đốc NH Nhà nước có biện pháp quản lý vàng chặt như ngoại tệ. 2.3. BIẾN ĐỘNG GIÁ VÀNG TRÊN THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM TỪ NĂM 2010 ĐẾN NAY 2.2.1 Diễn biến - Năm 2010 S. ĐỖ THỊ THỦY – VietinBank 1. Năm của những mức giá kỷ lục trên thị trường vàng Trong những năm gần đây, giá vàng có xu hướng tăng nhanh. Năm 2010 thị trường vàng (TTV) biến động bất thường với những mức giá kỷ lục liên tiếp được thiết lập. Tháng 11/2010 người dân đã chứng kiến giá vàng trong nước đạt mức giá 38 triệu đồng/lượng. Từ cuối năm 2009 đến ngày 21/12/2010 giá vàng quốc tế tăng 26%, giá vàng trong nước tăng 46%. Sự biến động của TTV đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng. Bài toán vàng, lạm phát lại một lần nữa thách thức các nhà điều hành chính sách tiền tệ. Vậy những nguyên nhân nào khiến giá vàng trong nước tăng đột biến? Thứ nhất: Giá vàng Việt Nam chịu tác động của giá vàng thế giới Giá vàng thế giới đã có những bước ngảy vọt chưa từng có, lần đầu tiên trong vòng 10 năm qua, đạt cao nhất vào năm 2010, tăng gấp 5 lần. Vào trung tuần tháng 10/2010, giá vàng thế giới đã lập kỷ lục 1.379,1$/oune, tăng 22% so với đầu năm. Vàng đã trở thành tài sản đặc biệt, không chỉ các Ngân hàng trung ương (NHTW) mà các quỹ đầu tư nhỏ lẻ rất quan tâm. Giá vàng thế giới tăng do 3 nguyên nhân chính: Khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến nhà đầu tư tìm đến vàng như một chỗ trú ẩn an toàn: Nhân tố chính kích động giá vàng là lạm phát hoành hành các nền kinh tế. Trong hai năm qua, cùng với các chiến dịch kích thích tăng trưởng kinh tế, các NHTW của Mỹ, châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản và nhiều nước khác đã tìm cách tăng Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 19 chi tiêu đồng thời in thêm tiền mặt. Hàng nghìn tỷ USD được bơm vào nền kinh tế toàn cầu, khiến lạm phát gia tăng. Mặt khác, các yếu tố quốc tế đầy rủi ro sau khủng hoảng khiến vàng trở thành tài sản được ưa chuộng để tích trữ. Chiến dịch nới lỏng chính sách tiền tệ đã không thể thúc đẩy nền kinh tế và giảm thất nghiệp ở các nước như mong muốn. Thay vào đó, luồng "tiền nóng" chảy sang các nền kinh tế đang nổi, nơi chúng được đổ vào các mặt hàng giữ giá như vàng. Tại Mỹ, sự mất lòng tin vào đồng USD khiến giá trái phiếu chính phủ Mỹ giảm mạnh và lãi suất tăng vọt. Cứ 18 ngày, Mỹ lại phát hành các loại giấy tờ ghi nợ tương đương giá trị sản lượng vàng khai thác 1 năm và mỗi năm nước Mỹ vay nợ tương tương 1/3 tổng số lượng vàng hiện có trên thế giới. Tại Châu Âu, nợ xấu tại một số quốc gia có biểu hiện ngày một trầm trọng hơn, thúc đẩy nhà đầu tư tìm đến kênh đầu tư vàng… Cung yếu: Bất chấp giá vàng đang ở mức cao kỷ lục, các Công ty khai thác vàng không thể đáp ứng đủ mức cầu. Dưới góc độ kinh tế, mỗi khi cầu tăng thì cung sẽ tăng theo, qua đó giữ giá ổn định. Tuy nhiên điều này không xảy ra với vàng, đơn giản vì không có nguồn quặng mới đủ để tăng sản lượng khai thác và thay thế lượng vàng đi vào tiêu dùng. Trong năm qua, sản lượng vàng thế giới chỉ tăng được 3%, trong khi giá vàng tăng hơn 20%. Cầu bùng nổ: Bên cạnh các yếu tố cơ bản khiến giá vàng luôn theo xu thế đi lên như: nhu cầu vàng trang sức và vàng công nghiệp ngày càng tăng; tâm lý ưa chuộng vàng của một số quốc gia (điển hình là Trung Quốc và Ấn Độ), thì động thái găm giữ vàng của các nhà đầu tư, các chính phủ đã khiến nhu cầu vàng năm 2010 tăng vọt. Theo Hội đồng vàng toàn cầu, tổng giá trị đầu tư vào vàng trong quý 3/2010 tăng lên mức kỷ lục 9,6 tỷ USD, tăng 60% so với cùng kỳ năm 2009. Đồng thời, các nhà đầu tư và một số NHTW, chủ yếu ở Trung Đông và châu Á, cũng chuyển sang dự trữ vàng. Trong năm 2009-2010, các NHTW của Ấn Độ, Sri Lanka và Cộng hòa Mauritius mua 212 tấn, Bangladesh mua 10 tấn. Iran đã tuyên bố chuyển 45 tỷ USD dự trữ sang đồng Euro và vàng. Một số quốc gia Trung Đông khác cũng chuyển 200.000 thùng dầu thô/ngày sang vàng, tương đương 140 tấn vàng/năm (nếu tính theo tỷ giá vàng/dầu thô hiện nay). Mặc dù giá vàng lên rất cao nhưng theo tính toán của các nhà đầu tư, thị trường này vẫn còn nhiều tiềm năng. Kết quả phân tích biểu đồ chu kỳ giá vàng cho thấy, tại thời điểm ngay sau khi giá mặt hàng này chạm đỉnh, tỷ trọng cổ phiếu vàng chiếm 26% tổng giá trị cổ phiếu đầu tư toàn cầu. So với năm 2009, tỷ trọng này chỉ chiếm 0,8% – một con số không đáng kể. Do đó, các Quỹ đầu tư, đặc biệt là quỹ SPDR vẫn tiếp tục mua vàng với khối lượng lớn để canh giá cao bán ra kiếm lời. Hoạt động đầu tư vàng riêng lẻ của tư nhân cũng phát triển rất mạnh ở nhiều nước… Thứ hai: Tâm lý giữ vàng Vàng là một công cụ đầu tư, cất trữ truyền thống của người Việt Nam. Việc quy đổi tài sản theo giá trị của vàng đã trở thành thói quen lâu đời và đã được người Việt Nam lựa chọn là phương tiện đo lường, trao đổi từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Trước những đợt biến động giá vàng trong thời gian gần đây, nhiều tổ chức và cá nhân đã đổ xô đi mua vàng. Có thể thấy vàng đã len lỏi vào định giá hàng hoá, dự trữ và dẫn đến “vàng hoá”. Trên thực tế, Việt Nam cũng nằm trong những nước nhập khẩu vàng lớn trên thế giới (Năm 2006, nhập 91 tấn vàng, năm 2007 nhập 51 tấn vàng, năm 2008 nhập 90,5 tấn vàng). Mặt khác, cùng với khủng hoảng kinh tế, lạm phát, năm 2010 việc đầu tư vào các