Những hình ảnh của khoảng cân bằng lực lượng đối lập cho thấy một mức độ căng
thẳng và bất ổn tiềm tàng. Trong hoàn cảnh như vậy sự thay đổi đơn phương của
một phíacó thể mang lại kịch tính, không liên tục. Khả năng như vậy tồn tại
trong chính trị thế giới như là tốt. Với tham chiếu một lần nữa để kết thúc chiến
tranh lạnh Mỹ- Xô , nó có thể tưởng tượng rằng một bước đột phá bất ngờ trong
cải cách chính trị ở Trung Quốc ,có thể mở đường cho cải tiến căn bản quan hệ với
Hoa Kỳ. Đồng thời, có thể thấy rằng một cuộc khủng hoảng bất ngờ hoặc quản lý
yếu kém (ví dụ trên Đài Loan, hoặc Bắc Triều Tiên, hoặc ở Nam Á) có thể dẫn
đến kết quả ngược lại. Nếu bằng cách nào đó Mỹ và Trung Quốc phát vỡ thế đối
đầu kìm hãm chuyển sang đối đầu trực thiết, quan hệ giữa hai quốc gia thành có
thế thay đổi một trời một vực. Thương mại và Ngoại giao có thể bị đổ vỡ hoàn
toàn, quan hệ không mấy thân thiện ngày càng sa lầy; cải cách chính trị nội bộ của
Trung Quốc có thể đem lại nhưng hậu quả không lường trước; và viễn cảnh về
một hiệp ước thân thiện thực sự giữa 2 cường quốc bên bờ Thái Bình Dương có
thể bị đình hoãn một thế hệ hoặc lâu hơn thế.
28 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3817 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tương lai quan hệ Mỹ - Trung: xung đột là không tránh khỏi?, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảo được
những điều kiện mà họ cho là chính đáng của mình, trong nội bộ và trên trường
quốc tế.
Sự tương quan giữa tăng cường sức mạnh và tăng cường lợi ích đã được mô tả
một cách ngắn gọn bởi Robert Gilpin: “một quốc gia giàu có và hùng mạnh sẽ đạt
được nhiều mục tiêu an ninh và phúc lợi hơn một quốc gia yếu hơn.
Trong quá trình đòi quyền lợi cho bản thân, những quốc gia đang lên thường bị
kéo vào những tình huống họ bị yếu thế. Lãnh đạo và nhân dân họ thường cảm
thấy bị bỏ lại khi những miếng bánh lợi nhuận được chia chác, và thậm chí cho
rằng họ bị tước đoạt một số quyền lợi do những yếu thế của họ. Giống như nước
Đức vào đầu thế kỉ 20 luôn muốn tự đặt mình vào những tình huống đối chọi với
những siêu cường, vốn là những kiến trúc sư làm nhiệm vụ thiết lập trật tự thế giới.
Sự xung đột giữa việc mở rộng lợi ích giữa những quốc gia đang lên và những
cường quốc có thể được giải quyết bằng nhiều cách, nhưng những bất đồng ít khi
được dàn xếp một cách hòa bình. Nhận ra được mối đe dọa đến vị thế của mình, 1
cường quốc thường sử dụng vũ lực nhằm tiêu diệt một quốc gia đang lên trước khi
quốc gia đó đạt được hết tiền năng của mình.
Ít hiếu chiến hơn là những cường quốc. Những cường quốc đôi lúc cũng tìm kiếm
những giải pháp xoa dịu những quốc gia đang lên, tìm cách đáp ứng những tham
vọng và yêu cầu của họ và đặt họ 1 cách hòa bình vào trật tự thế giới sẵn có. Tuy
nhiên những nỗ lực này thường thất bại. Nguyên nhân đôi khi là do tư duy của
lãnh đạo của các quốc gia đang lên. Hitler là một điển hình, khi mà tham vọng của
quốc gia đang lên đã vượt quá tầm các siêu cường có thể đáp ứng mà không bị diệt
vong.
Kể cả khi những yêu cầu hạn hẹp hơn, những siêu cường vẫn rất miễn cưỡng để
nhân nhượng, do đó làm tăng sự tức giận của các quốc gia đang lên; hoặc quá vội
vàng đáp ứng, dẫn đến sự đòi hỏi leo thang. Các chiến lược ngoại giao nhằm gắn
kết, hòa giải có thể có trong lý thuyết, nhưng thực tế đã chỉ ra là rất khó áp dụng
trong thực tế.
Nhìn vào hiện thực là sự mở rộng kinh tế và tăng trưởng tiềm lực quân sự của
Trung Quốc, thì hầu hết các nhà hiện thực bi quan đều kết luận rằng Trung Quốc là
1 cường quốc đang lên, và không chắc rằng Trung Quốc sẽ hành động khác với
những nước thuộc cùng loại ( cường quốc đang lên) trong lịch sử. Huntington, sau
khi mô tả sự tương quan giữa sự tăng trưởng nhanh chóng trong nước và sự mở
rộng bên ngoài của những trường hợp trong quá khứ, đã sự đoán rằng TQ cũng sẽ
“chắc chắc bước vào 1 thời kì như vậy vào thập niên tiếp theo”. Tương tự, theo
John Mearsheimer, miễn là quyền lực của TQ còn tiếp tục phát triển thì “ TQ, như
tất cả các nước có tiềm năng bá quyền trước đây, sẽ có khuynh hướng sẵn sàng trở
thành 1 nước bá quyền thật sự”.
Một số nhà phân tích còn đi sâu hơn, tranh luận rằng TQ đặc biệt hung hăng, thậm
chí có nguy cơ gây xung đột với các nước khác. Lịch sử TQ gần đây, “ thế kỉ nhục
nhã ” - mà bắt đầu với cuộc chiến tranh thuốc phiện những năm 1840 và chỉ kết
thúc với việc đuổi được các cường quốc khác khỏi đại lục sau CTTG II, có vẻ đã
khiến những nhà lãnh đạo TQ và người TQ nhạy cảm sâu sắc để nhận thấy sự coi
nhẹ đối với danh dự và uy tín quốc gia và đặc biệt cảnh giác với những mối đe
dọa xung quanh nước họ. Do những trải nghiệm đau thương từ thế kỉ 19, 20,
những nhà chiến lược TQ đương đại càng hăng hái hơn lúc nào hết tạo lập vùng
ảnh hưởng hay khu vực kiểm soát để ngăn chặn những mối nguy như vậy tái xuất
hiện trong tương lai.
Quay lại quá khứ lâu hơn nữa, các nhà quan sát khác chỉ ra thực tế rằng, trước khi
TQ bị suy giảm và bị thống ttrị bởi các nước khác, trong nhiều thế kỉ, TQ đã là ảnh
hưởng mạnh mẽ ở châu Á và là trung tâm của hệ thống Sinocentric Asian ( châu Á
với TQ là trung tâm ). Khi họ thích nghi với hiện thực của sự phát triển quyền lực
và tìm kiếm những hình mẫu để dẫn đường cho hành động của mình dưới những
điều kiện ngày càng thuận lợi, lãnh đạo Bắc Kinh đã có thể tìm lại cái thời vinh
quang trước đó, và tìm cách tái thiết TQ thành 1 cường quốc vượt trội của Đông Á.
Một vài cơ quan chính phủ Mỹ đã kết luận rằng các nhà lãnh đạo hiện tại của TQ
muốn “ tối đa hóa ảnh hưởng của TQ cho cân bằng với Mỹ”, nói thẳng ra là, để trở
thành “cường quốc vượt trội ở châu Á”. Nếu điều này đúng, và giả sử là Mỹ tiếp
tục giữ cái chính sách cũ hàng thế kỉ chống lại sự thống trị của Á – Âu bằng sức
mạnh thù địch hoặc liên minh, thì sân khấu sẽ được chuẩn bị cho 1 cuộc cạnh
tranh căng thẳng và có thể kéo dài giữa 2 người khổng lồ ở Thái Bình Dương
Tình thế lưỡng nan về an ninh
Kể cả nếu ai đó không chấp nhận quan điểm rằng mục đích của TQ là muốn thế
chân Mỹ trở thành quyền lực vượt trội ở Đôg Á thì vẫn có khả năng cho một cái
kết bi quan về tương lai của mối quan hệ Mỹ -Trung, điều này có thể được viện
dẫn ra qua cơ chế của Tình thế lưỡng nan về an ninh. Nói cách khác, kể cả mục
đích lớn hơn của hai bên chỉ đơn thuần là tự vệ thì cách mà 2 nước này dùng để
bảo vệ vị thế và giành lấy những mục tiêu của mình vẫn có thể làm cho nước kia
phải cảnh giác và có những biện pháp trả đũa. Điều này có vẻ như đang diễn ra
trên một vài phương diện của mối quan hệ Mỹ-Trung hiện tại.
