Tiểu luận Tư tưởng triết học của phơrăngxít bêcơn và sự ảnh hưởng của nó đến nền văn minh phương tây hiện đại(1)

Tư tưởng triết học của Francis Bacon đ ã góp phần to lớn v ào việc loại bỏ những niềm tin m ù quáng, nắm bắt trật tự của thế giới để xây dựng v à hiểu biết đúng vể thế giới. C òn phương pháp về khoa học mới của ông giúp khám phá quy luật thế giới, tăng c ường quyền lực tinh thần của con ng ười làm chủ và cảitạo thiên nhiên. Chính nh ững tư tưởng của ông góp phần v ào việc phát triển một n ên công nghiệp và thương nghi ệp dựa trên sức mạnh của tri thức khoa học v à tiến bộ của kỹ thuật. Ông chủ đ ã chủ trương cải tạo x ã hội băng con đ ường tri thức khai sáng thông q ua sự nghiệp giáo dục v à đào tạo. Và giúp góp ph ần to lớn trong ngành khoa h ọc thực nghiệm. Các th ành tựu khoa học tự nhi ên thời cận đại d ùng các phương pháp nghiên c ứu siêu hình c ủa ông cũng đ ã phản ánh các yếu tố biện chứng của tự nhi ên. Chính tri ết học duy vật máy móc đ ã tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm v à thần học một cách có hiệu quả, thúc đẩy tr ào lưu triết học cùng khoa học phát triển mạnh mẽ, đẩy mạnh quá tr ình nh ận thức thế giới.

pdf22 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2971 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tư tưởng triết học của phơrăngxít bêcơn và sự ảnh hưởng của nó đến nền văn minh phương tây hiện đại(1), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Lời Mở Đầu................................ ................................ ...................... 1 CHƯƠNG I: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY CỔ ĐẠI..................... 2 I. Đặc điểm cơ bản của triết học cổ đại ................................ ................................ . 2 II. Đặc điểm cơ bản của triết học Trung đại: ................................ .......................... 2 CHƯƠNG II: TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY THỜI PHỤC HƯNG – CÂN ĐẠI - TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA FRANCIS BACON V À ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN VĂN MINH PH ƯƠNG TÂY ....... 4 I. Điều kiện kinh tế - xã hội và đặc điểm của triết học Tây Âu thời Phục hưng và cận đại. ................................ ................................ ................................ ..................... 4 II. Francis Bacon - Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm ................................ ................ 7 1. Sơ lược về tiểu sử của Francis Bacon ................................ ........................... 7 2. Một số quan niệm của Bacon về các vấn đề: ................................ ................. 8 a. Về Bản Chất, nhiệm vụ của triết học và khoa học ................................ .......... 8 b. Quan niệm về thế giới ................................ ................................ .................... 9 c. Nhận thức luận và phương pháp luận ................................ ...........................11 d. Nhân bản học và quan niệm về tôn giáo ................................ .......................16 III. Sự Ảnh Hưởng của tư tưởng triết học Francis Bacon đến nền Văn Minh Phương Tây. ................................ ................................ ................................ ...........16 CHƯƠNG III: KẾT LUẬN................................ ............................... 20 Tài Liệu Tham Khảo................................ ................................ ....... 21 Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa SVTH: Đặng Văn Hùng Trang 1 Lời Mở Đầu Lịch sử triết học từ thời cổ đại đến nay l à lịch sử đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Trong suốt lịch sử chiều d ài lịch sử về triết học th ì có những lúc chủ nghĩa duy vật thắng thế nh ưng có đôi lúc thì chủ nghĩa duy tâm hoàn toàn áp đảo chủ nghĩa duy vật. Triết học ph ương Tây trung đại là một triết học mang đầy tính thần học, kinh viện. Trong thời gian kéo d ài khoảng một ngàn năm từ thế kỷ thứ IV-XIV là giai đoạn cực kỳ đen tối của xã hội phương tây mà sách sử gọi là ”đêm trường trung cổ” là một thời kỳ thống trị của Nhà thờ Thiên chúa giáo. Sang thế kỷ thứ XV-XVI, ở Tây Âu phong trào Văn hóa Phục Hưng chủ trương khôi phục và phát triển những giá trị văn hóa thời cổ đại đ ã bị lãn quên. Với phong trào này cùng với sự biến đổi điều kiện kinh tế - xã hội góp phần đẩy mạnh sự phát triển của khoa học tự nhi ên. Toán học, cơ học, địa lý, thiên văn học... đã đạt được những thành tựu đáng kể và đã bắt đầu tách khỏi triết học tự nhiên. Triết học đã thay đổi đối tượng và phạm vi nghiên cứu của mình, xuất hiện nhiều tư tưởng triết học mới. Có những t ư tưởng đặt nền móng hết sức quan trọng cho triết học và khoa học sau này. Trong nhiều triết gia thời này thì có triết gia người Anh Francis Bacon (1561-1626) là người đặt nền móng cho trường phái duy vật kinh nghiệm và khoa học thực nghiệm. Triết học duy vật của Bacơn đã có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của khoa học, nó giáng một đòn rất mạnh vào uy tín của nhà thờ và giáo hội. Lịch sử triết học và khoa học phương Tây chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng của Francis Bacon. Trong bài tiểu luận này tôi sẽ trình bày và phân tích về những tư tưởng triết học cơ bản của triết gia Francis Bacon, những ảnh hưởng của nó đến nền văn minh hiện đại. Bài tiểu luận này được viết dựa vào một số tài liệu tham khảo và những suy nghĩ nhận xét chủ quan của tôi n ên có thể còn vài điều chưa thật hoàn thiện, mong các thầy cô và bạn bè có gì thì góp ý. Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa SVTH: Đặng Văn Hùng Trang 2 CHƯƠNG I: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY CỔ ĐẠI I. Đặc điểm cơ bản của triết học cổ đại Triết học Hy Lạp cổ đại được coi là đỉnh cao của nền văn minh cổ đại, v à là một trong những điểm xuất phát của lịch s ử triết học thế giới. Nền triết học này có những đặc điểm sau: Triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ v à phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị. Nó l à công cụ lý luận để giai cấp này duy trì trật tự xã hội, củng cố vai trò của mình. Trong triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia r õ ràng giữa các trào lưu, trường phái duy vật – duy tâm, biện chứng – siêu hình, vô thần – hữu thần. Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhi ên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện t ượng xảy ra trong nó. Triết học Hy Lạp cổ đại đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác Triết học Hy Lạp coi trọng vấn đề con ng ười. II. Đặc điểm cơ bản của triết học Trung đại: Dù chế độ phong kiến trung đại là một bước tiến so với chế độ chiếm hữu nô lệ cổ đại, nhưng triết học thời kỳ này lại là một bước lùi so với triết học thời kỳ cổ đại. Nền triết học này nổi bật những đặc điểm sau: Một là, triết học trung đại là triết học thần học. Trong điều kiện tôn giáo thống trị mọi mặt đời sống tinh thần của x ã hội thì khoa học và triết học không thể không bị phụ thuộc vào thần học. Lúc này tín điều của nhà Thờ trở thành cơ sở cho mọi hành vi hoạt động của con người; thế giới quan bao trùm lên đời sống tin thần của họ. Triết học trở thành công cụ để chứng minh cho giáo lý Nh à thờ. Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa SVTH: Đặng Văn Hùng Trang 3 Nó phải ”luận chứng” cho niềm tin cao h ơn lý trí; nó giúp khẳng định vai trò sáng thế và kiến tạo trật tự xã hội của Thượng đế... Ngoài ra, nó còn là công cụ tuyên truyển cho trật tự phong kiến, làm cho quần chúng tin vào sự bất bình đẳng và sự bóc lột trong xã hội là do sự định đoạt sẵn của Đấng bề tr ên. Hai là, triết học Phương Tây thời kỳ trung đại mang tính kinh viện xa rời cuộc sống hiện thực. Triết học chỉ bàn những vấn đề viễn vông, không gắng với thực tế, và được giảng dạy trong các trường của Nhà thờ. Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa SVTH: Đặng Văn Hùng Trang 4 CHƯƠNG II: TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY THỜI PHỤC HƯNG –CÂN ĐẠI - TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA FRANCIS BACON VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN VĂN MINH PHƯƠNG TÂY I. Điều kiện kinh tế - xã hội và đặc điểm của triết học Tây Âu thời Phục hưng và cận đại. Thời kì Phục hưng của các nước Tây Âu là giai đoạn lịch sử quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản (thế kỷ XV - XVI). Tính chất quá độ đó biểu hiện trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá tư tưởng thời kì này. Về kinh tế: Bắt đầu từ thế kỉ XV, ở Tây Âu, chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc Trung cổ đã bước vào thời kì tan rã. Nhiều công trường thủ công xuất hiện, ban đầu ở Italia, sau đó lan sang Anh, Pháp v à các nước khác, thay thế cho nền kinh tế tự nhi ên kém phát triển. Sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa thúc đẩy sự phát triển của khoa học, kĩ thuật. Nhiều công cụ lao động được cải tiến và hoàn thiện. Với việc sáng chế ra máy kéo sợi và máy in đã làm cho công nghiệp dệt, công nghệ ấn loát đặc biệt phát triển, nhất là ở Anh. Sự khám phá và chế tạo hàng loạt đồng hồ cơ học đã giúp cho con người có thể sản xuất có kế hoạch, ti ết kiệm thời gian và tăng năng suất lao động. Những phát kiến về đường biển, tìm ra những miền đất mới, phát hiện ra châu Mỹ... càng tạo điều kiện phát triển cho nền sản xuất theo h ướng tư bản chủ nghĩa. Thương mại, thị trường trao đổi hàng hoá giữa các nước được mở rộng; giao lưu quốc tế được tăng cường, nhờ đó mà các nước phát triển sớm như Anh, Pháp, Tây Ban Nha... thinhau xâm chiếm thuộc địa để mở rộng việc khai thác thi ên nhiên và thị trường tiêu thụ hàng hoá. Về xã hội: Đồng thời với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp, trong xã hội Tây Âu thời kì này, sự phân hoá giai cấp ngày càng rõ rệt. Tầng lớp Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa SVTH: Đặng Văn Hùng Trang 5 tư sản xuất hiện gồm các chủ xưởng công trường thủ công, xưởng thợ, thuyền buôn... Vai trò và vị trí của họ trong kinh tế và xã hội ngày càng lớn. Hàng loạt nông dân từ nông thôn di cư ra thành thị, trở thành người làm thuê cho các công trường, xưởng thợ. Họ tham gia vào lực lượng lao động xã hội mới, làm hình thành giai cấp công nhân. Các tầng lớp xã hội trên đại diện cho một nền sản xuất mới, cùng với nông dân đấu tranh chống chế độ phong kiến đang suy t àn. Về văn hoá, tư tưởng: Cùng với sự phát triển về kinh tế v à xã hội, khoa học kĩ thuật và tư tưởng thời kì Phục hưng