Vậy, những ai là người được lợi? Đầu tiên có thể kể đến các nhà xuất khẩu việc
phá giá VND khuyến khích bán ngoại tệcho ngân hàng, làm tăng lợi nhận của các đơn
vị xuất khẩu. Đối với các cá nhân, đơn vịnhập khẩu thì việc phá giá tiền không ảnh
hưởng nhiều vì họ đang giao dịch với tỷgiá chợ đen cao hơn tỷ giá được niêm yết tại
các ngân hàng. Còn các nhà đầu tưchứng khoán nước ngoài thì đây là một cơ hội tốt
khi việc quy đổi giúp họcó thểmua được nhiều cổphiếu hơn. Các ngân hàng và thị
trường ngoại hối nói chung sẽ bớt được căng thẳng do kém thanh khoản vì sự chênh
lệch giữa tỷ giá chợ đen và niêm yết.
Về lý thuyết, có vẻ nhiều người đều được lợi. Song cái lợi từ việc phá giá đồng
tiền lại ẩn chứa nguy cơ suy thoái tiềm tàng. Giữa lúc kinh tế thế giới suy thoái, việc
phá giá có thể giúp tăng xuất khẩu trong ngắn hạn cho đến khi đạt được cân bằng mới.
Song động thái này, rõ ràng đang khiến mọi việc trởnên khó khăn hơn khi các nước
đều co cụm lại, bảo đảm cho nền kinh tếcủa chính họhơn và cuộc chiến phá giá đồng
nội tệ diễn ra. Mà hàng hóa Việt Nam trên thực tế là khó cạnh tranh được với nước
ngoài, ngay cảkhi phá giá. Do đó, Việt Nam vẫn nhập siêu.
19 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4079 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tỷ giá hối đoái tác động lên xuất nhập khẩu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HỒ CHÍ MINH
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TÁC ĐỘNG LÊN XUẤT NHẬP KHẨU
Họ và tên: TRẦN TRUNG THU
Năm sinh: 1990
Nghề nghiệp: Sinh viên năm 4 – Trường Đại học Kinh tế - luật
Số điện thoại: (+84) 168.994.2447
Địa chỉ email: thutrungtran90@gmail.com
TIỂU LUẬN
MỞ ĐẦU
1. Mục đích nghiên cứu
Tiểu luận được tạo ra để hoàn thành quá trình nghiên cứu môn học Kinh tế vĩ mô
2.
Tiểu luận được nghiên cứu với mục đích phân tích tác động của tỷ giá hối đoái
lên xuất nhập khẩu, để thấy được mối quan hệ đồng thời giải thích hiện tượng và có thể
dự báo tác động của chính sách tỷ giá lên xuất nhập khẩu trên một thị trường mở cửa.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của tiểu luận là nghiên cứu việc hình thành tỷ giá hối đoái và tác động
của tỷ giá đến xuất nhập khẩu.
Phạm vi nghiên cứu là việc sử dụng lý thuyết để giải thích hiện tượng đã diễn ra
trong thực tế.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu là phương pháp định tính như
mô tả, diễn giải, quy nạp vấn đề kết hợp việc tổng hợp các số liệu thực tế.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TÁC ĐỘNG LÊN XUẤT
NHẬP KHẨU
1.1 Tỷ giá hối đoái
1.1.1 Khái niệm về tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái được phân ra hai loại:
- Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là giá cả của đơn vị tiền tệ nước này tương ứng với số
lượng đơn vị tiền tệ nước khác. Trong cuộc sống hay phân tích kinh tế, khi nói đến tỷ
giá hối đoái giữa nước này với nước kia là ám chỉ đến tỷ giá hối đoái.
- Tỷ giá hối đoái thực tế là tỷ lệ trao đổi giữa hàng hóa nước này với hàng hóa nước
khác.
Trong bài tiểu luận này xác định mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực tế và
xuất, nhập khẩu ròng dưới các chính sách của Nhà nước.
1.1.2 Phương pháp biểu thị tỷ giá
Xét từ thị trường giao dịch, đồng tiền quốc gia của thị trường này được coi là
chủ thể, thì yết giá được thực hiện bằng hai cách sau:
- Yết giá trực tiếp: là phương pháp lấy ngoại tệ làm đồng tiền yết giá, còn nội tệ là đồng
tiền định giá. Ví dụ: tại Hà Nội 1USD = 17.620 VND (yết giá kiểu Châu Âu).
- Yết giá gián tiếp: là phương pháp lấy nội tệ làm đồng tiền yết giá, còn ngoại tệ là đồng
tiền định giá. Ví dụ: tại New York 1USD = 0,6235 GBP (yết giá kiểu Mỹ).
Hiện nay hầu hết các quốc gia đều sử dụng cách yết giá trực tiếp, chỉ có một số ít
các quốc gia có đồng tiền mạnh áp dụng yết giá gián tiếp.
Yết giá trực tiếp hoặc gián tiếp chỉ là những phương pháp nêu tỷ giá tùy thuộc
vào mục đích và tập quán của từng thị trường, hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến giá
trị trao đổi và phương thức chuyển giao giữa các đồng tiền.
Về cách yết giá trực tiếp hay gián tiếp, chưa có một văn bản nào quy định. Trên
thực tế cũng không thể có một tổ chức nào quy định áp đặt vấn đề này, vì đó là việc làm
hoàn toàn mang tính độc lập của mỗi quốc gia. Nhưng trong lịch sử trao đổi tiền tệ thì
những đồng tiền mạnh như : USD, EUR, GBP đã và đang là đồng tiền yết giá. Đồng
thời, những đồng tiền quốc tế SDRs luôn luôn giữ vị trí đồng tiền yết giá vì chúng là
ngoại tệ của các quốc gia thành viên.
1.1.3 Phân loại tỷ giá hối đoái
- Căn cứ vào đối tượng xác định tỷ giá, có thể chia làm tỷ giá chính thức và tỷ giá thị
trường
• Tỷ giá chính thức là tỷ giá do Ngân hàng trung ương của nước đó xác định. Trên
cơ sở của tỷ giá này các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng sẽ ấn
định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay, có kì hạn, hoán đổi.
