Tăng trưởng kinh tế có tác động hai mặt đến việc thực hiện các chính
sách xã hội. Một mặt, nó làm biến đổi cơ cấu ngành kinh tế, hình thành nhiều
ngành mới, tạo ra nhiều việc làm. Mặt khác, do ứng dụng công nghệ tiên tiến,
tăng nhu cầu về nhân lực chất lượng cao, nếu giáo dục đào tạo không đáp ứng
kịp sẽ dẫn đến tình trạng dư thừa nhiều lao động giản đơn, tăng thất nghiệp
nhưng lại thiếu lao động lành nghề. Hoặc là, tăng trưởng kinh tế theo cơ chế
thị trường, diễn ra cạnh tranh gay gắt, vừa thúc đẩy sản xuất, vừa dẫn đến
phân hóa hai cực: những người chiến thắng thu lợi nhuận cao sẽ giàu lên,
những người thua cuộc sẽ nghèo đi, thậm chí bị phá sản, nảy sinh khoảng
chênh lệch lớn về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, đòi hỏi nhà nước phải có
sự điều tiết thu nhập để giảm bớt bất bình đẳng xã hội.
Phát triển bền vững đòi hỏi phải tăng trưởng theo chiều sâu, chủ yếu dựa
vào các nhân tố tăng sức sản xuất của lao động xã hội, như nâng cao trình độ
của người lao động, ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến, cải tiến tổ chức
và quản lý sản xuất, tăng hiệu suất của tư liệu lao động và tận dụng hiệu quả
các nguồn tài nguyên thiên nhiên gắn với bảo vệ môi trường. Nhờ đó tăng
năng suất lao động xã hội tăng nhanh giá trị gia tăng, nên có nhiều sản phẩm
và dịch vụ để nâng cao mức sống của nhân dân.
18 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2767 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Trình bày các biện pháp mà chính phủ Việt Nam đã sử dụng để bù đắp thâm hụt ngân sách - Lấy số liệu thực tế làm ví dụ minh họa trong 5 năm trở lại đây, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang 1
Tiểu luận
Trình bày các biện pháp mà chính phủ việt nam
đã sử dụng để bù đắp thâm hụt ngân sách. Lấy số liệu
thực tế làm vd minh họa trong 5 năm trở lại đây
Trang 2
Mở đầu
Trong những năm gần đây, vấn đề bội chi ngân sách ngày càng được dư
luận quan tâm, và luôn là chủ đề được bàn cãi trong các kỳ họp quốc hội.
Chúng ta luôn cho rằng: Bội chi ngân sách nhà nước là “một căn bệnh” làm
cản trở sự phát triển nền kinh tế, gây nên lạm phát, mất cân đối tài chính quốc
gia, tuy nhiên bội chi ngân sách ở một mức độ nhất định, sẽ là yếu tố quan
trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Có thể ví bội chi ngân sách như
con dao hai lưỡi, quan trọng là “người cầm dao” sử dụng nó như thế nào? Nếu
bội chi ngân sách hợp lí sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đáp ứng được sự
thiếu hụt nguồn vốn đối với các dự án quan trọng. nhưng nếu không thực hiện
tốt, điều tiết kịp thời thì bội chi ngân sách là một trong những nguyên nhân
chính gây khủng hoảng nền kinh tế, gây lên lạm phát, nợ quốc gia. Tuy nhiên
mức độ thâm hụt ngân sách ở nước ta đang có xu hướng gia tăng và ngày càng
tác động tiêu cực đến đời sống nhân dân cũng như toàn bộ nền kinh tế. Nói
cách khác, đây chính là một trong những nguy cơ làm khủng hoảng nền kinh
tế, gây khó khăn cho chính phủ trong việc thực hiện các chính sách tài khóa và
tiền tệ. Vậy thâm hụt ngân sách là gì? Thực trạng vấn đề thâm hụt ngân sách ở
Việt Nam thế nào? Giải pháp để hạn chế và khắc phục tình trạng thâm hụt
ngân sách nhà nước ra sao? Nhóm chúng tôi sẽ cùng các bạn giải đáp trong bài
thảo luận về đề tài: ‘Trình bày các biện pháp mà chính phủ việt nam đã sử
dụng để bù đắp thâm hụt ngân sách. Lấy số liệu thực tế làm vd minh họa trong
5 năm trở lại đây’’
Trang 3
I. Khái niệm
a. Bội chi ngân sách nhà nước:
Thâm hụt ngân sách nhà nước, hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước,
là tình trạng khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu
"không mang tính hoàn trả" của ngân sách nhà nước. Để phản ánh mức độ
thâm hụt ngân sách người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ thâm hụt so với GDP
hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà nước. Thâm hụt ngân sách nhà
nước có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh tế một nước tùy
theo tỉ lệ thâm hụt và thời gianthâm hụt. Nói chung nếu tình trạng thâm hụt
ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây ra lạm phát, ảnh
hưởng tiêu cực
Các dạng thâm hụt NSNN
Tài chính công hiện đại phân loại thâm hụt ngân sách thành hai loại: thâm
hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ. Thâm hụt cơ cấu là các khoản thâm hụt được
quyết định bởi những chính sách tùy biến của chính phủ như quy định thuế
suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu cho giáo dục, quốc phòng,...
Thâm hụt chu kỳ là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ kinh
tế, nghĩa là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví
dụ khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách từ
thuế giảm xuống trong khi chi ngân sách cho cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên.
