Nói đến vai trò của chủ thể, không thể nào không đi trở ngược lên đến St Augustin,
người đã đem đến cho đạo Kitô một kích thước mới: kích thước con người. Nhưng
quan trọng hơn cả, là những tư tưởng triết học của Descartes , với tác phẩm Diễn từ về
phương pháp luận (1637). Có thể nói rằng với tác phẩm này, phương Tây đã khám
phá ra tầm quan trọng của chủ thể, của cái tôi, trong nhận thức về thế giới xung
quanh, và đặc biệt là trong quan niệm về nghệ thuật và người nghệ sĩ.
Không biết Rubens (1577-1640), nhà họa sĩ trứ danh người Hà Lan, đã có dịp đọc tác
phẩm của Descartes chưa, nhưng ông đã là người họa sĩ đầu tiên vẽ với một phong
cách bay bướm và một cá tính mạnh mẽ, khác hẳn với phong cách hội họa thời Phục
Hưng. Có thể nói rằng, về một mặt nào đó, ít ra về hình thức, Rubens là một họa sĩ đã
đi trước tất cả những họa sĩ cùng thời, báo hiệu sự ra đời - hơn một thế kỷ sau - của
phong cách Barốc và phong cách lãng mạn.
29 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 10627 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tư tưởng triết học của Platon và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của thời đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 1
TIỂU LUẬN
Tư tưởng triết học của Platon và sự ảnh hưởng của
nó đến đời sống văn hóa tinh thần của thời đại
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 2
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu------------------------------------------------------------------------------------ 2
Chương I: Giới thiệu chung về Platon----------------------------------------------- 3
I.1 Tiểu sự Platon---------------------------------------------------------------------------- 3
I.2 Các giai đoạn trong cuộc đời --------------------------------------------------------- 4
I.3 Các tác phẩm ----------------------------------------------------------------------------- 5
Chương II: Tư tưởng của Platon------------------------------------------------------ 7
II.1 Học thuyết về ý niệm ----------------------------------------------------------------- 7
II.2 Lý luận về nhận thức -----------------------------------------------------------------12
II.3 Học thuyết về chính trị - xã hội ----------------------------------------------------13
II.4 Những môn đệ của Platon-----------------------------------------------------------15
Chương III: Ảnh hưởng của tư tưởng Platon đối với đời sống văn hóa tinh
thần của thời đại ------------------------------------------------------------------------- 16
III.1 Học thuyết về ý niệm ---------------------------------------------------------------18
III.2 Lý luận về nhận thức ----------------------------------------------------------------20
III.3 Học thuyết về chính trị - xã hội---------------------------------------------------21
Tài liệu tham khảo----------------------------------------------------------------------- 28
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 3
Lời mở đầu
Một trong những triết gia vĩ đại nhất thời cổ đại là Platon. Tư tưởng của ông đã ảnh
hưởng rất nhiều tới các triết gia không chỉ của thời đại lúc bấy giờ mà cả các giai
đoạn lịch sử về sau nữa. Hệ thống triết học của Platon đã đề cập đến nhiều vấn đề,
trong đó nổi bật là học thuyết ý niệm và linh hồn, học thuyết “nhà nước lý tưởng” và
đạo đức học... Tất cả các học thuyết nói trên đều xuất phát từ lập trường duy tâm
khách quan, đại biểu cho tầng lớp chủ nô quý tộc, đi ngược lại lợi ích của nhân dân
lao động. Platon phản đối chế độ dân chủ và luận chứng cho sự bất bình đẳng trong xã
hội.
Với nhiều giác độ để nghiên cứu về tư tưởng của Platon, tôi chọn đề tài Tư tưởng triết
học của Platon và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của thời đại để
làm rõ và phân tích. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đề tài không tránh những
thiếu sót vì vậy kính mong thầy góp ý và đánh giá để đề tài được hoàn thiện hơn.
Trân trọng
“Tự chinh phục mình là chiến công vĩ đại nhất”
Platon
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 4
Chương I: Giới thiệu chung về Platon
Trong triết học Hy Lạp trước Socrate thế giới quan duy vật nói chung chiếm ưu thế
(trường phái Milet, Héraclite, Anaxagore, Empédocle…). Nhưng bắt đầu từ Socrate
trở đi, cùng với những biến đổi đầy bi kịch của xã hội, chủ nghĩa duy tâm mở rộng
dần ảnh hưởng của mình, và phát triển thành hệ thống ở Platon. Triết học Platon thể
hiện giai đoạn phát triển cực thịnh của triết học Hy Lạp, khai phá nhiều lĩnh lực
nghiên cứu mới, những lĩnh vực mà trước đây, trong thời kỳ “triết học tự nhiên” còn
thống trị, chưa được phân tích sâu sắc. Platon, Aristote được nhân loại biết đến không
chỉ như những triết gia, mà còn là những nhà văn hoá lớn của thế giới cổ đại. Nhưng
cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa duy vật (“đường lối Démocrite”) và chủ nghĩa duy tâm
(“đường lối Platon”) về bản chất và ý nghĩa của tồn tại cũng trở nên quyết liệt, chi
phối con đường vận động của triết học phương Tây suốt bao nhiêu thế kỷ qua.
I.1 Tiểu sử Platon
Platon là một nhà triết học cổ đại Hy Lạp được xem là thiên tài trên nhiều lĩnh vực, có
nhiều người coi ông là triết gia vĩ đại nhất mọi thời đại cùng với Socrates (Σωκράτης)
là thầy ông.
Platon tên thật là Aristocles (427 – 347 TCN), sinh tại một hòn đảo không xa Athènes,
đảo Egine, trong gia đình thuộc dòng dõi quý tộc. Thời trai trẻ Platon là con người
vừa thông minh, vừa khoẻ mạnh, từng hai lần đoạt danh hiệu vô địch điền kinh của thị
quốc, được người đời đặt cho cái tên Platon, tức “vạm vỡ”, “vai rộng”.
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 5
Platon xuất thân trong một gia đình chủ nô quý tộc ở A-ten. Tên thật của ông là
Aristôclơ. Sinh ra ở Athena, ông được hấp thụ một nền giáo dục tuyệt vời từ gia đình,
ông tỏ ra nổi bật trên mọi lĩnh vực nghệ thuật và đặc biệt là triết học. Platon sinh ra và
lớn lên thời đại khủng hoảng sâu sắc của nền dân chủ chủ nô. Chiến tranh, nghèo đói,
sự thay đổi đường lối cay trị tác động không ít đến sáng tác của ông.
I.2 Các giai đoạn trong cuộc đời
Thời thanh niên (409 – 400 TCN) ông chịu ảnh hưởng trực tiếp của Socrate, cả về tư
tưởng lẫn lối sống, quan điểm chính trị - xã hôi.