• Tỷ giá thị trường là tỷ giá được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu trên thị
trường hối đoái.
- Căn cứ vào kì hạn thanh toán, có thể chia làm tỷ giá giao ngay và tỷ giá có kì hạn
• Tỷ giá giao ngay (SPOT) là tỷ giá do tổ chức tín dụng yết giá tại thời điểm giao
dịch hoặc do hai bên thỏa thuận nhưng phải đảm bảo trong biểu độ do Ngân
hàng Nhà nước qui định. Việc thanh toán giữa các bên phải được thực hiện trong
vòng 2 ngày làm việc tiếp theo, sau ngày cam kết mua hoặc bán.
• Tỷ giá giao dịch kì hạn (FORWARDS) là tỷ giá giao dịch do tổ chức tín dụng tự
tính toán và thỏa thuận với nhau nhưng phải đảm bảo trong biên độ qui định về
tỷ giá kì hạn hiện hành của Ngân hàng nhà nước tại thời điểm kí hợp đồng.
- Căn cứ vào giá trị của tỷ giá, có thể chia làm tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực.
• Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là tỷ giá của một loại tiền tệ được biểu hiện theo giá
hiện tại, không tính đến bất kì ảnh hưởng nào của lạm phát.
• Tỷ giá hối đoái thực là tỷ giá có tính đến tác động của lạm phát và sức mua trong
một cặp tiền tệ phản ánh giá cả hàng hóa tương quan có thể bán ra nước ngoài
và hàng tiêu thụ trong nước. Tỷ giá này đại diện cho khả năng cạnh tranh quốc
tế của nước đó.
- Căn cứ vào phương thức chuyển ngoại hối, có thể chia làm tỷ giá điện hối và tỷ giá
thư hối
• Tỷ giá điện hối là tỷ giá thường được niêm yết tại ngân hàng. Đó là tỷ giá
chuyển ngoại hối bằng điện. Tỷ giá điện hối là tỷ giá cơ sở để xác định các loại
tỷ giá khác.
• Tỷ giá thư hối tức là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư. Tỷ giá điện hối thường
cao hơn tỷ giá thư hối.
- Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối có thể phân biệt tỷ giá mua và tỷ giá bán
của ngân hàng.
• Tỷ giá mua là tỷ giá của ngân hàng mua ngoại hối vào.
• Tỷ giá bán là tỷ giá của ngân hàng bán ngoại hối ra.
Tỷ giá mua bao giờ cũng thấp hơn tỷ giá bán và khoản chênh lệch đó là lợi
nhuận kinh doanh ngoại hối của ngân hàng.
Thông thường thì ngân hàng không công bố tất cả tỷ giá của các hợp đồng đã kí
kết trong môt ngày mà chỉ công bố tỷ giá của hợp đồng kí kết cuối cùng trong ngày đó,
người ta gọi đó là tỷ giá đóng cửa. Tỷ giá đóng cửa được coi là chỉ tiêu chủ yếu về tình
hình biến động của tỷ giá trong ngày hôm đó. Tỷ giá được công bố vào đầu giờ của đầu
ngày giao dịch được gọi là tỷ giá mở cửa.
Trong nghiệp vụ mua bán ngoại hối của ngân hàng còn chia ra tỷ giá tiền mặt và
tỷ giá chuyển khoản. Tỷ giá chuyển khoản bao giờ cũng cao hơn tỷ giá tiền mặt .
1.1.4 Cách xác định tỷ giá hối đoái thực
Công thức của tỷ giá hối đoái thực:
ER = E.P*/P
ER > 1 đồng nội tệ định gía thực thấp
ER <1 nhập nhiều hơn
ER = 1 ngang giá sức mua PPP
1.1.5 Ý nghĩa sự thay đổi tỷ giá thực
- Tỷ giá thực tăng, làm cho sức mua đối ngoại của đồng nội tế giảm, nên ta nói là nội tệ
giảm giá thực. Như vậy, một đồng tiền giảm giá thực khi sức mua đối ngoại của nó
giảm từ thời điểm này sang thời điểm khác (sức mua đối ngoại là số lượng hàng hóa
mua được ở nước ngoài khi chuyển một đơn vị nội tệ ra ngoại tệ. Đồng tiền giảm giá
thực có tác dụng làm tăng sức cạnh tranh thương mại quốc tế của quốc gia này).
- Tỷ giá thực giảm, làm cho sức mua đối ngoại của đồng nội tệ tăng nên ta nói là nội tệ
lên giá thực. Như vậy, một đồng tiền lên giá thực khi sức mua đối ngoại của nó tăng từ
thời diểm này sang thời điểm khác. Đồng tiền lên giá thực có tác đụng làm xói mòn sức
cạnh tranh thương mại quốc tế của quốc gia này.
- Tỷ giá thực không đổi có tác dụng duy trì cố định sức cạnh tranh thương mại quốc tế.
Ứng dụng với các nhân tố khác không đổi, tỷ giá danh nghĩa tăng, làm cho tỷ giá thực
tăng. Điều này hàm ý, do giá hàng hóa không co giãn trong ngắn hạn, nên khi phá giá
nội tệ sẽ giúp cải thiện sức cạnh tranh thương mại quốc tế. Đây là một trong những nội
dung quan trọng của chính sách tỷ giá.
1.1.6 Các chức năng của tỷ giá
1.1.6.1 Chức năng so sánh sức mua giữa các loại tiền tệ với nhau
Tất cả các hoạt động và tính toán trong ngoại thương, như tính toán hiệu quả của
các quan hệ kinh tế với nước ngoài, quyết định tham gia hợp tác kinh tế, phân công lao
đọng với các nước khác, nhận các nguồn đầu tư của nước ngoài hay đầu tư liên doanh
với nước ngoài,… đều thể hiện qua đơn vị tiền tệ, qua việc so sánh giá trị đồng tiền
trong nước với nước ngoài. Mà việc đó, tức so sánh giá cả sẽ thể hiện được sự so sánh
về sức mua.
Để đảm bảo được tính ngang giá sức mua thì phải thông qua tỷ giá. Vì thế tỷ giá
phải phản ánh thật khách quan và đúng chức năng thước đo giá trị của tiền tệ.