cũng đạt được sự phát triển mạnh mẽ. Các nhà tư tưởng thời Phục hưng đã phê phán mạnh mẽ các giáo lý Trung cổ. Mở đầu là nhà triết học người phía Nam nước Đức, Nicôlai Kuzan (1401 -1464). Tiếp đó là các nhà khoa học - triết học như Nicôlai Côpecnich (1475 -1543) người Ba Lan; Lêôna đơ Vanhxi (1452-1519) - nhà danh hoạ, nhà toán học, cơ học, kĩ sư người Italia; Gioocđanô Brunô (1548 -1600) người Italia; Galilêô Galilê (1564-1642) người Italia. Trong số những thành tựu khoa học tự nhiên có ảnh hưởng to lớn đến nhận thức duy vật về thế giới, nổi trội h ơn cả là thuyết nhật tâm của Nicôlai Côpecnich (1475 -1543), nhà bác học vĩ đại người Ba Lan. Nicôlai Côpecnich đã đứng trên lập trường của triết học duy vật để bác bỏ thuyết địa tâm do Ptôlêmê (người Hy Lạp) đề xuất từ thế kỷ thứ II, một giả thuyết sai lầm coi quả đất là trung tâm của hệ mặt trời và vũ trụ. Thuyết nhật tâm của Nicôlai Côpecnich đã giáng một đòn nặng nề vào thế giới quan tôn giáo, thần học. Giả thuyết của ông là một cuộc cách mạng trên trời, báo trước một cuộc cách mạng trong lĩnh vực các quan hệ xã hội sắp xảy ra. Trong thời đại Phục hưng, các nhà tư tưởng tư sản đã bênh vực triết học duy vật, vận dụng nó để chống lại chủ nghĩa kinh viện v à thần học Trung cổ. Cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật chống chủ nghĩa duy tâm th ường được biểu hiện dưới hình thức đặc thù là khoa học chống tôn giáo, tri thức thực nghiệm đối lập với những lập luận kinh viện. Cuối c ùng, sự chuyên chính của giáo hội và sự thống trị của chủ nghĩa kinh viện Trung cổ đ ã không ngăn được sự phát triển bước đầu của khoa học thực nghiệm v à triết học duy vật - tiền đề cho Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa SVTH: Đặng Văn Hùng Trang 6 những thành tựu mới và những đặc điểm mới của triết học trong các thế kỷ tiếp theo. Thời kì cận đại là thời kì phát triển rực rỡ của Tây Âu trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Đó là sự phát triển tiếp tục của chủ nghĩa t ư bản, của khoa học và tư tưởng, trong đó có chủ nghĩa duy vật triết học, nh ưng với những đặc điểm mới. Khác với thời kì Phục hưng, thời cận đại (thế kỷ XVII -XVIII) ở các nước Tây Âu là thời kì giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi về chính trị trước giai cấp phong kiến. Ba cuộc cách mạng tư sản lớn đã nổ ra và thành công: Cách mạng tư sản Hà Lan cuối thế kỷ XVI ; Cách mạng tư sản Anh (1642-1648); Cách mạng tư sản Pháp (1789-1794). Đây cũng là thời kì phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và trở thành phương thức sản xuất thống trị Tây Âu. Nó tạo đã tạo ra những vận hội mới cho khoa học, kĩ thuật phát triển m à trước hết là khoa học tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt tới trình độ là cơ sở cổ điển. Đặc điểm của khoa học tự nhiên thời kì này là khoa học tự nhiên - thực nghiệm. Đặc trưng ấy tất yếu dẫn đến thói quen nh ìn nhận đối tượng nhận thức trong sự trừu tượng tách rời, cô lập, không vận động, không phát triển, nếu có nói đến vận động th ì chủ yếu là vận động cơ giới, máy móc. Đó là nguyên nhân chủ yếu làm cho triết học duy vật thời kỳ này mang nặng tính máy móc siêu hình. Chính những điều kiện kinh tế - chính trị và khoa học tự nhiên thời cận đại đã quy định những đặc trưng về mặt triết học thời k ì này: Thứ Nhất, trên bình diện thế giới quan, triết học phụ c hưng - cận đại thể hiện rõ thế giới quan duy vật máy móc, b ên cạnh quan điểm tự nhiên thần luận của giai cấp tư sản. Thứ hai, trên bình diện nhận thức - phương pháp luận, triết học phục hưng - cận đại chủ yếu đi tìm phương pháp nhận thức mới để khắc phục triệt để phương pháp kinh viện giáo điều, nhằm xây dựng một triết học v à một khoa học mới có liên hệ mật thiết với nhau hướng tới tri thức. Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa SVTH: Đặng Văn Hùng Trang 7 Thứ ba, trên bình diện nhân sinh quan – ý thức hệ, nền triết học thới phục hưng – cận đại thể hiện rõ tinh phần khai sáng và chủ nghĩa nhân đạo tư sản. Nó là ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản để tập hợp, giác ngộ, hướng dẫn quần chúng thực hiện những hành động cách mạng nhằm cải tạo x ã hội cũ và xây dựng xã hội mới – chủ nghĩa tư bản. Những đặc điểm ấy thể hiện rõ nét trong quan niệm của một số triết gia, điển h ình như B.Xpinôda, Francis Bacon. T.Hôpxơ, R.Đêcactơ, G.Lamettri, Đ.Điđơrô, P.Hônbách, G.G.Rutxô. II. Francis Bacon - Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Nếu triết học Tây Âu trung đại bị chi phối bởi chủ nghĩa duy tâm coi trọng lòng tin tôn giáo, đề cao vai trò của Thượng đế, coi thường lý trí khoa học, hạ thấp vai trò của con người và tự nhiên…, là công cụ tinh thần của Nhà thờ và nhà nước phong kiến thống trị con người; thì triết học Tây Âu thời Phục Hưng đã bắt đầu coi trọng lý trí, để cao con người và giới tự nhiên; về cơ bản, nó là ngọn cờ lý luận của các lực lượng xã hội tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống lại ý thức hệ phong kiến lỗi thời, nhằm thiết lập ý thức hệ mới – ý thức hệ tư sản. Trong số các triết học gia tiêu biểu trong thời kỳ thì triết gia người Anh Francis Bacon được coi là người đặt nền móng cho chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm. 1. Sơ lược về tiểu sử của Francis Bacon Francis Bacon (1561-1626) sinh ra trong một gia đình quý tộc cao cấp, tại thành phố Luân Đôn. Francis Bacon sinh trong một gia đình quý tộc Anh. Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Kembritgiơ, ông công tác nhiều năm trong ngành ngoại giao cho vương triều Xtiua. Mặc dù sống ở nước Anh trước thời kì cách mạng tư sản, nhưng Francis Bacon là người nhiệt liệt ủng hộ những cải cách t ư sản nhằm phát triển đất nước, ủng hộ sự phát triển của khoa học v à triết học. Những tác phẩm lớn của ông là Đại phục hồi các khoa học (1605),Công cụ mới (1620)... là nhà triết học vĩ đại thời cận đại. C.Mác coi Francis Bacon là ông tổ của chủ nghĩa duy vật Anh v à khoa học thực nghiệm. Bắt đầu từ Francis Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa SVTH: Đặng Văn Hùng Trang 8 Bacon, lịch sử triết học Tây Âu bước sang một giai đoạn phát triển mới với những màu sắc riêng. 2. Một số quan niệm của Bacon về các vấn đề: a. Về Bản Chất, nhiệm vụ của triết học và khoa học Sống trong thời kỳ đêm trước của cuộc cách mạng tư sản Anh, Francis Bacon đã nhận thấy vai trò đặc biệt quan trọng của khoa học v à triết học và sự cần thiết phải đẩy mạnh sự phát triển của chúng nh ư một nền tảng lý luận của công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Ông coi đó là một phương tiện cơ bản nhằm xoá bỏ những bất công xã hội, xây dựng cuộc sống phồn vinh. Khác với những nhà nhân đạo cộng sản không tưởng, Francis Bacon khẳng định phải cải tạo chính xã hội hiện thực đương thời trên cơ sở phát triển khoa học và triết học chứ không phải bằng cách tạo ra mô h ình lý tưởng. Ông cho rằng, mục đích của xã hội là nhận thức các nguyên nhân và mọi sức mạnh bí ẩn của các sự vật v à mở rộng sự thống trị của con người đối với giới tự nhiên trong chừng mực con người có thể làm được. Chịu ảnh hưởng của quan niệm trước đây coi triết học là khoa học của các khoa học, Francis Bacon hiểu triết học theo hai nghĩa. Triết học theo nghĩa rộng là tổng thể các tri thức lý luận của con ng ười về Thượng đế (học thuyết về Thượng đế), về giới tự nhiên (học thuyết về giới tự nhiên) và về bản thân con người (học thuyết về con người); học thuyết về Thượng đế là thần học, chỉ có bộ phận thần học tự nhiên (tức học thuyết lý giải Thượng đế dưới góc độ nghiên cứu khoa học, vạch ra những khía cạnh hợp lý của nó) mới thuộc về triết học, còn bộ phận thần học Thượng đế (tức xem xét Thượng đế dưới góc độ tôn giáo) thì thuộc về lĩnh vực tôn giáo, tín ng ưỡng...Học thuyết về tự nhiên trong triết học được Francis Bacon gần như đồng nhất với khoa học tự nhiên, còn học thuyết về con người thì được coi là nhân bản học. Theo Francis Bacon, khác với bộ môn lịch sử và các dạng nhận thức nghệ thuật chỉ đ ơn thuần dựa vào khả năng trí nhớ hay biểu tượng của con người, triết học và khoa học mang tính lý luận và khái quát cao. Tư duy triết học là tư duy lý tính, mang tính trí tuệ cao nhất. Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa SVTH: Đặng Văn Hùng Trang 9 Theo nghĩa rộng, triết học hầu như đồng nhất với tất cả các khoa học, bao chứa mọi khoa học khác. Theo nghĩa hẹp, triết học l à bộ phận cơ bản nhất trong tổng thể các khoa học. Đó là nền tảng và cơ sở của mọi khoa học khác, đồng thời nó đã bao chứa toàn bộ các lĩnh vực khoa học tự nhi ên. Francis Bacon cho rằng nhiệm vụ của triết học l à đại phục hồi các khoa học, nghĩa là phải cải tạo toàn bộ các tri thức mà con người đạt được thời đó. Francis Bacon chỉ ra rằng khoa học mang lại lợi ích cho to àn thể nhân loại chứ không riêng cho ai. Những quan niệm giản đơn, hẹp hòi, coi khoa học như là một nghề thủ công có lãi chỉ làm cho khoa học bị què quặt đi mà thôi. Bằng khoa học, con người tiếp cận với thế giới. Đánh giá cao vai trò của tri thức lý luận trong việc cải tạo x ã hội, Francis Bacon khẳng định "tri thức là sức mạnh". Từ đó ông đi đến một một kết luận mang tính cách mạng đối với người đương thời, coi "hiệu quả và sự sáng chế thực tiễn là người bảo lãnh và ghi nhận tính chân lý của các triết học". Muốn chinh phục tự nhiên thì con người cần phải nhận thức các quy luật của nó, vận dụng và tuân theo chúng. b. Quan niệm về thế giới Phát triển các quan niệm duy vật thời cổ đại, Francis Bacon cho rằng để lý giải được tính muôn màu muôn vẻ của thế giới, chỉ cần mỗi vật chất l à đủ. Để giải thích thế giới, ông đã cải biến thuyết bốn nguyên nhân của Arixtốt theo hướng duy vật. Ông xoá bỏ nguyên nhân mục đích của các sự vật và cho rằng, mọi cái trên thế gian chỉ tồn tại từ ba nguy ên nhân: hình dạng, vật chất và vận động. Khác với Arixtốt, ông coi h ình dạng của sự vật là cái nằm chính trong bản thân sự vật, là bản chất hoàn toàn khách quan của nó; không thể có cái gọi l à "hình dạng của hình dạng" phi vật chất, cũng như "vật chất đầu tiên" phi hình dạng là không có thực; mọi "hình dạng" đều chỉ là "hình dạng" của vật chất. Cả ba nguyên nhân "hình dạng", "vật chất" và "vận động", thực chất đều là bản tính của vật chất. Vì thế vật chất có bản tính là tích cực, có sinh khí chứ không phải thụ động. Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa SVTH: Đặng Văn Hùng Trang 10 Francis Bacon đã có bước tiến rất xa so với các nhà triết học trước đó và đương thời khi quan niệm rằng có sự thống nhất giữa vật chất và vận động, giữa bản chất của sự vật và vận động của nó. Khẳng định vận động l à đặc tính của sự vật, Francis Bacon cho rằng nhận thức sự vật là nhận thức vận động của chúng. C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhận xét, Francis Bacon đã hiểu "rằng trong những đặc tính vốn có của vật chất, vận động là đặc tính thứ nhất và quan trọng nhất, không phải chỉ với tính cách là máy móc và toán học mà hơn nữa còn với tính cách là xu hướng, sức sống của vật chất". Francis Bacon đã tìm cách phân loại các dạng vận động . Theo ông có 19 dạng vận động [Câu truyện triết học]: 1) vận động xung đối; 2) vận động móc nối; 3) vận động giải phóng mà thông qua đó sự vật hướng tới thoát khỏi áp lực; 4) vận động, trong đó sự vật hướng tới khối lượng và kích thước mới; 5) vận động liên tục; 6) vận động có lợi; 7) vận động tự hợp lại với quy mô lớn; 8) vận động tự hợp lại với quy mô nhỏ; 9) vận động từ tính; 10) vận động sản sinh ra; 11) vận động chạy trốn; 12) vận động thức tỉnh; 13) vận động mô tả, ghi nhận; 14) vận động ngoại tuyến; 15) vận động theo xu hướng; 16) vận động hùng tráng; Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa SVTH: Đặng Văn Hùng Trang 11 17) vận động tự quay; 18) vận động rung động; 19) đứng yên. Từ đây, có thể thấy rằng, về cơ bản Francis Bacon đã phân loại vận động theo cảm tính, mô tả, chưa biết phân loại theo cấp độ khác nhau về cấu trúc của vật chất, mà hầu như quy toàn bộ các dạng vận động thành các hình thức vận động cơ học; không thấy được sự phát triển của thế giới vật chất đ ã dẫn đến xuất hiện những hình thức vận động khác nhau về chất, ph ù hợp với trình độ cấu trúc của vật chất. Tuy nhiên việc coi đứng yên là một dạng vận động ở Francis Bacon là một quan niệm duy vật và cách mạng trong bối cảnh lịch sử hồi đó. Ông cũng là người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế giới. c. Nhận thức luận và phương pháp luận Bêcơn là người ủng hộ nhiệt thành sự phát triển của khoa học. Ông nói: "Mục đích của tôi là ở chỗ chỉ ra uy thế thực sự của khoa học m à không cần phải tô vẽ và cường điệu, và làm rõ ý nghĩa và giá trị chân chính của nó." Với hoài bão xây dựng một cách nhìn mới về thế giới thật sự khách quan, Bêcơn đồng thời chỉ ra những hạn chế trong khả năng nhận thức của con ng ười, những hạn chế không phải chỉ dẫn đến những sai lầm vụn vặt v à nhất thời, mà là những sai lầm nghiêm trọng không thể tránh khỏi của con người trong nhận thức. Ông gọi chúng là các “ảo tưởng ” (Idola theo tiếng cổ Hi Lạp nghĩa là hình ảnh bị xuyên tạc). Để nhận thức chân lí và khắc phục được các ngẫu tượng, thì phải vạch ra cơ chế và bản chất của chúng. Do vậy, B êcơn coi học thuyết về các ảo tưởng tựa như phần mở đầu trong nhận thức và phương pháp luận của mình. Các ảo tưởng có nguồn gốc hoàn toàn khách quan, bởi vì chúng một phần có trong bản chất của trí tuệ con ng ười, một phần xuất hiện trong quá tr ình lịch sử nhận thức của nhân loại, một phần nảy sinh trong sinh lí v à nhân cách của mỗi người. Theo Bêcơn, "trí tuệ con người tự đặt ra chướng ngại vật và cạm bẫy cho mình”. Vì các ảo tưởng thường xuyên ám ảnh con người, tạo nên cho nó Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa SVTH: Đặng Văn Hùng Trang 12 những tư tưởng và ảo ảnh giả dối, xuyên tạc bộ mặt thật của thế giới, nói tóm lại, cản trở con người xâm nhập vào thế giới cả về chiều rộng lẫn chiều sâu". V ì vậy, quá trình con người đấu tranh khắc phục những hạn chế khách quan đó cũng l à quá trình con người đấu tranh vì sự hoàn thiện bản thân mình. Bêcơn phân loại các dạng ảo tưởng như sau: Ảo tưởng loài: nó sinh ra do việc loài người thường xuyên nhầm lẫn bản chất trí tuệ của mình với bản chất khách quan của sự vật. Ai cũng dễ d àng gán cho sự vật những đặc tính của riêng con người. Bêcơn nói: "Các ảo tưởng loài có cơ sở trong chính bản thân loài người, bởi vì thật là sai lầm khi khẳng định cảm giác cảm tính của chúng ta là thước đo sự vật. Ngược lại, tất cả các giác quan cũng như trí tuệ đều được dựa trên sự tương đồng của con người, chứ không phải dựa trên sự tương đồng của thế giới. Trí tuệ con ng ười cũng tương tự như chiếc gương méo, khi nó pha trộn bản chất của mình với bản chất của sự vật th ì nó phản ánh các sự vật dưới dạng bị xuyên tạc, bóp méo". Sở dĩ có loại ảo tưởng này, theo Bêcơn, là do các giác quan c ũng như trí tuệ của con người còn chưa được hoàn thiện. Một trong những biểu hiện của ảo tưởng này là ở chỗ, người ta thường hay bảo thủ, coi ý kiến và suy nghĩ chủ quan của mình là thước đo tất thảy mọi vật. ảo tưởng loài do vậy rất bền vững. Chúng ta chỉ có thể hạn chế ảnh hưởng của ảo tưởng này bằng cách hoàn thiện các nhận thức của con người như thực nghiệm v.v.. Việc Francis Bacon đòi hỏi nhận thức sự vật phải hoàn toàn khách quan là hợp lý. Ông nhận xét đúng rằng, con ng ười thường hay chủ quan, duy ý chí trong hoạt động của mình. Nhưng ông lại sai lầm khi phủ nhận hoàn toàn cái chủ quan trong nhận thức. Việc đòi hỏi nhận thức phải "khách quan thuần tuý" của ông l à một điều không tưởng, tuy nhiên nó có ý nghĩa tích cực trong việc phê phán các quan niệm thần học chủ quan kinh viện thời đó, v ì sự tiến bộ của khoa học. Ví dụ, vì chiều cao giới hạn của chúng ta, vị trí của chân trời tuỳ theo cái nh ìn của chúng ta. Tấm hình trái là cái nhìn của người lùn, tấm hình bên phải là cái nhìn của người cao. Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa SVTH: Đặng Văn Hùng Trang 13 Nói cách khác, chiều cao của chúng ta làm cho chúng ta đọc (hay nhìn) thông tin thành hình ảnh. Trong thực tại, h ình ảnh chỉ là những đơn vị màu trên máy vi tính nhưng chúng ta "dịch" sự khác biệt giữa những tấm h ình để biểu trưng cho một thay đổi vị trí người xem trong không gian. Ảo tưởng hang động: Ngoài những ảo tưởng đối với cả loài người, thì mỗi người còn có các đặc tính chủ quan, tâm lí, tính cách đặc th ù của mình làm xuyên tạc bản chất khách quan của sự vật. Chúng c òn xuất hiện do hoàn cảnh giáo dục của mỗi người cũng khác nhau. Thực chất ảo tưởng hang động chính là ảo tưởng loài, nhưng biểu hiện ở mỗi người cụ thể ở mức độ và hình thức khác nhau. Sở dĩ gọi là ảo tưởng hang động vì mượn câu chuyện của Platôn về hang động, Francis Bacon ví trí tuệ của con người như hang động méo mó của Platôn, mà trong đó thể hiện cái bóng của các sự kiện diễn ra bên ngoài. Để hạn chế dạng ảo tưởng này, mỗi người cần phải hoàn thiện nhân cách của mình, thận trọng trong quá trình nhận thức, dựa vào kinh nghiệm tập thể v.v.. Một thí dụ về điều này là chữ bacon. Chữ bacon ai cũng biết v ì chúng ta ăn thịt ba chỉ mỗi ngày (bacon = thịt ba chỉ), nhưng trừ phi chúng ta đọc những sách Anh ngữ thời Phục Hưng hay đọc nhiều sách về triết lý cổ, chúng ta nghĩ đến việc thịt ba chỉ cuốn bánh tráng, rau sống h ơn là một triết gia sống vào thế kỷ 17. Cái sai lầm này là tại kinh nghiệm, một trong những nguy ên nhân sai lầm trong phương pháp luận Bacon. Ảo tưởng thị trường: Nó xuất hiện do mọi người thường hay sùng bái, chạy theo các quan điểm của ai đó có uy tín, hoặc ủng hộ những quan điểm phổ Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa SVTH: Đặng Văn Hùng Trang 14 biến giáo điều, các tập quán truyền thống, trong đó b ên cạnh nhiều yếu tố tích cực, cũng chứa đựng không ít những điều lạc hậu. Các ảo tưởng này còn xuất hiện do ngôn ngữ khoa học của chúng ta đôi chỗ c òn chưa thật chuẩn xác. Quan niệm trên của Francis Bacon có nhiều điểm hợp lý và tiến bộ. Một thí dụ rõ rệt về chính trị khi chúng ta đổi mới. Chữ đổi mới khiến chúng ta liên tưởng đến cái xấu xa tồi tệ của thời kỳ ch ưa đổi mới. Nó xấu đến độ chúng ta phải thay đổi. Đồng thời nó gây ảo t ưởng cái mới tốt hơn cái cũ. Thực ra, nếu so sánh thời kỳ cũ và thời kỳ đổi mới, chưa chắc cái nào tốt hơn cái nào. Ngày nay, chúng ta no đủ hơn trước nhưng bù lại, cái phẩm giá phụ nữ, phẩm giá con người ngày càng kém đi. Ảo tưởng nhà hát: Đó là những ảnh hưởng có hại của nhiều học thuyết, quan niệm thống trị làm cản trở quá trình nhận thức chân lý. Phê phán tệ sùng bái cá nhân của nhiều nhà khoa học thời đó, Francis Bacon khẳng định "chân lý là con gái của thời gian chứ không phải của uy tín". Để t ìm ra chân lý chúng ta không nên rơi vào chủ nghĩa hoài nghi luận, nhưng cũng không nên giáo điều trong nhận thức. Chẳng hạn, ta thường cho rằng cái Thiện luôn thắng cái Ác nh ưng trong thực tế, cái ác thường thắng cái thiện v ì nó vận dụng toàn lực để thắng trong khi cái Thiện bị cản trở bởi đạo đức. Trường hợp Nguyễn Việt Tiến là một thí dụ. Ông ta và phe nhóm ông ta thắng vì không đếm xỉa đến dư luận và nguyên tắc đạo đức. Thiện Ác đáo đầu chung hữu báo. Các bạn tự an ủi rốt cuộc Thiện cũng thắng. Sai lầm nốt. Thiện chỉ có t hể thắng ác một khi Thiện hội đủ yếu tố Thời v à Thế, bằng không muôn đời Thiện bị khống chế. Nhìn chung, việc xác định bản chất và nguyên nhân của các ảo tưởng của Francis Bacon còn mang nặng tính trực quan, chủ yếu xét ở khía cạnh nhận thức luận, vì vậy chưa đưa ra được các giải pháp khắc phục ảo tưởng một cách hợp lý. Công lao của ông trong học tuyết về ảo tưởng là ở chỗ ông đã đặt ra vấn đề cơ sở Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa SVTH: Đặng Văn Hùng Trang 15 xã hội của quá trình nhận thức; ở chỗ khẳng định quá tr ình nhận thức sự vật phải hoàn toàn khách quan, xem xét với tinh thần phê phán, cách mạng chứ không giáo điều. Những tư tưởng đó có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với thời đại của ông mà còn đối với cả hiện nay. Francis Bacon là một trong những người đầu tiên nhận thức được hạn chế của tam đoạn luận và của lôgic hình thức - cái mà từ trước đến bấy giờ vẫn được coi là phương pháp nhận thức vạn năng, đồng thời ông l à một trong những người khởi xướng ra tư tưởng lôgic mới. Francis Bacon liệt kê, phân tích những phương pháp nhận thức cơ bản đang được sử dụng phổ biến để từ đó đ ưa ra một phương pháp nhận thức mới cao hơn. Theo Francis Bacon, từ trước đến bấy giờ người ta chủ yếu dùng hai phương pháp nhận thức là "phương pháp con nhện" và "phương pháp con kiến". Phương pháp con nhện là phương pháp xuất phát từ vài bằng chứng và cứ liệu vụn vặt người ta đã vội vã đưa ra các tiền đề và khẳng định một cách vô căn cứ về bản chất của sự vật. Phương pháp đó chẳng khác gì con nhện chăng tơ, chỉ trong khoảnh khắc đã xong nhưng không chắc chắn. Phương pháp con kiến là sự miêu tả, lượm lặt, sưu tầm từng ít dữ kiện về sự vật, nh ưng rốt cuộc chẳng biết khái quát, rút ra những kết luận đúng đắn trên cơ sở những dữ kiện