Nhận thức là cả một quá trình, thông qua các hoạt động thực tiễn, những yêu cầu và đòi hỏi của cuộc sống cùng với đó những phương thức giải quyết cũng sẽ xuất hiện. Việc nhận thức và hiểu rõ được cơ sở lí luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của đảng cộng sản Việt Nam là một vấn đè quan trọng mà bất cứ một công dân đặc biệt là thế hệ trẻ cần nắm vững. Trên cơ sở đó xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học,nhân sinh quan cách mạng, xây dựng niềm tin và lí tưởng cách mạng, vận dụng sáng tạo nó trong hoạt động nhận thúc và thực tiễn, trong rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, đáp ứng yêu cầu của con người Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
23 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5419 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Triết Chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận Triết
Chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại
Lời mở đầu
2
Những khái niệm có liên quan
3
Những vấn đề lí luận để hiểu rõ nội dung quy luật: “chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại”
3
Quan niệm về chất và lượng của các nhà triết học cổ
3
Quan niệm biện chứng duy vật về chất và lượng
5
Mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất
8
Nhận thức và vận dụng nội dung quy luật: “chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại” vào thực tiễn
11
Nhận thức và vận dụng nội dung quy luật trong sự phát triển của Đảng
11
Nhận thức và vận dụng nội dung quy luật trong sự phát triển về kinh tế
13
Nhận thức và vận dụng nội dung quy luật trong sự thay đổi của văn hóa-xã hội
17
Kết luận
20
Những tài liệu tham khảo đã sử dụng
21
1. Lời mở đầu
Trong đời sống hàng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn hình muôn vẻ, con người dần dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp lại của các hiện tượng, từ đó hình thành nên khái niệm “quy luật”. Với tư cách là phạm trù của lý luận nhận thức, khái niệm “quy luật” là sản phẩm của tư duy khoa học, phản ánh sự liên hệ của các sự vật và tính chỉnh thể của chúng.
Các quy luật của tự nhiên, của xã hội cũng như của tư duy con người đều mang tính khách quan. Con người không thể tạo ra hoặc tự ý xóa bỏ được quy luật mà chỉ nhận thức và vận dụng nó vào trong thực tiễn.
Quy luật “từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại” là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, nó cho biết phương thức của sự vận động, phát triển. Nhận thức được quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động thực tiễn khi chúng ta xem xét các sự vật, hiện tượng. Đặc biệt là đối với đất nước Việt Nam ta khi đứng trước xu thể phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới. Nước ta đang trong giai đoạn quá độ lên CNXH với những khó khăn về mọi mặt, do đó việc nhận thức đúng đắn quy luật lượng – chất sẽ có ý nghĩa rất lớn trong quá trình phát triển kinh tế đất nước.
Trong phạm vi của bài tiểu luận này, chúng em xin trình bày những cơ sở lý luận chung về nội dung của quy luật lượng – chất, trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa thực tiễn của việc nhận thức và vận dụng quy luật này để phát triển nền kinh tế Việt Nam, đồng thời khẳng định lại một lần nữa tính tất yếu của tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh với những nguyên lý Mác – Lênin trong quản lý và phát triển đất nước.
2. Những khái niệm có liên quan
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác.
Thuộc tính là biểu hiện một khía cạnh nào đó về chất của một sự vật trong mối quan hệ qua lại với sự vật khác.
Lượng là phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi chất chất của sự vật.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
* Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại:
Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới lại có chất mới cao hơn ....Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng biến đổi.
3. Những vấn đề lí luận để hiểu rõ nội dung quy luật: “chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại”
3.1 Quan niệm về chất và lượng của các nhà triết học cổ
Đối với nhiều nhà triết học tại Hy Lạp, vật chất thường đồng nhất với sự vật. Từ đó họ cố gắng hiểu vật chất và các hình thức biểu hiện của nó từ phương diện chất. Trái lại những người thuộc trường phái Pitago lại xem đặc trưng về lượng của thế giới vật chất là nền tảng của mọi cái đang tồn tại. Họ xem những mối quan hệ số lượng là quy luật cấu thành mọi sự vật của thế giới.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, chất và lượng có được ý nghĩa với tư cách là những phạm trù trong triết học của Aixtốt. Ông xem chất là tất cả những cái gì làm cho sự vật là nó. Còn lượng là tất cả những cái gì có thể phân ra thành những bộ phận cấu thành. Ông phân lượng thành hai loại: số lượng và đại lượng. Ông cũng là người đầu tiên tiến tới giải quyết một vấn đề quan trọng của quy luật: vấn đề tính nhiều chất của sự vật. Từ đó, ông phân biệt sự khác nhau về hình thức với chất căn bản của sự vật – cái sẽ xuất hiện hay mất đi cùng với sự xuất hiện hay mất đi của bản thân sự vật; ông cũng đạt được bước tiến đáng kể trong việc nghiên cứu phạm trù độ, xem độ là cái thống nhất, cái không thể phân chia giữa chất và lượng.