Thời viễn du (400 – 389 TCN) gắn với quá trình quan sát, thu thập, học hỏi những tri
thức khoa học từ nhiều nơi, nhằm định hình một thế giới riêng. Khi Socrates chết vào
năm 399 TCN thì Platon mới khoảng 31 tuổi. Trong suốt phiên tòa xử thầy mình, ông
ngồi dự ở phòng xử án. Toàn bộ chuỗi biến cố đó dường như đã ăn sâu vào tâm hồn
ông thành một kinh nghiệm chấn động, vì ông đánh giá Socrates là người giỏi nhất,
minh triết nhất và chính trực nhất trong tất cả mọi người. Từ đó Platon bắt đầu cho
phổ biến một loạt các đối thoại triết học trong đó nhân vật chính luôn luôn là Socrates,
căn vặn những kẻ đối thoại của ông về những khái niệm căn bản về đạo đức và chính
trị, làm cho họ mắc mâu thuẫn trước những câu hỏi của ông. Có lẽ Platon có hai động
cơ chính để làm việc này. Một là để thách thức và tái khẳng định những lời giáo huấn
của Socrates bất chấp chúng đã bị kết án một cách công khai; hai là để phục hồi danh
dự người thầy yêu quí của mình, cho mọi người thấy ông không phải là một kẻ hủy
hoại giới trẻ mà là một bậc thầy danh giá nhất của họ. Sau đó, Platon rời Athènes.
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 6
Trước tiên ông ở Mégare, làm bạn với Euclide, người sáng lập ra trường phái Mégare,
chủ trương dung hoà Socrate với trường phái Elée. Sau đó, ông sang Cryène, tiếp xúc
với Aristippe và các nhà toán học thuộc phái Pythagore. Ông sang cả Ai Cập,
Phénicie, Ba Tư, Babylone. Năm 389 TCN, Platon tham gia cố vấn chính trị cho bạo
chúa Denys, vua xứ Syracuse, nhưng sau một thời gian bị chính Denys bán làm nô lệ
do mâu thuẫn cá nhân. Annikéris, môn đệ của Aristippe, chuộc ông, rồi giải phóng.
Thời chín muồi về tư tưởng, hay thời viện hàn lâm, được đánh dấu bằng việc thành lập
trường phái triết học riêng tại bắc Athènes, ông sáng lập ra Viện hàn lâm - (tên lấy
theo khu vườn nơi ông ở- trong khu vườn mang tên Akadèmos, là tên một nhân vật
thần thoại). Đây có thể được coi là trường đại học đầu tiên trong lịch sử nhân loại, nơi
dành cho nghiên cứu, giảng dạy khoa học và triết học. Môn sinh ở đây được trang bị
những kiến thức cao nhất, tương đương bậc đại học và sau đại học, gồm toán học,
chính trị, triết học. Suốt quãng đời còn lại Platon chỉ chú tâm vào việc truyền bá tri
thức khoa học, song có lúc bị cầm tù và suýt mất mạng dưới tay bạo chúa Denys con.
I.3 Các tác phẩm
Trong gần 50 năm sáng tác, Platon để lại một di sản đồ sộ, nhưng việc tập hợp và
sàng lọc thật khó khăn, vì ngoài những tác phẩm được thừa nhận do ông viết (chính
văn), vẫn có một số là giả mạo (mạo văn). Số lượng tác phẩm gồm một độc thoại (lời
bào chữa của Socrate), 34 đối thoại (kể cả chính văn và mạo văn), 13 bức thư (mạo
văn), chia đều ra những thời gian khác nhau. Tác phẩm "Nước cộng hoà"
(République) có vị trí đặc biệt trong triết học của ông.Trong những đối thoại thời trẻ,
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 7
Socrate thường là nhân vật trung tâm, đóng vai trò hướng dẫn và hoà giải các cuộc
tranh luận, nên khó xác định đâu là quan điểm đích thực của Socrate, đâu là quan
điểm của Platon mượn danh Socrate. Điều chắc chắn là thế giới quan của Socrate và
Platon thống nhất với nhau.
Mấy năm cuối đời, Platon suy nghĩ nhiều về triển vọng của cuộc sống nhân loại, về
thiết chế xã hội lý tưởng, được trình bày trong Atlantic, Luật pháp và một số tác phẩm
khác.
Platon là nhà triết học duy tâm khách quan, đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy vật
đương thời. Khi nói về hai đường lối, hai trường phái trong triết học, Lênin đã chỉ ra
sự đối lập giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của Platon. Tư
tưởng triết học của Platon chịu ảnh hưởng sâu sắc các yếu tố duy tâm trong triết học
của Pitago và Xôcrát.
Ngoài những cống hiến của ông về phép biện chứng của ý niệm, vai trò của ý thức xã
hội trong việc hình thành nhân cách và ý thức cá nhân, triết học của ông tiêu biểu cho
chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại. Ông đã xây dựng học thuyết về ý niệm để chống lại
chủ nghĩa duy vật. Theo ông, giới tự nhiên bắt nguồn từ ý niệm.
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 8
Chương II: Tư tưởng của Platon
Platon không những nâng tư tưởng duy tâm lên thành hệ thống, mà còn khẳng định
tính tất yếu của sự đối đầu duy vật – duy tâm trong triết học. Trong Sophistes có
đoạn: “Một số đưa mọi thứ từ trên trời và từ lĩnh vực của cái cô hình xuống mặt
đất…, dứt khoát rằng chỉ những gì tiếp cận được, sờ được thì mới tồn tại, và xem vật
thể và tồn tại chỉ là một”, một số khác chủ trương “tồn tại đích thực là những idea (ý
niệm) phi vật thể và phi cảm tính nào đó” (A. N. Tranysev: Bài giảng về Triết học cổ
đại, Moskva, 1980, tr. 247). Chủ nghĩa duy tâm, theo Platon, là một triết học “uyển
chuyển”, vì nó thống nhất với thần minh luận, còn chủ nghĩa duy vật là một triết học
thô thiển, xa lạ, không tin vào sự linh thiêng của đời sống con người, mà nếu tin thì
cũng loại trừ vai trò của thần linh trong công việc của trần gian, mà nếu cực chẳng đã
thừa nhận vai trò của thần linh, thì cũng từ chối mọi hành vi sùng bái.
II.1 Học thuyết về ý niệm
Điểm nổi bật trong hệ thống triết học duy tâm của Platon là học thuyết về ý niệm.