Về phần Đài Loan, mục tiêu của TQ có lẽ chỉ là ngăn cản không cho hòn đảo này
tiến tới độc lập. Các nhà lãnh đạo của TQ có thể hoàn toàn chấp nhận giữ nguyên
tình trạng hiện nay một cách vô hạn định nhưng họ tin rằng sẽ phải đưa ra những
sự đe dọa đề ngăn không cho Đài Loan được tự do. Mục tiêu của Mỹ có thể chỉ là
ngăn chặn sự thống nhất mạnh mẽ. Nhưng sự đe dọa của TQ và sự tăng cường lực
lượng vũ trang có thể sẽ làm tăng lên nỗi lo sợ rằng bác Kinh cuối cùng sẽ có thể
cảm thấy khả năng giành lấy những mục tiêu bằng cách sử dụng vũ lực. Để ngăn
chặn điều này, Washington sẽ bắt buộc phải tăng cường lực lượng quân sự hỗ trợ
cho Đài Loan và đưa ra những biện pháp nhằm biểu hiện rằng Mỹ sẽ can thiệp nếu
Đài Loan bị tấn công. Nhưng những điều này sẽ khiến TQ cảm thấy lo sợ một Đài
Loan tiến tới độc lập và sẽ khiến Bắc Kinh tăng cường những nỗ lực quân sự và
tăng cường khoa trương…
Mục tiêu của TQ là triển khai một số lượng lớn tên lửa đạn đạo cục bộ với mục
đích chính là để ngăn cản Đài Loan tuyên bố độc lập. Nhưng việc này rõ ràng đe
dọa tới không chỉ Đài Loan mà con cả Nhật Bản, Mỹ và các nước trong khu vực
này. Ngược lại, mục tiêu của Mỹ là tiến hành triển khai một hệ thống phòng thủ
tên lửa cục bộ để bảo vệ các đồng minh và bạn bè của Mỹ và cả những căn cứ và
lực lượng ở Tây Thái Bình Dương. Nhưng việc triển khai những hệ thống này lại
đe dọa nghiêm trọng tới TQ – nước cho rằng hành động này là sự phá hoại khả
năng ngăn chặn những bất lợi trong việc phát triển khu vực của TQ, đặc biệt là nếu
Mỹ mở rộng hệ thống phòng thủ tên lửa cục bộ tới Đài Loan. Sự lo lắng của Bắc
Kinh sẽ tăng lên bởi việc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia của Mỹ -
việc mà được TQ nhìn nhận rằng sẽ làm giảm khả năng của TQ ngăn chặn sự tấn
công lên lãnh thổ của mình. Phản ứng của TQ trước những diễn biến này rất có
khả năng sẽ bao gồm những biện pháp tăng cường lực lượng cục bộ và xuyên lục
địa của họ và điều này sẽ khiến sự lo lắng của Mỹ về những ý định của TQ tăng
lên.
Các quan chức của chính phủ Mỹ coi những đồng minh trong khu vực là lực lượng
bảo vệ cho sự ổn định và chối bỏ những ý định bao vây hay kìm hãm Trung Quốc.
Tuy nhiên, không ngạc nhiên rằng các nhà chiến lược của TQ nhìn nhận những
hành động của Mỹ không mấy tốt đẹp. kể từ khi CT lạnh kết thúc, phần lớn Mỹ
luôn bận rộn để tăng cường và củng cố những liên kết với các đồng minh truyền
thống trong khu vực (kể cả Nhật, Hàn Quốc và Úc) trước sự phát triển của TQ.
III – Những người lạc quan theo thuyết Hiện thực:
Mặc dù hầu hết những người theo chủ nghĩa hiện thực đều bi quan, tuy nhiên vẫn
có thể đạt được những kết luận khá lạc quan về mối quan hệ Mỹ Trung trong
tương lai dựa trên những nền tảng thực tiễn.Như đã bàn luận từ trước, hầu hết
những người bi quan theo chủ nghĩa hiện thực chú ý tới sức mạnh đang lên và
tham vọng bành trướng của Trung Quốc.Ngay cả những người không tin rằng sự
xuất hiện của một thế lực đang nổi lên sẽ dẫn đến những cuộc xung đột không thể
tránh khỏi, họ vẫn tỏ ra lo lắng về những sự nguy hiểm khi an ninh bị rơi vào tình
trạng tiến thoái lưỡng nan.Tuy vậy, 1 số những người theo chủ nghĩa hiện thực lại
cho rằng sức mạnh của Trung Quốc không hề tăng nhanh như người ta vẫn hay nói
và những tham vọng của mình đang có, có khả năng sẽ duy trì, khiêm tốn, thậm
chí kìm hãm lại
Đối với tình thế tiến thoái lưỡng an trong an ninh, những nhà hiện thực lạc quan
cho rằng có thể có nhiều yếu tỗ khác tại nơi làm việc sẽ làm giảm thiểu các tác
động của nó và giúp cho mối quan hệ giữa Washington và Bắc Kinh tránh khỏi
việc mất kiểm soát
Sức mạnh của TQ: bị hạn chế và nhiều khả năng vẫn tiếp tục như vậy
Tất cả các nhà hiện thực đều đồng ý rằng cán cân quyền lực giữa Mỹ và Trung
Quốc sẽ cần thiết trong việc xác định tính chất của mối quan hệ mở giữa Mỹ
Trung.Hầu hết tất cả đều công nhận rằng tại thời điểm này Mỹ có sức mạnh vượt
trội hơn so với Trung Quốc Nhưng về việc này, ít nhất là chỉ đúng trong một số
khía cạnh, một vài thập kỷ gần đây, sức mạnh của Trung Quốc đã tăng cường
tương đối so với Hoa Kỳ. Nơi những bất đồng nảy sinh là ở sườn dốc của hai
đường cong quyền lực.
Những nhà hiện thực lạc quan tin rằng Trung Quốc ngày nay yếu hơn so với
những gì nó đang thể hiện và thậm chí ngay cả sự phát triển của sức mạnh quốc
gia này trong vài thập kỷ tới dường như cũng sẽ chậm hơn so với những gì mà các
nhà hiện thực bi quan đã giả định. Đồng thời trong cả lĩnh vực kinh tế và quân sự,
có những trở ngại đáng kể cần vượt qua nếu tỉ giá tăng trưởng gần đây được duy
trì.Trong thực tê, có khả năng đáng kể cho thấy sức mạnh của Trung Quốc sẽ
không tiếp tục gia tăng ở bất cứ lĩnh vực nào tương tự như tốc độ của hai thập kỷ
vừa qua.Quá trình phát triển mở rộng kinh tế, đặc biệt sẽ có thể bị gián đoạn bởi
tình hình xã hội trong nước và bất ổn chính trị.Hơn thế nữa, ngay cả trong trường
hợp không có biến động lớn, tốc độ tăng trưởng cũng sẽ bị chậm lại đáng kể bởi
những khó khăn trong việc tạo ra một nền tai chính hiệu mở hiệu quả, công bằng
và hợp pháp. Việc phát triển chậm hơn một cách đáng kể hoặc tăng trưởng kinh tế
không đồng đều sẽ làm cho mọi việc trở nên khó khăn hơn đối với Bắc Kinh trong
việc đầu tư phát triển cho lĩnh vực quân sự. Đối với các yếu tố không mang tính
kinh tế, chẳng hạn như thiếu sót trong các tổ chức, giáo dục, đào tẹo và việc phát
triển các học thuyết cũng sẽ cản trở sự nổi lên của Trung Quốc như một sức mạnh
quân sự hạng nhất.
Với ý định xích lại gần hơn với Hoa Kỳ trong hầu hết các biện pháp tăng cường
sức mạnh của quốc gia (nói không với việc vượt trội hơn Hoa Kỳ), Trung Quốc rất
có thể sẽ trượt ngã và tiếp tục tụt hậu hơn nữa. Vì vậy, khả năng Bắc Kinh muốn
(hay có thể) tạo nên một thách thức đối với Hoa Kỳ là rất nhỏ. Ngược lại, nếu
những điều này có thể xảy ra, thì các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ cố gắng nhượng
bộ, tránh những căng thẳng và đối đầu với Mỹ, ít nhiều cũng phải đạt được như
những gì họ đang thực hiện ngày nay. Tóm lại, sự yếu kém liên tục của Trung
Quốc sẽ có lợi cho hòa bình thế giới.