chứng khoán và bất động sản đều hạn chế, thậm chí thua lỗ đã khiến các nhà đầu tư Việt Nam tập trung vào vàng. Theo tính toán sơ bộ, lượng vàng dự trữ (chủ yếu trong dân cư) của Việt Nam đã tăng liên tục trong nhiều năm qua và đạt mức cao nhất 1.000 tấn vào cuối năm 2009 với tổng trị giá lên tới 45 tỉ USD, bằng 50% GDP của Việt Nam cùng thời điểm và sang năm 2010 lượng vàng trong dân cũng tăng cao. Do đó, việc nhìn nhận vai trò của vàng đối với hệ thống tài chính là hết sức quan trọng. Thứ ba: Cung vàng trong nước được kiểm soát chặt chẽ Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 20 Trong khi cầu vàng trong nước tăng đột biến thì cung lại rất hạn chế. Khoảng 95% lượng vàng tiêu thụ tại Việt Nam được nhập khẩu, tuy nhiên hoạt động nhập khẩu vàng được quản lý rất chặt chẽ, các doanh nghiệp kinh doanh vàng muốn nhập khẩu phải xin hạn ngạch từ NHNN. Tháng 5/2008, để làm dịu áp lực lạm phát và bình ổn nền kinh tế, NHNN ngừng cấp phép nhập khẩu vàng. Điều này hạn chế lượng ngoại hối dùng để nhập vàng, nhưng lại tạo ra ít nhất là ý niệm khan hiếm vàng. Khi chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới tăng cao, không được phép nhập khẩu qua đường chính thức, nhà đầu cơ đẩy mạnh mua USD để nhập lậu vàng, tạo áp lực khan hiếm đồng USD và đẩy giá USD lên cao. Thứ tư: tỷ giá hối đoái tăng cao Giá vàng hiện chủ yếu được yết bằng USD, do vậy khi USD bị đẩy lên cao, đến lượt nó lại ảnh hưởng trực tiếp đến giá vàng. Theo đó, khi giá USD tăng, giá vàng sẽ tăng tương ứng. Giá vàng tăng trong khi cầu về vàng vượt quá cung khiến nhu cầu mua USD để nhập khẩu vàng tăng, lúc này, giá vàng đã tác động ngược trở lại giá USD, tạo vòng xoáy giữa vàng, USD. 2. Tác động của giá vàng đến các yếu tố kinh tế vĩ mô và hoạt động của các Ngân hàng thương mại (NHTM) Theo báo cáo của Hội đồng Vàng thế giới, lượng vàng hiện có tại Việt Nam (lấy lượng vàng nhập khẩu trừ đi số đã xuất khẩu) khoảng 1.000 tấn, tương đương với 45 tỷ USD. Tuy con số này chưa được công nhận, nhưng chắc chắn một lượng vàng rất lớn đang được người dân nắm giữ, đang trở thành luồng vốn hoạt động không chính thức, gây sức ép không nhỏ đến chính sách tiền tệ, tăng trưởng kinh tế nói chung và hoạt động của các NHTM nói riêng. Mặt khác, giá vàng tăng cao gây ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của chính sách tiền tệ và ổn định kinh tế vĩ mô trong trung hạn. Xét từ quan hệ ảnh hưởng từ trực tiếp đến gián tiếp có thể thấy tác động của giá vàng tăng như sau: - Ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động nguồn vốn của khu vực tài chính: Khi giá vàng tăng người dân rút tiết kiệm để đầu tư vàng thay vì gửi tiết kiệm tại ngân hàng. Đồng thời vốn rút ra lại loanh quanh ở TTV và ngoại tệ dẫn đến khả năng huy động vốn của các NHTM bị giảm sút, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. - Thị trường ngoại tệ tự do bành trướng: Tình trạng đô la hóa ở Việt Nam không chỉ biểu hiện bằng tỉ lệ tiền gửi ngoại tệ/tổng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng mà còn là khối lượng ngoại tệ lưu hành ngoài hệ thống tài chính. Khi giá vàng tăng làm cho nhu cầu mua USD trên thị trường tự do để nhập khẩu vàng lậu lớn dẫn đến tỷ giá USD tăng, khó kiểm soát. - Nguy cơ lạm phát: Tuy chưa thống kê được quy luật cụ thể cho mối liên quan chặt chẽ giữa vàng và lạm phát. Tuy nhiên, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế dẫn đến hiện tượng dùng vàng để định giá các tài sản lớn, điển hình là giá bất động sản. Khi vàng trở thành thước đo giá trị, việc vàng tăng giá kéo giá bất động sản và các loại hàng hóa khác tăng theo, gây nguy cơ lạm phát. - Thâm hụt cán cân thương mại: Khi giá vàng tăng thì nhập khẩu vàng tăng và nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu càng lớn. Với khối lượng vàng cất trữ rất lớn và gia tăng nhanh chóng những năm gần đây giải thích vì sao thâm hụt cán cân thương mại. - Ảnh hưởng đến điều hành chính sách tiền tệ: Với số liệu trên cho thấy tỉ trọng vàng trên GDP ở Việt Nam rất lớn. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến điều hành chính sách tiền tệ. Đơn cử, với tổng phương tiện thanh toán không kể vàng (M2) thì hệ số nhân tiền theo tính toán của các chuyên gia khoảng 4,8. Nhưng nếu tính gộp M2 + vàng thì hệ số này chỉ còn 2,0. Rõ ràng rằng có rất nhiều vấn đề đối với hệ thống tiền tệ đang bị chi phối bởi khối lượng vàng và TTV đang bành trướng hiện nay. Như vậy, vàng không còn là vấn đề nhỏ của các nhà kinh doanh, mà đang thực sự trở thành một lực lượng thị trường có khả năng chi phối cả tiết kiệm, đầu tư, cán cân thanh toán, dự trữ ngoại tệ và hiệu quả sử dụng vốn Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 21 của nền kinh tế. Vì vậy, việc quản lý TTV, vấn đề vàng hóa và đô la hóa cần phải được nghiên cứu toàn diện hơn để có chiến lược và chính sách hợp lý. 3. Chính sách của Chính phủ tác động đến việc bình ổn thị trường và hoạt động kinh doanh của các NHTM Trước tình hình tăng phi mã của giá vàng trên thế giới và trong nước, trong những năm qua Chính phủ đã thực thi nhiều chính sách nhằm bình ổn tình hình thị trường. Cụ thể: Trước tiên, để hạn chế lượng ngoại hối nhập vàng, giảm bớt thâm hụt thương mại, tháng 5/2008, NHNN ngừng cấp phép nhập khẩu vàng. Tuy nhiên việc ngừng cấp phép chỉ là giải pháp tình