Sau này, quan điểm phiến diện tuyệt đối hoá đặc trưng về lượng đã được khắc phục trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt trong triết học Hêghen. Hêghen đã phân tích một cách tỉ mỉ sự thống nhất biện chứng, mối quan hệ qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa lượng và chất, xem xét chất và lượng nằm trong quá trình vận động và phát triển không ngừng. Với quan điểm biện chứng, Hêghen đã xem xét từ “ chất thuần tuý “ đến ” chất được xác định ”; chất phát triển đến tột độ thì ra đời lượng; lượng cũng không ngừng tiến hoá, “ số lượng ” là đỉnh cao nhất trong sự tiến hoá.
Trong việc xem xét mối quan hệ giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất, Hêghen đặc biệt chú ý tới phạm trù bước nhảy. Chính dựa trên tư tưởng của Hêghen, Lênin đã ra một kết luận quan trọng là : Việc thừa nhận bước nhảy hay không là tiêu chí cơ bản để xem đó là người theo quan điểm biện chứng hay siêu hình về sự phát triển.
Tất nhiên, với tư cách là nhà triết học duy tâm, Hêghen đã xem các phạm trù chất, lượng, độ chỉ như những nấc thang tự phát triển của tinh thần, của “ ý niệm tuyệt đối ” chứ không phải là những nấc thang nhận thức của con người đối với thế giới bên ngoài.
Về sau sự ra đời của phép biện chứng duy vật đánh dấu một giai đoạn phát triển căn bản trong quan niệm về chất, lượng, mối quan hệ qua lại giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất nói chung.
3.2. Quan niệm biện chứng duy vật về chất và lượng
3.2.1 Quan niệm biện chứng duy vật về chất
Trong thế giới quanh ta tồn tại vô vàn sự vật, hiện tượng. Vì sao chúng ta biết phân biệt đây là sự việc này, đây là sự việc kia? Điều đó là đơn giản vì các sự vật khác nhau, có những đặc trưng, thuộc tính, những quy định khác nhau. Như kim loại không có khả năng hòa tan một số chất giống nước. Hay á kim không thể dẫn điện, dẫn nhiệt như kim loại. Mọi động vật và thực vật đều được đặc trưng bởi đồng hóa, dị hóa nhưng chúng lại khác nhau.... Sở dĩ ta phân biệt được những những sự vật hiện tượng khách quan đó là vì chúng có sự khác nhau về chất.
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác.
Thuộc tính là biểu hiện một khía cạnh nào đó về chất của một sự vật trong mối quan hệ qua lại với sự vật khác, là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố cấu thành nên sự vật,... Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận động và phát triển của nó. Tuy nhiên những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra qua sự tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng khác.
VD : Khi cho đường vào nước ta thấy đường có tính tan, khi nếm ta biết đường có vị ngọt. Vậy tính tan, vị ngọt .. là thuộc tính của đường, chúng ta chỉ nhận biết được điều đó nếu chúng ta nếm hay khi vị giác của chúng ta tiếp xúc, tác động qua lại với chúng. Tất cả những thuộc thính của đường là những cái vốn có của đường, nhưng chúng chỉ bộc lộ ra trong quan hệ của đường với nước hay trong quan hệ của đường với vị giác của con người.
Đặc trưng khách quan nói trên quy định phương thức nhận thức của con người đối với vật chất của sự vật. Để nhận thức được những thuộc tính, chúng ta cần nhận thức nó trong mối quan hệ giữa các sự vật. Trong mối quan hệ cụ thể thường bộc lộ ra một thuộc tính (một khía cạnh về chất) của sự vật. Do vậy, để nhận thức được chất với tư cách là sự tổng hợp của tất cả các thuộc tính vốn có của sự vật đó, chúng ta phải nhận thức sự vật trong tổng hoà các mối quan hệ có thể có giữa sự vật đó với các sự vật khác.
Mỗi sự vật có vô vàn thuộc tính, mỗi thuộc tính của sự vật lại có một tổng hợp những đặc trưng về chất của mình, nên khiến cho mỗi thuộc tính lại trở thành một chất. Điều đó cũng có nghĩa, mỗi sự vật có vô vàn chất.
Với tư cách là những khía cạnh của chất được bộc lộ ra trong các mối quan hệ, các thuộc tính của sự vật cũng có vị trí khác nhau tạo thành những thuộc tính cơ bản và những thuộc tính không cơ bản. Nhưng thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ qua các mối quan hệ cụ thể với các sự vật khác. Bởi vậy sự phân chia thành thuộc tính cơ bản và không cơ bản cũng chỉ mang tính chất tương đối. Tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo thành chất cơ bản của sự vật. Ở mỗi sự vật chỉ có một chất cơ bản, đó là tổng hợp những thuộc tính đặc trưng cho sự vật trong toàn bộ quá trình tồn tại của sự vật; đó là loại chất mà sự tồn tại hay mất đi của nó quy định sự tồn tại hay mất đi của bản thân sự vật.
VD : trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất, chất cơ bản của nền kinh tế tư bản tư nhân là sản xuất chạy theo giá trị thặng dư. Khi đặc trưng đó mất đi, nền kinh tế cũng không còn là kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Chất của sự vật không những được xác đinh bởi chất của các yếu tố cấu thành, mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành sự vật đó. Nghĩa là bởi kết cấu của sự vật.
Trong tự nhiên và cả trong xã hội, chúng ta thấy không ít sự vật, mà xét riêng về các yếu tố cấu thành, chúng hoàn toàn đồng nhất, nhưng các sự vật đó lại khác nhau về chất.