Giá trị tính ra tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ được tính toán như
sau:
- Ngân sách thực có: liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt tính bằng tiền trong
một giai đoạn nhất định (thường là một quý hoặc một năm).
- Ngân sách cơ cấu: tính toán thu, chi và thâm hụt của chính phủ sẽ là bao
nhiêu nếu nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng.
- Ngân sách chu kỳ: là chênh lệch giữa ngân sách thực có và ngân sách cơ cấu.
Trang 4
- Việc phân biệt giữa ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ phản ánh sự khác
nhau giữa chính sách tài chính: chính sách ổn định tùy biến và chính sách ổn
định tự động.
- Việc phân biệt hai loại thâm hụt trên đây có tác dụng quan trọng trong việc
đánh giá ảnh hưởng thực sự của chính sách tài chính khi thực hiện chính sách
tài chính mở rộng hay thắt chặt sẽ ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách như thế
nào giúp cho chính phủ có những biện pháp điều chỉnh chính sách hợp lý
trong từng giai đoạn của chu kỳ kinh tế
b. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
hoặc tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính
bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định.
Đo lường tăng trưởng kinh tế:
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối,
tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong
một giai đoạn.
Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần
so sánh.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô
kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ
trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức:
y = dY/Y × 100(%),
trong đó Y là qui mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng. Nếu quy mô
kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng
GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP
(hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế.
Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu
danh nghĩa.
Trang 5
Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế
Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các
nước đang phát triển, những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của
phát triển kinh tế phải được đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của
tăng trưởng kinh tế là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ.
Bốn nhân tố này khác nhau ở mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng
khác nhau đưa đến kết quả tương ứng.
Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến thức và
kỷ luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế.
Hầu hết các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể
mua hoặc vay mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều
tương tự. Các yếu tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản
xuất chỉ có thể phát huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ
văn hóa, có sức khỏe và kỷ luật lao động tốt. Thực tế nghiên cứu các nền kinh
tế bị tàn phá sau Chiến tranh thế giới lần thứ II cho thấy mặc dù hầu hết tư bản
bị phá hủy nhưng những nước có nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn có thể
phục hồi và phát triển kinh tế một cách ngoạn mục. Một ví dụ là nước Đức,
"một lượng lớn tư bản của nước Đức bị tàn phá trong Đại chiến thế giới lần
thứ hai, tuy nhiên vốn nhân lực của lực lượng lao động nước Đức vẫn tồn tại.
Với những kỹ năng này, nước Đức đã phục hồi nhanh chóng sau năm 1945.
Nếu không có số vốn nhân lực này thì sẽ không bao giờ có sự thần kỳ của
nước Đức thời hậu chiến."
[1]
Nguồn tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển,
những tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ,
rừng và nguồn nước. Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng để phát
triển kinh tế, có những nước được thiên nhiên ưu đãi một trữ lượng dầu mỏ
lớn có thể đạt được mức thu nhập cao gần như hoàn toàn dựa vào đó như Ả
rập Xê út. Tuy nhiên, các nước sản xuất dầu mỏ là ngoại lệ chứ không phải
quy luật, việc sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú không quyết
định một quốc gia có thu nhập cao. Nhật Bản là một nước gần như không có
tài nguyên thiên nhiên nhưng nhờ tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm
lượng lao động, tư bản, công nghệ cao nên vẫn có nền kinh tế đứng thứ hai
trên thế giới về quy mô.
Tư bản: là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà
người lao động được sử dụng những máy móc, thiết bị...nhiều hay ít (tỷ lệ tư
bản trên mỗi lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản,
phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc
biệt quan trọng trong sự phát triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính
trên GDP cao thường có được sự tăng trưởng cao và bền vững. Tuy nhiên, tư
bản không chỉ là máy móc, thiết bị do tư nhân dầu tư cho sản xuất nó còn là tư
bản cố định xã hội, những thứ tạo tiền đề cho sản xuất và thương mại phát
Trang 6
triển. Tư bản cố định xã hội thường là những dự án quy mô lớn, gần như
không thể chia nhỏ được và nhiều khi có lợi suất tăng dần theo quy mô nên
phải do chính phủ thực hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất (đường giao thông,
mạng lưới điện quốc gia...), sức khỏe cộng đồng, thủy lợi....
Công nghệ: trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế rõ ràng không
phải là sự sao chép giản đơn, là việc đơn thuần chỉ tăng thêm lao động và tư
bản, ngược lại, nó là quá trình không ngừng thay đổi công nghệ sản xuất.
Công nghệ sản xuất cho phép cùng một lượng lao động và tư bản có thể tạo ra
sản lượng cao hơn, nghĩa là quá trình sản xuất có hiệu quả hơn. Công nghệ
phát triển ngày càng nhanh chóng và ngày nay công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu mới... có những bước tiến như vũ bão góp phần
gia tăng hiệu quả của sản xuất. Tuy nhiên, thay đổi công nghệ không chỉ thuần
túy là việc tìm tòi, nghiên cứu; công nghệ có phát triển và ứng dụng một cách
nhanh chóng được là nhờ "phần thưởng cho sự đổi mới" - sự duy trì cơ chế
cho phép những sáng chế, phát minh được bảo vệ và được trả tiền một cách
xứng đáng.