thế. Trên thực tế, giải pháp này đã có những tác động ngược đến tỷ giá và lạm phát ở mức độ nhất định và cần phải có sự điều chỉnh phù hợp. Từ đó đến nay, NHNN đã một số lần phải nới lỏng hạn ngạch nhập khẩu vàng, cho phép doanh nghiệp nhập khẩu khi giá vàng trong nước tăng quá nóng. Thứ hai là đóng cửa các sàn vàng trong nước và bãi bỏ việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài của các NHTM: Trên cơ sở đánh giá hoạt động kinh doanh sàn vàng cho thấy: hoạt động này không tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh và tiềm ẩn một số yếu tố có thể gây bất ổn kinh tế – xã hội, NHNN đã yêu cầu bãi bỏ kinh doanh vàng trên tài khoản ở trong nước dưới mọi hình thức. Đồng thời, NHNN cũng huỷ bỏ quy định về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài của các NHTM vì mức rủi ro của hoạt động này rất cao khi giá vàng thế giới có những biến động mạnh, lên xuống thất thường với biên độ lớn. Sau các biện phát siết chặt nguồn cung “vàng thật” và cấm kinh doanh “vàng ảo”, NHNN thực hiện hạn chế các hoạt động huy động và cho vay vàng của NHTM trong nước: Tháng 10/2010 NHNN ban hành Thông tư số 22/2010/TT-NHNN với mục tiêu hạn chế các hoạt động huy động và cho vay vàng của các tổ chức tín dụng (TCTD): chỉ cho phép các TCTD huy động vốn bằng vàng thông qua phát hành giấy tờ có giá, cho vay vốn bằng vàng để sản xuất (chế tác) và kinh doanh vàng trang sức (không được cho vay để sản xuất và kinh doanh vàng miếng); TCTD không được chuyển đổi vốn huy động bằng vàng thành VND và các hình thức bằng tiền khác. Với mục tiêu làm giảm sức hấp dẫn của kênh đầu tư vàng, loại bỏ dần việc vàng hóa, NHNN hy vọng Thông tư 22 sẽ khiến các NHTM bán lượng vàng đang nắm giữ, làm giảm sức nóng của thị trường. Mặt khác, cơ chế mới sẽ khắc phục rủi ro về kỳ hạn, thanh khoản và lãi suất đối với TCTD huy động và cho vay bằng vàng. Qua đó tăng cường quản lý hoạt động kinh doanh vàng, ổn định thị trường ngoại hối, thị trường tiền tệ. Hiệu quả của Thông tư cần phải có thời gian để đánh giá, tuy nhiên sau những biện pháp can thiệp nói trên, giá vàng trong nước không còn có những biến động bất thường như thời gian trước nữ Tờ “Thời báo Tài chính” ngày 23/7 dự báo giá vàng cuối năm 2011 có thể dao động ở mức thấp là 1.684 - 1.700 USD/oz; mức trung bình từ 1.760-1.780 USD/oz và mức cao từ 1.800 USD/oz đến 1.838 USD/oz. Giá vàng năm 2012 có thể đạt ngưỡng 2.000 USD/oz. Có nhiều nguyên nhân khiến giá vàng tăng leo cao như nạn đầu cơ thao túng thị trường, đồng USD mất giá, khủng hoảng nợ công ở châu Âu... Nhưng một nguyên nhân quan trọng là các mỏ vàng đang dần khánh kiệt và giá thành khai thác tăng cao. Số liệu do Hiệp hội vàng thế giới công bố ngày 2/12/2010 cho biết hiện nay lượng vàng đã khai thác trên thế giới khoảng 166.000 tấn, tổng trị giá 7.000 tỉ USD, trong đó dự trữ trong kho của các nước tới 29.300 tấn, chiếm 18%. Dùng làm trang sức 83.700 tấn chiếm 50%, cá nhân nắm giữ 29.600 tấn, chiếm 18%. Xét về quan hệ cung-cầu thì Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 22 giá vàng có thể ổn định, nên giá vàng tăng mạnh chủ yếu do cơn sốt vàng giả tạo gây ra. Tuy nhiên Hiệp hội vàng thế giới cũng cho biết tình trạng trữ lượng của các mỏ vàng đang ngày càng khánh kiệt, giá thành khai thác ngày càng cao cũng là nguyên nhân quan trọng đẩy giá vàng tăng cao. Số liệu của Hiệp hội vàng thế giới cung cấp cho thấy: trữ lượng vàng chưa khai thác hiện nay chỉ còn khoảng 26.000 tấn, sản lượng vàng khai thác trên thế giới trong 7 năm từ 2000 tới 2006 đã giảm 6,7%. Nam Phi, nước luôn giữ kỉ lục sản lượng cao nhất thế giới trong 10 năm qua giảm sản lượng khai thác vàng tới 50%. Năm 2006, sản lượng đạt 291 tấn, năm 2007 chỉ đạt 272 tấn, giảm 8% so với năm 2006. Các nước khác có truyền thống có sản lượng khai thác vàng cao như Mỹ, Australia... cũng lần lượt bị suy giảm. Duy chỉ có Trung Quốc tăng lên. Năm 2007, Trung Quốc lần đầu tiên vượt Nam Phi trở thành nước sản xuất vàng lớn nhất thế giới với sản lượng đạt 270,5 tấn, năm 2010 đạt 340,88 tấn. Tuy nhiên, sản lượng vàng hàng năm của Trung Quốc cũng không thể tăng cao do các mỏ vàng bị nằm trong tình trạng dần dần bị khánh kiệt. Ngoài ra, giá thành đầu tư khai thác vàng của các nước cũng tăng lên đáng kể. Tờ “The Economist” (Nhà kinh tế) của Anh ngày 23/7, cách đây 10 năm, để khai thác được 1 ounce vàng, người ta phải bỏ ra hơn 200 USD. Nhưng tới năm 2010, giá thành khai thác tăng lên tới 857 USD/oz và hiện đã leo cao trên 1.000 USD/oz. Số liệu của Công ty tư vấn đầu tư GFMS cho biết kể từ năm1999 tới nay hàm lượng vàng chứa trong quặng khai thác cũng suy giảm tới gần 30%. Chính vì vậy, các thợ mỏ phải đào rất sâu mới khai thác được. Một công ty chuyên khai thác vàng của Nam Phi cho biết năm 2002, đầu tư 500 triệu USD vào khai thác, tới năm 2008 cũng một sản lượng vàng như năm 2002 phải đầu tư tới 3 tỉ USD do phải đào sâu trong lòng đất và đầu tư cho máy móc hiện đại hơn. Đó là chưa kể giá nhiên liệu, giá thuê nhân công, trang thiết bị cần thiết khác thời gian qua tăng lên làm cho chi phí khai thác tăng lên. Hiện nay các mỏ vàng dễ khai thác hầu như đã khánh kiệt, không còn tồn tại một mỏ nào. Năm 2010, sản lượng vàng toàn thế giới khai thác được là 2.686 tấn, tương đương với 10 năm trước đây nhưng giá thành khai thác tăng