Trong học thuyết này ông đưa ra hai quan niệm về thế giới các sự vật cảm biết và thế
giới các ý niệm. Pla-tôn chịu ảnh hưởng sâu sắc khuynh hướng duy lý trong triết học
Hy Lạp cổ đại (lý luận về cái duy nhất của trường phái Êlê, lý luận về con số của
trường phái Pitago, lý luận về cái phổ biến của Xôcrát). Vì vậy ông xem nhẹ vai trò
của nhận thức cảm tính, tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức lý tính, của ý niệm (khái
niệm). Từ đó ông chia thế giới thành hai loại: thế giới của những ý niệm (khái niệm)
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 9
và thế giới của những sự vật cảm tính.Trong đó thế giới các sự vật cảm biết là không
chân thực, không đúng đắn vì các sự vật không ngừng sinh ra và mất đi, thay đổi và
vận động, không ổn định, bền vững, hoàn thiện; còn thế giới ý niệm là thế giới phi
cảm tính phi vật thể, là thế giới đúng đắn, chân thực, các sự vật cảm biết chỉ là cái
bóng của ý niệm. Theo ông, thế giới của những ý niệm là tồn tại chân thực, vĩnh viễn,
tuyệt đối, bất biến, nó là cơ sở tồn tại của thế giới các sự vật cảm tính. Còn thế giới
các sự vật cảm tính là tồn tại không chân thực, phụ thuộc vào thế giới của các ý niệm,
nó là cái bóng của ý niệm.
Để minh hoạ cho quan niệm thế giới các sự vật cảm tính được sinh ra từ thế giới các ý
niệm như thế nào, Platon đã đưa ra ví dụ "Hang động" như sau: Ở ngoài cửa của một
cái hang tối có một đoàn người đi qua; ánh sáng mặt trời chiếu vào cửa hang làm cho
bóng của đoàn người được in lên vách đá. Nếu nhìn lên vách hang bên trong, người
ta sẽ thấy những bóng người đi qua . Platon dùng phép phóng dụ trình bày sự khác
nhau giữa tồn tại đích thực và cái bóng của nó, giữa thế giới ý niệm và thế giới vật
chất, giữa cái được lý trí nhận thức và cái được cảm giác lĩnh hội. Những bóng này
chỉ là hình ảnh của đoàn người, chứ không phải bản thân đoàn người. Thế giới các sự
vật cảm tính cũng vậy, nó chỉ là cái bóng của ý niệm đã có từ trước mà thôi. Như
vậy, khi giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, Platon cho rằng ý niệm là
cái có trước, là nguyên nhân, là bản chất của sự vật. Còn sự vật chỉ là cái có sau, là cái
bắt chước, cái mô phỏng, là bản sao của ý niệm.
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 10
Từ quan niệm trên Platon đã đưa ra khái niệm "tồn tại" và "không tồn tại". Vấn đề tồn
tại (bản thể) chiếm vị trí đặc biệt trong triết học Platon. Tồn tại đích thực phải là tồn
tại như thế nào? Đâu là tồn tại khác, hay “cái bóng của tồn tại”? Cái gì là cơ sở, nền
tảng của mọi tồn tại? “ Theo tôi , - Platon viết , - trước tiên cần phải phân biệt cái gì
luôn luôn tồn tại và không giờ sinh thành và cái gì luôn luôn sinh thành nhưng không
bao giờ tồn tại”."Tồn tại" theo ông là cái phi vật chất, cái nhận biết được bằng trí tuệ
siêu tự nhiên là cái có tính thứ nhất. Còn "không tồn tại" là vật chất, cái có tính thứ
hai so với cái tồn tại phi vật chất.
Khác với trường phái Elée, trong quan niệm về tồn tại Platon thừa nhận tính thống
nhất nhưng không phản bác tính đa dạng, muôn vẻ của thế giới các ý niệm. Ông cũng
chỉ ra mối quan hệ giữa ý niệm và sự vật, từ đó đi đến quá trình tiên đoán về vũ trụ
nói chung. Theo Platon, có bao nhiêu ý niệm thì có bấy nhiêu phức hợp các sự vật,
các hiện tượng, các quá trình, các quan hệ đồng nhất căn bản. Trong tác phẩm
“Parménide”, Platon nêu ra ba phương án quan hệ giữa ý niệm và sự vật: mô phỏng,
thông dự và hiện diện.
Mô phỏng: Các sự vật hướng đến các ý niệm. Trong trường hợp đó ý niệm là khuôn
mẫu, còn các sự vật là khả giác là các mô phỏng của chúng, chẳng hạn ý niệm “cái
đẹp” như khuôn mẫu để xác định những sự vật cho là “đẹp”.
Thông dự: sự vật nói chung phải thông dự vào một chủng loại ý niệm nhất định để
được mang một tên gọi, chẳng hạn nếu thông dự vào ý niệm “đẹp” thì vật ấy là vật
“đẹp”, tương tự như vậy với ý niệm “thiện”, “công bằng”,.v.v..
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 11
Hiện diện: các sự vật khả giác trở nên tương đồng với các ý niệm khi các ý niệm đi
đến với chúng, bắt đầu hiện hữu nơi chúng.
Tóm lại, theo Platon, ý niệm đóng vai trò vừa là khuôn mẫu của các sự vật, vừa là
đích mà các thực thể của thế giới khả giác hướng đến, lại vừa là khái niệm về cơ sở
chung của sự vật thuộc từng chủng loại.
Nhưng đến đây một vấn đề khác được đặt ra: đâu là nguyên nhân của tình trạng khả
biến, nhất thời, phân tán, cố hữu nơi sự vật khả giác. Nguyên nhân ấy được Platon gán
cho vật chất (chora) – bản nguyên thứ hai của vũ trụ.
Thế nào là vật chất? Thuật ngữ materia (vật chất) bằng tiếng Latin mà ta thường dùng
ngày nay ở một chừng mực nào đó có thể liên tưởng đến chora của Platon bằng tiếng
Hy Lạp. Vật chất – chora là một không gian giả định, “một số tiểu loại, không nhận
thấy, không có hình hài, không tìm được”. Theo cách ấy vật chất chẳng khác nào cái
không tồn tại, hay không là gì cả, nhưng theo Platon, nó có thực, và cũng có vai trò
hết sức to lớn đối với thế giới các sự vật; nó là tồn tại khác, không đồng hạng và đồng
lực với ý niệm như tồn tại. mà đi sau ý niệm. Chora rõ ràng khác với vật chất vật lý,
tức bốn dạng hành chất truyền thống trong triết học Hy Lạp cổ đại. Nếu Chora là cái
phi tất định, thì có thể so sánh nó với apeiron của Anaximandre, nếu chora là cái
“chứa đựng”, “mẹ nuôi”, “cái mà trong đó có cái gì đó”, thì lại tương tự như khoảng
không (kenon) của Démocrite. Nhưng Platon lại xem nó như cái đối lập với “chuẩn
mực”, và bị đẩy xuống môi trường không – thời gian như điều kiện của sự sinh diệt,
làm nguyên nhân của tính đa tạp, đơn nhất, tính vật, tính khả biến, khả tử, tính tất yếu
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 12
tự nhiên, cái ác và sự mất tự do. Thế giới khả giác – sự sinh thành – là kết quả của thế
giới idea và thế giới chora. Nếu thế giới các ý niệm là bản nguyên đàn ông tích cực,
thế giới các chora – bản nguyên đàn bà thụ động, thì thế giới các sự vật khả giác – đứa
trẻ của hai thế giới. Một mối quan hệ có tính chất huyền thoại của các sự vật và các ý
niệm được lập ra quan hệ sinh thành, còn xét theo nghĩa triết học quan hệ “thông dự”,
hay “tham dự”. Do chỗ sự vật “thông dự” vào ý niệm của mình, nó là sự phản ánh ý
niệm một cách thiếu hoàn thiện, lệch lạc. Do chỗ sự vật “thông dự” vào tồn tại khác,
khác với tính tách biệt, sự phân chia vô hạn của nó (vật chất), nên ở đó không có cái
gì là thực cả. Tóm lại thế giới các sự vật khả giác là lĩnh vực sinh thành, xuất hiện,
phát triển, tiêu vong. Thế giới ấy đồng thông dự vào tồn tại và tồn tại khác, hòa lẫn
trong mình những tính quy định đối lập nhau.