Một số các nhà hiện thực lạc quan cho rằng sức mạnh của Hoa Kỳ hiện giờ lớn
đến mức gần như không ai sánh được. Lần đầu tiên trong lịch sử đương đại, hệ
thống thế giới thực sự trở thành đơn cực. Kết quả là, những giả thuyết và kết quả
truyền thống liên quan đến hệ thống chính trị quốc tế không còn áp dụng được nữa.
Bất kể Trung Quốc, hay bất cứ thế lực đang lên nào, và cả các quốc gia có tiềm
lực cùng liên kết lại cũng không đủ sức mạnh để đối chọi lại Hoa Kỳ. Thay vì cân
bằng sức mạnh với Hoa Kỳ, đa số các quốc gia khác đều tìm cách nhập vào phe
cánh với Hoa Kỳ, hay ít ra chọn cách đứng ngoài cuộc. Hơn thế nữa, sự chênh lệch
về tiềm lực vốn tách Hoa Kỳ ra khỏi những quốc gia còn lại trên thế giới quá lớn
như một điều không thể phủ nhận. Các tính toán cụ thể về tương quan lực lượng sẽ
là vô nghĩa khi xác định các hành động đối đầu trực tiếp với Hoa Kỳ. Sự thật này
sẽ giúp cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc hay bất cứ lãnh đạo của một quốc gia
nào khác tự huyễn hoặc rằng họ sẽ được lợi từ việc thách thức các lợi ích của Mỹ.
Các mục tiêu của TQ: hạn chế
Những người hiện thực bi quan có xu hướng suy luận mục đích từ khả năng, và
nói chung họ cho rằng có sự tồn tại của những quy tắc ứng xử quốc tế nhất định có
thể áp dụng chung: Trung Quốc đang mạnh lên; tăng cường sức mạnh để mở
rộng,tăng thêm lợi ích và có thể hành xử quả quyết hoặc hiếu chiến; và do đó
Trung Quốc có thể sẽ hành xử theo cách tương tự.
Tuy nhiên không phải tất cả các nhà hiện thực đều theo những lý do này để kết
luận. Thậm chí những ai đồng ý rằng quyền lực của Trung Quốc đang tăng lên, và
những ai tin rằng việc tăng quyền lực có xu hướng không hài lòng, không nhất
thiết phải tin rằng Trung Quốc sẽ hành xử một cách đặc biệt quyết đoán hay hung
hăng.Điều này không đơn giản chỉ là 1 chức năng trong những khả năng của
Trung Quốc, mà là một sự phản ánh những mục tiêu,kế hoạch tiềm ẩn của Trung
Quốc.Như trong bài ghi chép của Randall Schweller, việc tăng quyền lực có thể
khác nhau theo mức độ không thỏa mãn với hiện trạng của các nước, và từ đó theo
sự giới hạn của những tham vọng.Một vài quyền lực đang tăng lên có mục tiêu
cách mạng thực sự; họ tìm kiếm, hay nói cách khác, để lật đổ toàn bộ hệ thống
các quy tắc và tập quán quốc tế. Nhưng một vài quyền hạn khác tăng lên có thể có
nhiều mục tiêu có giới hạn, vừa phải; chúng có lẽ là thuộc chủ nghĩa xét lại hơn là
làm cách mạng các nước tìm kiếm những điều chỉnh ít ỏi đối với hiện trạng hơn là
thay đổi cơ bản.
Trái ngược với những năm 1950 và những năm 1960, Trung Quốc ngày nay
dường như không là một quyền lực cách mạng trong bất cứ ý nghĩa nào của thuật
ngữ này.Trung Quốc đã bỏ mục tiêu ban đầu là truyền bá chủ nghĩa cộng sản khắp
châu Á, và , thực tế, Trung Quốc không còn ủng hộ hệ tư tưởng Mác-Lê-
Mao.Những thay đổi cụ thể của hiện trạng mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc tìm
kiếm có thể nói là tương đối hạn chế : việc tái nhập Đài Loan với lục địa, sửa một
vài biên giới đang tranh chấp, và sự chấp nhận của cộng đồng quốc tế về yêu cầu
đối với các phần biển Nam Trung Quốc. Nếu những vấn đề này có thể được giải
quyết một cách hòa bình, Trung Quốc có thể được xếp vào hàng các nước thỏa
mãn.Phát ngôn viên Trung Quốc hài lòng khẳng định (và nhiều quan sát viên
người Mỹ gốc Trung Quốc đồng ý ) rằng Trung Quốc không có lịch sử hiện đại về
chinh phục lãnh thổ mở rộng, và với vài ngoại lệ đã được ghi nhận, không có
mong muốn mở rộng rõ rệt nào.Trung Quốc có thể chưa có một hiện trạng quyền
lực, nhưng Trung Quốc là một cường quốc thận trọng với những mục tiêu hạn chế,
một “ bảo thủ quyền lực” theo lời một chuyên gia hàng đầu người Mỹ gốc Trung.
Hãy bỏ qua một bên câu hỏi tỉ lệ khả năng tăng lên của Trung Quốc là bao nhiêu,
tham vọng của Trung Quốc là như vậy nên viễn cảnh xung đột với Mỹ cần được
hạn chế.
Thế lưỡng nan về an ninh: Im hơi lặng tiếng
Thậm chí cả những quan sát viên, những nguời chấp nhận đánh giá của những
người lạc quan theo thuyết Hiện thực về sức mạnh thực sự cũng như năng lực tiền
tàng của Trung Quốc có thể sẽ vẫn lo ngại về tính hiệu quả của thế an ninh tiến
thoái lưỡng nan. Bất kể những hiện thực khách quan có như thế nào đi nữa, sự lo
sợ và nghi ngờ chung vẫn có thể dẫn đến những cuộc chạy đua vũ trang và xảy ra
những chuyển động đi xuống. Những nhà hiện thực lạc quan đã phản ứng với điều
lo lắng này bằng cách chỉ ra sự tồn tại của cơ chế phản tác dụng mà họ tin rằng sẽ
hướng tới việc làm giảm nguy cơ của sự hiểu nhầm và xung đột
Thứ nhất, một vài nhà hiện thực lạc quan lập luận rằng cấu trúc của hệ thống khu
vực mới nổi Đông Á, giai đoạn sau Chiến Tranh Lạnh, về cơ bản là thế hai cực. Sự
sụp đổ của Liên Xô và sự đình trệ kéo dài của nền kinh tế Nhật Bản đã bị bỏ xa
bởi Hoa Kỳ và (CHND) Trung Quốc - hai cường quốc dẫn đầu khu vực. Giả thiết
rằng nước Mỹ vẫn còn “cam kết” (như trong chiến lược “cam kết và mở rộng”) và
sức mạnh của Trung Quốc vẫn sẽ còn tăng lên đến một mức nào đó, xu thế căn
bản đối với trật tự hai cực cần được nhắc tới nhiều hơn trong nhiều thập kỷ sắp tới.
Đi theo quy luật Logic, phát triển bởi Kenneth Waltz, và dựa vào những kinh
nghiệm của thời CTL, những nhà hiện thực lạc quan tin rằng một trật tự 2 cực ở
Châu Á có thể sẽ căng thẳng, nhưng sẽ ổn định về cơ bản. Dưới những điều kiện
của thế hai cực, hai cường quốc ưu việt sẽ để mắt lẫn nhau với sự hoài nghi. Bởi
trong một chừng mực nào đó, hai quốc gia này sẽ tập trung chăm chú vào đối
phương, nên họ sẽ ít khi đưa ra những đánh giá sai lầm về năng lực và những mục
đích riêng tương ứng của nhau. Khoảng cách lớn giữa hai cực và các quốc gia còn
lại trong hệ thống cũng sẽ làm giảm khả năng của việc thay đổi đột ngột trong cán
cân quyền lực, thứ là kết quả của việc thế giới thứ ba thay đổi hướng mà họ ngả
theo.
Như đã thấy trong suốt thời kỳ CTL, việc cùng sở hữu vũ khí hạt nhân của hai cực
có lẽ sẽ chỉ phục vụ như một nguồn bổ sung cho việc kiềm chế hành xử của các
bên. Nhân tố này được nhấn mạnh, ví dụ bởi Avery Goldstein, người lập luận nó
sẽ mang lại “lý lẽ mạnh mẽ nhất để hi vọng rằng những nguy cơ có liên quan đến
một Trung Quốc mới nổi và sẽ trở thành một cường quốc, sẽ bị hạn chế”. Với tư
cách là người đã tham gia vào thứ mà ông Robert Jervis từng kêu gọi “cách mạng
hạt nhân”, ông Goldstein đề xuất việc Mỹ và Trung Quốc đã hoàn toàn tham gia
vào một “mối quan hệ dễ dàng thiết lập bởi sự răn đe lẫn nhau mang lại không chỉ
là 1 bước đệm mạnh mẽ chống lại chiến tranh nói chung, mà còn hạn chế mạnh mẽ
trên cả hai cuộc chiến tranh và hành vi khủng hoảng”.