1.1.6.2 Chức năng kích thích
Tỷ giá hối đoái cao hay tỷ giá hối đoái thấp đều có ảnh hưởng lớn đến doanh thu
và thu nhập của nhà xuất nhập khẩu. Tỷ giá hối đoái cao tức nội tệ giảm giá và ngoại tệ
tăng giá, nghĩa là nội tệ rẻ một cách tương đối so với ngoại tệ, kích thích người nước
ngoài mua hàng hóa trong nước nên nó kích thích sản xuất nhằm tăng xuất khẩu ra
nước ngoài. Ngược lại, tỷ giá hối đoái thấp tức nội tệ tăng giá và ngoại tệ giảm giá làm
cho hàng hóa trong nước đắt hơn tương đối so với hàng hóa nước ngoài nên nó kích
thích gia tăng nhập khẩu hàng hóa nước ngoài.
Nhờ thông qua tỷ giá mà nhà nước có thể kiểm soát, tác động đến cơ cấu xuất
nhập khẩu. Các nước đều dùng tỷ giá để kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu hàng
hóa nước ngoài, nâng năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu nhằm điều tiết cán
cân thanh toán, ngoài ra có thể làm tăng thu nhập ngoại tệ và hạn chế chi tiêu ngoại tệ
ra nước ngoài.
1.1.6.3 Chức năng phân phối:
Tỷ giá không chỉ có khả năng phân phối lại thu nhập quốc dân giữa các ngành
kinh tế trong một nước, mà còn có khả năng phân phối lại thu nhập quốc dân giữa các
nước có quan hệ kinh tế với nhau.
Khi một nước phá giá nội tệ với một tỷ lệ lớn làm tăng khả năng xuất khẩu và
trợ cấp cho các nhà xuất khẩu, phân phối lại một phần thu nhập của nhà nhập khẩu.
Khi một nước nâng giá nội lệ, làm hàng hóa trong nước đắt hơn tương đối so với
nước ngoài, tức là làm giảm đi phần thu nhập của nhà xuất khẩu và làm tăng thêm thu
nhập cho nhà nhập khẩu.
Trong ba chức năng trên thì chức năng so sánh sức mua giữa các loại tiền tệ là
quan trọng nhất.
1.1.7 Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu
1.1.7.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá
- Lạm phát:
Xét về mặt lý thuyết, nếu các yếu tố khác như nhau, khi tỷ lệ lạm phát của một
nước tăng tương đối so với lạm phát của một nước khác, mức cầu đồng tiền nước đó
giảm do xuất khẩu giảm vì giá cao hơn so với nước kia. Ngoài ra, người tiêu dùng và
các doanh nghiệp trong nước có lạm phát cao có xu hướng tăng nhập khẩu. Cả hai yếu
tố này tạo áp lực giảm giá đồng tiền của nước có lạm phát cao. Tỷ lệ lạm phát thường
khác nhau giữa các quốc gia, tạo nên các kiểu mậu dịch quốc tế để điều chỉnh thích hợp
ảnh hưởng của lạm phát đến tỷ giá hối đoái.
- Lãi suất:
Lãi suất là một trong những công cụ được các chính phủ sử dụng trong quản lý
vĩ mô nền kinh tế nhất là trong cơ chế thị trường, nó kích thích tập trung nguồn lực tài
chính và phân bổ nguồn lực đó một cách có hiệu quả, thúc đẩy nền kinh tế phát triển,
ổn định mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Đặc biệt, lãi suất còn là công cụ được
sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường, điều chỉnh giá trị đối ngoại của
nôi tệ. Ví dụ nếu lãi suất trong nước cao hơn so với lãi suất nước ngoài hay lãi suất
ngoại tệ sẽ dẫn đến những dòng vốn chảy và trong nước làm tăng cung ngoại tệ và tăng
cầu nôi tệ dẫn đến nội tệ lên giá làm cho việc nhâp khẩu gia tăng nhưng xuất khẩu lại
giảm sút.
- Cán cân thanh toán quốc tế:
Cung cầu về ngoại tệ trên thị trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến
động của tỷ giá hối đoái. Cung cầu ngoại tệ lại chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác
nhau trong đó có cán cân thanh toán quốc tế. Nếu cán cân thanh toán quốc tế dư thừa có
thể dẫn đến khả năng cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ và ngược lại. Sự cân bằng của
cán cân thanh toán quốc tế lại phụ thuộc vào các nguồn cung và cầu ngoại tệ cấu thành
nên cán cân thanh toán quốc tế. Khi nền kinh tế có mức tăng trưởng ổn định nhu cầu về
hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu sẽ tăng do đó nhu cầu về ngoại tệ cho thanh toán hàng
nhập khẩu tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái thì các hoạt
động sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu bị đình trệ làm cho nguồn cung ngoại tệ
giảm đi. Trong khi nhu cầu nhập khẩu chưa kịp thời được điều chỉnh trong ngắn hạn
việc giảm cung ngoại tệ sẽ đẩy tỷ giá lên cao.
- Chính sách của chính phủ:
Một chính phủ có thể tác động đến tỷ giá hối đoái bằng phương pháp trực tiếp
hay gián tiếp:
● Can thiệp trực tiếp: Các NHTW có thể tác động đến tỷ giá bằng cách trực tiếp
mua vào ngoại tệ hoặc bán nội tệ ra thị trường. Khi NHTW can thiệp vào thị trường hối
đoái mà có sự điều chỉnh sự thay đổi trong mức cung tiền tệ, điều này gọi là can thiệp
không vô hiệu hóa. Ngược lại, nếu muốn can thiệp vào thị trường hối đoái, trong khi
vẫn duy trì mức cung tiền tệ, NHTW sẽ sử dụng can thiệp vô hiệu hoá bằng cách áp
dụng các giao dịch trên thị trường ngoại hối đồng thời với các hoạt động trên thị trường
mở.
● Can thiệp gián tiếp: NHTW có thể tác động đến đồng nội tệ một cách gián tiếp
bằng cách tác động đến các yếu tố ảnh hưởng đến đồng nội tệ; như lãi suất, các biện
pháp kiềm chế lạm phát… Một chính phủ cũng có thể tác động đến đến các tỷ giá hối
đoái bằng cách áp đặt các hàng rào đối với tài chính và mậu dịch quốc tế, như thuế
nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu thuế đánh trên bất cứ thu nhập nào do đầu tư ở nước
đó của các nhà đầu tư ngoại quốc.