Nhưng ngoài vật chất như trung gian giữa ý niệm và thế giới các sự vật còn có một
linh hồn vũ trụ như sinh lực năng động và sáng tạo, nguồn gốc của vận động, sự sống,
nhận thức. Linh hồn vũ trụ ôm trọn thế giới các idea và thế giới các sự vật, kết hợp
chúng với nhau. Nó đưa các sự vật mô phỏng các idea, hướng các idea hiện diện trong
các sự vật. Nhưng để om trọn cả hai thế giới, linh hồn vũ trụ phải vừa hoàn bị, vừa hết
sức biến hóa, hàm chứa những xung động bên trong. Linh hồn vũ trụ gồm có ba phần:
đồng nhất, cái khác (cái khả biến) và sự hòa lẫn cả hai. Ở đó cái đồng nhất tương ứng
với idea, cái khả biến – vật chất, sự hòa lẫn – các sự vật. Cả vũ trụ lẫn linh hồn vũ trụ
do vị kiến trúc sư, hay hóa công (demiurge) nào đó nặn ra theo những môtíp và mục
đích nhất định.
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 13
Chủ nghĩa duy tâm Platon, thể hiện trong bản thể luận về ý niệm, về thế giới khả giác
và về vật chất, đã tạo được dáng vẻ bề thế của chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết
học. Nó vừa là chủ nghĩa duy tâm chiến đấu, vừa là chủ nghĩa duy tâm thông minh.
II.2 Lý luận về nhận thức
Từ thế giới quan trên đây, Platon đã quan niệm một cách duy tâm, thần bí về linh hồn.
Theo ông, thể xác của con người được cấu tạo từ đất, nước, lửa và không khí, nó chỉ
là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn. Linh hồn của con người là sản phẩm của linh hồn
vũ trụ được Thượng đế tạo ra từ lâu. Sau khi được tạo ra, mỗi linh hồn trú ngụ ở một
vì sao trên trời, sau đó dùng cánh bay xuống trần gian và nhập vào thể xác con người.
Khi nhập vào thể xác con người thì nó quên hết mọi quá khứ, do đó nhận thức của con
người chỉ là sự hồi tưởng lại những gì mà linh hồn đã có nhưng bị lãng quên.
Nhận thức thông thường cho chúng ta hình ảnh về thế giới hiện tượng, nó không
mang tính chân thực, chỉ là cái bóng mờ của bản chất sự vật. Hiện thực đích thực
không phải là cái mà nó hiện ra, mà là cái làm cho sự vật là cái nó có, được tinh thần
nắm bắt và thể hiện ra trong ngôn ngữ. Thế giới bản chất thuần tuý – đó là thế giới ý
niệm, nó nằm ngoài không gian, thời gian và không thay đổi. Thế giới ý niệm có
trước thế giới cảm biết, s inh ra thế giới cảm biết. Theo ông, đối tượng của nhận thức
không phải là các sự vật cảm tính khách quan bên ngoài, mà là thế giới ý niệm. Nhận
thức cảm tính không phải là nguồn gốc của tri thức; tri thức chân thực chỉ có thể đạt
được bằng nhận thức lý tính, được thể hiện ở các khái niệm. Bởi vì, mỗi sự vật đều có
một ý niệm về nó; sự vật có thể mất đi, nhưng ý niệm về sự vật không bao giờ mất. Ví
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 14
dụ cái nhà có thể sụp đổ, hư nát, không còn là cái nhà, nhưng ý niệm về cái nhà (khái
niệm nhà) thì không mất.
Bằng cách nào để có được nhận thức chân thực, đạt được chân lý? Bằng cách hồi
tưởng lại những gì linh hồn đã trải qua, nhưng khi nhập vào thể xác con người nó đã
bị lãng quên. Tóm lại, Platon đã quy toàn bộ quá trình nhận thức thành quá trình hồi
tưởng của linh hồn bất tử, rất thần bí.
Theo Platon tri thức đuợc phân làm hai loại: Tri thức hoàn toàn đúng đắn và tri thức
mờ nhạt. Loại thứ nhất là tri thức ý niệm có đựơc nhờ hồi tưởng. Loại thứ hai là tri
thức nhận được nhờ vào nhận thức cảm tính, lẫn lộn đúng sai không có chân lí.
II.3. Học thuyết về chính trị - xã hội
Trong tác phẩm Nước cộng hoà (Chính thể cộng hoà), Pla-tôn chia linh hồn làm ba bộ
phận: lý tính hay trí tuệ, xúc cảm và cảm tính. Tương ứng với ba bộ phận ấy là ba
hạng trong xã hội. Hạng thứ nhất, là các nhà triết học, nhà thông thái. Hạng này lý
tính giữa vai trò chủ đạo, thích hợp với việc lãnh đạo nhà nước. Hạng thứ hai, là
những người lính, võ sĩ mà linh hồn của họ tràn đầy xúc cảm gan dạ, biết phục tùng lý
trí và nghĩa vụ, thích hợp với việc bảo vệ an ninh của nhà nước cộng hoà. Hạng thứ
ba, là đại chúng, gồm những người nông dân, thợ thủ công và thương nhân. Hạng này
linh hồn của họ không đi xa hơn những khát vọng cảm tính thích nghi với lao động
chân tay, làm ra của cải vật chất phục vụ cuộc sống của nước cộng hoà. Vì vậy, công
lý là ở chỗ mọi người phải sống đúng vị trí của mình.
Để duy trì trật tự xã hội, Platon cho rằng sự tồn tại của nhà nước là cần thiết, nhưng
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 15
ba hình thức nhà nước hiện nay đều xấu. Một là nhà nước của bọn vua chúa xây dựng
trên khát vọng làm giầu, ham danh vọng, đưa đến chiến tranh. Hai là, nhà nước quân
phiệt của một số ít người giầu có, áp bức số đông, đưa đến tội ác. Ba là, nhà nước dân
chủ đem lại quyền lực cho số đông; đó là một nhà nước tồi tệ.