Cuối cùng, những nhà hiện thực lạc quan như Robert Ross và Michael Mc Devitt
tin rằng địa lý sẽ làm tăng sự vững chắc cho mối quan hệ đang lên Mỹ-Trung một
cách mạnh mẽ. Nước Mỹ, theo cách nhìn nhận này, là một cường quốc giáp biển.
Lợi ích và phạm vi ảnh hưởng của nước này vẫn luôn và có lẽ sẽ duy trì tại trung
tâm vùng biển khoài khơi Đông Bắc Á và vùng giáp biển Đông Nam Á. Ngược lại,
Trung Quốc hiện là, và trong lịch sử, là quốc gia có sức mạnh trên đất liền. Tầm
ảnh hưởng “tự nhiên” của nước này sẽ bao trùm lên Trung Á và lục địa Đông Nam
Á. Giữ vững quan điểm, ông Ross cho rằng, những phạm vi ảnh hưởng này không
gối lên nhau, với những ngoại lệ có thể có như bán đảo Triều Tiên, Đài Loan và
Quần đảo Trường Sa. Quy định rằng những vấn đề có liên quan đến 3 vùng kể trên
cần được quản lý một cách phù hợp, vẫn có thể có những lý do nhỏ hoặc những
dịp có thể dẫn đến những xung đột trực tiếp giữa TQ và Mỹ. Những trường hợp đã
được lưu ý như vậy, đối lập với những gì đã thường xảy ra trong thời kỳ CTL, khi
những cạnh tranh về tầm ảnh hưởng tại Trung Âu của Mỹ và Liên Xô đã va chạm
với nhau, một tình huống đã khiến những căng thẳng và những nguy cơ to lớn nổ
ra, đặc biệt là trong suốt thời kỳ đầu của cuộc cạnh tranh giữa hai siêu cường.
IV - Những người bi quan theo thuyết Tự do
Kết cấu bên trong, động lực chính trị trong nước và sự tương tác bắt nguồn từ chế
độ khác nhau giữa TQ và Mỹ có thể khiến những người theo thuyết Tự do phải bi
quan.
Trung Quốc: chế độ độc đoán đang quá độ?
Trung Quốc hiện nay không phải là một nhà nước chuyên chế hay dân chủ, mà là
một chế độ độc tài không có tính chính đáng rõ ràng với sự nắm quyền không chắc
chắn. Hệ tư tưởng mà các nhà lãnh đạo TQ thừa kế là một hệ tư tưởng đã hầu như
không còn sức lôi cuốn và họ khó có thể dựa vào sự ủng hộ tự nguyện của nhân
dân, mà phụ thuộc nhiều vào lực lượng an ninh và quân sự để duy trì trật tự trong
nước. Chính quyền hiện nay cai trị ít dựa trên các nguyên tắc cộng sản, mà dựa
nhiều hơn vào lời hứa sẽ tiếp tục làm tăng sự thịnh vượng (và tránh những hỗn
loạn xã hội), kết hợp với những lời kêu gọi chủ nghĩa dân tộc. Đây là một sự kết
hợp nguy hiểm và không ổn định. Nếu sự phát triển kinh tế bị vấp váp, chính
quyền hiện nay sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc dựa nhiều hơn vào sự
kêu gọi chủ nghĩa dân tộc. Họ cũng có thể có xu hướng dùng đến những chính
sách đối ngoại quyết đoán như một cách để tập hợp nhân dân Trung Quốc và
hướng sức lực và những nỗi thất vọng của họ ra ngoài, rất có khả năng là hướng
vào Đài Loan hay Nhật Bản hay Hoa Kỳ, hơn là vào trong, vào Bắc Kinh. Thật
vậy, nhiều nhà phân tích tin rằng nhà cầm quyền Trung Quốc đã ngày càng thể
hiện xu hướng hành xử theo cách này trong suốt thập kỷ qua.
Chính khi các quốc gia đang quá độ từ chủ nghĩa độc đoán sang nền dân chủ,
nhiều khả năng họ sẽ khơi mào xung đột với các nước láng giềng. Nguyên nhân có
vẻ nằm ở các quá trình bên trong của các xã hội mà trong đó áp lực đòi hỏi sự
tham gia chính trị đang gia tăng, nhưng trong đó các thể chế dân chủ có hiệu quả
lại vẫn chưa xuất hiện. Giới lãnh đạo trong những xã hội nhưu vậy thường dụng
đến những yêu sách dân tộc chủ nghĩa chiến đấu để huy động sự ủng hộ của quần
chúng mà không từ bỏ sự nắm quyền. Nếu TQ tiến lên dân chủ thì sẽ vấp phải
nhiều trở ngại, thậm chí nguy cơ quan hệ Trung-Mỹ xấu đi sẽ còn lớn hơn so với
trường hợp TQ duy trì chế độ độc đoán.
Giả sử TQ có tiến gần đến một nền dân chủ thực sự thì liệu điều này có dẫn đến
những biến chuyển trong quan hệ Trung-Mỹ? Những người bi quan của thuyết tự
do có thể đồng ý rằng về lâu dài điều đó có thể xảy ra. Song họ cũng chỉ ra rằng
một TQ dân chủ hơn vẫn có thiên hướng hành xử theo cách mà có thể dẫn đến
xung đột với Mỹ. Các nền dân chủ không phải luôn luôn yên bình, đặc biệt là ở
những giai đoạn đầu của quá trình phát triển chính trị. Một số nhà quan sát cho
rằng, ít nhất là trong một thời gian, một chính quyền dân chủ ở BK có thể có tính
dân tộc chủ nghĩa hơn và quyết đoán hơn hiện nay.
Nước Mỹ: một nền dân chủ tự do vận động?
Những thay đổi trong thể chế chính trị ở Trung Quốc có thể làm gia tăng khả năng
xung đột với Mỹ. Tuy nhiên, nếu Trung Quốc không thay đổi, thì những một vài
đặc trưng lâu đời của chế độ cầm quyền trong nước có lẽ khiến Mỹ có khuynh
hướng đối lập với nước này. Kết luận này được rút ra trước tiên từ mặt trái của lý
luận “hòa bình dân chủ”. Các nước dân chủ ít có khả năng lâm vào xung đột với
các nước dân chủ khác, nhưng về phương diện lịch sử, họ thường dễ nghi ngờ, và
thù địch đối với, những nước mà họ thấy có chế độ không dân chủ. Như Michael
Doyle đã chỉ ra: “những xung đột trong quan hệ giữa các xã hội tự do và không tự
do có thể trầm trọng thêm do chính cản trở về mặt hiến pháp, chia sẻ lợi ích
thương mại và tôn trọng quốc tế cho các quyền cá nhân mà thúc đẩy hòa bình giữa
các xã hội tự do.” Quan hệ giữa các nước tự do và không tự do thường bị gán
trong “không khí nghi ngờ” phần nào vì “nhận thức của các nước tự do rằng các
nước không tự do luôn luôn đàn áp chính nhân dân mình.”
Dù cuối cùng thế nào, thì hiện nay Trung Quốc cũng không phải là một nền dân
chủ tự do. Vì thế, không ngạc nhiên nếu như nhiều người Mỹ nhìn nhận nước này
với sự nghi ngờ và mức độ thù địch. Nhìn từ điểm này, tranh cãi giữa Mỹ và
Trung Quốc về vấn đề nhân quyền (như một ví dụ) không phải chỉ là trở ngại nhỏ
trong quan hệ hai nước. Nó chỉ là biểu hiện của những bất đồng sâu sắc hơn mà
khó có thể dễ dàng hòa dịu. Nhận thức từ phía nước Mỹ, vi phạm nhân quyền
không chỉ sai về bản chất, mà còn là dấu hiệu chắc chắn của một chế độ xấu xa và
không chính đáng, và do đó không thể tin cậy được. Khả năng có một mối quan hệ
bền vững với chế độ như vậy là xa xôi, dù trong tình trạng tốt nhất.