VD : kim cương và than chì là những sự vật đều do cácbon tạo thành. Nhưng kim cương là vật cứng nhất trong tất cả các vật, có thể cắt được hầu hết mọi kim loại, có giá trị kinh tế cao, còn than thì không có được những đặc trưng tương tự. Sự khác nhau đó được quyết định bởi phương thức liên kết khác nhau của các nguyên tử cácbon.
Chất của sự vật không chỉ thay đổi khi có sự thay đổi những yếu tố cấu thành mà nó còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố đó. Do vậy, để làm biến đổi chất của sự vật, chúng ta có thể cải tạo các yếu tố cấu thành, hoặc biến đổi phươnng thức liên kết giữa các yếu tố đó.
3.2.2. Quan niệm biện chứng duy vật về lượng
Lượng là phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm,... Trong thực tế lượng của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể như vận tốc của ánh sáng là 300.000 km trong một giây, một phân tử nước gồm hai nguyên tử hidro liên kết với một nguyên tử oxy,... bên cạnh đó có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như trình độ tri thức khoa học của một người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,... Trong những trường hợp đó chúng ta chỉ có thể nhận thức được lượng của sự vật bằng con đường trừu tượng và khái quát hóa. Có những lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong của sự vật ( số lượng nguyên tử hợp thành nguyên tố hóa học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội ), có những lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật).
Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Có những tính quy định trong mối quan hệ này là chất của sự vật, song trong mối quan hệ khác lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại. Chẳng hạn số lượng sinh viên giỏi nhất định của một lớp sẽ nói lên chất lượng học tập của lớp đó. Điều này cũng có nghĩa là dù số lượng cụ thể quy định thuần túy về lượng, song số lượng ấy cũng có tính quy định về chất của sự vật.
Chất và lượng là hai mặt không thể tách rời nhau trong sự vật. Trong quá trình vận động và phát triển, chất và lượng của sự vật không đứng im. Chúng luôn vận động không phải biệt lập với nhau mà luôn luôn có quan hệ qua lại theo một quy luật nhất định.
3.3 Mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất
Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng. Chúng tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự vật, quy định về lượng không bao giờ tồn tại nếu không có tính quy định về chất và ngược lại.
Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động và phát triển của sự vật. Nhưng sự thay đổi đó có quan hệ chặt chẽ với nhau chứ không tách rời nhau. Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng tới sự thay đổi về chất của nó và ngược lại, sự thay đổi về chất của sự vật tương ứng với sự thay đổi về lượng của nó. Sự thay đổi về lượng có thể chưa làm thay đổi ngay lập tức sự thay đổi về chất của sự vật. Ở một giới hạn nhất định khi lượng của sự vật thay đổi, nhưng chất của sự vật chưa thay đổi cơ bản.
VD : khi xét các trạng thái khác nhau của nước trong khoảng nhiệt độ từ 0⁰C đến 100⁰C, bản chất của nước vẫn không thay đổi (vẫn là chất lỏng). Như vậy, không phải bất kỳ một sự thay đổi về lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản về chất của sự vật.
Khuôn khổ, mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất của sự vật, được gọi là độ.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
Những giới hạn mà khi lượng đạt tới đó sẽ làm thay đổi về chất của sự vật được gọi là điểm nút.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi chất chất của sự vật.
Trong ví dụ trên, nếu coi trạng thái của nước là chất thì 0⁰C và 100⁰C là điểm nút.
Sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút sẽ ra đời chất mới với lượng mới tương ứng của nó. Sự thống nhất giữa lượng và chất mới tạo thành một độ mới với những điểm nút mới. Sự vận động và phát triển là khôn cùng. Do đó, sự vận động, biến đổi của sự vật sẽ hình thành một đường nút của những quan hệ về độ.
Sự thay đổi về chất do những sự thay đổi về lượng trước đó gây ra được gọi là bước nhảy :
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát triển liên tục của sự vật. Có thể nói, trong quá trình phát triển của sự vật sự gián đoạn là tiền đề cho sự liên tục và sự liên tục là kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn.
Thế giới là muôn hình muôn vẻ, nên sự thay đổi về chất cũng hết sức đa dạng với nhiều hình thức khác nhau. Tính chất của các bước nhảy được quyết định trước hết bởi tính chất của bản thân sự vật, bởi những mâu thuẫn vốn có. Với những sự vật có tính chất khác nhau và với những mâu thuẫn khác nhau sẽ có những bước nhảy khác nhau. Chẳng hạn, bước nhảy trong tự nhiên dẫn tới sự ra đời của những loài động vật, thực vật mới phải trải qua hàng ngàn năm hoặc nhiều hơn. Nhưng cũng trong tự nhiên, chúng ta vẫn quan sát thấy cả những quá trình thay đổi về chất diễn ra một cách nhanh chóng.
VD : hiện tượng phóng xạ trong tự nhiên của một số nguyên tố hoá học… Hay khối lượng Uranium 235 được tăng đến khối lượng tới hạn xẽ xảy ra vụ nổ bom nguyên tử.