- Cán cân thương mại:
Tỷ giá hối đoái được hình thành bới cung và cầu ngoại tê.Cán cân thương mại
thể hiện chênh lệch giữa kim ngạch xuất nhập khẩu, do đó nếu một nền kinh tế nhập
khẩu nhiều tức cầu về ngoại tệ tăng hoặc ngược lại một nền kinh tế thiên về xuất khẩu
thì cung ngoại tệ tăng và tất cả những điều này đều tác động đến tỷ giá hối đóai thông
qua cung và cầu ngoại tệ.
-Yếu tố tâm lý:
Người dân, các nhà đầu cơ, các ngân hàng và các tổ chức kinh doanh ngoại tệ là
các tác nhân trực tiếp giao dịch trên thị trường ngoại hối. Hoạt động mua bán của họ tạo
nên cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Các hoạt động đó lại bị chi phối bởi yếu tố tâm
lý, các tin đồn cũng như các kỳ vọng vào tương lai.
1.1.7.2 Ảnh hưởng của biến động tỷ giá đến hoạt động xuất, nhập
khẩu
Vai trò của xuất nhập, khẩu trong nền kinh tế mở
Trong nền kinh tế mở, một phần sản lượng bán trong nước và một phần được
xuất khẩu nước ngoài.Chúng ta có thể chía chi tiêu để mua sản lượng Y của nền kinh tế
mở thành 4 yếu tố và được biếu thị thành đồng nhất thức:
Y = CD+ID+GD+EX
Tổng của 3 thành tố đầu là chi tiêu trong nước để mua hàng hóa và dịch vụ trong
nước. EX là chi tiêu nước ngoài để mua hàng hóa và dịch vụ trong nước. Nhưng vì chi
tiêu để mua hàng hóa nhập khẩu cũng là một bộ phận của chi tiêu trong nước điều này
dẫn đến việc ta có khái niêm xuất khẩu ròng (NX). Từ đó ta có đồng nhất thức thể hiện
mối quan hệ giữa sản lượng và NX:
Y = C + I + G + NX
Hay NX = Y - (C + I + G)
Xuất khẩu ròng = Sản lượng - Chi tiêu trong nước
Nếu sản lượng vượt quá chi tiêu trong nước, xuất khẩu phần chênh lệch làm cho
xuất khẩu ròng mang giá trị dương.
Nếu sản lượng nhỏ hơn chi tiêu trong nước, nhập khẩu phần chênh lệch làm cho
xuất khẩu ròng mang giá trị âm.
Khác với nền kinh tế đóng, trong nền kinh tế mở xuất, nhập khẩu đóng một vai
trò quan trọng vì nó trực tiếp đóng góp vào sản lượng cả nước. Nếu các yếu tố khác
không đổi xuất khẩu ròng tăng làm cho sản lượng cũng tăng và ngược lại khi xuất khẩu
ròng giảm khiến sản lượng cũng giảm.
Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái thực đến xuất khẩu ròng:
Tỷ giá hối đoái thực tế có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động xuất, nhập
khẩu vì nó thể hiện sự cạnh tranh quốc tế giữa hàng hóa các nước.
Tỷ giá hối đoái thực tế = (Tỷ giá hối đoái danh nghĩa* giá hàng nội)/ giá hàng ngoại
Khi tỷ giá hối đoái thực tế cao là hàng hóa của nước đó sẽ trở nên tương đối đắt
đối với người nước ngoài dẫn đến cầu đối vơí hàng hóa nội địa của người nước ngoài sẽ
ít hơn khiến gỉảm xuất khẩu đồng thời hàng ngoại trở nên tương đối rẻ đối với người
nội địa, do đó, gia tăng nhập khẩu làm xuất khẩu ròng giảm.
Khi tỷ giá hối đoái thực tế thấp có nghĩa là hàng nội trở nên tương đối rẻ đối với
người nuớc ngoài dẫn đến cầu đối với hàng hóa nội địa của người nước ngoài sẽ gia
tăng, lúc này, xuất khẩu gia tăng đồng thời giá hàng hóa nước ngoài cũng trở nên đắt
hơn và giảm nhập khẩu. Khi này xuất khẩu ròng tăng. Biểu thị mối quan hệ giữa tỷ giá
hối đoái thực tế và xuất khẩu ròng như sau:
NX = NX (tỷ giá hối đoái thực)
0
T
giá
hi
đoái
th
NX(tỷ giá HĐ thực)
Xuất khẩu ròng
Hình này biểu thị mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái thực tế và xuất khẩu ròng , tỷ
giá hối đoái thực tế càng thấp, hàng nội càng tương đối rẻ so với hàng ngoại, do đó xuất
khẩu ròng của chúng ta càng cao và ngược lại.
Khi tỷ giá của một quốc gia biến động sẽ gây tác động đầu tiên đến các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu.Khi tỷ giá tăng ( nội tệ giảm giá) gây tác động tiêu cực cho các
doanh nghiệp nhập khẩu và ngược lại khi tỷ giá giảm ( nội tệ lên giá) gây tác động xấu
đến các doanh nghiệp xuất khẩu.
Tỷ giá thay đổi cũng có tác động điều tiết việc di chuyển tư bản(vốn) từ quốc
gia này sang quốc gia khác. Việc di chuyển tư bản trên thế giới nhằm mục đích kiếm lợi
nhuận và phòng ngừa rủi ro. Do đó nếu tỷ giá giảm trong trường hợp người ta dự đoán
tỷ giá đó không tiếp tục giảm nữa thì tư bản nhập khẩu sẽ gia tăng , tư bản xuất khẩu sẽ
giảm.
1.2 Lý thuyết thương mại quốc tế
Trong phần này, các lý thuyết thương mại quốc tế được nghiên cứu và đi đến kết
luận là các quốc gia được hưởng lợi khi tham gia các hoạt động ngoại thương.