Nếu như Mỹ có khả năng thù địch đối với Trung Quốc vì đây không phải là một
nước dân chủ, thì Mỹ dễ có xu hướng giúp đỡ các chính thể mà bị đe dọa bởi
Trung Quốc và được Mỹ nhìn nhận như một nước dân chủ, thậm chí đây không
phải hoàn toàn là toan tính chính sách thực dụng phục vụ cho lợi ích nước Mỹ. Do
đó, đây chính là một điểm mà Henry Kissinger và Richard Nixon nhìn nhận để dãn
cách nước Mỹ với Đài Loan khi người dân Mỹ rộng rãi nhìn nhận chính phủ nước
này mục nát và độc đoán. Sẽ khó khăn hơn nhiều cho những nhà lãnh đạo Mỹ
trong tương lai làm như vậy trong chừng mực mà người dân Mỹ đánh giá Đài
Loan như một nước dân chủ bè bạn – thậm chí khi Mỹ ủng hộ Đài Loan liều lĩnh
làm xấu đi mối quan hệ với PRC và có lẽ thậm chí cả khi nước này đe dọa dẫn tới
chiến tranh. Bất chấp hậu quả ra sao, Mỹ vẫn là một nước ý thức hệ sâu sắc, và
chính sách đối ngoại luôn được định hướng bởi ý thức hệ nước này, ngay cả khi có
thể đối lập với lợi ích vật chất của chính nước Mỹ.
V - Những người lạc quan của thuyết Kiến tạo
Bản chất sự tương tác giữa 2 nước không đơn thuần là sản phẩm của những yếu tố
vật chất khách quan (như cán cân thương mại, cân bằng sức mạnh quân sự…); mà
còn được định hình tới 1 mức độ đáng kể bởi các yếu tố chủ quan, bởi những niềm
tin và ý tưởng luôn tồn tại trong đầu con người và khiến họ diễn giải các sự kiện
và dữ liệu theo những hướng nhất định. Trong đó có thể chia thành 3 loại chính:
“bản sắc” (tức là, những nhận thức riêng của các diễn viên chính trị và những nhận
thức chung giữa họ với nhau); “văn hóa chiến lược” (tức là, các nhóm niềm tin về
những đặc điểm cơ bản của nền chính trị quốc tế và về những cách tối ưu đối phó
với nó, đặc biệt là về sự hữu dụng của vũ lực và những triển vọng hợp tác); và
“chuẩn tắc” (tức là, những niềm tin không chỉ về vấn đề cái gì là hiệu quả mà còn
về vấn đề cái gì là đúng đắn hay phù hợp trong lĩnh vực quốc tế).
Bản sắc, văn hóa chiến lược, và chuẩn tắc được hình thành mạnh mẽ bởi những sự
diễn giải phổ biến của các kinh nghiệm lịch sử chung của 1 xã hội. Chúng được
truyền từ đời này sang đời khác thông qua các quá trình giáo dục và giao thoa văn
hóa, và chúng rất ít biến đổi. Cơ chế chính mà nhờ đó những niềm tin có ảnh
hưởng rộng rãi phát triển và đôi khi được biến đổi là thông qua sự tương tác với
những loại khác. Những sự tương tác như vậy truyền đạt thông tin và những ý
tưởng mới mà có thể giúp thay thế những quan niệm hiện thời.
Nếu đời sống chính trị quốc tế thật sự được điều chỉnh bởi pháp luật có tính khoa
học bắt nguồn từ thực tế, thì những gì người ta tin tưởng về cách thế giới hoạt
động sẽ chỉ có ý nghĩa trong chừng mực mà nó phù hợp với hoặc lệch khỏi thực tế.
Theo quan điểm của các nhà Hiện thực bi quan, lãnh đạo của một QG vượt trội mà
không tin rằng vị trí của QG sẽ bị thách thức bởi một thế lực đang lên (hoặc tin
rằng có thể dùng ngoại giao mềm mỏng để ngăn trở tham vọng của 1 thế lực như
vậy) chắc chắn sẽ phải thất vọng. Nhưng nếu quan hệ giữa các quốc gia được hình
thành dựa trên niềm tin, chứ không phải bởi những yếu tố vật chất khách quan, thì
luôn luôn có khả năng rằng con người có thể thay đổi thế giới bằng cách thay đổi
cách họ nghĩ. Ở cấp độ tổng quát nhất, các nhà Kiến tạo khẳng định rằng nền
chính trị quốc tế có xu hướng cạnh tranh và bạo lực, không phải bởi một số
nguyên tắc bất di bất dịch về hành vi con người đòi hỏi nó phải vậy mà là bởi, qua
nhiều thế kỷ, các nhà lãnh đạo quốc gia có xu hướng tin rằng phải như vậy. Bằng
cách hành động theo đúng những kỳ vọng bi quan của mình, các nhà lãnh đạo đã
giúp làm cho những kỳ vọng đó trở thành sự thực. Vậy thì triển vọng và lợi ích
của hợp tác quốc tế cũng có thể đạt được miễn là các quốc gia mạnh nhất thế giới
cùng có nhận định khả quan về điều đó.
Về quan hệ Mỹ-Trung, các nhà Kiến tạo lạc quan nhìn chung nhấn mạnh đến khả
năng là sự tham gia ngày càng tăng của Trung Quốc vào các tổ chức quốc tế sẽ
dẫn đến sự thay đổi trong văn hóa chiến lược của nước này, trong các chuẩn tắc về
hành vi quốc tế được chấp nhận bởi các nhà lãnh đạo của họ, và trong các quan
niệm của họ về bản sắc quốc gia. Các nhà Kiến tạo tin rằng những tương tác lặp đi
lặp lại thực sự có thể thay đổi những niềm tin gốc rễ, lợi ích, và các loại tâm lý của
những người ra quyết sách tham gia trong các thể chế quốc tế. Vì vậy, có lẽ đúng
là 1 số đáng kể các nhà cầm quyền TQ vẫn chịu sự chi phối của ý tưởng lỗi thời về
tính “tổng 0” của các quan hệ QT và về sự hữu dụng mà gian dối, bất ngờ và vũ
lực có thể đem lại trong việc giải quyết các tranh chấp. Những ý tưởng này có vẻ
bắt nguồn sâu xa từ mưu lược trị nước truyền thống của TQ, và truyền cho những
đời sau. “Mô hình chuẩn bị cho chiến tranh” như Iain Johnston từng nói đến có thể
được làm dịu đi dần dần nhờ những tiếp xúc liên tiếp giữa các chính khách, học
giả, binh lính của TQ và của các nước khác Các nhà Kiến tạo lạc quan tin rằng
chính những tương tác kiểu đó giữa các nhà khoa học, chuyên gia vũ khí của Liên
Xô và phương Tây đã giúp làm thay đổi quá trình hoạch định chính sách đối ngoại
của Liên Xô trong những năm 80 và đưa chiến tranh lạnh đi đến 1 kết thúc êm đẹp.
Những người lạc quan cho rằng một quá trình phát triển tư duy nhờ sự tác động từ
bên ngoài tương tự đang diễn ra đối với TQ.
Đồng thời với việc văn hóa chiến lược của Trung Quốc đang chuyển đổi, các nhà
lãnh đạo TQ có thể đang tiến đến sự bao hàm rộng hơn những chuẩn tắc và kỳ
vọng tự do cơ bản liên quan tới hành vi quốc tế. Một lần nữa, cơ chế hoạt động ở
đây không chỉ là sự tính toán lợi ích vật chất mà là một quá trình xã hội hóa phản
ánh ước vọng sâu xa của Trung Quốc là được chấp nhận như một quốc gia hiện
đại, tiên tiến, và 1 công dân có vị thế trong cộng đồng thế giới. Theo Johnston và
đồng tác giả Paul Evans, sự sẵn lòng của Trung Quốc gần đây tham gia vào các tổ
chức đa phương quốc tế như Hiệp ước cấm thử VKHN phản ánh một thực tế là các
nhà lãnh đạo TQ đang trở nên "nhạy cảm hơn với những sự khích lệ (động cơ) xã
hội" và sợ làm “kẻ ngoài lề XH” hơn. Trong khi chỉ cách đây vài năm các nhà cầm
quyền Trung Quốc đã né tránh tham gia vào các tổ chức quốc tế trong niềm tin
rằng việc tham gia đó sẽ gây ra những sự cưỡng ép không thể chấp nhận được đối
với sự tự do hành động của họ, thì nay họ ngày càng sẵn sàng, thậm chí hăm hở
tham gia. Sự thay đổi do vậy làm tăng cường các cơ chế: Trung Quốc càng trở nên
gắn bó sâu sắc vào mạng lưới các tổ chức khu vực và toàn cầu, thì càng có nhiều
niềm tin và kỳ vọng của các nhà lãnh đạo TQ sẽ đến để phù hợp với sự đồng thuận
chung đang nổi lên là những tổ chức thể hiện.