II. Nguyên nhân BCNSNN và ảnh hưởng
a. Nguyên nhân của bội chi ngân sách nhà nước.
Có hai nguyên nhân cơ bản gây ra bội chi ngân sách nhà nước.
- Thứ nhất: Do tác động của chu kỳ kinh doanh, khủng hoảng lạm chi làm cho
thu nhập của nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên, để giải quyết khó
khăn mới về kinh tế xã hội. Điều đó làm cho mức độ bội chi ngân sách ngân
sách nhà nước tăng lên trong giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của nhà nước sẽ
tăng lên, trong khi chi không phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội
chi ngân sách nhà nước. Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây
ra được gọi là bội chi chu kỳ.
- Thứ hai: Do tác động của chính sách cơ cấu thu chi của nhà nước. Khi nhà
nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm tăng
mức bội chi ngân sách nhà nước. Ngược lại thực hiện chính sách giảm đầu tư
và tiêu dùng của nhà nước thì mức bội chi ngân sách nhà nước sẽ giảm bớt.
Các bội chi do tác động của chính sách cơ cấu thu chi gọi là bội chi cơ cấu.
Trong điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai lớn...),
tổng hợp của bội chi chu kỳ và bội chi cơ cấu sẽ là bội chi ngân sách nhà
nước.
b. Ảnh hưởng của bội chi ngân sách nhà nước tới nền kinh tế
Trang 7
Bội chi ngân sách nhà nước là một căn bệnh tác hại đến sự phát triển kinh
tế nếu xử lý bội chi ngân sách nhà nước không đúng đắn, cho dù bội chi ngân
sách nhà nước từ nguyên nhân nào đi chăng nữa. Bội chi ngân sách nhà nước
là căn bệnh không chỉ dành riêng cho bất kỳ quốc gia nào. Nó mang tính phổ
biến tồn tại khắp các quốc gia trên thế giới, từ những nước đang phát triển ,
chậm phát triển cho đến những nước có nền kinh tế phát triển. Đó là nhu cầu
chi tiêu và thực tế của nhà nước không thể cắt giảm được mà ngày càng tăng
lên, trong khi đó việc tăng thu ngân sách nhà nước từ công cụ thuế sẽ dẫn đến
sự phản hồi từ phía dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội, và hậu quả nhận
được là kìm hãm tốc độ tích lũy vốn cho sản xuất, hạn chế tiêu dùng dẫn đến
nguy cơ suy thoái nền kinh tế cao. Còn đối với các nước đang phát triển, đặc
biệt là những nước nghèo thì bội chi ngân sách nhà nước là điều không thể
tránh khỏi bởi tình trạng thu nhập bình quân đầu ngươi quá thấp không cho
phép chính phủ tăng tỉ lệ động viên từ GDP vào ngân sách nhà nước, trong khi
đó nhu cầu chi tiêu theo chức năng của chính phủ lại tăng lên, nhất là khi nhà
nước thực hiện các chương trình đầu tư nhằm cải thiện cơ cấu kinh tế và
hướng dần tới sự tăng trưởng.
Thực tế cho thấy, bội chi ngân sách nhà nước không có nguồn bù đắp hợp lý
sẽ dẫn đến lạm phát, gây tác hại xấu tới nền kinh tế cũng như đời sống xã hội.
Nếu bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng cách phát hành tiền thêm
vào sẽ dẫn tới bùng nổ lạm phát.
Bội chi ngân sách nhà nước cũng không hoàn toàn là tiêu cực. Nếu bội
chi ngân sách ở một mức độ nhất định (dưới 5% so với tổng chi ngân sách
trong năm) thì lại có tác dụng kích thích sản xuất phát triển. Vì thế ở những
quốc gia có nền kinh tế phát triển, nguời ta vẫn chỉ cố gắng thu hẹp bội chi
ngân sách nhà nước chứ không hề có ý loại trừ nó hoàn toàn. Nhưng cho dù
bội chi ngân sách nhà nước ở mức độ nào đi chăng nữa thì nó vẫn đòi hỏi mọi
chính phủ phải có biện pháp thích hợp để kiểm soát và kiềm chế bội chi ngân
sách.
c. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong
một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm gốc sẽ
phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng sản lượng kinh tế nhanh hay
chậm so với thời điểm gốc.
Hiện nay, mức gia tăng tổng giá trị của cải Xã Hội được tính bằng các đại
lượng tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Vì
Trang 8
vậy, tăng trưởng kinh tế là mức gia tăng GDP hay GNP năm sau so với năm
trước.
Các nhân tố tăng trưởng kinh tế:
- Vốn là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra được tích lũy lại và tài
nguyên thiên nhiên như đất đai, khoáng sản … Vốn được thể hiện dưới hình
thức hiện vật và tiền tệ. Đó là yếu tố đầu vào của sản xuất, có vai trò rất quan
trọng để tăng trưởng kinh tế.
Mối quan hệ giữa tăng GDP với tăng vốn đầu tư gọi là hiệu suất sử dụng vốn
sản phẩm gia tăng. Đó là tỷ lệ tăng đầu tư chia cho tỷ lệ tăng của GDP. Những
nền kinh tế thành công thường khởi đầu quá trình phát triển với chỉ số này
thấp, thường là tăng 3% vốn để tăng 1% GDP.