1.2.1 Quy luật lợi thế so sánh và nền tảng của hoạt động thương mại
Vấn đề tại sao các quốc gia phải giao thương với nhau, họ sẽ được lợi ích gì từ
việc giao thương đó cũng như cơ sở về mậu dịch quốc tế là gì đã được đề cập và nghiên
cứu từ nhiều thể kỷ nay. Adam Smith vào giữa thế kỷ thứ 18, đã cố giải thích nó bằng
quan điểm Lợi Thế tuyệt đối. Lợi thế tuyệt đối ở đây là chi phí sản xuất thấp hơn. Theo
ông, nếu quốc gia A có thể sản xuất sản phẩm X với chi phí thấp hơn quốc gia A, thì
quốc gia A sẽ chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm X, quốc gia B sẽ chuyên môn hóa sản
xuất sản phẩm Y và trao đổi với nhau. Bằng cách đó, tài nguyên của mỗi nước sẽ được
sử dụng có hiệu quả hơn và sản phẩm sản xuất của hai nước sẽ tăng lên. Phần tăng lên
này chính là lợi ích từ chuyên môn hóa.
Vậy giả sử quốc gia A có ợi thế tuyệt đối về cả sản phẩm X và Y hơn quốc gia B
thì liệu các quốc gia có còn giao thương với nhau nữa không và lợi ích mậu dịch sẽ nằm
ở chỗ nào? David Ricardo, nhà kinh tế học người Anh thế ký thứ 19, đã trả lời có với
điều kiện là tồn tại sự khác nhau về tương quan giá cả sản phẩm X và Y trước khi có
mậu dịch của hai quốc gia. Ricardo dựa vào lý thuyết tính giá trị bằng lao động để giải
thích cho giá cả tương quan giữa các sản phẩm. Tức là xem xét giá trị hoặc giá vả của
một sản phẩm chỉ dựa trên số lượng lao động tham gia vào quá trình sản xuất ra sản
phẩm đó.
Harberler sau đó đã phát triển mối tương quan giá cả của sản phẩm dựa trên Lý
thuyết chi phí cơ hội để giải thích quy luật Lợi thế so sánh của Ricardo. Theo lý thuyết
chi phí cơ hội thì chi phí để sản xuất thêm ra một sản phẩm chính là số lượng của một
sản phẩm khác phải hy sinh. Vì vậy nếu chi phí cơ hội của một sản phẩm khác nhau
giữa hai quốc gia, cả hai đều có lợi từ mậu dịch nếu mỗi bên chuyên môn hóa sản xuất
sản phẩm với chi phí cơ hội thấp hơn.
Những lý thuyết trên dây đều có những mặt hạn chế. Chúng đều dựa trên những
giả định đơn giản không mang tính thực tế cao cũng như không phản ánh chính xác
mậu dịch quốc tế. Tuy nhiên, có một cơ sở hợp lý rằng sự giao thương giữa các quốc
gia dựa vào lợi thế so sánh. Những lý thuyết này đã cho chúng ta khái niệm đầu tiên về
mậu dịch quốc tế và là nền tảng cho những lý luận sau này.
1.2.2 Nguồn lực sản xuất vốn có và lý thuyết Hecksher – Ohlin
Heckscher và Ohlin là những nhà kinh tế học đầu tiên giải thích nền tảng của lợi
thế so sánh bởi sự khác nhau về chi phí so sánh dưới dạng phân bổ nguồn lực. Mỗi
quốc gia sẽ xuất khẩu sản phẩm thâm dụng yếu tố mà quốc gia đó khan hiếm tương đối.
Lý thuyết này được Samuelson tiếp tục phát triển thành lý thuyết cân bằng giá cả
yếu tố sản xuất. Bản chất của lý thuyết này là mậu dịch quốc tế sẽ làm cho tiền lương
của các lao động đồng nhất và lợi suất của tư bản đồng nhất giữa các quốc gia tham gia
mậu dịch là như nhau.
Lý thuyết này đưa đến nhiều vấn đề quan trọng cho các nước đang phát triển. Nó
giải thích tại sao hầu hết mặt hàng xuất khẩu của các nước đang phát triển là hàng hóa
sơ cấp hoặc là săn phẩm thâm dụng lao động, bởi vì đa số các nước này đều dư thừa về
lực lượng lao động và nguồn tài nguyên thiên nhiên. Bên cạnh đó, lsy thuyết còn đưa ra
một gợi ý về việc tăng thu nhập của người lao động tại các nước đang phát triển.
1.3 Xuất khẩu
1.3.1 Những nhân tố ảnh hưởng xuất khẩu
1.3.1.1 Tỷ giá hối đoái thực tế
Tỷ giá hối đoái được xem như là công cụ đắc lực trong việc đẩy mạnh xuất khẩu.
Việc phá giá tức làm giảm giá của đồng tiên nội tệ so với đồng ngoại tế, làm cho đồng
nội tệ mất giá trị ở một mức đáng kể nào đó, tạo ra giá cả hàng hóa, sản phẩm sản xuất
trong nước tính bằng ngoại tệ sẽ rẻ trông thấy nhằm giúp cho các doanh nghiệp sản xuất
và kinh doanh hàng xuất khẩu có khả năng kiếm lợi trên thị trường quốc tế, đồng thời
giúp cho sản xuất hướng ngoại phát triển, việc làm tăng lên, giảm thất nghiệp.
Tuy nhiên, chỉ có tỷ giá hối đoái thực mới xác định được sức cạnh tranh thương
mại quốc tế của một quốc gia, ảnh hưởng mạnh mẽ đến xuất khẩu bởi vì nó quyết định
phần lớn lợi nhuận xuất khẩu.
Tỷ giá hối đoái thực tế được xác định bởi công thức RER = R*P/P
Một sự tăng lên tỷ giá hối đoái thực thì sẽ làm cho giá cả bị giảm đi một phần
giá trị và ngược lại. Lý thuyết mậu dịch quốc tế đã cho rằng một sự giảm giá trị của
TGHĐ làm tăng lợi nhuận xuất khẩu, do đó thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu và ngược
lại. Một sự giảm giá thực, hơn nữa, còn thu hút đầu tư thêm vào các nhân tố xuất khẩu
từ đó giúp mở rộng hơn sản xuất xuất khẩu. Nhận thấy tầm quan trọng của TGHĐ, các
nước đang phát triển đã cố gắng tận dụng chính sách tỷ giá cho TGHĐ thực không bị
đanh giá quá cao.