đó. Phương pháp này chỉ cho ta hiểu những nét bề ngo ài vụn vặt chứ không thể khám phá được bản chất đích thực của sự vật. Để khắc phục những hạn chế nói tr ên, Francis Bacon đưa ra "phương pháp con ong". Bản chất của "phương pháp con ong" là từ những tri thức do cảm tính đem lại chế biến chúng, như con ong biến mật hoa thành mật ong, rút ra những tri thức mới bằng tư duy lý tính. Phương pháp nhận thức tối ưu, theo Francis Bacon, là phương pháp quy nạp. Ông coi phương pháp quy nạp là chiếc la bàn của khoa học. Nhưng ông không thoả mãn với những phương pháp quy nạp đã có (quy nạp đầy đủ, quy nạp không đầy đủ). Ông l à người đầu tiên khám Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa SVTH: Đặng Văn Hùng Trang 16 phá ra phương pháp quy nạp loại trừ, tức phương pháp quy nạp mà trong đó có phân tích, loại bỏ những dữ kiện phụ, đi đến khẳng định bản chất của sự vật. Nhìn chung, trong vấn đề phương pháp luận, Francis Bacon là nhà duy cảm (mặc dù không cực đoan), thiên về sự phát triển khoa học tự nhi ên thực nghiệm; là người có công khởi xướng ra tư tưởng cần thiết phải xây dựng một hệ thống phương pháp luận mới, phù hợp với sự phát triển của khoa học thời cận đại. d. Nhân bản học và quan niệm về tôn giáo Francis Bacon coi con người là sản phẩm cuả tạo hoá, do vậy khoa học về con người cũng là khoa học về tự nhiên. Tiếp thu quan niệm của Arixtốt về con người, Francis Bacon chia linh hồn thành các dạng "linh hồn thực vật", "linh hồn động vật", "linh hồn lý tính". Hai phần đầu thuộc về linh hồn cảm tính, có cả ở thực vật và động vật. Trong con người, linh hồn cảm tính là một dạng chất lỏng, pha loãng trong cơ thể. Chúng vận động theo các dây thần kinh, tựa như các đường ống, tác động lên các giác quan, điều khiển chức năng sống của c ơ thể. Bộ phận linh hồn này có thể bị huỷ hoại cùng cơ thể khi con người chết đi. Linh hồn lý tính có nguồn gốc từ Thượng đế. Đó là một khả năng kì diệu mà chúa đã ban cho con người, mang tính thần thánh. V ì con người có cả hai dạng linh hồn nên con người vừa rất gần với động vật lại vừa có cái g ì đó siêu phàm, và do đó, bản chất con người không cho phép con người theo lập trường hoàn toàn vô thần. Con người cần có tôn giáo để vượt qua những lúc con người mềm yếu, bất lực. Tôn giáo mang lại cho con người niềm tin nhưng nhà thờ không được phép dùng các biện pháp chống lại các nhà vô thần, không được cản trở các hoạt động khoa học, nghệ thuật của con người. Nhìn chung, quan niệm trên của Francis Bacon thể hiện sự thoả hiệp giai cấp tư sản Anh thời đó với các vấn đề tôn giáo. III. Sự Ảnh Hưởng của tư tưởng triết học Francis Bacon đến nền Văn Minh Phương Tây. Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa SVTH: Đặng Văn Hùng Trang 17 Ông là người đặt nền móng cho chủ nghĩa duy vât kinh nghiệm đòi hỏi phải xây dựng một triết học mới. Triết học phải l à ”khoa học của mọi khoa học”, có nhiệm vụ xóa bỏ những sai lầm chủ quan, loại bỏ những niềm tin m ù quáng, nắm bắt trật tự của thế giới để xây dựng v à hiểu biết đúng thế giới. Ông đã trở thành tiếng nói hùng hồn của lạc quan và quyết định của thời Phục Hưng. Chưa ai đã là nguồn hứng khởi quan trọng cho các t ư tưởng gia khác như thế. Đã đành vua James từ chối đề nghị của ông về việc bảo trợ khoa học, v à nói về tác phẩm Dụng cụ mới rằng : “Tác phẩm này giống như sự bình an của Thiên chúa, vượt quá mọi tầm hiểu biết “. Nhưng những người khá hơn, vào năm 1662 sáng lập ra Hội Hoàng Gia sau này sẽ trở thành hội đoàn các khoa học gia lớn nhất của thế giới, đã xem Bacon là gương mẫu và nguồn cảm hứng cho họ; họ hy vọng rằng tổ chức này của Anh quốc sẽ đưa đến một hiệp hội của toàn Âu châu như cuốn Tăng tiến tri thức đã chủ trương. Khi những bộ óc vĩ đại của phái Tôn S ùng Lý Trí ở Pháp khởi thảo kiệt tác của tri thức, Bộ Bách Khoa Từ điển, họ đ ã đề tặng Francis Bacon. Diderot đã nói trong chương trình: “Nếu chúng tôi thành công trong việc này, đây là nhờ phần lớn vào vị Tể tướng Bacon, người đã đưa ra kế hoạch một bộ tự điển phổ quát khoa học v à mỹ nghệ vào một thời, ta có thể nói, chưa từng có khoa học hay mỹ nghệ. Thiên tài phi thường ấy, khi ông không thể nào viết một cuốn lịch sử về những g ì biết được, đã viết một cuốn sách để nói về những gì cần phải biết”. D´Alembert gọi Bacon l à :” triết gia vĩ đại nhất, phổ quát nhất, hùng hồn nhất trong các triết gia “. Hội nghị đã xuất bản tác phẩm của Bacon do quốc gia ra vốn. Tất cả sự nghiệp t ư tưởng Anh quốc đã theo đường hướng triết học Bacon. Hobbes thừa h ưởng quan điểm của ông để khởi x ướng một thuyết duy-vật, Locke theo phương pháp quy nạp của ông để lập một nền tâm lý học thực nghiệm, nhấn mạnh sự quan sát v à loại bỏ khía cạnh thần học và siêu hình; và Bentham cũng ảnh hưởng Bacon khi đồng hoá cái hữu ích v à cái thiện. Bất cứ ở đâu có tinh thần khắc phục thay v ì tinh thần cam chịu, ở đó có ảnh hưởng Bacon. Ông là tiếng nói của những người Âu châu đã biến đổi một lục địa từ một cánh rừng hoang trở th ành một mảnh đất của kho tàng mỹ nghệ và khoa học, đã biến bán đảo nhỏ của họ thành trung tâm thế giới. “Con người Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa SVTH: Đặng Văn Hùng Trang 18 không phải là những con vật đứng thẳng, nhưng chính là những thần linh