- Con người là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững. Con người có
sức khỏe, trí tuệ, kỹ năng cao, có ý chí, nhiệt tình lao động và được tổ chức
hợp lý. Tài năng, trí tuệ của con người là vô hạn và là nhân tố quyết định trong
nền kinh tế tri thức, còn vốn là tài nguyên hữu hạn.
Con người sáng tạo ra kỹ thuật, công nghệ và sử dụng nó và vốn để sản xuất.
Nếu không có con người thì các yếu tố này không thể tự phát huy tác dụng. Vì
vậy, cần phát triển giáo dục, đào tạo, y tế … để phát huy nhân tố con người.
Đó chính là sự đầu tư cho tăng trưởng kinh tế.
- Cơ cấu kinh tế gồm cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế và cả cơ
cấu ngành kinh tế. cơ cấu hợp lý thể hiện ở chỗ xác định đúng tỷ trọng, vai trò,
thế mạnh của từng ngành, từng vùng, từng thành phần kinh tế. nếu kết hợp tốt
các nguồn lực của nền kinh tế để tăng năng suất lao động, nâng cao hiểu quả
của nền kinh tế, là yếu tố quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững.
- Thể chế chính trị và quản lý nhà nước:
Thể chế chính trị tiến bộ có khả năng định hướng sự tăng trưởng kinh tế vào
những mục tiêu mong muốn, khắc phục những nguyên nhân gây ô nhiễm môi
trường, phân hóa giàu nghèo sâu sắc.
Hệ thống chính trị mà đại diện là Nhà nước có vai trò hoạch định đường lối,
chiến lược phát triển KT- XH, cùng hệ thống chính sách đúng đắn sẽ hạn chế
được những tiêu cực của kinh tế thị trường, làm cho nền kinh tế phát triển
nhanh và đúng hướng.
III. Quan điểm về mối liên hệ giữa bội chi ngân sách và tăng trưởng kinh
tế:
Trang 9
Năm quan điểm về tác động của bội chi ngân sách đến tăng trưởng
kinh tế:
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 diễn ra đưa đến những hậu quả rất
nặng nề cho nền kinh tế thế giới, theo đó, nhiều vấn đề về quản trị tài chính
quốc gia được lật lại nhưng nổi trội hơn hẳn là vấn đề Bội chi ngân sách.
Những câu hỏi liên tục được đặt ra: Sức mạnh của bộ chi ngân sách và ảnh
hưởng của nó đến tăng trưởng kinh tế là gì? Chính Phủ cần phải lưu ý những
vấn đề gì trong chính sách quản lý Bội chi ngân sách nói riêng và tài chính công
nói chung? Với mục tiêu trọng tâm hướng về chính sách quản lý Bội chi ngân
sách của các quốc gia trên thế giới và từ đó đưa ra những bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam, phần đầu tiên trong bài nghiên cứu, chúng tôi sẽ trình bày mối
quan hệ giữa Bội chi ngân sách và tăng trưởng kinh tế - nguyên nhân giúp
Chính Phủ nhận thấy cần phải có một chính sách quản lý Bội chi ngân sách phù
hợp để đảm bảo tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế.
Qua nghiên cứu và tìm hiểu những quan điểm của các nhà kinh tế học
trên thế giới, chúng tôi tìm ra được năm quan điểm như sau:
Thứ nhất, Bội chi ngân sách là một nguồn rất cần thiết thuộc cấu trúc
vốn tài chính của các quốc gia, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển,
góp phần vào sự phát triển kinh tế đất nước trong ngắn hạn, nhưng trong dài
hạn có nguy cơ gây tổn hại cho nền kinh tế bởi những yêu cầu thanh toán cả
vốn gốc và lãi của nó.
Theo quan điểm của Folorunso S. Ayadi và Felix O. Ayadi (2008)
1
, nợ
là một trong những nguồn thuộc cấu trúc vốn tài chính của bất kỳ một nền
kinh tế nào, đặc biệt, đối với những đất nước đang phát triển thuộc Châu Phi,
Châu Á, Châu Mỹ La Tinh, đặc trưng bởi một cấu trúc vốn nội bộ không thỏa
đáng, do đó, luôn gặp phải vòng luẩn quẩn của năng suất thấp do thiếu nguồn
vốn đầu tư nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng, cập nhật công nghệ kỹ thuật,
rồi dẫn đến thu nhập thấp, kéo theo là tiết kiệm cũng thấp và tiếp tục quay lại
Trang 10
với cấu trúc vốn nội bộ thiếu thốn. Vì vậy, lúc này, những kiến thức thuộc về
chuyên môn, bộ máy quản lý tài chính quốc gia và sự hỗ trợ tài chính từ những
nước Phương Tây để khắc phục sự khó khăn về nguồn lực là điều trở nên rất
cần thiết. Mặt khác, nợ nước ngoài như là một sự ràng buộc chính yếu đến
cấu trúc vốn của những quốc gia đang phát triển. Trong hầu hết các trường
hợp, nợ dồn tích lại bởi vì những yêu cầu thanh toán cả vốn gốc và lãi của nó,
do đó, nợ dần trở nên không góp phần một cách đáng kể cho sự phát triển
kinh tế tại những đất nước đang phát triển trong dài hạn. Phát triển những ý
tưởng trên, theo Elmendorf và Mankiw (1999)2, Bội chi ngân sách có ảnh
hưởng quan trọng đến nền kinh tế cả trong ngắn và dài hạn. Các khoản nợ
(phản ánh tài trợ thâm hụt) có thể kích thích tổng cầu và sản lượng trong ngắn
hạn do lượng vốn cung cấp cho nền kinh tế tăng cao, đáp ứng nhu cầu huy
động vốn của những cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế, nhưng chèn lấn
vốn đầu tư và làm giảm sản lượng trong dài hạn. Bội chi ngân sách cao có thể
ảnh hưởng bất lợi đến tích lũy vốn và tăng trưởng thông qua lãi suất dài hạn
cao hơn, bóp méo hệ thống thuế trong tương lai cao hơn, lạm phát và sự
không chắc chắn cao hơn về các triển vọng và chính sách.