VI - Những người bi quan theo chủ nghĩa kiến tạo
Những nhà kiến tạo lạc quan hy vọng rằng sự tác động lẫn nhau, liên tiếp với thế
giới bên ngoài sẽ tạo dựng niềm tin cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc và nhân dân
nước này để họ đi theo hướng có lợi, và thực sự đã tạo ra những tiến triển lâu dài
trong mối quan hệ Mỹ- Trung Quốc. Tuy nhiên, quan điểm này vẫn chưa được
chứng minh, và thậm chí còn một vài luận điểm lo ngại sự việc sẽ không tốt đẹp
như vậy. Một vài lý do như sau:
Trước hết, tinh thần xây dựng và cấu trúc xã hội đương thời mà người Trung Quốc
dựa vào để phát triển, như mọi nhà kiến tạo thuộc tất cả các trường phái có thể
nhanh chóng chỉ ra, đều có gốc rễ sâu xa. Kể cả trong những điều kiện tốt nhất,
thay đổi tích cực vẫn cần một khoảng thời gian dài để biểu hiện; có thể là nhiều
năm hoặc thậm chí là hàng thập kỷ với đối thoại và trao đổi. Trong khi đó, như
Thomas Berger đã chỉ ra rằng “điểm cốt lõi của sự bất ổn tại Châu Á hiện nay nằm
ở cấu trúc riêng biệt về lợi ích và bản sắc dân tộc là một phần của những nhân tố
chủ chốt trong khu vực”. Các nhà học giả đã ghi lại sự căng thẳng từ những hình
ảnh thù địch mà các nhà quan sát Trung Quốc và Hàn Quốc vẫn lưu giữ về Nhật
Bản. Nhận thức lẫn nhau giữa người Mỹ và người Trung Quốc, ít nhất trong giai
đoạn hiện nay, vẫn chưa phải là vấn đề nhức nhối.
Tuy nhiên, như đã nói, vẫn tồn tại những ngờ vực lớn giữa hai quốc gia. Trong khi
chờ đợi sự thay đổi đột phá trong bản chất của chế độ Trung Hoa, nhiều người Mỹ
vẫn tiếp tục coi thế chế đương thời là không chính đáng, tiềm ẩn nguy hiểm và
thậm chí tự coi họ như là những nhà bảo vệ cho tự do tại Châu Á. Trừ khi Mỹ từ
bỏ vị trí chi phối hiện tại trong khu vực hoặc đơn giản là thay đổi chính sách với
Đài Loan, nhiều người Trung Quốc có xu thế tiếp tục coi Mỹ như là những kẻ xâm
lược, và tự coi bản thân mình là những nạn nhân bị xâm hại bởi một sức mạnh
nước ngoài đầy bạo lực. Mối tác động qua lại nhiều lần có thể làm xói mòn những
bản sắc cũ và chuyển đổi cấu trúc xã hội hiện thời, nhưng cũng có khả năng thúc
đẩy chúng.
Thực vậy, như Wendt lưu ý, xu hướng của bất kì cấu trúc niềm tin và sự kỳ vọng
nào, một khi được tạo dựng, đều trở thành “một thực tế xã hội có mục tiêu, thúc
đẩy những hành xử nhất định này hoặc ngăn chặn những hành xử khác. Vì vậy,
trong trường hợp được qui định bởi cạnh tranh khốc liệt, và niềm tin ở mức tối
giản, những hành động tự phủ nhận bản thân để giảm thiểu các căng thẳng lại có
chiều hướng gây hiểu nhầm hoặc phá hoại, do đó, khiến những hành động này
không có khả năng được lặp lại nữa. Những người tham gia vào hệ thống xã hội đã
được tạo dựng có thể cũng có kì vọng mạnh mẽ muốn duy trì “các bản sắc về vai
trò tương đối ổn định”, một phần vì nhu cầu tâm lý “cần giảm thiểu tối đa sự thiếu
chắc chắn và lo ngại”. Liên lạc thường xuyên với người khác, đặc biệt là những
người thách thức bản sắc đương thời có thể dẫn đến “những nhận thức về nguy
cơ” và những nhận thức này sẽ chống lại những chuyển đổi của bản thân thế chế
và do đó cả sự thay đổi xã hội.
Không khó để tưởng tượng cách thức quá trình này sẽ diễn ra như thế nào trong
mối quan hệ Mỹ-Trung hiện tại. Nhận định hình thức sự chỉ chích của Mỹ về việc
thực thi nhân quyền của Trung Quốc rõ ràng càng củng cố ấn tượng rằng Mỹ đang
tìm cách phá hoại thể chế Trung Quốc đương thời. Những ví dụ lặp lại về cái mà
Mỹ coi là sự gian lận hay thoái thác của Trung Quốc trong thỏa thuận hạn chế phổ
biến tên lửa và vũ khí hủy diệt hàng loạt đã minh chứng cho thực tế lợi ích của hai
quốc gia về vấn đề quan trọng này không đồng nhất. Bất chấp những tuyên bố
dành cho cả hai phía, không có một đảm bảo nào rằng liên hệ lặp lại giữa lực
lượng quân sự Mỹ và Trug Quốc sẽ tạo dựng niềm tin hay khiến bất cứ bên bào
đánh giá đối phương bớt mang tính đe dọa hơn. Cùng với mối liên hệ thường
xuyên, bền vững và được hiến pháp hóa, và bằng những hình thức tương tác kịch
tính niềm tin hiện tại có thể được gây dựng và đôi khi thậm chí thay đổi hay thúc
đẩy mạnh mẽ. Sự căng thẳng, thường là trong tình huống bất ngờ nói riêng có thể
chỉ ra những thời điểm khiến người dân phía này hay phía khác (hoặc cả hai) tin
rằng những người mà họ đang đối đầu với là tốt ( hoặc xấu) là bạn ( hoặc thù). Vì
lẽ đó, vụ đánh bom tình cờ của Mỹ vào đại sứ quán trung quốc ở Serbia vào năm
1999 trong xung đột Kosovo khi nhìn lại có thể coi là một vì dụ cho thời điểm đó.
Những nhà lịch sử tương lai có thể coi thời đại của thế hệ những nhà lãnh đạo
Trung Quốc đang lên khẳng định quan điểm chính trị thực sự của mình về thế giới
là một thời điểm chuyển giao quan trọng. Quân sự, hình thức quyết đoán của chủ
nghĩa dân tộc đã bắt đầu chi phối sự đối thoại chính trị của Trug Quốc. Và nhận
thức của cộng đồng về Mỹ đã trở nên khắc nghiệt và thiếu thiện cảm hơn. Sự
chuyển đổi tiêu cực trong thái độ đó không phải là không thể tránh được nhưng
chúng là có thể. Một thái độ cứng rắn về những hình ảnh thù địch và thái độ sẽ
khiến mối quan hệ Mỹ –Trung trở nên khó khăn hơn theo hướng hòa bình, bất kể
“định hướng” về sự cân bằng của các nhân tố và lực lượng.
Tổng hợp
Cả sáu quan điểm tranh cãi mà đã được nói ở trên và tóm tắt lại trong bảng 1 xem
qua thì đều có vẻ rất có lý; quan điểm nào cũng logic và đều được củng cố bởi
những bằng chứng thực tiễn từ mối quan hệ Mỹ - Trung đương đại hoặc từ lịch sử
những nền chính trị siêu cường. Trong thực tế, mỗi quan điểm đều hàm chứa một
vài phương diện thực tiễn, thậm chí là tất cả những cơ chế nhân quả mà chúng
miêu tả đều đang diễn ra cùng một lúc.
Mối quan hệ Mỹ - Trung đương đại là sự trộn lẫn giữa hàng loạt các yếu tố hợp tác
và cạnh tranh. Tại bất kì một thời điểm nào, mối quan hệ này có thể được hình
dung như là đang nằm đâu đó trên một đường thẳng mà kéo dài từ một đầu là hợp
tác thuần túy đến đầu kia là cạnh tranh và xung đột không giới hạn.
Hiện tại có những thế lực đẩy mối quan hệ này về hướng xung đột (được xác định
bởi những người bi quan) và những thế lực hoàn toàn ngược lại (được nhấn mạnh
bởi những người lạc quan) có xu hướng thúc đẩy hòa bình. Tương lai mối quan hệ
Mỹ - Trung sẽ được quyết định bởi sự va chạm giữa hai khối sức mạnh tương
phản này; nơi mà các vấn đề nảy sinh trong vòng 10 hay 20 năm nữa sẽ phụ thuộc
hoặc là vào sức mạnh tương quan của hai đường vecto ngược nhau này, hoặc là
dựa vào xu hướng phát triển của kết quả nảy sinh từ sự va chạm trên. Ở hình 1, thế
lực thúc đẩy hợp tác được miêu tả là mạnh hơn so với thế lực hướng về cạnh tranh.