Tính đa dạng trong hình thức thay đổi về chất còn được quy định bởi điều kiện trong đó diễn ra sự thay đổi về chất. Chẳng hạn, cũng là vấn đề thay đổi quyền lực chính trị trong quá trình phát triển xã hội, nhưng tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử – cụ thể mà sự thay đổi đó có thể diễn ra bằng con đường hoà bình hoặc bạo lực cách mạng. Khi diễn ra theo con đường thứ 2, bước nhảy được thực hiện trong khoảng thời gian tương đối ngắn, “một ngày bằng hai mươi năm”.
Trong thực tế, sự thay đổi về chất thông qua các bước nhảy hết sức đa dạng và phong phú. Nhìn chung, các bước nhảy thể hiện qua một số cách cơ bản sau :
Bước nhảy đột biến và bước nhảy diễn ra một cách dần dần :
Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
Sự phân chia như vậy được dựa trên không chỉ thời gian của sự thay đổi về chất, mà còn dựa trên cả tính chất của bản thân sự thay đổi đó. Những bước nhảy đột biến, khi chất của sự vật được biến đổi một các nhanh chóng. Chẳng hạn, sự chuyển hoá của các hạt cơ bản… Những bước nhảy được thực hiện một cách dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng con đường tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và mất đi dần dần những nhân tố của chất cũ. Chẳng hạn, quá trình chuyển hoá từ vượn người thành người… Như vậy, sự khác nhau giữa hai loại bước nhảy vừa nêu không chỉ ở thời gian diễn ra sự thay đổi về chất, và cả ở cơ chế của sự thay đổi đó. Khi nói về bước nhảy dần dần, ngoài nhân tố tốc độ, chúng ta còn nói đến cơ chế của việc tạo ra chất mới. Ở đây, chất mới được tạo thành không phải ngay lập tức, mà được tạo thành từng phần.
Mặt khác, cũng cần phân biệt bước nhảy dần dần với sự thay đổi dần dần về lượng. Nhưng sự thay đổi dần dần về lượng diễn ra một cách liên tục trong khuôn khổ của chất đang có; còn bước nhảy dần dần là sự chuyển hóa chất này sang chất khác, là sự đứt đoạn của tính liên tục, là bước ngoặt quyết định trong sự phát triển.
Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ
Bước nhảy toàn bộ là loại bước nhảy làm thay đổi về chất tất cả các mặt, các bộ phận, các nhân tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ là loại bước nhảy làm thay đổi một số mặt, một số nhân tố, một số bộ phận của sự vật đó. Đối với các sự vật phức tạp về tính chất, về những nhân tố cấu trúc, về những bộ phận cấu thành. Bước nhảy thường diễn ra bằng con đường từ những thay đổi về chất cục bộ đến thay đổi về chất toàn bộ. Quá trình cách mạng giải phóng dân tộc thủ tiêu chế độ thực dân (kiểu cũ) trên thế giới cũng như quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa đã diễn ra theo con đường như vậy.
Khi xem xét sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất trong xã hội, điều quan trọng là phải chú ý tới độ sâu sắc và ý nghĩa của chúng. Xuất phát từ cách tiếp cận đó, cả sự thay đổi về lượng lẫn sự thay đổi về chất có thể phân ra thành những thay đổi mang tính cách mạng hay tính tiến hoá.
Cách mạng là sự thay đổi mà trong quá trình đó diễn ra sự phá huỷ chất căn bản của sự vật, diễn ra sự cải tạo căn bản về chất của sự vật đó, không phụ thuộc vào sự cải tạo đó được diễn ra như thế nào (diễn ra dưới hình thức đột biến hay dần dần).
Tiến hoá là sự thay đổi, mà trong quá trình đó, chất cơ bản của sự vật vẫn được duy trì.
4. Nhận thức và vận dụng nội dung quy luật: “chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại” vào thực tiễn
4.1 Nhận thức và vận dụng nội dung quy luật trong sự phát triển của Đảng
Trong những năm 20 của thế kỉ XX, khi cách mạng tháng 10 Nga thành công là khởi đầu cho sự phát triển của chủ nghĩ xã hội. Liên Xô được thành lập và ngày càng có thế lực lớn trên thế giới, chủ nghĩa xã hội ngày càng trở thành một hệ thống trên thế giới mà trụ cột đứng đầu là Liên Xô. Cùng cảnh ngộ với nhiều nước thuộc địa trên thế giới, Việt Nam đứng trước hai sự lựa chọn: một là phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, hai là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, phát triển thẳng lên theo con đường chủ nghĩa xã hội. Và khi chủ tịch Nguyễn Ái Quốc bắt gặp bản luận cương của Lê-nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người đã xác định được lối đi của dất nước. Người đã đi đến kết luận: Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản; chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Đó là một quyết định vô cùng sáng suốt của Người. Để có một bước nhảy cách mạng đó đưa đất nước Việt Nam sang một chế độ khác ( “chất” khác ) là đất nước xã hội chủ nghĩa, cương lĩnh đầu tiên ( 1930 ) của Đảng ta cũng đã khẳng định : Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, nước ta sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là sự lựa chọn dứt khoát và đúng đắn của Đảng, đáp ứng nguyện vọng thiết tha ngàn đời của dân tộc, phản ánh đáng xu thế của thời đại, phù hợp với quan điểm cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Khi chúng ta chiến thắng hai kẻ thù lớn, đất nước được độc lập, tự do, và khi đó chúng ta nghĩ là lúc phát triển lên chủ nghĩa xã hội một cách dễ dàng và chỉ là vấn đề thời gian. Nhưng chúng ta đã nhầm vì trong cả một quá trình tích luỹ về đủ lượng để có một sự biến đổi về chất, chất mới được ra đời nhưng đồng thời nó lại tạo nên lượng mới. Chúng ta cứ tưởng rằng sau khi chiến thắng đế quốc Mỹ thì chúng ta sẽ có một nước xã hội chủ nghĩa đích thực; thắng đế quốc, thực dân được thì thắng nghèo nàn, lạc hậu cũng chỉ là vấn đề thời gian; rằng chúng ta có thể dễ dàng tiến thẳng lên xã hội chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Có thể nói, nhận thức đó của chúng ta về sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sai lạc và duy ý chí. Nó làm cho đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng, nền kinh tế chậm phát triển hàng chục năm. Đời sống nhân dân thêm phần đói khổ, lầm than, nhân dân dần mất lòng tin vào Đảng. Chế độ xã hội chủ nghĩa ta đã xây dựng có nguy cơ bị sụp đổ.