Có thể nói rằng: trong ngắn hạn, Bội chi ngân sách tác động tích cực lên
tăng trưởng kinh tế bởi cung cấp một lượng vốn thiết yếu đối với chi tiêu cho
đầu tư phát triển của quốc gia, nâng cao năng suất nhưng kèm theo đó là
những nghĩa vụ nợ phải thực hiện trong tương lai, dẫn đến những ảnh hưởng
bất lợi đến tích lũy vốn và tăng trưởng kinh tế dài hạn nếu không có một
chính sách quản lý Bội chi ngân sách phù hợp và hữu hiệu.
Thứ hai, đối với những quốc gia phát triển và những nền kinh tế thị
trường mới nổi, mối quan hệ giữa Bội chi ngân sách và tăng trưởng k inh tế
biểu hiện rõ nhất khi nợ vượt mức 90-100% GDP; lúc này, nợ càng tăng,
tăng trưởng kinh tế giảm đáng kể.
Theo M. Reinhart và S. Rogoff
3
, hai nhà kinh tế học nổi tiếng về nghiên cứu
Trang 11
lĩnh vực nợ công, đã xem xét mối quan hệ giữa Bội chi ngân sách và tăng
trưởng kinh tế với các mức độ khác nhau của Bội chi ngân sách ở những nền
kinh tế tiên tiến và mới nổi, dựa trên chuỗi số liệu quá khứ dài hạn và mô tả
thực nghiệm đã đưa ra kết quả tác động phi tuyến của Bội chi ngân sách đối
với tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu gần đây (2010) được thực hiện bởi hai tác
giả này, thông qua thống kê tương quan đơn giản về những mức khác nhau
của Bội chi ngân sách và tốc độ tăng trưởng GDP thực dài hạn trong mẫu 20
quốc gia phát triển4 trải dài khoảng hai thế kỷ (1790 – 2009), và mẫu 24 nền
kinh tế thị trường mới nổi
5
giai đoạn 1946-2009 nhận thấy rằng: (i) mối quan
hệ giữa Bội chi ngân sách và tăng trưởng dài hạn thì yếu đối với tỷ số
nợ/GDP dưới ngưỡng 90% GDP; (ii) trên 90%, khi nợ tăng, tốc độ tăng
trưởng giảm đáng kể. Điều này sẽ được trình bày rõ hơn ở phần bằng chứng
thực nghiệm tiếp theo và bảng thống kê về nợ và tăng trưởng kinh tế của một
số quốc gia chọn lọc trong phần phụ lục A1.
Như vậy, đây chính là điểm mấu chốt trong việc đề ra những chính sách
quản lý Bội chi ngân sách và trần Bội chi ngân sách phù hợp cho mỗi quốc
gia dựa vào ngưỡng nợ cảnh báo, từ đó, tránh vay
mượn quá đà, rơi vào trạng thái mất khả năng chi trả và ảnh hưởng tiêu cực
đến tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, có thể xem xét sự tác động của Bội chi ngân sách lên tăng
trưởng kinh tế thông qua dữ liệu nợ nước ngoài cùng với những rủi ro và hệ
lụy mà nó đưa lại: sự không khuyến khích đầu tư, giới hạn sự tham gia của
các quốc gia đang phát triển với nền kinh tế toàn cầu, sự trống rỗng trong dự
trữ ngoại hối quốc gia, cứng nhắc trong chính sách tiền tệ và chính sách tài
khóa.
Một số nghiên cứu của Krugman (1988) và Sachs (1989)
6
đã xem xét
tác động của Bội chi ngân sách lên tăng trưởng kinh tế thông qua sự tác động
của một yếu tố đóng vai trò quan trọng: đó là nợ nước ngoài, lên tăng trưởng
Trang 12
kinh tế ở những nền kinh tế đang phát triển. Hầu hết động cơ của các nghiên
cứu này là giả thuyết "số dư nợ quá mức" – một tình huống trong đó, gánh
nặng nghĩa vụ nợ của một quốc gia là quá nặng đến nỗi một phần sản lượng
lớn phải tích lũy cho các chủ nợ nước ngoài và do đó gây nên sự không
khuyến khích đầu tư. Cũng theo đánh giá của Ayadi (1999) và Ayadi et. al.