Kết quả là, qua thời gian, mối quan hệ được cải thiện dần, đi từ trạng thái nghiêng
về cạnh tranh (xt) đến trạng thái mà yếu tố hợp tác chiếm phần lớn hơn (xt+1).
Ưu thế giản đơn
Khả năng đầu tiên là trường hợp của những người ủng hộ "mô hình ưu thế giản
đơn". Những cá nhân này (thường là những người lạc quan theo chủ nghĩa tự do
hoặc những người bi quan theo chủ nghĩa hiện thực) tin rằng sức mạnh của các cơ
chế mà họ đã xác định có ảnh hưởng lớn hơn so bất kì thế lực nào khác, dù là ủng
hộ hay phản đối. Vì thế, một người bi quan theo tư tưởng hiện thực có thể tranh
luận rằng, giả sử Trung Quốc tiếp tục lớn mạnh, chắc chắn sẽ dẫn tới xung đột với
Hoa Kì, bất chấp những thay đổi về bản chất chế độ có thể xảy ra. Theo quan điểm
này, sự chống đối và ngờ vực của những người bi quan theo chủ nghĩa tự do và
kiến tạo chỉ ra rằng, nguyên nhân dẫn đến xung đột (nếu xảy ra) chỉ là sản phẩm
của quá trình chuyển đổi quan hệ quyền lực giữa Mỹ và TQ. Mặt khác, những cơ
chế hòa bình được những người lạc quan nhấn mạnh, thì khá yếu kém và giống ảo
tưởng nhiều hơn. Những người theo chủ nghĩa hiện thực - lạc quan, những người
tin rằng tham vọng của Trung Quốc sẽ vấp phải những giới hạn (vẫn giả sử rằng
TQ sẽ tiếp tục lớn mạnh), hay những người đặt niềm tin vào khả năng mà địa lý
hoặc công nghệ ( hoặc các hiệp ước kiểm soát vũ khí) có thể chấm dứt tình trạng
an ninh bất ổn hiện nay, họ đều đang lạc hướng và thậm chí có lẽ không nên được
coi là những người theo chủ nghĩa hiện thực. Như trong quá khứ, những giải pháp
của thương mại và các thể chế quốc tế đã chứng tỏ rằng chúng không hề hiệu quả
để giữ gìn hòa bình trong cuộc tranh giành quyền lực. Quan điểm cho rằng đối
thoại giữa các quan chức chính phủ của Mỹ và TQ sẽ dẫn đến sự quy tụ các quy
tắc, các đặc tính và văn hóa chiến lược, là rất nực cười, nếu không muốn nói là rất
nguy hiểm. Trở lại với Hình 1, nếu những khẳng định này là đúng, thì những mũi
tên hướng đến xung đột sẽ lớn hơn nhiều so với hướng ngược lại, và độ lớn của nó
phần lớn bắt nguồn từ những nguyên nhân mà những người hiện thực – bi quan đã
chỉ ra.
Một người theo chủ nghĩa tự do – lạc quan triệt để sẽ viện theo một chuỗi những lí
do tương tự để đi tới kết luận trái ngược. Vì thế, ngay cả khi TQ nắm trong tay của
cải và quyền lực, thì sức thu hút của lợi ích kinh tế và những tác động của thể chế
hội nhập đã là đủ để đương đầu với bất kì khả năng xung đột trực tiếp nào. Sự quá
độ lên chế độ dân chủ không thể tránh được của TQ sẽ loại bỏ khả năng một cuộc
chiến tranh Mỹ - Trung, đồng thời tìm kiếm giải pháp cho một sự hòa giải lâu dài
của 2 cường quốc. Tất cả những trở ngại sẽ trở nên dễ dàng và, trong dòng chảy
mạnh mẽ của lịch sử, chúng không phải là vấn đề quá quan trọng.
Những ảnh hưởng bổ sung
Khả năng thứ hai là trường hợp tương lai sẽ được quyết định bởi những ảnh hưởng
đan xen của những thế lực nhân quả liên kết tương tự nhau. Như vậy nguyên nhân
sâu xa nhất và căn bản nhất của cuộc cạnh tranh đang nổi lên giữa Mỹ và Trung
Quốc rất có thể là sự cạnh tranh quyền lực chính trị khốc liệt được nhấn mạnh bởi
những người theo chủ nghĩa hiện thực - bi quan. Tuy nhiên, như đã được đề cập,
tính chất đối kháng của những quyền lực chính trị có thể bị thổi phồng lên bởi
những thế lực khác nằm ngoài phạm vi hiểu biết của những người theo chủ nghĩa
hiện thực. Một số người theo chủ nghĩa tự do – bi quan cho rằng, sự phát triển của
quan hệ Mỹ - Trung bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi yếu tố ý thức hệ. Chắc chắn rằng
nếu Trung Quốc là một nước dân chủ tự do thay vì một nhà nước độc đảng thống
lĩnh, thì người Mỹ sẽ không cảm thấy bị de dọa bởi sự tiếp tục mở rộng của quyền
lực nhà nước ở Trung Quốc như hiện nay. Chừng nào những điều ấy còn tồn tại
dai dẳng, thì những đặc điểm khác nhau về ý thức hệ và chế độ xã hội vẫn phân
biệt riêng rẽ hai nước Mỹ và Trung Quốc và ngày càng gây khó khăn cho lãnh đạo
hai nước trong việc đạt được những thoả thuận chung. Việc tăng cường hình ảnh
đối lập thù địch mà những người theo chủ nghĩa xây dựng bi quan lo lắng về cũng
đóng một vai trò quan trọng trong quá trình này. Nếu người Mỹ hoặc người Trung
Quốc ( hoặc cả hai) trở nên thuyết phục rằng đối tác của họ nhất định phải là kẻ
thù và sự đối đầu đó là không thể tránh khỏi thì họ sẽ hành động mà không hề do
dự để biến điều đó trở thành hiện thực.
Những yếu tố được nhấn mạnh bởi các loại chủ nghĩa lạc quan cũng có thể tác
động tăng cường lẫn nhau. Ví dụ, nó có thể là trường hợp mà các quá trình của sự
tăng trưởng kinh tế, sự rối ren về thể chế và sự tự do hoá trong nước mà những
người lạc quan tự do bắt buộc phải hi vọng rằng nó sẽ phát huy sâu sắc, một cách
từ từ, tác động lên quan hệ Mỹ - Trung. Sức mạnh mềm của các nền văn hoá chiến
lược và sự hội tụ có tính chất quy chuẩn mà chủ nghĩa lạc quan xây dựng tin rằng
có thể sẽ mất nhiều năm, nếu không muốn nói là vài thập kỷ, để có thể tạo ra
những tác động thật sự. Tuy nhiên, trong lúc này nếu sức mạnh của Trung Quốc
phát triển tương đối chậm, nếu tham vọng ở lại của họ bị hạn chế, và nếu họ bị
kiềm chế trong những tình huống an ninh tiến thoái lưỡng nan,thì khả năng đối
đầu trưc tiếp với Mỹ là không thể. Không có các cơ chế nhận dạng bởi những
người theo chủ nghĩa lạc quan hiện thực, những triển vọng cho hoà bình có thể
không tốt, đặc biệt là trong ngắn hạn, một khi họ còn là nhân tố để duy trì sự cân
bằng, những cơ hội để đạt được kết quả cuối cùng là ổn định - hợp tác vẫn nhiều
hơn. Trong trường hợp này, những nỗ lực hướng tới hoà bình sẽ là kết quả đóng
góp của nhiều lực lượng khác nhau, và cuối cùng nó sẽ ngày càng mạnh mẽ hơn.
Những ảnh hưởng bù đắp
Cuối cùng, có một khả năng lớn là ngoài việc phóng đại một khía cạnh nào đó,
một số những lực lượng được liệt kê ở phía trên sẽ chứng minh được là chúng bù
trừ lẫn nhau. Tương lai của mối quan hệ Mỹ - Trung sẽ được xác định trong ngắn
hạn bởi những gì John Lewis Gaddis gọi là "huynh đệ tương tàn" của xu hướng
mâu thuẫn cũng như "hội tụ" của những người bổ sung. Thật vậy, nó có thể là
trường hợp của hai mũi tên đối lập như trong hình 1 với sức mạnh tương đương
nhau và tình thế này còn có thể kéo dài trong thời gian tới. Như vậy, mối quan hệ
Mỹ - Trung sẽ không thay đổi rất nhiều, có thể dao động trong một phạm vi khá
hẹp, với những thay đổi định kỳ đối với hợp tác tăng lên hoặc cạnh tranh tăng
lên, nhưng không có một xu hướng rõ ràng và cố định trong hai hướng. Đây là một
đặc tính đúng đắn đã được thể hiện qua những sự kiện trong quan hệ hai ước kể từ
1989 đến nay, và có nhiều lý do để tin rằng mô hình này sẽ tiếp tục tồn tại trong
tương lai gần và có thể còn xa hơn nữa.