vọt lên rất nhiều. Số liệu của Nam Phi cho biết năm 2009, sản lượng khai thác là 210 tấn, nhưng năm 2010 chỉ đạt 191,8 tấn, giảm 6,4%, hơn nữa tình hình khai thác cũng rất khó khăn. Trước đây ở độ sâu 39 mét bình quân mỗi tấn quặng cho 2,59 gram vàng, sau đó phải tiếp tục đào sâu tới 70 mét mới có vàng và mỗi tấn quặng cho 1,1 gram vàng. Mấy năm gần đây thông thường phải đào sâu trên 100 mét, thậm chí có mỏ phải đào sâu tới 4.000 mét mới có quặng chứa vàng, hơn nữa chất lượng không bằng vàng nằm ở gần mặt đất. Giá vàng càng tăng cao, các nhà đầu tư càng đổ xô vào các mỏ vàng, thậm chí ở bang California Mỹ thời gian qua dấy lên cơn sốt đi đào vàng, nhưng kết quả không khả quan vì những mỏ vàng thời James Marshall phát hiện năm 1848 nay đã khánh kiệt. Tờ “The Economist” cho rằng giá vàng càng cao, các mỏ bị khoét càng sâu, nhưng đâu phải chỗ nào cũng có vàng. Cơn sốt vàng đã dẫn đến hủy hoại môi trường sinh thái ở nhiều nơi. Nó chẳng những tác động tới kinh tế, thị trường mà còn thúc đẩy tốc độ biến đối khí hậu. Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 23 Năm 2010 là năm tăng kỉ lục của vàng khi mỗi lượng vàng trong nước tăng đến 9,5 triệu đồng do giá vàng thế giới tăng hơn 300 USD/ounce, từ 1.100 USD lên trên mốc 1.400 USD/ounce. Sự tăng vọt của giá vàng đồng thời gây ra những cơn sốt chưa từng có trên thị trường. Nhiều người Việt có thói quen tích trữ vàng thay vì đầu tư hay gửi tiết kiệm. Một số giao dịch có giá trị lớn trên thị trường được định giá bằng vàng như giao dịch nhà đất. Vì vậy sự biến động của thị trường vàng thế giới gần như ngay lập tức tác động nhiều đến thị trường trong nước. Tuy nhiên, việc giá vàng biến động mạnh trong năm vừa qua được nhận định không chỉ do nhu cầu thực sự của người dân mà còn chịu tác động từ những chính sách của nhà nước như việc hạn chế nhập khẩu, chậm cấp quota nhập vàng... Đỉnh điểm của đợt sốt giá vàng trong nước năm 2010 là ngày 9/11, giá vàng lên tới 38,2 triệu đồng/lượng, khối lượng bán ra ở các cửa hàng tăng vọt, lượng mua vào không đáng kể. Chênh lệch giữa giá mua - bán lên tới cả triệu đồng/lượng nhưng người dân vẫn đổ xô đi mua. Ngày 6/1/2010, NHNN yêu cầu các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp chấm dứt mọi hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài. Thời hạn này sau đó đã được lùi đến ngày 30/3 và 31/7. Quyết định này khiến cho thị vàng trầm lắng trong một thời gian. Tuy nhiên, trước nhu cầu của giới đầu tư, những sàn vàng “chui” vẫn tồn tại, gây ra nhiều rủi ro với các nhà đầu tư. Trước tình hình này, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia đã có đề xuất với Chính phủ khôi phục lại hoạt động của sàn vàng nhưng có sự quản lý chặt chẽ hơn. Năm 2011, Mặc dù trong tháng 6, giá vàng có những biến thái chậm chạp nhưng nhiều chuyên gia đã dự đoán giá vàng sẽ còn tăng trong thời gian tới. Trong 6 tháng đu năm, giá vàng tăng gim trong biên đ va phi, tuy nhiên nhng bin đng này ch mang tính nht thi do nh hng ca giá vàng Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 24 th gii hn là nhu cu giao dch thc ca các nhà đu t. Tính đn cui tháng 6, giá vàng đã tăng hn 8,3% so vi thi đim thp nht vào ngày 26/1/2011 (3.535.000đ/ch vàng 99,99%). Khác vi năm trc, bt c khi nào giá vàng bin đng các nhà đu t ln nh đu lao theo vi mc đích lt sóng kim li nhng do năm nay lm phát tăng cao, lãi sut tin gi ngân hàng tăng mnh và n đnh khin nhiu nhà đu t la chn hình thc gi tit kim hng lãi thay vì phi thp thm ch đi giá vàng vt dc. Trong 6 tháng đầu năm, giá vàng đã tăng hơn 8,3% và vẫn còn bỏ ngỏ khả năng biến động mạnh như một vài năm trước. Mặc dù trong tháng 6, giá vàng có những biến thái chậm chạp nhưng nhiều chuyên gia đã dự đoán giá vàng sẽ còn tăng trong thời gian tới. Trong 6 tháng đầu năm, giá vàng tăng giảm trong biên độ vừa phải, tuy nhiên những biến động này chỉ mang tính nhất thời do ảnh hưởng của giá vàng thế giới hơn là nhu cầu giao dịch thực của các nhà đầu tư. Tính đến cuối tháng 6, giá vàng đã tăng hơn 8,3% so với thời điểm thấp nhất vào ngày 26/1/2011 (3.535.000đ/chỉ vàng 99,99%). Khác với năm trước, bất cứ khi nào giá vàng biến động các nhà đầu tư lớn nhỏ đều lao theo với mục đích lướt sóng kiếm lời nhưng do năm nay lạm phát tăng cao, lãi suất tiền gửi ngân hàng tăng mạnh và ổn định khiến nhiều nhà đầu tư lựa chọn hình thức gửi tiết kiệm hưởng lãi thay vì phải thấp thỏm chờ đợi giá vàng vượt dốc. Đặc biệt khi Chính phủ ra Nghị định cấm kinh doanh vàng miếng tại các cửa hàng vàng bạc tư nhân có hiệu lực, nhiều nhà đầu tư đã chùn bước trước việc gom giữ vàng cũng như mua vàng làm của để dành. Bên cạnh đó, sau khi có thông tin vàng bị trộn Vonfam xuất hiện trên thị trường cũng khiến nhiều nhà đầu tư e ngại nếu mua phải vàng kém chất lượng. Như vậy, bước sang năm 2011 với nhiều giải pháp quản lý điều hành vĩ mô, nhất là đối với thị trường ngoại tệ, thị trường vàng ở trong nước đã ổn định trở lại, với 3 biểu hiện chủ yếu. Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 25 Một là, tốc độ tăng của giá vàng đã chậm lại (sau 6 tháng chỉ tăng 5,18% - thấp chưa bằng một nửa tốc độ tăng 13,29% của giá tiêu dùng). Hai là, giá vàng trong nước đã chuyển từ vị thế luôn luôn cao hơn, sang thường xuyên thấp hơn giá vàng thế giới. Ba là, hiện tượng tái xuất vàng xuất hiện, tăng cao vào tháng 5, tháng 6 (kim ngạch xuất khẩu đá quý, kim loại quý và sản phẩm, nếu 4 tháng đầu năm là 106 triệu USD, thì tháng 5 lên đến 242 triệu USD, ước tháng 6 lên đến 630 triệu USD và tính chung 6 tháng lên đến 1027 triệu USD). Tuy nhiên, trong mấy hôm nay, đặc biệt là từ sáng ngày 13/7, giá vàng trong nước đã vượt qua mốc 39 triệu đồng/lượng, vượt xa so với đỉnh điểm 38,5 triệu đồng/lượng trước đây. Giá vàng trong nước tăng đột biến, vượt đỉnh cũ, chủ yếu do sự biến động của giá vàng trên thế giới. Giá vàng trên thế giới vào trưa ngày 14/7 (giờ Việt Nam) đã lên mức 1586,4 USD/ounce, vượt xa so với đỉnh điểm 1577 USD/ounce vào đầu tháng 5. 2.2.1.5 6 tháng đầu năm 2011 Năm 2011, do chịu nhiều áp lực, giá vàng khó có cơ hội giảm sâu để trở về mức giá đầu năm 2010 mà tiếp tục tăng nhưng với tốc độ ôn hòa hơn năm 2010 2.2.2 Nguyên nhân tác động đến sự biến động giá vàng 2.2.2.1 Sức ép lạm phát tiền tệ Thứ nhất, sức ép lạm phát tiền tệ sẽ giảm do chính sách thắt chặt tài chính - tín dụng, giảm chi tiêu và đầu tư công; trong khi có sự gia tăng sức ép lạm phát chi phí gắn với xu hướng tăng giá các mặt hàng trong diện Nhà nước kiểm soát giá, như điện, xăng dầu và than... Thứ hai, các sức ép tăng giá vàng ngoại nhập sẽ dịu hơn năm 2010 do cuộc chiến tiền tệ thế giới dường như đã được xả chút ít trước động thái mới về gia tăng tiết Nguồn: garphics.com Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 26 kiệm ngân sách, thắt chặt hơn chi tiêu chính phủ, giảm quy mô gia tăng tín dụng và đầu tư công, kể cả giảm chi tiêu phi sản xuất. Thứ ba, sức ép trồi sụt có yếu tố phi kinh tế, phi thị trường đối với giá vàng trong nước sẽ có thể đậm thêm lên từ những động thái kiểm soát thị trường ngoại hối tự do đã làm mưa làm gió bấy lâu nay. Sự kiểm soát buôn bán và đầu cơ ngoại hối, gồm cả vàng và ngoại tệ, một mặt, sẽ giúp làm lành mạnh và bình ổn tốt hơn các động thái thị trường nhờ cắt bớt các nhu cầu ảo và buôn bán lòng vòng gây tăng giá; mặt khác, nếu thiếu minh bạch và không được tổ chức tốt, dễ gây lạm dụng và các biến thái, thậm chí có thể xuất hiện những cú sốc giá và sốc tâm lý phản vệ, tạo ra xung lực mới gia tăng mãnh liệt và khó kiểm soát hơn. Thứ tư, giá vàng vẫn tiếp tục biến động phức tạp, nhưng nhiều khả năng cho thấy các sức ép tăng giá từ bên ngoài sẽ có xu hướng nhạt đi, trong khi đó sẽ đậm dần lên sức ép mới như hệ quả hội tụ các phản ứng tương thích với những động thái chính sách trong nước. Sự cải thiện về tốc độ tăng giá vàng ôn hòa hơn trong năm 2011 so với mức tăng sốc của năm 2009 và 2010 được dựa trên kỳ vọng năm 2011 kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi, dù tốc độ có chậm lại chút ít so với 2010. Giá nguyên liệu có thể giảm mạnh, làm tăng lợi nhuận ở các nền kinh tế phát triển. Lạm phát và bong bóng tài sản thương mại đang tăng lên, nhưng chỉ xuất hiện ở một số nước, chứ không lan rộng ra quy mô toàn cầu, vì tỷ lệ thất nghiệp khoảng 10% ở các nền kinh tế phát triển, tiền lương thấp và mức tăng thu nhập chậm, nhu cầu tiêu dùng sẽ chưa tăng nhanh. Thế giới cũng sẽ có cải thiện tốt hơn về xu hướng thắt chặt tiền tệ và quản lý tài chính, cũng như sự điều chỉnh mạnh hơn và phối hợp chính sách để giải quyết các vấn đề quốc gia và quốc tế. Việc kiểm tra tình hình mua bán ngoại tệ tại thị trường tự do năm 2011 sẽ thực hiện theo phương thức mới. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phối hợp với các cơ quan chức năng khác như công an, quản lý thị trường... thanh tra, kiểm tra Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 27 bất ngờ. Những cơ quan này cũng được trao quyền xử phạt khi phát hiện có vi phạm. NHNN, quản lý thị trường, công an sẽ tiến hành kiểm tra độc lập thay vì kết hợp liên ngành như trước nhằm tránh bị động trong quá trình triển khai. Mặt khác, các cơ quan quản lý sẽ xử lý mạnh tay đối với các quầy thu đổi ngoại tệ vi phạm quy định bằng hình thức tịch thu tang vật chứ không chỉ phạt hành chính như trước. Thứ năm, “nhân tố Trung Quốc” tác động đến sức ép tăng giá vàng trên thị trường hoặc tạo những chuyển động mới khó đoán định sẽ có thể đột ngột gia tăng vào những tháng cuối năm 2011.Với trên 2.600 tỷ USD dự trữ ngoại tệ, lại chịu áp lực tăng dự trữ vàng để cải thiện cơ cấu dự trữ quốc gia, củng cố vị thế quốc tế đồng Nhân dân tệ, kiềm chế lạm phát, Trung Quốc dư thừa phương tiện và có nhiều động lực, cũng như toan tính và kế hoạch riêng để tiếp tục tạo sóng trên thị trường tài chính quốc tế (Trung Quốc đã nhập khẩu 209 tấn vàng trong 10 tháng đầu năm 2010, tăng gấp gần 5 lần so với lượng nhập cả năm 2009 và đó là một trong các nguyên nhân làm tăng giá vàng thế giới). Về tổng thể và cơ bản, do chịu nhiều áp lực cũ, đa dạng, nhưng có điều chỉnh về liều lượng và cơ cấu nhân tố cụ thể, giá vàng trong năm 2011 sẽ khó có cơ hội giảm sâu để trở về mức giá đầu năm 2010, mà sẽ tiếp tục tăng, nhưng với tốc độ ôn hòa hơn năm 2010. Mức tăng giá vàng cả năm 2011có thể chỉ vào khoảng trên dưới 10 - 15% so với mức đỉnh cao nhất của giá vàng năm 2010, thay vì tăng tới 30% so với năm trước, như trong 2 năm liên tiếp 2009 và 2010. Trong bối cảnh áp lực tăng lạm phát toàn cầu và suy giảm hệ số tín nhiệm, nhất là trái phiếu chính phủ của hàng loạt các con nợ và cả các đồng tiền chủ chốt trên thế giới, xu hướng