Bên cạnh đó, việc ổn định nền kinh tế vĩ mô như kiểm soát tỷ lệ lạm phát, duy trì
cán cân thanh toán,… Cũng rất cần thiết trong việc tăng trưởng xuất khẩu một cách
hiệu quả.
1.3.1.2 Nguồn vốn
Rất nhiều nghiên cứu cho răng nguồn vốn đóng vai trò quan trọng nhất cho việc
tăng trưởng . Nafziger đã nói rằng lý do nguồn vốn đổ vào các nước đang phát triển là
do năng suất biên của vốn và tỷ lệ tăng trưởng của nó cao. Sự góp vốn tăng nhiêu cả về
trực tiếp như đầu vào cho sản xuất lẫn gián tiếp khi hợp tác phát triển kỹ thuật. Sự đầu
tư sẽ cải thiện được chất lượng của các nguồn lực tự nhiên và con người, làm tăng thêm
số lượng từ các nguồn lực hữu ích và thúc đẩy khả năng sản xuất. Một vài sự đầu tư,
đặc biệt vốn FDI ở các nước đang phát triển có thể dẩy mạnh sản lượng hàng hóa
thương mại. Vì các nước đang phát triển có chi phí sản xuất thấp, đặc biệt là nuồn nhân
công rẻ, nên vốn đầu tư nước ngoài tại đây sẽ tạo được nhiều lợi nhuận hơn và hầu hết
FDI tại các nước này đều góp phần thúc đẩy sản xuất xuất khẩu.
1.3.1.3 Tiến bộ công nghệ
Sự tiến bộ công nghệ là kết quả từ sự kết hợp của quá trình nghiên cứu, phát
triển, phát minh và sự nâng cấp cải tiến. Hay nói cách khác, sự tiến bộ công nghệ có thể
được hiểu là sự phát triển năng suất các nhân tố tổng hợp. Do sự tiến bộ công nghệ làm
tăng năng suất sản xuất nên nó rất quan trọng trong việc mở rộng năng lực xuất khẩu để
từ đó đẩy mạnh việc xuất khẩu. Sự thay đổi của công nghệ cũng giúp giảm thiểu chi
phí. Do đó có thể tạo ra sản phẩm với chất lượng cao hơn hay cùng một chất lượng
nhưng với giá cả rẻ hơn, khiến cho hàng hóa xuất khẩu mang tính cạnh tranh nhiều hơn
trên thị trường thế giới, theo đó nhu cầu của các sản phẩm này sẽ tăng và dẫn đến mở
rộng xuất khẩu. Hơn nưa, tiến bộ công nghệ còn giúp cho việc phân bổ lại nguồn lực
vào việc sản xuất một cách hợp lý hơn.
1.3.1.4 Nhu cầu thế giới
Hàng hóa xuất khẩu của một quốc gia phụ thuộc mạnh mẽ vào nhu cầu của thể
giới về loại hàng đó. Sự tăng nhu cầu của thể giới về một loại hàng hóa nào đó sẽ
khuyển khích mở rộng khả năng sản xuất từ đó xuất khẩu được đẩy mạnh. Ngoài ta, sự
tăng nhu cầu của thế giới về một loại hàng hóa thường đi kèm với sự tăng giá cả quốc tế
về loại hàng đó và dẫn đến sự xuất khẩu sẽ đem lại nhiều lợi nhuận. Điều này lại tiếp
tục khuyến khích tăng cường việc sản xuất xuất khẩu.
1.4 Phá giá
Phá giá là việc nâng cao hay giảm thấp sức mua của đồng tiền đối với các ngoại
tệ và có thể xem là một sự điều chỉnh tỷ giá mạnh, cực đoan (khác với điều chỉnh tỷ giá
bình thường ở điểm cơ bản là điều chỉnh tỷ giá bình thường là một việc làm thường
xuyên với mức độ nhỏ về thay đổi tỷ giá, không gây ra sự biến động lớn cho sự phát
triển kinh tế - xã hội). Về nguyên lý, mục đích của phá giá là để tăng khả năng cạnh
trnah quốc tế và cải thiện tình hình cán cân thương mại trong tài khoản vãng lai. Lập
luận được nêu ra là phá giá sẽ giúp tăng giá hàng nhập khẩu và giảm giá hàng xuất
khẩu. Tuy nhiên, để thực hiện việc phá giá thành công cũng cần phải có hàng loạt các
điều kiện đi kèm.
1.5 mối quan hệ giữa tỷ giá và hoạt động xuất nhập khẩu
1.5.1 Ý nghĩa của tăng trưởng xuất khẩu và các biện pháp để đánh giá
Các nước đang phát triển cần mở rộng xuất khẩu đẻ gia tăng khả năng nhập khẩu
máy móc thiết bị và các nguyên liệu để hiện đại hóa đất nước. Tăng trưởng xuất khẩu
có thể đo được bởi sự thay đổi tỷ trọng xuất khẩu trong tổng sản lượng quốc gia. Biện
pháp thứ nhất thì dễ dàng so sánh giữa các thời kỳ của các nước nhưng thường bị ảnh
hưởng bởi vị trí xuất phát xuất khẩu thấp.
1.5.2 Đặc trưng xuất khẩu của các nước đang phát triển
Xuất khẩu hàng sơ cấp chiếm tỷ trọng lớn trong cấu trúc xuất khẩu của hầu hết
các nước đang phát triển và xuất khẩu hàng chế tạo sử dụng chủ yếu lao động không có
tay nghề từ nông thôn được phát triển trong giai đoạn đầu của phát triển sản xuất. Giá
của các hàng sơ cấp thường bị biến động mạnh trong thị trường thế giới và có khuynh
hướng giảm. Vì vậy các nước đang phát triển tập trung cao đầu tư của họ vào việc sản
xuất hàng chế tạo để duy trì tăng trưởng xuất khẩu ổn định.