bất diệt”. Bacon bảo “Thượng đế đã ban cho chúng ta những linh hồn bằng cả vũ trụ, nhưng chúng ta vẫn chưa thoả mãn dù chiếm được cả vũ trụ”. Mọi sự đều khả hữu đối với con người. Thời gian còn ít, hãy cho chúng ta vài thế kỷ, chúng ta sẽ chế phục và tái tạo tất cả. Có lẽ ít nhất chúng ta sẽ học đ ược bài học cao quý hơn cả, đấy chính là con người không phải cần đánh giặc với ng ười mà chỉ cần tuyên chiến cùng những chướng ngại mà thiên nhiên đã đặt để cản ngăn chiến thắng của mình”. Ta có thể nói không ngoa rằng có ba loại hay bực tham vọng trong con người. Loại thứ nhất là tham vọng của những người muốn bành trướng quyền hạn mình trong xứ sở mình; điều ấy tầm thường và thoái hoá. Loại thứ hai là tham vọng của những người nỗ lực bành trướng quyền lực xứ sở m ình và thống trị nhân loại, điều này dĩ nhiên có tư cách hơn song cũng không kém tham tàn. Nhưng nếu một người nỗ lực xây dựng và bành trướng quyền lực và sự thống trị của loài người trong vũ trụ thì loại tham vọng ấy rõ ràng là vừa lành mạnh hơn, vừa cao quý hơn hai loại kia”. Định mệnh quả đã khiến Bacon phải bị dằn vặt giữa những khuynh hướng ấy xâu xé nhau để chiếm đoạt linh hồn ông ta. Tư tưởng triết học và khoa học mới phải xuất phát từ tinh thần “tri thức là sức mạnh” và “lý luận thống nhất với thực tiễn”. Với quan niện thực tiễn như thế, ông đã giúp cho xã hội ích nhiều cho việc mở rộng nền sản xuất c ơ khí và sử dụng hiệu quả máy móc đã tạo cơ sở thực tiễn vững chắc thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của cơ học trong giai này. Và tư tưởng tri thức là sức mạnh thì cho đến thời đại ngày nay giá trị này đã được chứng minh một cách rõ rành. Tất cả những nước giàu có thì đều dựa vào nguồn lực tri thức dồi dào của họ. Với những lý luận về ảo tưởng thì ông đã chỉ ra cho chúng ta thấy rằng quá trình nhận thức của con người còn bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan. Với tư tưởng này thì cũng đã tạo một nền móng cho triết học sau n ày có nhiều triết gia phát triển lên để tạo ra một quan điểm về triết học biện chứng. Quan điểm đó dựa vào một số nguyên lý cơ bản để nhìn sự vật một cách khách quan hơn. Điều này được thể hiện qua cách tiếp cận trực tiếp thế giới tự nhi ên mà không thông qua uy tin, Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa SVTH: Đặng Văn Hùng Trang 19 lòng tin, tín điều.., ra sức hoàn thiện phương tiện, công cụ nhận thưc và nhân cách, cá tính của từng con người, phải quan sát để phát hiện ra các vấn đề mới. Như vậy, Triết học duy vật siêu hình máy móc của ông đã trở thành cơ sở lý luận tổng quát để giải quyết các vấn đề mang tính thế giới quan v à xây dựng bức tranh cơ học về thế giới, còn nội dung bức tranh cơ học tiếp tục củng cố cơ sở khoa học khoa học cho các quan điểm si êu hình máy móc của hình thực triết học duy vật này. [Triết học và bức tranh vật lý học thế giới]. Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa SVTH: Đặng Văn Hùng Trang 20 CHƯƠNG III: KẾT LUẬN Tư tưởng triết học của Francis Bacon đã góp phần to lớn vào việc loại bỏ những niềm tin mù quáng, nắm bắt trật tự của thế giới để xây dựng v à hiểu biết đúng vể thế giới. Còn phương pháp về khoa học mới của ông giúp khám phá quy luật thế giới, tăng cường quyền lực tinh thần của con ng ười làm chủ và cải tạo thiên nhiên. Chính những tư tưởng của ông góp phần vào việc phát triển một nên công nghiệp và thương nghiệp dựa trên sức mạnh của tri thức khoa học v à tiến bộ của kỹ thuật. Ông chủ đã chủ trương cải tạo xã hội băng con đường tri thức khai sáng thông qua sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Và giúp góp phần to lớn trong ngành khoa học thực nghiệm. Các thành tựu khoa học tự nhiên thời cận đại dùng các phương pháp nghiên cứu siêu hình của ông cũng đã phản ánh các yếu tố biện chứng của tự nhiên. Chính triết học duy vật máy móc đã tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và thần học một cách có hiệu quả, thúc đẩy tr ào lưu triết học cùng khoa học phát triển mạnh mẽ, đẩy mạnh quá tr ình nhận thức thế giới. Bên cạnh những thành tựu đạt được thì triết học của ông còn một vài điểm hạn chế. Do bản tính siêu hình mà khi thâm nhập trở lại khoa học, triết học duy vật siêu hình máy móc đã làm lu mờ các yếu tố biện chứng chứa trong các th ành tựu đó. Triết học duy vật siêu hình máy móc nó cũng là một rào cảng trên con đường nhận thức thế giới. Tuy nhiên trên nền tảng triết học duy vật siêu hình của Francis Bacon kết hợp với các tư tưởng triết học khác tạo ra một nền triết học duy vật biên chứng trong thời đại ngày nay. Tiểu luận triết học GVHD: TS Bùi Văn Mưa SVTH: Đặng Văn Hùng Trang 21 Tài Liệu Tham Khảo 1. TS Nguyễn Ngọc Thu- TS Bùi Văn Mưa, “Đại cương lịch sử triết học”, Nhà xuất bản tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh. 2. Will Durant, “The Story of Philosophy” ; Trí H ải và Bửu Đích dịch và chú Thích 3. PGS. TS Nguyễn Tiến Dũng, “Lịch Sử Triết Học Ph ương Tây”, Nhà xuất bản tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh. 4. TS Bùi Văn Mưa, “Triết Học và Bức Tranh vật lý học về thế giới”, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Thành Phố Hồ Chí Minh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdetai12_dangvanhung_d1k19_9798.pdf
Luận văn liên quan