Platon đưa ra quan niệm về nhà nước lí tưởng trong đó sự tồn tại và phát triển của nhà
nước lí tưởng dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất, sự phân công hài hoà các
ngành nghề và giải quyết các mâu thuẫn xã hội. Platon nêu lên mô hình nhà nước
cộng hoà. Trong nhà nước ấy, quan hệ bất bình đẳng giữa các hạng người phải được
duy trì, bởi vì nó hợp với tự nhiên, hợp với sự phân công trong xã hội. Sự tồn tại của
nhà nước lý tưởng phải dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất và sự phân công
hài hoà giữa các nghề trong xã hội. Để khắc phục sự phân chia giàu nghèo, cần xoá bỏ
gia đình và tư hữu. Trẻ con sinh ra được đưa vào các cơ quan giáo dục riêng, lựa chọn
những đứa trẻ khỏe mạnh, nuôi dưỡng chúng để trở thành vệ binh. Các nhà thông thái,
triết học sẽ được lựa chọn trong số vệ binh này.
Quan niệm về một nhà nước lý tưởng trên đây của Platon chứa đựng nhiều mâu thuẫn.
Một mặt, ông muốn xoá bỏ tư hữu, mặt khác, ông lại chủ trương duy trì sự bất bình
đẳng giữa các hạng người. Một mặt, ông đề cao hình thức cộng hoà, mặt khác ông lại
ra sức bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô quý tộc, chống lại nhà nước dân chủ Aten.
Nhà nước mà ông coi là lý tưởng, thực chất chỉ là sự biện hộ cho giai cấp chủ nô quý
tộc. Đúng như nhận xét của Mác, nó chỉ là lý tưởng hoá chế độ đẳng cấp của Aicập
vào Aten mà thôi.
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 16
II.4 Những môn đệ của Platon
Nổi tiếng nhất trong số những người môn đệ của ông là Aristoteles. Ngoài ra, sau này
có Plotinus (Πλωτίνος), một triết học gia người Ai Cập (với cái tên La Mã) có thể
được coi là một triết gia Hy Lạp vĩ đại cuối cùng cũng là một người chịu ảnh hưởng
của Platon. Tư tưởng của ông phát triển khuynh hướng thần bí của Platon và sau đó
được biết tới như học thuyết Tân Platon (Neo-Platonism).
Dưới góc nhìn triết học duy tâm, nhà triết học Platon cũng đã đề cao linh hồn,
ông cho rằng tri thức đích thực không thể nhận biết được nếu không dùng tư duy con
người (linh hồn nhận thức tri thức). Ông coi thường những giác quan của con người
(được tạo ra từ thể xác). Đối với ông tri thức đích thực sẽ không nhận thức được bằng
giác quan thông thường.
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 17
Chương III: Ảnh hưởng của tư tưởng Platon đối với đời sống văn
hóa tinh thần của thời đại
Tư tưởng của Platon còn là nền tảng chi phối sâu xa trên tinh thần của thế giới tây
phương sau này.
Sau khi Platon qua đời, người cháu của ông tên là Speusippus trở thành Viện Trưởng
của trường Academos . Trường Đại Học này tiếp tục hoạt động cho tới năm 529 sau
Tây Lịch, khi Hoàng Đế Byzantine là Jus tinian I ra lệnh đóng cửa vì cho rằng trường
phổ biến các lời giảng dạy tà giáo (pagan teachings). Tuy nhiên ảnh hưởng của Platon
đã được lan truyền khắp nơi. Nền triết học của Platon đã thể hiện qua tác phẩm của
Philo Judaeus, nhà triết học Do Thái, cư ngụ tại thành Alexandria vào thế kỷ thứ 1 sau
Tây Lịch. Vào thế kỷ thứ 3, nhà triết học Plotinus đã khai triển nền triết học Platon-
Mới (NeoPlatonism) tại thành phố Rome. Các nhà thần học Clement of Alexandria,
Origen, Boethius và Thánh Augus tine là những người chịu ảnh hưởng của nền triết
học Platonic đồng thời các ý tưởng của Platon đã đóng vai trò chính yếu trong việc
phát triển nền thần học Thiên Chúa giáo (Christian theology) cũng như các tư tưởng
Hồi giáo (Islamic thoughts) của thời Trung Cổ.
Qua thế kỷ 13, Aristotle đã là nhà triết học Cổ Hy Lạp gây nên nhiều ảnh hưởng mạnh
nhất trong thế giới tư tưởng Thiên Chúa giáo nhưng bước sang thời kỳ Phục Hưng
(the Renaissance), Hàn Lâm Viện Florantine do gia đình Medici thiết lập, lại chú
trọng vào nền triết học của Platon. Được thành lập vào thế kỷ 15 gần thành phố
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 18
Florence, các nhân viên của Hàn Lâm Viện này dưới sự điều khiển của Marsilio
Ficino, đã nghiên cứu các tác phẩm của Platon viết bằng tiếng Hy Lạp.
Tại nước Anh, học thuyết của Platon đã sống lại vào thế kỷ 17 do Ralph Cudworth và
các người cộng tác, những học giả này được gọi là The Cambridge Platonists (nhóm
theo Platon thuộc trường Đại Học Cambridge). Họ cố công dùng các lời giảng dạy
của Platon và cách diễn đạt của nhóm NeoPlatonist để làm hòa hợp lý trí (reason) với
tôn giáo. Qua thế kỷ 20, các nhà tư tưởng như Alfred North Whitehead cũng nghiên
cứu và phổ biến các công trình của Platon.
Các tác phẩm đối thoại của Platon đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau và
được phổ biến bằng nhiều ấn bản. Một trong các bản dịch được nhiều học giả biết tới
nhất là của ông Benjamin Jowett (1), thuộc trường Đại Học Oxford, nước Anh.
Bên cạnh đó, tư tưởng triết học của ông còn ảnh hưởng sâu rộng đối trong các tư
tưởng của các nhà triết học về sau cũng như thể hiện trong đời sống thông qua các
quan niệm.
Các nhà triết học thời cận đại, từ Hegel đến Heidegger cũng đều công nhận rằng:
những ý tưởng về mỹ học chỉ có thể đến sau các tác phẩm nghệ thuật. Tuy nhiên, trên
thực tế, những tư tưởng triết học, hay tôn giáo, đã có những ảnh hưởng quyết định lên
các nền nghệ thuật, từ những tư tưởng triết học của Platon về cái đẹp tuyệt đối, về
những ý tưởng tiên nghiệm của Thượng đế, và những lý thuyết cổ điển của Aristote
về nghệ thuật, coi nghệ thuật như là một sự sao chép thiên nhiên, đến những tư tưởng
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 19
tôn giáo của Saint Augustin về quan hệ gắn bó giữa con người và Chúa sinh ra vạn
vật; rồi từ những tư tưởng của Descartes về vai trò của chủ thể, đến luận thuyết của
Kant về tính chất chủ quan của cái đẹp, v.v.