Vấn đề đặt ra là chúng ta chưa có đủ lượng để có thể tạo ra một chất mới là chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng ta không thể đáp ứng những yêu cầu cao mà chế độ này đặt ra (làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu.) bằng một nền nông nghiệp lạc hậu, trì trệ và chậm phát triển. Chúng ta phải hiểu rằng chúng ta không thể đi tới chế độ xã hội chủ nghĩa bằng những gì đang có mà phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Chính trong thời kỳ này chúng ta sẽ có những thay đổi phát triển về mọi mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục....Để có thể đi đến chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thời kì quá độ từ CNTB lên CNXH chính là bước nhảy dần dần từ chất cũ sang chất mới. Trong quá trình tiến hóa cách mạng, một mặt phải chống khuynh hướng bảo thủ, trì trệ, nhằm tạo ra những bước nhảy để đẩy nhanh sự phát triển, mặt khác lại phải chống tư tưởng nóng vội, muốn đưa nhanh sự phát triển, tiến hành những bước nhảy khi chưa có điều kiện chín muồi, bất chấp những quy luật khách quan, giải quyết đúng đắn những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Như vậy,lượng và chất là hai mặt thống nhất biện chứng của sự vật, chỉ khi nào lượng được tích lũy tới một độ nhất định mới làm thay đổi về chất, nên trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn cũng như trong nhận thức khoa học phải chú ý tích lũy dần dần những thay đổi về lượng, đồng thời phải biết thực hiện và thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi.
Khắc phục được những sai lầm có tính chủ quan, duy ý chí, nóng vội, đốt cháy giai đoạn trong thời kì trước đổi mới, trong quá trình đổi mới từ 1986 đến nay, vận dụng quy luật lượng chất một cách đúng đắn hơn, Đảng ta đã phân thời kỳ quá độ của đất nước thành những bước đi từ thấp đến cao (1986 - 1990, 1991 - 1996, 1996 – 2000, 2001 -2020 ), đưa đất nước ta tiến lên từng bước vững chắc. Trên cơ sở đó thực hiện thắng lợi con đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với tinh thần đổi mới tư duy, đổi mới nhưng không làm thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà trái lại, làm cho mục tiêu đó thực hiện một cách có kết quả hơn trên cơ sở nhận thức đúng về chủ nghĩa xã hội, đề ra những hình thức và bước đi thích hợp, thấm nhuần quan điểm thực tiễn, lịch sử cụ thể và phát triển, chúng ta cần chủ động khắc phục những cách hiểu sai, cách nghĩ, cách làm giản đơn, siêu hình, giáo điều, duy ý chí, trái quy luật. Trên cơ sở quan niệm đúng về chủ nghĩa xã hội, với sự kiên định mục tiêu lý tưởng và một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
4.2. Nhận thức và vận dụng nội dung quy luật trong sự phát triển về kinh tế
Bên Cạnh việc nhận thức về con đường đi lên xã hội chủ nghĩa của đất nước ta một cách đúng đắn cũng là việc nhận thức thấu đáo về sự phát triển đất nước. Nên nước ta trong những năm qua có những đổi mới và phát triển rõ rệt. Giữa thập niên 70, với nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lại chiến tranh kéo dài tàn phá nặng nề, chủ yếu bằng việc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tổ chức lại sản xuất, mở rộng quy mô hợp tác xã, áp dụng mô hình Chủ Nghĩa xã hội của Liên Xô, chúng ta đã bộc lộ tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý chí cả về trong lí luận lẫn trong chỉ đạo thực tiễn.
Năm 1982 đại hội Ⅴcủa Đảng Cộng sản Việt Nam đã thừa nhận nền kinh tế Việt Nam thời kì 1976-1980 là kết quả của việc sản xuất không tương xứng với lao động và vốn đầu tư bỏ ra, những mất cân đối lớn của nền kinh tế, thu nhập quốc dân chưa đảm bảo được tiêu dùng xã hội trong khi dân số tăng nhanh; thị trường vật giá tài chính không ổn định; đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn. Vì thế từ năm 1982, Đảng quyết định Việt Nam sẽ tập trung phát triển mạnh nông nghiệp, coi công nghiệp là mặt trận hàng đầu, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng,công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lí, tăng cường phân cấp cho địa phương trong công tác sản xuất và quản lí sản xuất. Kinh tế quốc doanh vẫn dữ tinh thần chủ đạo, kinh tế gia đình được khuyến khích. Thị trường bị quản lí chặt chẽ.