tiếp tục gia tăng dự trữ vàng vẫn là chủ đạo trong trung hạn, cả ở cấp vĩ mô, lẫn vi mô. Những động thái liên quan đến thị trường vàng nói riêng và sự ổn định các giá cả trong nước nói chung tùy thuộc rất lớn vào sự đảm bảo đồng bộ và phối hợp tốt Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 28 các chính sách và năng lực quản lý nhà nước về các vấn đề có liên quan, đảm bảo sự liên thông trực tiếp giữa các loại thị trường trong nước và nước ngoài, phù hợp nguyên tắc cạnh tranh thị trường lành mạnh, đầy đủ và minh bạch, dựa trên hệ thống thông tin tốt, phản biện khoa học và bộ máy tham mưu có đủ năng lực và trách nhiệm cao... 2.3 BẤT CẬP VÀ HẠN CHẾ CỦA THỊ TRƯỜNG VÀNG VIỆT NAM - Mức tăng giá vàng trong nước lớn hơn thế giới - Biến động giá vàng mạnh mẽ và không ổn định - Sự phát triển của thị trường vàng không cùng chiều với thị trường thế giới 2.4 Mối liên hệ giữa thị trường vàng thế giới và thị trường vàng Việt Nam CHƯƠNG 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG VÀNG VIỆT NAM 3.1. Định hướng phát triển thị trường vàng Việt Nam. Rõ ràng vàng không còn là vấn đề nhỏ của các nhà kinh doanh, mà đang thực sự trở thành một lực lượng thị trường có khả năng chi phối cả tiết kiệm, đầu tư, cán cân thanh toán, dự trữ chiến lược và chính sách hợp lý, chứ không thể chỉ dựa vào quota hoặc cấm đoán như hiện nay. Phải coi vàng như một ngoại tệ, như một dòng vốn để xây dựng cơ chế quản lý giám sát hữu hiệu theo nguyên tắc thị trường và có thể khai thác thị trường này nhằm tăng thêm nguồn vốn cho nền kinh tế có lẽ là tư duy chính sách đúng đắn, trái lại nếu hạn chế, cấm đoán bằng hành chính chẳng những không mấy tác dụng khi quy mô thị trường đã rất lớn, mà còn tạo ra các giao dịch ngầm không thể kiểm soát được, nhất là trong bối cảnh giá vàng thế giới còn diễn biến rất phức tạp. 3.2. Một số giải pháp phát triển thị trường vàng Việt Nam Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 29 3.2.1. Lấy vàng làm công cụ để hoán đổi ngoại tệ Vẫn biết rằng việc chuyển hóa vốn huy động vàng thành tiền Việt Nam là không đúng nhưng cũng không nên hạn chế hay cấm huy động, cho vay vàng bởi sẽ làm lãng phí một nguồn lực lớn của xã hội. Mà cần tìm được phương án khả thi cho nguồn vốn vàng, chẳng hạn như chuyển vàng thành ngoại tệ. Bộ Tài chính huy động vàng của dân thông qua trái phiếu vàng, sau đó NHNN đưa số vàng này ra nước ngoài để hoán đổi lấy ngoại tệ, dạng như cầm cố để lấy vốn cho đầu tư. Phát hành trái phiếu bằng vàng để huy động vốn vàng trong dân vừa tăng thanh khoản vàng, vừa giúp ngân sách nhà nước có thêm vốn để triển khai các dự án, tăng dự trữ ngoại hối, giảm lượng ngoại tệ để nhập vàng. Khi đó, thay vì phải cấp phép cho các doanh nghiệp nhập khẩu vàng thì có thể mua trực tiếp từ chính phủ. Do đó, trước mắt các ngân hàng nên chuyển hình thức huy động vàng bằng sổ tiết kiệm sang chứng chỉ tiền gửi bằng vàng, tuy nhiên lãi suất thì không đổi. Người dân sẽ mạnh dạn gửi tiết kiệm vàng vì vừa an toàn vừa được hưởng lãi 3.2.2.Quản lý xuất nhập khẩu vàng Việt Nam trung bình mỗi năm nhập trên dưới 60 tấn vàng chưa kể khối lượng nhập lậu tiêu tốn rất nhiều ngoại tệ mà việc sử dụng vẫn chưa hiệu quả, chủ yếu là nằm trong khu vực dân cư. Thiết nghĩ NHNN và Vụ ngoại hối cũng như các ban ngành liên quan nên xem xét kỹ lợi hại để việc xuất nhập khẩu vàng đồng thời, nên mở rộng loại vàng được phép xuất khẩu thành vàng thỏi hayvàng miếng thay vì chỉ là vàng nguyên liệu hoặc nữ trang như hiện nay. Bởi khi nhập giá đã cao do thị trường nước ngoài đã phải biến vàng thỏi thành vàng nguyên liệu để xuất cho Việt Nam, rồi nếu được phép xuất, phía Việt Nam lại phải nấu vàng miếng lại thành vàng nguyên liệu mới được xuất đi. Quy định này gây tốn kém nhiều chi phí cho các ngân hàng và doanh nghiệp muốn xuất khẩu vàng. Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 30 - 3.2.3 Phát triển vàng tiền tệ và sản xuất vàng theo tiêu chuẩn quốc tế: Hiện nay, vàng miếng Việt Nam chưa được chấp nhận lưu thông trên thị trường quốc tế. Do vậy, trong khi đợi thời gian để được chấp nhận chất lượng và lưu thông trên thị trường quốc tế thì Nhà nước nên có biện pháp khuyến khích đẩy mạnh lưu thông vàng theo tiêu chuẩn quốc tế tại Việt Nam để sớm có cơ hội gắn kết việc kinh doanh trên thị trường quốc tế và giúp việc xuất nhập được dễ dàng. 3.2.4. Về quản lý hoạt động kinh doanh vàng NHNN nên phối hợp cùng với Vụ quản lý ngoại hối và Hiệp hội kinh doanh vàng ngồi lại cùng soạn thảo những quy định và chế tài riêng để áp dụng cho các tổ chức đang kinh doanh vàng trên tài khoản này để tránh rủi ro và thiệt hại cho nhà đầu tư - Tập trung phát triển nguồn nhân lực cho các ngân hàng để phát triển các sản phẩm phái sinh với chi phí thấp để phục vụ nhu cầu trong nước khỏi phải thông qua các tổ chức nước ngoài (Option, Future, Mua bán khống…) - NHNN cũng nên tổ chức tập trung và cho ra đời Trung tâm giao dịch dànhcho vàng để các ngân hàng k ý gửi và giao dịch, tránh phải vận chuyển tới lui, trung tâm giao dịch này hoạt động công khai, minh bạch và hỗ trợ ngân hàng hay chính phủ khi gặp khó khăn thanh khoản. Quy định tách riêng hoạt động quản lý và kinh doanh để tránh mâu thuẫn quyền lợi với nhà đầu tư. - NHNN cũng nên xem xét lại việc dự trữ vàng để đa dạng hóa danh mục dựtrữ nhằm can thiệp bình ổn tỷ giá, giá vàng khi cần thiết và tránh rủi ro biến động USD khi đồng tiền này có nguy cơ mất giá trên thị trường. 