Trong tương lai gần, như trong quá khứ gần đây, cơ chế cạnh tranh được xác định
bởi những người bi quan sẽ tiếp tục phát huy mạnh mẽ với sức ảnh hưởng
lớn. Hai yếu tố quan trọng nhất của sự cân bằng sẽ được chứng kiến tỷ lệ tăng
trưởng của sức mạnh kinh tế Trung Quốc và sự phát triển của các tổ chức chính trị
trong nước. Nếu Trung Quốc tiếp tục phát triển giàu có và mạnh mẽ hơn mà không
cần tự do hóa chính trị , các xu hướng về phía cạnh tranh với Hoa Kỳ sẽ vẫn còn
và có thể sẽ trở nên khốc liệt hơn, có thể bị đẩy lên đến cao trào do các hoạt động
an ninh tiến thoái lưỡng nan , do lo sợ lẫn nhau về tư tưởng, và nghi ngờ, và, có
lẽ, bởi những tham vọng mở rộng của các nhà cai trị độc đoán của Trung Quốc.
Mặc dù không có một cuộc khủng hoảng lớn mang tính chất biến đổi, trong trường
hợp này hình ảnh đối đầu có thể trở nên phổ biến trong cả xã hội,và các chính trị
trong nước ưu đãi cho các khó khăn hơn, nhiều chính sách đối đầu có thể cũng
phát triển. Nhưng thật may mắn, một số trong những yếu tố mà các quan điểm lạc
quan dường như có khả năng phanh lại vào những lúc diễn biến quan hệ có thể trở
thành một chuỗi liên tiếp những cạnh tranh có hướng không được kiểm soát và
ngày càng khiến cuộc đối đầu mở rộng ra. Giả sử rằng họ vẫn tồn tại và phát
triển, lợi ích lẫn nhau từ một mối quan hệ kinh tế mở rộng sẽ vẫn là quan trọng
nhất để duy trì hòa bình trong quan hệ Mỹ-Trung Quốc. Chi phí tiềm tàng cho một
cuộc xung đột giữa hai cường quốc nếu nó xảy ra, đặc biệt là khi cả hai đều có vũ
khí hạt nhân, là rất lớn. Như vậy cả hai nước nên giữ xung lực cạnh tranh trong
phạm vi giới hạn và cả hai bên cần phải rất thận trọng khi xử lý những việc có thể
có nguy cơ trực tiếp dẫn đến mâu thuẫn.
Sự xuất hiện của một nhóm "nhà tư tưởng mới" Trung Quốc cũng có thể thúc đẩy
quan hệ hai nước ít đi theo hướng “thắng – thua” – một hướng tiếp cận chính sách
thực dụng cứng nhắc để quan hệ với Hoa Kỳ. Như với Liên Xô trong thời kỳ cải tổ,
do đó, đây cũng là một trường hợp mà thay đổi tư duy cấp cao có thể làm dịu đi
những mâu thuẫn trong quan hệ song phương, thậm chí nếu Trung Quốc không thể
ngay lập tức cải cách sâu sắc và rộng rãi hệ thống chính trị trong nước.
Va chạm lợi ích giữa những lực lượng đối đầu nhau sẽ làm cho mối quan hệ Trung
– Mỹ trở nên rất hạn chế hoặc cạnh tranh. Khi họ làm hôm nay, hai nước sẽ giao
thương, đối thoại ,và hợp tác về một số vấn đề, nhưng họ vẫn sẽ không tin
tưởng, tăng cường lợi thế ngoại giao và phát triển khả năng quân sự của họ với
tâm lý chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc đối đầu trong có thể trong lương lai.
Tình hình mâu thuẫn sẽ khác đi so với những gì người Hoa Kỳ đã thường phải đối
phó hơn nửa thế kỷ qua, một khoảng thời gian mà thế giới có xu hướng được
phân chia gọn gàng giữa các đồng minh hay đối tác kinh tế lớn của Mỹ, trên một
mặt, và kẻ thù mở (với người mà Mỹ giao dịch và nói chuyện tương đối ít, nếu có).
Mặt khác, quan hệ hỗn hợp ngày nay khác xa so với điển hình của lịch sử chính trị
quyền lực lớn.
Có thể là xu hướng tăng cường cạnh tranh vốn có trong sự phát triển của sự giàu
có và quyền lực của Trung Quốc cuối cùng sẽ được khắc phục bởi các khuynh
hướng hợp tác sản xuất có được do việc tự do hoá hệ thống chính trị trong nước?
Đây là một khả năng, nhưng nó không phải là một điều chắc chắn. Nếu người theo
chủ nghĩa thuần thuý bi quan hiện thực là đúng, các chính sách của một nhà nước
Trung Quốc ngày càng dân chủ sẽ khác rất nhiều so với những chính sách của một
nhà nước ngày càng độc đoán.
Ngay cả nếu điều này không phải là một trường hợp trong thời gian dài, thì nó
cũng có thể là một khoảng thời gian không thoải mái (như các dự đoán bi quan tự
do) mà khi đó một hệ thống chính trị Trung Quốc cởi mở hơn đến với nhiều quốc
gia, và cả chính sách đối ngoại. Trong ngắn hạn, mối quan hệ giữa Washington và
Bắc Kinh có thể xấu đi trước khi chính sách của hai nước được cải thiện. Điều
hướng sự nguy hiểm của một thời kỳ quá độ ở Trung Quốc cũng có thể là một
trong những vấn đề lớn nhất phải đối mặt của chính trị Hoa Kỳ trong những
năm tới.
Những hình ảnh của khoảng cân bằng lực lượng đối lập cho thấy một mức độ căng
thẳng và bất ổn tiềm tàng. Trong hoàn cảnh như vậy sự thay đổi đơn phương của
một phíacó thể mang lại kịch tính, không liên tục. Khả năng như vậy tồn tại
trong chính trị thế giới như là tốt. Với tham chiếu một lần nữa để kết thúc chiến
tranh lạnh Mỹ- Xô , nó có thể tưởng tượng rằng một bước đột phá bất ngờ trong
cải cách chính trị ở Trung Quốc ,có thể mở đường cho cải tiến căn bản quan hệ với
Hoa Kỳ. Đồng thời, có thể thấy rằng một cuộc khủng hoảng bất ngờ hoặc quản lý
yếu kém (ví dụ trên Đài Loan, hoặc Bắc Triều Tiên, hoặc ở Nam Á) có thể dẫn
đến kết quả ngược lại. Nếu bằng cách nào đó Mỹ và Trung Quốc phát vỡ thế đối
đầu kìm hãm chuyển sang đối đầu trực thiết, quan hệ giữa hai quốc gia thành có
thế thay đổi một trời một vực. Thương mại và Ngoại giao có thể bị đổ vỡ hoàn
toàn, quan hệ không mấy thân thiện ngày càng sa lầy; cải cách chính trị nội bộ của
Trung Quốc có thể đem lại nhưng hậu quả không lường trước; và viễn cảnh về
một hiệp ước thân thiện thực sự giữa 2 cường quốc bên bờ Thái Bình Dương có
thể bị đình hoãn một thế hệ hoặc lâu hơn thế.
Một lần nữa lịch sử mối quan hệ Anglo-Giécmanh được tái hiện. Lần này trong
thế kỉ 20, nhiều nhà quan sát ở cả Anh và Đức đã dự đoán rằng sự xích lại gần
nhau của hai cường quốc này là không thể tránh khỏi bởi sợi dây liên hết giữa kinh
tế và xã hội, bởi nhận thức của hai bên về những tương đồng cơ bản về lợi ích
chiến lược của hai quốc gia, và bởi sự hội tụ cuối cùng của hệ thống chính trị nội
bộ hai quốc gia. Và đương nhiên, nhưng hy vọng này đã được xác nhận qua nửa
thế kỉ với hai cuộc chiến tranh tàn khốc. Mọi lý do đều hướng tới hy vọng rằng
quan hệ Trung-Mỹ sẽ đi theo con đường êm đẹp hơn và hòa bình hơn. Tuy nhiên,
những minh chứng lịch sử cũng như các học thuyết đều không thể đảm bảo rằng
mọi chuyện sẽ tuân theo cách thức đó.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tuong_lai_qh_m_t_full__972.pdf