1.5.3 Tỷ giá hối đoái với ngành công nghiệp non trẻ và hàng xuất khẩu sơ
cấp
Đồng nội tệ thường được giữ giá cao như là một công cụ chính sách khuyến
khích phát triển các ngành công nghiệp non trẻ bởi vì chúng chủ yếu nhập máy móc
thiết bị và nguyên vật liệu từ nước ngoài. Chính sách này sẽ gây thiệt hại cho khu vực
xuất khẩu và đến lượt nó xuất khẩu yếu kém sẽ không ủng hộ cho việc phát triển thành
công của các ngành công nghiệp non trẻ.
Trợ cấp cho xuất khẩu để bù đắp mất mát trong xuất khẩu hàng sơ cấp bị ảnh
hưởng từ sự lên giá của đồng nội tệ hiếm khi có hiệu ứng lợi ích trên khu vực xuất khẩu
hàng sơ cấp và thường trợ giúp cho các ngành công nghiệp xuất khẩu không hiệu quả
và chỉ gây ra gánh nặng ngân sách như kinh nghiệm của các nước Châu Á. Vì vậy để có
thể phát triển xuất khẩu cho cả hàng sơ cấp và hàng công nghiệp cần có một tỷ giá hối
đoái thuận lợi.
1.6 Phương pháp tiếp cận đối với Chính sách TGHĐ
1.6.1 Phương pháp tiếp cận của trường phái tiền tệ
TGHĐ là biến nội sinh trong các mô hình kinh tế và được dùng như một công cụ
chống lạm phát. Khi có các biến động mạnh về tiền tệ trong nước, TGHĐ thương được
chốt lại để duy trì ổn đinh kinh tế vĩ mô. Vì thế các nhà tiền tệ thương không thích phá
giá. Vì giá trị thực của đồng nội tệ sẽ giảm và dẫn đến mở rộng cung tiền mà điều này
cũng với sự gia tăng trong giá nhập khẩu sẽ đẩy mặt bằng giá cả chung lên. Đồng thời
chi phí sản xuất hàng xuất khẩu sẽ tăng cùng một tỷ lệ với mức phá giá. Cuối cùng
không có sự thay đổi nào trong giá nội tệ của hàng xuất khẩu và đôi khi hoạt động xuất
khẩu còn bị tổn thương từ sự bất ổn của kinh tế vĩ mô.
Giá trị đồng nội tệ giảm có thể làm mất đi niềm tin của các nhà đầu tư nước
ngoài và làm giảm đi lợi tức thực. Những điều này dẫn đến giảm đầu tư cho toàn bộ nền
kinh tế kể cả xuất khẩu. Phá giá cũng làm gia tăng nợ và chi phí trả nợ nước ngoài bằng
đồng nội tệ mà điều này có thể tác động đến khu vực xuất khẩu.
1.6.2 Phương pháp tiến cận của trường phái mục tiêu thực
Chính sách tỷ giá phải ủng hộ cán cân thanh toán và mở rộng xuất khẩu. Có
nghĩa là, đồng nội tệ nên duy trì ở mức giảm giá. Sự lên giá của đồng nội tệ sẽ càng
ngày càng thu hẹp sức cung của hàng hóa xuất khẩu cũng như hàng hóa thay thế giá của
TGHĐ còn có thể đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu bởi vì hàng hóa phi mậu dịch có
thể được phát triển để xuất khẩu. Nền kinh tế nên duy trì TGHĐ hiện hành khi có bất cứ
thay đổi có lợi nào trong giá thế giới. Phá giá đồng nội tệ phối hợp tự do hóa thương
mại, các chính sách giảm và chuyển đổi chi tiêu và các chính sách tiền tệ và tài khóa sẽ
giảm đi áp lực lạm phát, vẫn duy trì được mức đầu tư cho khu vực xuất khẩu, không
làm giảm đầu tư nước ngoài và tăng khả năng trả nợ nền kinh tế.
Hàng hóa xuất khẩu có thể thay thế cao trong các nước đang phát triển. Nếu sự
lên giá kéo dài của đồng nội tệ, thị trường thế giới có thể thay thế xuất khẩu của nước
nhà và các xí nghiệp trong nước sẽ có khuynh hướng thay thế nguyên liệu nhập cho
nguyên liệu và lao động trong nước. Cán cân thương mại có thể được cải tiến sau năm
đầu tiên phá giá.
1.7 Thị trường nhỏ và mở cửa
Nền kinh tế mở cửa hay nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế mà người mua
và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số
lượng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.
Một nền kinh tế nhỏ là nền kinh tế chỉ chiếm một phần nhỏ trong nền kinh tế thế
giới. Do đó, lãi suất của nền kinh tế này có ảnh hưởng không đáng kể với lãi suất thế
giới. Mà nền kinh tế nhỏ và mở cửa có tính cơ động hoàn hảo về vốn, tức công dân trên
nước đó được tự do gia nhập thị trường tài chính quốc tế, mà Chính phủ không ngăn
cản hoạt động vay hoặc cho vay quốc tế. Vì thế, tỷ lệ lãi suất trong nền kinh tế đó bằng
mức tỷ lệ lãi suất quốc tế i* hay tỷ lệ lãi suất phổ biến trên thị trường tài chính quốc tế.
Nền kinh tế nhỏ và mở cửa chấp nhận lãi suất thực tế thế giới và coi đó là một
con số ngoại sinh.
Trạng thái cân bằng của tiết kiệm và đầu tư trên bình diện thế giới quyết định
mức lãi suất thực tế trên thế giới. Còn nền kinh tế nhỏ và mở cửa có tác động rất ít đến
trạng thái cân bằng này.
CHƯƠNG II: VẤN ĐỀ VỀ TỶ GIÁ VÀ XUẤT NHẬP KHẢU CỦA VIỆT NAM
NĂM 2010
Năm 2008, cuộc khủng hoảng toàn cầu xảy ra, tác động trực tiếp đến hàng loạt
nước lớn trên thế giới. Việc này gây tê liệt kinh tế toàn cầu, một bức tranh ảm đạm
khắp nơi, thị trường chứng khoán sụp đổ. Trong khoảng thời gian đó, Việt Nam có vẻ
hoàn toàn vô sự, vì Việt Nam là một nước nhỏ, chưa có được tác động lớn đến các nền
kinh tế khác hay chịu sự khủng hoảng gián tiếp từ các nước có quan hệ kinh tế. Và thực
tế, chỉ một, hai năm sau đó, tình hình nền kinh tế Việt Nam có những chuyển biến xấu.