(2003)
7
, gánh nặng nợ nước ngoài đã giới hạn sự tham gia của những quốc
gia đang phát triển với nền kinh tế toàn cầu và kèm theo đó là những nghĩa vụ
nợ đã gây trở ngại đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Khi vay nợ của một
quốc gia tăng lên và càng cao, những e ngại về vấn đề mất khả năng chi trả
được đặt nặng, các quốc gia khác tiến hành thẩm định môi trường đầu tư kỹ
càng hơn và từ đó, đưa ra những điều khoản khắt khe hơn gây ảnh hưởng đến
hội nhập kinh tế của nền kinh tế chính quốc. Hơn thế nữa, gánh nặng nợ quốc
gia gây cản trở chi tiêu công cho đầu tư phát triển, hạn chế việc tích lũy
nguồn vốn (sự trống rỗng trong dự trữ) và có khuynh hướng cản trở áp dụng
những chính sách tiền tệ linh hoạt để củng cố những doanh nghiệp vừa và
nhỏ do nguồn thu được phải đáp ứng phần lớn nghĩa vụ nợ cả gốc và lãi. Điều
này đã ảnh hưởng một cách gián tiếp đến việc làm, học vấn và sự bần cùng,
nghèo khó của người dân trong một quốc gia.
Thứ tư, tăng trưởng kinh tế, tiết kiệm và đầu tư có mối quan hệ với
nhau, khi vốn nội địa không đủ để tài trợ cho chi tiêu đầu tư trong nước thì
vay nợ là tất yếu để phục vụ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, vay nợ luôn kèm
theo những rủi ro do lãi suất, thời hạn, cơ cấu vay mượn, gây ảnh hưởng tiêu
cực lên tăng trưởng kinh tế, do đó vấn đề quản lý nợ hiệu quả đang trở nên
cấp thiết.
Theo Hunt (2007)
8
, sự tăng lên trong tiết kiệm và đầu tư của nền kinh tế
dẫn đến tăng trưởng kinh tế. Sachs (2002) tranh luận rằng sự tăng trưởng sẽ
không tăng cho đến khi tổng lượng vốn tăng đạt đến một ngưỡng nhất định.
Khi lượng vốn tăng, đầu tư và sản lượng đầu ra tăng, trong vòng xoắn tiến
Trang 13
lên, tiết kiệm sẽ tiếp tục tăng. Sau khi đạt được một mức độ, sự tăng lên trong
cả vốn và tiết kiệm sẽ kích thích sự tăng lên trong tăng trưởng một cách tự
lực. Lý thuyết “dual-gap” nói rằng đầu tư là một hàm của tiết kiệm, và trong
những quốc gia đang phát triển, mức độ tiết kiệm nội địa không đủ để tài trợ
cho đầu tư cần thiết để đảm bảo phát triển kinh tế, vì vậy, thật hợp lý khi tìm
kiếm sử dụng những sản phẩm và dịch vụ từ bên ngoài. Colaco (1985) đã giải
thích tính chất nhạy cảm của việc thanh toán nợ đối với những nước đang
phát triển thông qua sử dụng ba kịch bản: (i) quy mô khoản nợ nước ngoài đạt
đến một mức độ mà lớn hơn so với vốn tự có, dẫn đến sự không cân bằng
giữa nợ và vốn tự có; (ii) tỷ lệ nợ với lãi suất thả nổi tăng đột ngột, vì vậy
những người vay mượn phải đối mặt trực tiếp với việc lãi suất tăng cao; (iii)
thời hạn vay rút ngắn đáng kể, một phần bởi vì sự giảm đi của những nguồn
chính thức. Bên cạnh đó, Mehran (1986) cho rằng quản lý nợ tương xứng là
thiết yếu trong môi trường tài chính ngày càng phức tạp. Mehran cũng xác
định môi trường quản lý nợ là sự kết hợp về chính sách, môi trường kiểm
soát, kế toán, phân tích thống kê và những yếu tố khác như chính sách minh
bạch và chống tham nhũng, sự cải tiến của cấu trúc quản lý nợ và quá trình
đưa ra quyết định. Vấn đề tiếp theo trong việc nhận và quản lý nợ là quyết
định quy mô nợ thực tế. Vay mượn nước ngoài trong thực tế được đo lường
bởi những tỷ số riêng, ví dụ như nợ trên xuất khẩu, thanh toán nợ trên xuất
khẩu, nợ trên GDP (hoặc GNP), và nợ nước ngoài so với tổng thu nhập quốc
dân (GNI). Tuy nhiên, quyết định mức phù hợp của những chỉ số này khó xác
định và việc hữu ích bây giờ là giảm thiểu nguy cơ bùng nổ trong tăng trưởng
nợ nước ngoài. Ví dụ, nếu nợ nước ngoài tăng cao, thanh toán gánh nặng nợ
cao hơn so với khả năng chịu đựng gánh nặng nợ của quốc gia, việc nhận nợ
sẽ trở nên rắc rối và tình huống này phải được đảo ngược thông qua mở rộng
xuất khẩu; nếu xuất khẩu không được mở rộng, vay mượn nhiều hơn sẽ cần
Trang 14
thiết cho thanh toán nợ, và nợ nước ngoài sẽ chồng chất vượt quá khả năng
chịu đựng của một quốc gia.
Do đó, điều cần tham khảo ở đây chính là xác định đúng những yếu tố
thuộc môi trường quản lý Bội chi ngân sách của mỗi quốc gia, đặc trưng vốn
có của chúng để có thể đề ra được chính sách quản lý phù hợp: môi trường
kiểm soát, hệ thống kế toán Bội chi ngân sách, vấn đề thực hiện minh bạch và
chống tham nhũng, quy trình ra quyết định khi vay nợ và xét duyệt dự án.