Tuy nhiên thời kì 1981-1985 kinh tế Việt Nam đã không thực hiện được những mục tiêu trong nghị quyết đại hội Ⅴđề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Sai lầm về tổng điều chỉnh giá-lượng-tiển cuối năm 1985 đã đưa nền kinh tế đất nước đến những khó khăn mới. Nền kinh tế xã hội lâm vào khủng hoảng nặng nề, siêu lạm phát xuất hiện và kéo dài. Sản xuất nông nghiệp vẫn tiếp tục trì trệ, lương thực không đủ dùng, các xí nghiệp luôn trong tình trạng lãi giả lỗ thật. Nhà nước bao cấp tràn lan. Lưu thông phân phối ách tắc. Đời sống nhân dân khó khăn đến cùng cực. Tiêu cực xã hội sinh sôi nảy nở. Nhân dân bất bình, họ cảm thấy không thể tiếp tục sống như thế được nữa. Đảng và nhà nước cũng không thể duy trì những chính sách và cơ chế như cũ. Khủng hoảng kinh tế đã đến độ nguy hiểm. Chính thời điểm này là điểm nút của sự biến đổi về “chất” sau một quá trình dài thay đổi và tích lũy đủ về “lượng”. Và bước nhảy của sự biến đổi này được tạo nên do sự sáng tạo, nhận thức đúng đắn của Đảng, nhà nước và nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi mới. Và điều đó được nêu rõ trong đại hội VI tháng 12 năm 1968 mới: chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ mô hình kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực chất là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN nhưng được diễn đạt gọn hơn, nói rõ được mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì quá độ.
Nói nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không phải là kinh tế hiện vật, tự cấp, tự túc, quản lý theo kiểu tập trung, quan liêu, bao cấp. Nhưng đó cũng không phải là nền kinh tế thị trường tự do theo cách nói của tư bản, tức là không phải là nền kinh tế thị trường TBCN, và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường XHCN, còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có lại vừa chưa có đầy đủ các yếu tố CNXH. Cùng với CNH, HĐH đất nước, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là con đường kinh tế cơ bản đưa nước ta quá độ lên CNXH.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, qua đó tiềm năng của các thành phần kinh tế được khai thác để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo xây dựng thành công CNXH.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một tất yếu khách quan, là sự nhận thức đúng đắn quy luật từ những thay đổi về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Điều đó có nghĩa là khi chúng ta chưa tích lũy được đầy đủ những điều kiện vật chất cho CNXH thì chúng ta chưa thể nóng vội xây dựng quan hệ sản xuất XHCN ngay như trước năm 1986 chúng ta đã làm, mà chúng ta phải tiến hành dần dần, hay nói cách khác, chúng ta phải có một thời kỳ quá độ.
Đổi mới đường lối sáng tạo độc đáo, độc lập và tự chủ của Việt Nam. Và cũng vì nhận thức đúng đắn việc thực hiện thành công quá trình đổi mới trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ mang lại bước nhảy về chất trong phạm vi tương ứng đó. Việc thực hiện thành công quá trình đổi mới toàn diện tất cả các mặt của đời sống xã hội sẽ tạo ra bước nhảy về chất của toàn xã hội nói chung. Cũng như bất kỳ sự thay đổi của chất nào khác những bước nhảy trong quá trình đổi mới cũng chỉ là quá trình thay đổi về lượng thích hợp nên Đảng, nhà nước và nhân dân ta đã nắm bắt được những thách thức trong công cuộc đổi mới này để từ đó có những bước đi đúng đắn thể hiện qua việc thực hiện các chỉ tiêu của các kỳ đại hội VII, VIII, IX.
Công cuộc 15 năm đổi mới của đất nước ta đã tạo được những thành tựu to lớn. Việt Nam từ một nước phải nhập khẩu lương thực nay đã sản xuất đủ tự cung tự cấp, có dự trữ và còn xuất khẩu gạo. Khoán 10 được triển khai trên quy mô toàn quốc càng khuyến khích nông dân sản xuất lúa, gạo hàng hóa nhất là hàng tiêu dùng nhiều hơn và đa dạng hơn. Xuất khẩu tăng mạnh, thâm hụt thương mại giảm. Từ năm 1989 Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô, đem lại nguồn thu xuất khẩu lớn. Lạm phát được kiềm chế dần dần. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia càng tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp. GDP tăng bình quân hàng năm 7%, Giá sản lượng công nghiệp hằng năm 13,5%. Hệ thống kết cấu hạ tầng, bưu chính viễn thông đường xá,... được tăng cường. Văn hóa xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân được cải thiện. Tình hình kinh tế chính trị xã hội cơ bản được ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường...
Với những thành tựu đạt được nước ta sẽ có những tiền đề để bước vào giai đoạn mới đó là đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hộ chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả bền vững, tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh.