Năm 2010, theo tình hình thế giới, việc phá giá VND có thể dự đoán trước.
Tháng 2/2010 VND bị phá 3,4% giá đồng tiền. Rồi đến tháng 8-2010 lại tiếp tục phá
giá thêm một lần nữa với tỷ lệ 2,9%. Việc phá giá đồng tiền theo lý thuyết sẽ làm giá
hàng hóa trong nước có vẻ rẻ hơn và tăng xuất khẩu, giảm nhập khẩu; đồng thời các
nhà đầu tư sẽ tăng cường đầu tư vào Việt Nam.
Song ở Việt Nam, năm 2010 tình hình không cải thiện nhiều. Điều này xuất phát
từ nhiều lý do như về tình trạng sản xuất và khả năng cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu,
cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, …
Cũng như các quốc gia đang phát triển cùng giai đoạn, nền kinh tế Việt Nam có
nhu cầu về nhập khẩu thiết bị máy móc để đổi mới công nghệ và nhập khẩu các nguyên,
vật liệu sản xuất các sản phẩm tiêu dùng trong nước và xuất khẩu mà theo số liệu của
Tổng cục Thống kê là khoảng 90% tổng giá trị hàng nhập khẩu. Nhiều mặt hàng sản
xuất trong nước lại cần nhiều nguyên vật liệu nhập khẩu, bị phụ thuộc vào nhà cung
ứng nước ngoài. Do đó, khi giá nhiên, nguyên liệu thế giới tăng đều ảnh hưởng trực tiếp
để việc sản xuất.
Nói về xuất khẩu, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hàng nông
thủy sản, sản phẩm tài nguyên, như cao su, dầu thô,… trong các mặt hàng xuất khẩu thì
tỷ trọng nguyên liệu nhập khẩu lại chiếm 70%, chưa kể các yếu tố khác như: thuế xuất
khẩu, năng suất lao động của ngành hàng xuất khẩu, chất lượng và mức độ đa dạng hóa
chủng loại, tiếp thị, xúc tiến thương mại.. Giá trị xuất khẩu của các mặt hàng này dựa
phần nhiều vào hoạt động sản xuất và chiếm lấy thị trường hơn là tỷ giá hối đoái. Trong
thực tế việc giảm giá VND đã không làm xuất khẩu của Việt Nam tăng lên, mà cán cân
vẫn thâm hụt.
Tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam
2005 2006 2007 2008 2009 9 - 2010
Thủy sản 8.50% 8.49% 7.84% 7.25% 7.43% 6.66%
Gạo 4.34% 3.30% 3.00% 4.61% 4.70% 5.03%
Dầu thô 22.92% 21.02% 17.52% 16.61% 10.97% 7.14%
Cao su 2.44% 3.21% 2.89% 2.54% 2.12% 2.76%
Gỗ và sản phẩm
gỗ 4.71% 4.81% 4.89% 4.42% 4.51% 4.68%
Dệt, may 14.91% 14.65% 16.09% 14.48% 15.91% 15.61%
Giày dép 9.32% 8.98% 8.19% 7.47% 7.10% 7.02%
Điện tử, máy tính 4.47% 4.47% 4.50% 4.30% 4.90% 4.84%
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Vậy, những ai là người được lợi? Đầu tiên có thể kể đến các nhà xuất khẩu việc
phá giá VND khuyến khích bán ngoại tệ cho ngân hàng, làm tăng lợi nhận của các đơn
vị xuất khẩu. Đối với các cá nhân, đơn vị nhập khẩu thì việc phá giá tiền không ảnh
hưởng nhiều vì họ đang giao dịch với tỷ giá chợ đen cao hơn tỷ giá được niêm yết tại
các ngân hàng. Còn các nhà đầu tư chứng khoán nước ngoài thì đây là một cơ hội tốt
khi việc quy đổi giúp họ có thể mua được nhiều cổ phiếu hơn. Các ngân hàng và thị
trường ngoại hối nói chung sẽ bớt được căng thẳng do kém thanh khoản vì sự chênh
lệch giữa tỷ giá chợ đen và niêm yết.
Về lý thuyết, có vẻ nhiều người đều được lợi. Song cái lợi từ việc phá giá đồng
tiền lại ẩn chứa nguy cơ suy thoái tiềm tàng. Giữa lúc kinh tế thế giới suy thoái, việc
phá giá có thể giúp tăng xuất khẩu trong ngắn hạn cho đến khi đạt được cân bằng mới.
Song động thái này, rõ ràng đang khiến mọi việc trở nên khó khăn hơn khi các nước
đều co cụm lại, bảo đảm cho nền kinh tế của chính họ hơn và cuộc chiến phá giá đồng
nội tệ diễn ra. Mà hàng hóa Việt Nam trên thực tế là khó cạnh tranh được với nước
ngoài, ngay cả khi phá giá. Do đó, Việt Nam vẫn nhập siêu.
CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ
- Nâng cao năng suất và tính cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu
- Coi tỷ giá thực tế hiệu quả là trung tâm để điều hành chính sách tỷ giá hối đoái.
- Chính sách tỷ giá phải giữ vững thế cân bằng nội và cân bằng ngoại.
- Ổn định tỷ giá trong mối tương quan cung cầu ngoại tệ trên thị trường xuất khẩu kích
thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ
ngoại tệ.
- Từng bước nâng cao uy tín của VNĐ, tạo điều kiện VNĐ trở thành đồng tiền tự do
chuyển đổi.
- Phối hợp với chính sách ngoại hối để chống hiện tượng đô la hóa.
- Xác định giỏ các đồng ngoại tệ, thay đổi tập quán thanh toán xuất khẩu bằng đồng Đô
la Mỹ bằng các đồng ngoại tệ mạnh khác.
- Kiềm chế lạm phát - ổn định kinh tế vĩ mô.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bia_ngoai_4478.pdf