Thứ năm, nợ tích lũy theo thời gian và dòng chi trả nợ đã gây cản trở
lớn đến tăng trưởng kinh tế do những trở ngại thuế khóa, bất ổn vĩ mô và sự
giảm bớt chi tiêu cho đầu tư phát triển của Chính Phủ.
Cohen (1993) và Clements et al. (2003) cũng làm vững thêm cho tác
động đã nói ở trên của nợ, như họ quan sát thấy tác động tiêu cực của nợ lên
tăng trưởng không chỉ thông qua sự tồn đọng của nợ, mà còn thông qua dòng
chi trả nợ, điều mà giống như sự giảm bớt chi tiêu cho đầu tư Chính Phủ.
Điều này rất quan trọng cho việc đánh giá, xem xét vì chi tiêu công được xem
là yếu tố quyết định chủ yếu của các hoạt động kinh tế trong nhiều vấn đề
chức năng. Nợ tích lũy làm giảm sức mạnh của nền kinh tế thông qua tác
động “nợ tăng thêm” với trở ngại thuế khóa và bất ổn định vĩ mô. Trở ngại
thuế khóa nghĩa là tồn nợ lớn không khuyến khích đầu tư vì những người đầu
tư tiềm năng nhận thấy rằng sẽ có thuế cao hơn trên thu nhập tương lai để tạo
nên khoản hoàn trả nợ. Bất ổn vĩ mô có liên quan đến việc gia tăng thiếu hụt
tài chính, không chắc chắn do sự huy động vốn bất thường, sự suy giảm giá
trị đồng nội tệ, mở rộng tiền tệ và lạm phát dự đoán.
Tóm lại, theo phân tích của giới kinh tế học trên thế giới, Bội chi ngân
sách là thành phần không thể thiếu được trong cấu trúc tài chính của mỗi quốc
gia. Nó có tác động tích cực đến nền kinh tế trong ngắn hạn, nhưng cũng có
thể gây nên nguy cơ tổn hại đối với nền
Trang 15
kinh tế trong dài hạn. Đó là do sự tồn đọng nợ theo thời gian, những yêu cầu
chi trả nợ cả vốn gốc và lãi, sự trở ngại thuế khóa, bất ổn vĩ mô và sự giảm
bớt chi tiêu đầu tư phát triển quốc gia một cách đáng kể. Do đó, chính sách
quản lý Bội chi ngân sách hiệu quả đòi hỏi phải lường trước những nguy cơ,
rủi ro gặp phải, xác định mức nợ phù hợp, cân đối hợp lý mức chi trả nợ trong
tương lai, góp phần tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Để minh họa
cho sự tác động của Bội chi ngân sách đối với tăng trưởng kinh tế và nhấn
mạnh thêm vai trò quản lý tài chính công của Chính Phủ, chúng tôi đã tiến
hành thu thập thông tin và tìm hiểu về diễn biến tác động của Bội chi ngân
sách đến tăng trưởng kinh tế trên thực tế của một số quốc gia, do các tác giả
thuộc những tổ chức có uy tín thực hiện, dựa vào những bộ dữ liệu thu thập
được trong một quá trình dài từ các nhóm quốc gia khác nhau. Đầu tiên,
chúng tôi sẽ trình bày môi trường kinh tế ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa Bội
chi ngân sách và tăng trưởng kinh tế như thế nào.
IV. Bình luận
Tình trạng bội chi ngân sách Nhà nước có những ảnh hưởng hết sức rộng
lớn trên tất cả các lĩnh vực, các hoạt đông kinh tế xã hội.Thâm hụt ngân sách
Nhà nước với một mức cao và triền miên sẽ làm cho Nhà nước phải tìm cách
tăng các khoản thu, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người
dân, hơn nữa khi đó các nguồn vốn trong các ngân hàng sẽ trở nên khan hiếm
hơn điều đó sẽ dẫn đến tình trạng lãi suất tăng cao, điều này gây ra những trở
ngại trong việc vay vốn của các nhà đầu tư.Về lâu về dài thì sẽ dẫn đến tình
trạng đầu tư sẽ giảm sút nghiêm trọng, sẽ có nhiều doanh nghiệp bị phá sản do
không tìm được những khoản vay thích hợp, sản xuất trong nước bị thu nhỏ lại
từ đó sẽ toạ điều kiện thúc đẩy quá trình nhập siêu, cán cân thương mại quốc
tế mất cân bằng.Những điều này dẫn đến tình trạng thất nghiệp ngày càng gia
tăng, thu nhập thực tế của người dân giảm sút và ngày càng gặp nhiều khó
khăn trong cuộc sống.
Trang 16
Do đó, nhiều người vẫn nghĩ rằng bội chi ngân sách nhà nước là “một căn
bệnh” làm cản trở sự phát triển nền kinh tế, gây nên lạm phát, mất cân đối tài
chính quốc gia, nói chung, bội chi quá mức sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến
việc phát triển kinh tế mà không biết rằng bội chi ngân sách ở một mức độ
nhất định, sẽ là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Có
thể ví bội chi ngân sách như con dao hai lưỡi, quan trọng là “người cầm dao”
sử dụng nó như thế nào? Nếu bội chi ngân sách hợp lí sẽ thúc đẩy nền kinh tế
phát triển, đáp ứng được sự thiếu hụt nguồn vốn đối với các dự án quan trọng.
Tuy nhiên nếu không thực hiện tốt, điều tiết kịp thời thì bội chi ngân sách là
một trong những nguyên nhân chính gây khủng hoảng nền kinh tế, gây lên lạm
phát, nợ quốc gia.