III.1 Về nghệ thuật
Thực ra, nhìn với quan niệm của người ngày nay, thì những tư tưởng của Platon và
Aristote về nghệ thuật, là những tư tưởng chống nghệ thuật, chứ không phải là những
tư tưởng tôn vinh nghệ thuật, nhưng ở thời của Platon, triết học có một uy quyền rất
lớn trong xã hội, và tiếng nói của các triết gia có thế lực như Platon, Aristote, là quyết
định, nhất là đây lại là những nhà giáo dục, có đầy đủ thẩm quyền và phương tiện để
truyền bá những điều mình phán quyết. Ở thời Platon, không có gì qua mặt được triết
học. Điều này, xét cho cùng, cũng chỉ là đúng thôi (nếu ta nhận thức được tầm quan
trọng của triết học trong đời sống và trong các lãnh vực văn hóa, nghệ thuật), nhưng
thái độ của Platon đã rất cực đoan: dựa vào định kiến cho rằng nghệ thuật, từ hội họa
đến thi ca, đều chỉ là sự bắt chước, hay sao chép thiên nhiên, và không có gì là thực
cả, cho nên cũng không có giá trị thực, ông đã có một thái độ khinh miệt đối với cả
nghệ thuật, lẫn thi ca. Điều kỳ lạ, là trong nhiều thế kỷ, phương Tây đã tôn vinh
những tư tưởng ấy, để rồi phải hứng chịu những hậu quả tiêu cực của chúng, mà mãi
sau này mới nhận ra được.
Một tư tưởng khác của Platon cũng đã có ảnh hưởng trực tiếp đến quan niệm cổ điển
về đối tượng của nghệ thuật. Platon cho rằng: cái đẹp (khách thể) là nguồn gốc của sự
ham thích nó ở nơi con người (chủ thể). Chính cái đẹp của đối tượng , tức của khách
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 20
thể, đã cuốn hút người nhìn, và gây nên sự ham thích ở nơi người nhìn, tức nơi chủ
thể. Như vậy, có nghĩa là: cái đẹp của đối tượng là có thật, độc lập với ta, và ở ngoài
ta. Điều mà, 22 thế kỷ sau, Kant đã phủ định với tác phẩm Phê phán năng lực phán
đoán (1790). Đối với Kant, cái đẹp chỉ có giá trị chủ quan và không nằm trong đối
tượng.
Còn Aristote, thì mặc dầu không đồng ý với những ý kiến trên của Platon, nhưng vì
tôn trọng ông thầy của mình, và vì bản thân không phải là một nghệ sĩ, nên vẫn chủ
trương bắt chước thiên nhiên, coi đó là mẫu mực, là sự thật khách quan (Aristote,
Poétique), ví dụ như thân thể con người là gương mẫu của cái đẹp của tỷ lệ và của sự
hài hòa.
Trải qua các thời kỳ và phong cách nghệ thuật ở phương Tây, từ nghệ thuật cổ đại Hy
Lạp, đến những bước đầu của nghệ thuật Kitô giáo; rồi từ thời Trung cổ (với các
phong cách Rômăng, Gôtíc), đến các thời kỳ Tiền Phục Hưng, Phục Hưng, Nguyên
khai Flamand, Cổ điển, Barốc, Lãng mạn, Hiện thực tự nhiên, Ấn tượng, nghệ thuật
chính thống luôn luôn tôn vinh sự sao chép "giống như thật", trong tinh thần của
Aristote, với mục đích thể hiện y nguyên hiện thực, mặc dầu với một cái nhìn thẩm
mỹ nhất định, song hoàn toàn không "diễn dịch" hoặc phê phán hiện thực.
Đó là nguyên lý cơ bản của nền nghệ thuật coi trọng khách thể, có từ Aristote, và đã
tồn tại bền bỉ cho đến ngày nay, ít ra là ở một số nghệ sĩ tượng hình. Người ta còn
nhớ, cho tới những thập niên đầu của thế kỷ XX, nền nghệ thuật hàn lâm, mà tiền
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 21
thân là nền nghệ thuật cổ điển của Pháp, vẫn ngự trị một cách chính thống ở khắp Âu
châu, đặc biệt là ở Pháp.
III.2 Nghệ thuật Kitô giáo
Những ý tưởng của Platon và Aristote về quan hệ giữa khách thể và chủ thể (một
đằng là cái đẹp, hay đối tượng vẽ, một đằng là người nghệ sĩ, hay người thưởng thức
nghệ thuật), cũng như về sự bắt chước, hay sao chép thiên nhiên, về đại thể, cũng đã
được nghệ thuật Kitô giáo lấy lại và tiếp tục phát triển trong suốt 20 thế kỷ, mặc dầu
trên một số điểm, nhất là trong lãnh vực siêu hình học, quan niệm của Kitô giáo có
khác với quan niệm của các triết gia Hy Lạp.
Chỉ riêng về cái đẹp, quan niệm Kitô giáo cho rằng: mọi vật trên đời này đều đẹp, vì
do đức chúa Trời Ba Ngôi sáng tạo ra; chúng phản ánh cái đẹp toàn mỹ của Chúa.
(Con người được Chúa sáng tạo ra dựa theo hình ảnh của Chúa, nghĩa là mặc dầu
khác với Chúa, nhưng con người cũng có đủ những đức tính và khả năng để tham gia
vào công cuộc sáng tạo của Chúa, đặc biệt là sáng tạo ra cái đẹp). Như vậy có nghĩa
là, trong đạo Kitô, đức chúa Trời đã được "nhân hóa" và do đó cái đẹp được thể hiện
một cách cụ thể trên tất cả các nhân vật, từ đức chúa Giê-Su, đến đức Bà Maria, đến
Chư thánh, v.v. (Xem các nền hội họa thời Trung cổ, Tiền Phục Hưng và Phục Hưng).
Đây là một trong những lý do khiến cho ảnh hưởng của chủ nghĩa cổ điển Hy Lạp đã
bị lu mờ trong suốt thời trung cổ ở Âu châu, để nhường chỗ cho nghệ thuật Kitô giáo
phát triển rực rỡ, gần như liên tục, trong suốt gần 20 thế kỷ với những kiệt tác thể hiện
các truyện tích, và các nhân vật trong Kinh Thánh.
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 22
III.3 Quan niệm hiện đại về nghệ thuật
Những năm đầu thế kỷ XX, hội họa hiện đại đã ra đời với một loạt ý tưởng và quan
niệm mới mẻ về mặt thẩm mỹ: màu sắc, nét vẽ (Van Gogh, Gauguin, Cézanne); cách
đưa đối tượng lên phía trước (Cézanne), cách tái tạo lại đối tượng trong một cấu trúc
(trường phái lập thể: Picasso, Braque...). Cách thể hiện nhịp điệu và sự chuyển động
(Boccioni, Mondrian, Marcel Duchamp...). Song, ngoài ra còn có những ý tưởng có
tính chất triết học, hoàn toàn đi ngược lại với những quan niệm cổ điển, và đã có một
ảnh hưởng quyết định lên nghệ thuật, như: phủ nhận sự sao chép đối tượng (phong
cách biểu hiện, dã thú, lập thể), thậm chí phủ nhận tất cả những hình tượng gợi nhắc
đến thế giới tự nhiên (hội họa trừu tượng).