Thực tiễn sau 15 năm đổi mới đã khẳng định chủ trương xây dựng kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta. Nó đã thực sự giải phóng, phát triển và khơi dậy các tiềm năng của sản xuất. Khơi dậy năng lực sáng tạo chủ động của các chủ thể kinh tế trong sản xuất đưa nước ta ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Như vậy, lượng và chất là hai mặt thống nhất biện chứng của sự vật, chỉ khi nào lượng được tích lũy tới một độ nhất định mới làm thay đổi về chất, nên trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn cũng như trong nhận thức khoa học phải chú ý tích lũy dần dần những thay đổi về lượng, đồng thời phải biết thực hiện và thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi.
Thời kì quá độ từ CNTB lên CNXH chính là bước nhảy dần dần từ chất cũ sang chất mới. Trong quá trình tiến hóa cách mạng, một mặt phải chống khuynh hướng bảo thủ, trì trệ, nhằm tạo ra những bước nhảy để đẩy nhanh sự phát triển, mặt khác lại phải chống tư tưởng nóng vội, muốn đưa nhanh sự phát triển, tiến hành những bước nhảy khi chưa có điều kiện chín muồi, bất chấp những quy luật khách quan, giải quyết đúng đắn những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
4.3. Nhận thức và vận dụng nội dung quy luật trong sự thay đổi của văn hóa-xã hội
Cũng như mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội, văn hóa cũng luôn nằm trong tiến trình hoạt động, phát triển và biến đổi không ngừng, sự biến đổi và phát triển đó cũng tuân theo những quy luật nhất định trong đó có quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại. Lịch sử phát triển của loài người nói chung và văn hóa của nhân loại nói riêng luôn luôn diễn ra và phát triển từ thấp đến cao .
Ngày nay nước ta bước vào thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước thực hiện cơ chế thị trường và mở rộng quan hệ quốc tế, nhiệm vụ trọng tâm của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa càng trở nên đặc biệt quan trọng, đó là một quá trình thống nhất, biện chứng giữa lọc bỏ và kế thừa, giữa duy trì và đổi mới, giữa cải tạo và xây dựng, giữa phê phán và tiếp thu để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, trong sáng về đạo đức, phong phú về tình cảm. Để làm được nhiệm vụ trọng tâm của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hóa Đảng ta đã khẳng định phát triển kinh tế xã hội không thể không quan tâm đến nhân tố văn hóa mà đặc biệt là vấn đề giữ gìn di sản văn hóa, bản sắc dân tộc, kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm mĩ, các di sản văn hóa nghệ thuật của dân tộc, bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa và danh thắng của đất nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm, giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc. Tiếp thu văn hóa nhân loại một cách có chọn lọc, đánh giá giữ lại cái tốt loại bỏ cái xấu và cũng vì thế mà bài trừ mê tín dị đoan, những tập tục trái với thuần phong mĩ tục.
Trong quá trình hội nhập, đất nước ta ngày càng phát triển, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, qua quá trình giao lưu học hỏi nước ta đa xóa bỏ được nhiều các phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu, chứa đựng những bất công mà thời đại ngày nay không thể chấp nhận, không còn chỗ chứa đựng cho nó mà thay vào đó là những nét văn hóa mới văn minh vẫn giữ được nét truyền thống của dân tộc đã có từ bao đời nay.
VD: Như phong tục xua tà, đuổi quỷ mỗi khi có người ốm mà không đến bệnh viện, hay tìm những thầy thuốc để rồi từ phong tục cổ hủ, lạc hậu này không biết đã bao nhiêu mạng người chết oan, tốn kém tiền của cho những ông thầy vô bổ. Hay phong tục trọng nam khinh nữ dẫn đến người phụ nữ thời phong kiến không có quyền lực “xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, chỉ biết sống và làm việc mà không có quyền lợi gì. Dẫn dến hậu quả nghiêm trọng là xã hội mất cân bằng giới tính. Và cả cách nghĩ cổ hủ gia đình hạnh phúc thì phải đông con cháu làm cho chính những gia đình đó trở nên nghèo nàn, bấn túng. Vậy việc tiếp xúc học hỏi với thế giới đã từng bước tích lũy về lượng để rồi dẫn đến sự phát triển và hình thành chất mới là những phong tục văn minh đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc thay thế cho những chất cũ là các phong tục lạc hậu.
Vậy việc tiếp xúc học hỏi với thế giới đã từng bước tích lũy về lượng để rồi dẫn đến sự phát triển và hình thành chất mới là những phong tục văn minh đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc thay thế cho những chất cũ là các phong tục lạc hậu.
Dân số cũng là một vấn đề lớn hàng được sự quan tâm hàng đầu trong xã hội. Một quốc gia không thể giàu mạnh được khi nền kinh tế còn chậm phát triển trong khi dân số lại tăng nhanh, thậm chí là bùng nổ dân số, nhưng cũng không thể phát triển đất nước nếu như không có nguồn nhân lực. Trước thực trạng nước ta là một đất nước đang phát triển và cũng là một nước có mật độ dân số rất đông nên vấn đề dân số là một vấn đề hàng đầu được Đảng và nhà nước quan tâm. Đảng và nhà nước đã tích cực tuyên truyền vận động nhân dân thực hiên chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, làm cho nhân dân ngày càng có cuộc sống sung túc hơn, đất nước ngày càng phát triển vững chắc trên con đường chủ nghĩa xã hội.