Qua phân tích những nét cơ bản về nhiệm vụ thu chi ngân sách thì rõ ràng
chi ngân sách là vấn đề quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hôi đất nước.
Nhưng thực tế việc cân đối cán cân thu chi ngân sách của nhà nước là là một
công việc khó khăn và phức tạp. Nếu không có tính toán bước đi phù hợp gây
hậu quả nghiêm trọng đến tình hình kinh tế xã hội đất nước. có thể thấy như
bội chi ngân sách nhà nước đang là một vấn đề kinh tế xã hội nhiều nước đang
quan tâm và gặp phải, trong đó có cả Việt Nam.
Tăng trưởng là điều kiện cần để chúng ta hoàn thành các mục đích kinh tế
của xă hội. Mà mục đích kinh tế của xă hội là làm sao cho mức sống người
dân tăng lên và sự công bằng xă hội sẽ đến với những cá nhân là như nhau.
Vấn đề thiếu hụt ngân sách thường làm các nhà chính trị gia đau đầu giữa
một bên là phát triển bền vững, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế với
một bên là nguồn lực có hạn. Đòi hỏi các chính trị gia phải lựa chọn để phù
hợp với yêu cầu phát triển thực tế và sự phát triển trong tương lai.Từ sự lựa
chọn đó họ đưa ra mức bội chi hợp lý, bảo đảm nhu cầu tài trợ cho tiêu cũng
như đầu tư phát triển kinh tế, đồng thời bảo đảm cho nợ quốc gia ở mức hợp
lý. Bội chi ngân sách nhà nước được hiểu một cách chung nhất là là sự vượt
trội về chi tiêu so với tiền thu được trong năm tài khóa hoặc thâm hụt ngân
sách do sự cố ý của chính phủ tạo ra nhằm thực hiên chính sách kinh tế vĩ mô.
Có nhiều cách để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu từ thuế,
phí, lệ phí ; giảm chi ngân sách; vay nợ trong nước ,vay nợ nước ngoài ;phát
hành thêm tiền để phù đắp chi tiêu ;…Sử dụng phương pháp nào ,nguồn nào
tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và chính sách kinh tế tài chính trong từng thời
kỳ của mỗi quốc gia .
Trang 17
Để có được điều này chính phủ cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cũng
như đổi mới công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu tăng trưởng bền vững của đất
nước.
Tuy nhiên, chi như thế nào thì cần phải có sự quản lý chặt chẻ của nhà
nước. chính vì vậy mà cần Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước Tăng
cường vai trò quản lý của nhà nước nhằm bình ổn giá cả, ổn định chính sách
kinh tế vĩ mô và nâng cao hiệu quả hoạt động trong các khâu của nền kinh tế.
Để thực hiện vai trò của mình, nhà nước sư dụng một hệ thống chính sách và
công cụ quản lý vĩ mô để điều khiển, tác động vào đời sống kinh tế -xã hội,
nhằm giải quyêt các mối quan hệ trong nền kinh tế cũng như đời sống xã hội,
nhất là mối quan hệ tăng trưởng và công bằng xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế
với giữ gìn mội trường v.v…Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi lạm phát là
một vấn nạn của các nước trên thế giới, vấn đề tăng cường vai trò quản lý của
các nước trên thế giới, vấn đề tăng cường vai trò vai trò quản lý của nhà nước
đối với quản lý ngân sách nhà nước nói chung và xử lý bội chi ngân sách nói
riêng có ý nghĩa vô cùng cấp thiết.
Tăng trưởng kinh tế có tác động hai mặt đến việc thực hiện các chính
sách xã hội. Một mặt, nó làm biến đổi cơ cấu ngành kinh tế, hình thành nhiều
ngành mới, tạo ra nhiều việc làm. Mặt khác, do ứng dụng công nghệ tiên tiến,
tăng nhu cầu về nhân lực chất lượng cao, nếu giáo dục đào tạo không đáp ứng
kịp sẽ dẫn đến tình trạng dư thừa nhiều lao động giản đơn, tăng thất nghiệp
nhưng lại thiếu lao động lành nghề. Hoặc là, tăng trưởng kinh tế theo cơ chế
thị trường, diễn ra cạnh tranh gay gắt, vừa thúc đẩy sản xuất, vừa dẫn đến
phân hóa hai cực: những người chiến thắng thu lợi nhuận cao sẽ giàu lên,
những người thua cuộc sẽ nghèo đi, thậm chí bị phá sản, nảy sinh khoảng
chênh lệch lớn về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, đòi hỏi nhà nước phải có
sự điều tiết thu nhập để giảm bớt bất bình đẳng xã hội.
Phát triển bền vững đòi hỏi phải tăng trưởng theo chiều sâu, chủ yếu dựa
vào các nhân tố tăng sức sản xuất của lao động xã hội, như nâng cao trình độ
của người lao động, ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến, cải tiến tổ chức
và quản lý sản xuất, tăng hiệu suất của tư liệu lao động và tận dụng hiệu quả
các nguồn tài nguyên thiên nhiên gắn với bảo vệ môi trường. Nhờ đó tăng
năng suất lao động xã hội tăng nhanh giá trị gia tăng, nên có nhiều sản phẩm
và dịch vụ để nâng cao mức sống của nhân dân.
V. Tham khảo
Trang 18
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- taichitiente_6626.pdf