Thọat tiên, là những tìm tòi của Cézannes- một trong những họa sĩ trừu tượng đầu
tiên, từ những nét cọ giàu nhịp điệu, từ cấu trúc khoẻ mạnh của các hình thể và màu
sắc, từ cách đưa đối tượng lên phía trước, đến sự phủ nhận gần như hoàn toàn đối
tượng vẽ (bức họa Vườn Lauves, 1906).
Van Gogh cũng đã đem đến những ý tưởng mới mẻ về nét vẽ, nhịp điệu, và màu sắc.
Điều đáng chú ý, là ông đã một mình một ngựa, đi theo con đường sáng tạo riêng của
mình và đã khẳng định được một cá tính rõ rệt. Gauguin cũng đưa ra những ý tưởng
độc đáo về tính chất bí ẩn của màu sắc, và nhất là tính độc lập của màu sắc trên tác
phẩm so với màu sắc thật của đối tượng.
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 23
Các họa sĩ biểu hiện như Munch và Kirchner cũng đã sử dụng một ngôn ngữ mới,
mạnh mẽ, với những nét vẽ giàu nhịp điệu và với những màu sắc dữ dội.
Năm 1907, tác phẩm Les Demoiselles d'Avignon của Picasso ra đời, mở đường cho
phong cách lập thể, với tham vọng thể hiện đối tượng không phải như mắt ta nhìn
thấy từ một điểm nhìn, mà từ nhiều góc cạnh.
Song, hội họa trừu tượng mới là dòng hội họa phủ nhận triệt để nhất đối tượng sao
chép, và nhất là nó phủ nhận tất cả những hình tượng tồn tại trong thế giới tự nhiên
(Kandinsky, Mondrian, Malevitch... 1910). Có thể nói rằng, đây là một luật chơi mới,
một thách thức mới. Tác phẩm trừu tượng, theo đúng nghĩa của nó, phải chứng minh
được rằng: cái đẹp nghệ thuật do trí tưởng tượng của con người sáng tạo ra hoàn toàn
độc lập với thế giới tự nhiên. Đương nhiên, không phải ai vẽ tranh trừu tượng cũng
đều phải nghĩ như thế, nhưng tiêu chuẩn là như thế, và luật chơi là như thế.
Nói chung, tất cả các họa sĩ và các trường phái kể trên đều đã có những tuyên ngôn về
xu hướng nghệ thuật của mình, trước hay sau khi các tác phẩm ra đời.
Điều mới mẻ nhất, có thể nhận thấy được trong các đổi thay về quan niệm thẩm mỹ, ít
nhất từ 50 năm nay, là: trong hội họa trừu tượng, cùng với một dòng tranh thiên về
nhịp điệu (Pollock, Hartung, Zao Wou Ki...), có một dòng tranh thiên về ký hiệu ra
đời gần như cùng một lúc (Soulages, Sugai, Tuan...). Có thể nói rằng, đây tuy không
phải là một "cặp khái niệm" đối nghịch, nhưng về mặt thẩm mỹ, hai khái niệm này
khác hẳn nhau, như ngày và đêm.Tuy nhiên, cái đẹp của ký hiệu và cái đẹp của nhịp
điệu không phải là hai khái niệm đối nghịch duy nhất trong nghệ thuật, mà còn nhiều
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 24
cặp khái niệm khác: cái đẹp động và tĩnh; cái đẹp cổ điển và cái đẹp Barốc, hay lãng
mạn; cái đẹp tượng hình và cái đẹp trừu tượng...
Thế kỷ XXI không biết có đem đến được cái gì mới hơn không cho nghệ thuật, nhưng
rõ ràng con người sống trong thời đại điện tử và truyền thông ngày nay, càng ngày
càng ý thức được sự đa dạng của nghệ thuật, đang tràn ngập vào đời sống, với những
kích thước mới, và những phương tiện mới. Điều này, tự nó cũng đã là cả một sự đổi
thay quan trọng rồi, không phải chỉ về mặt nghệ thuật mà thôi, mà còn cả về mặt nhận
thức về sự tự do của con người, nói chung. Ở thời của Platon, triết học có một uy
quyền rất lớn trong xã hội, và tiếng nói của các triết gia có thế lực như Platon,
Aristote, là quyết định, nhất là đây lại là những nhà giáo dục, có đầy đủ thẩm quyền
và phương tiện để truyền bá những điều mình phán quyết. Ở thời Platon, không có gì
qua mặt được triết học. Điều này, xét cho cùng, cũng chỉ là đúng thôi (nếu ta nhận
thức được tầm quan trọng của triết học trong đời sống và trong các lãnh vực văn hóa,
nghệ thuật), nhưng thái độ của Platon đã rất cực đoan: dựa vào định kiến cho rằng
nghệ thuật, từ hội họa đến thi ca, đều chỉ là sự bắt chước, hay sao chép thiên nhiên, và
không có gì là thực cả, cho nên cũng không có giá trị thực, ông đã có một thái độ
khinh miệt đối với cả nghệ thuật, lẫn thi ca. Điều kỳ lạ, là trong nhiều thế kỷ, phương
Tây đã tôn vinh những tư tưởng ấy, để rồi phải hứng chịu những hậu quả tiêu cực của
chúng, mà mãi sau này mới nhận ra được.
Một tư tưởng khác của Platon cũng đã có ảnh hưởng trực tiếp đến quan niệm cổ điển
về đối tượng của nghệ thuật. Platon cho rằng: cái đẹp (khách thể) là nguồn gốc của sự
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 25
ham thích nó ở nơi con người (chủ thể). Chính cái đẹp của đối tượng , tức của khách
thể, đã cuốn hút người nhìn, và gây nên sự ham thích ở nơi người nhìn, tức nơi chủ
thể. Như vậy, có nghĩa là: cái đẹp của đối tượng là có thật, độc lập với ta, và ở ngoài
ta. Điều mà, 22 thế kỷ sau, Kant đã phủ định với tác phẩm Phê phán năng lực phán
đoán (1790). Đối với Kant, cái đẹp chỉ có giá trị chủ quan và không nằm trong đối
tượng.
Còn Aristote, thì mặc dầu không đồng ý với những ý kiến trên của Platon, nhưng vì
tôn trọng ông thầy của mình, và vì bản thân không phải là một nghệ sĩ, nên vẫn chủ
trương bắt chước thiên nhiên, coi đó là mẫu mực, là sự thật khách quan (Aristote,
Poétique), ví dụ như thân thể con người là gương mẫu của cái đẹp của tỷ lệ và của sự
hài hòa (các tượng thần Apollon, thần Vệ nữ, v.v. là những tác phẩm cổ điển Hy Lạp,
mà khuôn mẫu là cơ thể hài hòa của con người).