3.2.5. Đối với những nghiệp vụ của ngân hàng thương mại - Kinh doanh vàng trạng thái: Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 31 Nếu có đủ nguồn lực và kinh nghiệm, việc kinh doanh vàng trạng thái tại các ngân hàng sẽ đem đến nhiều lợi nhuận cho các ngân hàng mặc dù không tránh khỏi nhữngrủi ro. + Thay vì duy trì số dư ngoại tệ trên một số ngân hàng nước ngoài thì nên chuyển một phần qua vàng để tăng thu nhập khi có biến động giá. Mua vàng khi giá thấp để cho vay hoặc đầu tư và bán vàng khi giá cao hoặc bán nguồn vàng huy động được của khách hàng với giá cao và muavào trả lại vào lúc giá thấp – kinh doanh trạng thái này tuy chứa đựng rủi ro nhưng đem đến lợi nhuận vô cùng hấp dẫn. - Kinh doanh phối hợp không tồn tại trạng thái: + Ngân hàng có thể vay vàng hoặc lấy vàng huy động để bán kết hợp với việc mua một quyền chọn mua (call option) trong tương lai hoặc muavàng kết hợp với việc mua một quyền chọn bán (put option) trong nhữngthời điểm phù hợp. Việc kinh doanh này không tồn tại trạng thái, ít rủi ro hơn so với hoạt động mua bán trạng thái trong thời gian dài để kiếm lời. + Đồng thời, phát huy nghiệp vụ Option khi cần thiết để giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng khi các nhà đầu tư có nhu cầu tham gia hoạt động tín dụng vàng, tránh trường hợp nhà đầu tư không đủ khả năng trả nợ khi giá vàng biến động quá lớn. 3.2.6. Tổ chức lại thị trường giao dịch vàng, thành lập trung tâm giao dịch vàng. Theo các chuyên gia kinh tế, vàng cũng chỉ là một tài sản, một kênh đầu tư tương tự như chứng khoán, trái phiếu hay bất động sản. Khi kênh đầu tư nào mang lại nhiều lợi nhuận thì dòng tiền sẽ dồn vào đấy. Sự tồn tại của thị trường giao dịch vàng là điều tất yếu. Vấn đề là sẽ quản lý thế nào để thị trường hoạt động quy củ, bài bản và không gây rủi ro cho nền kinh tế? Có chăng nên xây dựng Sở Giao dịch Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 32 vàng vật chất cấp quốc gia, thay thế cho thị trường vàng vật chất tự do. Và khi quản lý tập trung thì Nhà nước sẽ quản lý được. Nhà nước sẽ kiểm soát khối lượng doanh thu vàng trong năm là bao nhiêu, các nhà đầu tư phải trả thuế gì và con số là bao nhiêu. Hiện tại nhà nước đang bỏ ngỏ thuế doanh thu vì không quản lý được. Khi có sàn vàng vật chất cấp quốc gia, người dân muốn đầu tư vàng phải đem vàng vào. Để tránh tình trạng đầu cơ thì tỷ lệ ký quỹ có thể là 90% thậm chí là 100%. Như vậy, khi lượng vàng để trong két sắt của người dân được đem đến giao dịch và thông kê qua sở giao dịch vàng vật chất thì Nhà nước sẽ trả lời được chính xác lượng vàng trong dân là bao nhiêu. Thành lập Sở giao dịch vàng vật chất cấp quốc gia đồng nghĩa với việc phải xác định được những thành phần tham gia thị trường, mối quan hệ của các thành phần này với các cơ quan quản lý nhà nước và sở giao dịch cấp quốc gia. Các thành viên của sở giao dịch vàng vật chất cấp quốc gia có thể là các doanh nghiệp kinh doanh vàng miếng, các ngân hàng thương mại... Tuy nhiên đây phải là những đơn vị kinh doanh lớn có đủ năng lực. Khi nền kinh tế hội nhập sâu rộng với thế giới, thì thị trường vàng trong nước và quốc tế sẽ quan hệ với nhau như thế nào cần phải được tính đến. Sự chêch lệch vô lý giữa giá vàng thế giới và giá vàng trong nước trong thời gian qua là nguyên nhân chính dẫn đến tâm lý đầu cơ và sự chảy máu ngoại tệ do nhập khẩu lậu vàng qua biên giới. Cách đây 10 năm Thái Lan cũng quản lý xuất nhập khẩu vàng bằng quota xuất nhập khẩu, bằng các mệnh lệnh hành chính nhưng không ngăn nổi tình trạng buôn lậu vàng gia tăng. Đến năm 2000 Thái Lan đã bỏ cách làm này và thực hiện quản lý theo tín hiệu thị trường. Nếu có thị trường vàng thông suốt gắn với thị trường vàng thế giới, sẽ triệt tiêu được buôn lậu - chứ không phải là tăng cường các biện pháp hành chính. Khi còn để chêch lệch giữa giá vàng thị Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 33 trường trong nước và thị trường thế giới thì tình trạng buôn lậu sẽ không tránh khỏi. Năm 2009 Chính phủ đã cấm “tổ chức thực hiện kinh doanh sàn vàng trên tài khoản dưới mọi hình thức” do chưa có cơ quan quản lý sàn vàng, chưa có các quy định, chế tài cụ thể và thiếu cơ sở pháp lý và cơ sở kinh tế kỹ thuật, hoạt động đầu tư trên sàn thiếu chuyên nghiệp.Như vậy có thể thấy rằng, việc đóng cửa sàn vàng này chỉ có tính chất tạm thời bởi lẽ việc xuất hiện các sàn giao dịch vàng và hàng hóa là bước phát triển tất yếu của nền kinh tế, thúc đẩy sự lưu thông vàng trên thị trường. Nhưng nếu lặp lại hình thức kinh doanh vàng ký quỹ qua tài khoản thì không thể giải quyết được vấn đề hiện nay của thị trường vàng. Sàn vàng nên là một bộ phận trực thuộc Sở giao dịch hàng hóa (giống như Comex thuộc Nymex), tức xem vàng là một loại hàng hóa. Nhà nước đóng vai trò quản lý tập trung, các ngân hàng/doanh nghiệp là thành viên của sàn vàng. Điều tiết hoạt động Sàn vàng bằng các giải pháp kỹ thuật như: Đối tượng tham gia, tỷ lệ ký quỹ, quy mô trạng thái mở qua đêm được phép duy trì, dư nợ ín dụng tại Sàn vàng và quan trọng là các chế tài xử lý. Ngân Hàng Nhà Nước xem xét tổ chức thi và cấp chứng chỉ kinh doanh vàng cho những cá nhân, tổ chức hoạt động trong ngành vàng, tương tự như chứng chỉ kinh doanh chứng khoán... Người dân đi mua vàng và găm giữ là có tâm lý bất ổn. Nếu kinh tế phát triển, ổn định, doanh nghiệp ăn nên làm ra, quản lý của các cơ quan chức năng về thị trường tốt thì người dân sẽ chọn kênh đầu tư khác chứ không phải là vàng. 3.2.7. Liên thông thị trường vàng trong nước và thế giới trên cơ sở nới lỏng có kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu vàng. Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 34 Xuất nhập khẩu vàng nên được quản lý theo nguyên tắc thị trường, thay vì quota như hiện nay. Việc áp dụng quota luôn tiềm ẩn các hoạt động xuất nhập khẩu vàng lậu, không thể kiểm soát được và thất thoát nguồn thu cho nhà nước. do không kiểm sóat được lượng vàng xuất nhập khẩu nên sẽ không có thông tin chính xác về cung – cầu vàng trong nền kinh tế. Xoá bỏ cơ chế quota xuất nhập khẩu vàng, thì chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế (sau khi đã cộng các chi phí nhập khẩu) cũng sẽ bị loại bỏ. Liên quan tới thuế xuất nhập khẩu vàng cũng không nhất thiết phải áp thuế nhập khẩu với mục đích hạn chế nhập vàng, giảm áp lực lên cầu ngoại tệ, vì khả năng tái tạo ngoại tệ của vàng rất cao. thực tế, quí I/2009, việt nam đã có xuất siêu nhờ xuất siêu vàng. thuế xuất khẩu vàng cũng nên được cân nhắc ở mức phù hợp, khuyến khích việc khơi thông đầu ra, qua đó phát triển công nghịêp khai thác vàng và công nghiệp chế tác vàng trong nước, tạo công ăn việc làm cho xã hội. A. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ. Tình hình kinh tế thế giới đang đứng trước những khó khăn rất lớn do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực kinh tế lớn, cùng với vấn đề khủng hoảng nợ ở Châu Âu và khả năng vỡ nợ của Mỹ sẽ làm các quốc gia khác ảnh hưởng không nhỏ, giá dầu thô và các loại hàng hóa tăng cao chưa có dấu hiệu giảm, đồng thời giá vàng cũng diễn biến thất thường, đòi hỏi Việt Nam cũng phải chuẩn bị những phương án, giải pháp đối phó với các tình huống có thể xảy ra. Hội nhập ngày càng sâu rộng là một xu thế tất yếu. Trong đó hội nhập về tài chính là không thể thiếu. Khi đất nước ta ngày càng mở cửa thì những ảnh hưởng từ thị trường tài chính bên ngoài là không nhỏ. Tìm hiểu thị trường vàng thế giới và tác động đến thị trường vàng Việt Nam không chỉ là một vấn đề đáng quan tâm hiện nay mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao tầm hiểu biết, kiến thức về vàng và Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 35 kinh doanh vàng, từ đó có thể dự đoán xu hướng và đưa ra giải pháp hữu hiệu cho ổn định và phát triển thị trường vàng Việt Nam. Trong bối cảnh giá vàng thế giới vẫn tiềm ẩn các biến động lên xuống khó lường, yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là phải cải tổ việc quản lý vàng và phát triển thị trường vàng. Theo đó, vàng với hàm lượng vàng cao nên được quản lý với tích chất của một công cụ tiền tệ. Nhà nước cần phải nắm quyền và có các công cụ hữu hiệu để điều chỉnh cung – cầu vàng, chủ động quản lý có hiệu quả, hiệu lực tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Bên cạnh việc quản lý vàng với tính chất của một công cụ tiền tệ, cần có lộ trình cụ thể cho việc phát triển phát triển theo thông lệ quốc tế, đa dạng hoá các kênh đầu tư, liên thông thị trường trong nước và quốc tế. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1. Billbuck- Đơn vị đo lường và cách qui đổi giá vàng thế giới và vàng trong nước. 2. GS.TS Đỗ Đức Bình, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng- Giáo trình Kinh tế quốc tế- NXB ĐH Kinh tế Quốc dân. 3. Đặng Chí Chơn, Hồ Diệu, PTS Ngô Hường, PTS Đỗ Linh Hiệp, PTS Lê Văn Tề- Tiền tệ và ngân hàng- NXB TpHCM. 4. Nguyễn Hồng Hải- Trung Quốc “can thiệp” thị trường vàng như thế nào? 5. TS Vũ Minh Hằng, PGS.TS Sử Đình Thành - Nhập môn tài chính tiền tệ- NXB ĐH Quốc gia Tp HCM. Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 36 6. Julian D. W. Phillips-Kim loại quí và căn cứ phân tích kỹ thuật (Gold Forecaster – Precious Metals and the Validity of Technical Analysis – Part 1, Feb 2011) . 7. Dương Hữu Mạnh- Tiền tệ và tài chính quốc tế- NXB Thống kê. 8. Phí Đăng Minh- Ba khó khăn khi Nhà nước tích trữ vàng thay dân. 9. Dương Ngọc- bài viết : Thị trường vàng hai chiều hướng bốn hiện tượng. 10.Văn Thanh- bài viết: Giá vàng hiện nay và những yếu tố hỗ trợ. 11. Chiến Thần- Chơi vàng là gì, vàng tài khoản là gì?- Diễn đàn Forex Việt Nam. 12. GS.TS Lê Văn Tư- Thị trường hối đoái- NXB Thanh niên. 13.Trang USAgold, 14. Đặng Thị Tường Vân – Các giải pháp phát triển kinh doanh vàng tại Việt Nam. 15. Wikipedia- Bản vị vàng. 3.1. Định hướng Quản lý và nghiên cứu thị trường vàng cần được thực hiện một cách toàn diện, trong mối quan hệ với các thị trường khác và các mục tiêu kinh tế vĩ mô 3.2. Giải pháp phát triển thị trường vàng Việt Nam 3.2.1. Quản lý xuất nhập khẩu vàng 3.2.2. Tổ chức lại thị trường giao dịch vàng, thành lập trung tâm giao dịch vàng 3.2.3. Liên thông thị trường vàng trong nước và thế giới 3.2.4. Quản lý hoạt động kinh doanh vàng 3.2.5. Sản xuất vàng theo tiêu chuẩn vàng quốc tế Đề án môn học GV hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Minh Quế 37 KẾT LUẬN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvanluong_blogspot_com_thitruongvang_6319.pdf
Luận văn liên quan