Trong lĩnh vực giáo dục: Đảng và nhà nước ta đã triển khai nhiều phong trào thi đua như: “phong trào thi đua hai tốt”, phong trào “dạy tốt-học tốt”..... không ngừng cái cách giáo dục,đổi mới phương pháp dạy và học. Ngoài ra còn đổi mới cơ sở vật chất: xây dựng nhiều trường học mới, các phòng thí nghiệm, thực hành.....Để giúp học sinh tiếp thu kiến thức hiệu quả nhất nhằm nâng cao trình độ học vấn. Bên cạnh đó cũng đưa ra các chính sách khuyến khích nhân tài nghiên cứu khoa học, trao học bổng cho học sinh-sinh viên nghèo vượt khó, đạt kết quả cao trong học tập. Cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, trung học chuyên nghiệp vay vốn với lãi suất thấp, nhằm giúp cho tất cả các sinh viên đều có cơ hội được học tập, phát triển.
Trong thể thao, đã có rất nhiều môn thể thao hữu ích giúp con người rèn luyện sức khỏe đã được du nhập vào nước ta như môn thể thao tenis, gôn, bóng bàn, bóng ném, các môn thể thao võ thuật như Judo, karate,...
Những phương thức làm sản xuất, phương pháp làm việc, quản lí, hay phương pháp dạy học tiên tiến cũng dần dần được du nhập vào nước ta. Những nét văn minh trong cách cư xử, ăn mặc... Những món ăn tinh thần cũng được du nhập vào và ngày càng phát triển mạnh mẽ như phim truyện, múa ba lê, hay các buổi hòa nhạc, các hoạt động nghệ thuật mà từ trước đến nay chưa từng xuất hiện như hiphop nhảy break dance đã trở thành trào lưu và được yêu thích với rất nhiều bạn trẻ... Những nguồn tri thức mới về các môn khoa học như hóa học, vật lí, và nhiều nghành khoa học mới cũng được nghiên cứu phát triển như nghành năng lượng nguyên tử hay chế tạo các vật liệu kỹ thuật cao cấp như công nghệ hạt nano ... cũng được đưa vào và từ đó phát triển một cách toàn diện đất nước.
Và kéo theo đó là làm cho đời sống người dân trở nên phong phú hơn, có nhiều niềm vui hơn, đồng thời cũng giúp người dân hiểu biết thêm về thế giới, về các nước khác xung quanh những nét văn hóa của họ. Bên cạnh đó sẽ kích thích óc sáng tạo của con người, sự ham học hỏi muốn tìm tòi và khám phá trong các lĩnh vực như kinh tế : thì sẽ học hỏi được những phương thức để sáng tạo và sản xuất ra nhiều loại hàng hóa mới phục vụ nhu cầu ngày càng cao của con người. Xã hội ngày càng phát triển đời sống của người dân ngày càng đươc nâng cao. Mức sống cao người ta sẽ chú ý tới vấn đề chăm sóc bản thân bởi vậy nhu cầu về chăm sóc sức khỏe ngày càng cao. Kéo theo đó là sự gia tăng về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, như các bệnh viện thì thời kỳ trước chỉ có các bệnh viện thuộc quyền quản lý của nhà nước nay đã có những bệnh viện tư nhân với chất lượng khám chữa bệnh và dịch vụ rất tốt giảm được phần nào áp lực về người bệnh cho các bệnh viện công, bên cạnh đó cũng tạo ra môi trường cạnh tranh giữa các bệnh viện để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và dịch vụ đi theo. Song song với nó đã xuất hiện các khu nghỉ dưỡng kết hợp việc chăm sóc sức khỏe với các hoạt động du lịch,tạo được nhiều lựa chọn hơn cho người dân.
5. Kết luận
Nhận thức là cả một quá trình, thông qua các hoạt động thực tiễn, những yêu cầu và đòi hỏi của cuộc sống cùng với đó những phương thức giải quyết cũng sẽ xuất hiện. Việc nhận thức và hiểu rõ được cơ sở lí luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của đảng cộng sản Việt Nam là một vấn đè quan trọng mà bất cứ một công dân đặc biệt là thế hệ trẻ cần nắm vững. Trên cơ sở đó xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học,nhân sinh quan cách mạng, xây dựng niềm tin và lí tưởng cách mạng, vận dụng sáng tạo nó trong hoạt động nhận thúc và thực tiễn, trong rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, đáp ứng yêu cầu của con người Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định lấy chủ nghĩa mác-Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư tưởng lí luận. Những thành tựu mà dân tộc Việt Nam đã đạt được trong chiến tranh giữ gìn độc lập, trong hòa bình, xây dựng và trong sự nghiệp đổi mới đều bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, chúng ta “phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-LêNin tư tưởng Hồ Chí Minh”, phải “vận dụng và sáng tạo chủ nghĩa mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt là vận dụng quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất trong quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc hiện nay”. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lí luận giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra.
6. Những tài liệu tham khảo đã sử dụng
1. Giáo trình triết học Mác – Lênin
2. Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin.
3. Triết học Mác-lênin cao cấp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_thao_luan_triet_hoan_chinh_5162.doc