Trải qua các thời kỳ và phong cách nghệ thuật ở phương Tây, từ nghệ thuật cổ đại
Hy-La, đến những bước đầu của nghệ thuật Kitô giáo; rồi từ thời Trung cổ (với các
phong cách Rômăng, Gôtíc), đến các thời kỳ Tiền Phục Hưng, Phục Hưng, Nguyên
khai Flamand, Cổ điển, Barốc, Lãng mạn, Hiện thực tự nhiên, Ấn tượng, nghệ thuật
chính thống luôn luôn tôn vinh sự sao chép "giống như thật", trong tinh thần của
Aristote, với mục đích thể hiện y nguyên hiện thực, mặc dầu với một cái nhìn thẩm
mỹ nhất định, song hoàn toàn không "diễn dịch" hoặc phê phán hiện thực.
Đó là nguyên lý cơ bản của nền nghệ thuật coi trọng khách thể, có từ Aristote, và đã
tồn tại bền bỉ cho đến ngày nay, ít ra là ở một số nghệ sĩ tượng hình. Người ta còn
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 26
nhớ, cho tới những thập niên đầu của thế kỷ XX, nền nghệ thuật hàn lâm, mà tiền
thân là nền nghệ thuật cổ điển của Pháp, vẫn ngự trị một cách chính thống ở khắp Âu
châu, đặc biệt là ở Pháp.
III.3.1 Nghệ thuật Kitô giáo
Những ý tưởng của Platon và Aristote về quan hệ giữa khách thể và chủ thể (một
đằng là cái đẹp, hay đối tượng vẽ, một đằng là người nghệ sĩ, hay người thưởng thức
nghệ thuật), cũng như về sự bắt chước, hay sao chép thiên nhiên, về đại thể, cũng đã
được nghệ thuật Kitô giáo lấy lại và tiếp tục phát triển trong suốt 20 thế kỷ, mặc dầu
trên một số điểm, nhất là trong lãnh vực siêu hình học, quan niệm của Kitô giáo có
khác với quan niệm của các triết gia Hy Lạp.
Chỉ riêng về cái đẹp, quan niệm Kitô giáo cho rằng: mọi vật trên đời này đều đẹp, vì
do đức chúa Trời Ba Ngôi sáng tạo ra; chúng phản ánh cái đẹp toàn mỹ của Chúa.
(Con người được Chúa sáng tạo ra dựa theo hình ảnh của Chúa, nghĩa là mặc dầu
khác với Chúa, nhưng con người cũng có đủ những đức tính và khả năng để tham gia
vào công cuộc sáng tạo của Chúa, đặc biệt là sáng tạo ra cái đẹp). Như vậy có nghĩa
là, trong đạo Kitô, đức chúa Trời đã được "nhân hóa" và do đó cái đẹp được thể hiện
một cách cụ thể trên tất cả các nhân vật, từ đức chúa Giê-Su, đến đức Bà Maria, đến
Chư thánh, v.v. (Xem các nền hội họa thời Trung cổ, Tiền Phục Hưng và Phục Hưng).
Đây là một trong những lý do khiến cho ảnh hưởng của chủ nghĩa cổ điển Hy Lạp đã
bị lu mờ trong suốt thời trung cổ ở Âu châu, để nhường chỗ cho nghệ thuật Kitô giáo
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 27
phát triển rực rỡ, gần như liên tục, trong suốt gần 20 thế kỷ với những kiệt tác thể hiện
các truyện tích, và các nhân vật trong Kinh Thánh.
III.3.2 Những tư tưởng của St Augustin, Descartes, và Kant
Người đầu tiên đã đưa ra được những luận cứ để chống lại cách nhìn của Aristote, coi
nghệ thuật chỉ là sự sao chép thiên nhiên, chính là Kant, triết gia người Đức. Theo
Kant, tác phẩm nghệ thuật không phải là bản sao của thiên nhiên, mà ngược lại:
"Thiên nhiên chỉ đẹp khi nó giống như tác phẩm nghệ thuật, và tác phẩm nghệ thuật
chỉ đẹp khi nó giống như thiên nhiên" (Kant, Phê phán năng lực phán đoán, 1790).
Điều đặc biệt quan trọng đã được Kant vạch ra, và đã có một ảnh hưởng vô cùng to
lớn lên nghệ thuật, đó là: cái đẹp không nằm trong đối tượng, dù cho đó là một cảnh
thiên nhiên, hay một tác phẩm nghệ thuật, mà tuỳ thuộc vào sự phán đoán của người
nhìn ngắm nó, tức chủ thể.
Sau Kant, Hegel đã có những ý tưởng cực đoan hơn về mối quan hệ giữa thiên nhiên
và nghệ thuật, và ông đã có một thái độ khinh rẻ đối với tất cả những gì là của thiên
nhiên. Đối với ông cái đẹp của nghệ thuật mới đáng để cho ta chú ý đến, vì nó là sản
phẩm của trí tuệ con người. Còn cái đẹp của thiên nhiên là cái đẹp của những vật vô
tri, và do đó không có giá trị. Phải chăng cũng vì vậy, mà Hegel đã đồng ý với Platon
về nguồn gốc của cái đẹp lý tưởng, là những ý tưởng tiên nghiệm của Thượng đế mà
con người còn nhớ được.
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 28
Nói đến vai trò của chủ thể, không thể nào không đi trở ngược lên đến St Augustin,
người đã đem đến cho đạo Kitô một kích thước mới: kích thước con người. Nhưng
quan trọng hơn cả, là những tư tưởng triết học của Descartes, với tác phẩm Diễn từ về
phương pháp luận (1637). Có thể nói rằng với tác phẩm này, phương Tây đã khám
phá ra tầm quan trọng của chủ thể, của cái tôi, trong nhận thức về thế giới xung
quanh, và đặc biệt là trong quan niệm về nghệ thuật và người nghệ sĩ.
Không biết Rubens (1577-1640), nhà họa sĩ trứ danh người Hà Lan, đã có dịp đọc tác
phẩm của Descartes chưa, nhưng ông đã là người họa sĩ đầu tiên vẽ với một phong
cách bay bướm và một cá tính mạnh mẽ, khác hẳn với phong cách hội họa thời Phục
Hưng. Có thể nói rằng, về một mặt nào đó, ít ra về hình thức, Rubens là một họa sĩ đã
đi trước tất cả những họa sĩ cùng thời, báo hiệu sự ra đời - hơn một thế kỷ sau - của
phong cách Barốc và phong cách lãng mạn.
GVHD: Thầy Bùi Văn Mưa
Học viên Nguyễn Ngọc Đăng Khoa 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
N. Tranysev: Bài giảng về Triết học cổ đại, Moskva, 1980, trang 247.
Câu chuyện Triết học – Wiil Durand- Trí Hải và Bửu Đính dịch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- platon_nguyen_ngoc_dang_khoa_2965.pdf