Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là ởcấp địa phương gắn với quá
trình phân cấp quản lý Nhà nước nói chung và quản lý đầu tưnói riêng. Phân
cấp cần đi đối với trách nhiệm rõ ràng của từng cá nhân trên cơsởlấy lợi ích
chung của xã hội làm căn cứ để đánh giá. Điều đó có nghĩa là, phân cấp
không chỉlà việc trao quyền chủ động ra quyết định theo đúng với thẩm
quyền nhà nước quy định, mà cần đánh giá tác động đích thực của việc ra
quyết định đầu tưsau khi dựán đi vào hoạt động (ví dụ đối với tạo việc làm,
đóng góp vào tăng giá trịsản lượng và giá trịgia tăng cho địa phương v.v.) .
Ởcấp địa phương cần có chính sách nhanh chóng nâng cao năng lực cho đội
ngũcán bộ.
30 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4673 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vai trò của vốn FDI đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1995 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
-----------------*§*----------------
MÔN HỌC KINH TẾ VĨ MÔ 2
TIỂU LUẬN
VAI TRÒ CỦA VỐN FDI ĐỐI VỚI TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1995 - 2010
GVHD : PGS-TS. NGUYỄN VĂN LUÂN
Sinh viên thực hiện :
HUỲNH NGỌC CHƯƠNG K084010012
Tp.Hồ Chí Minh, ngày 5 tháng 6 năm 2011
MỤC LỤC
Phần I : MỞ ĐẦU .....................................................................................................................................3
Lý do chọn đề tài...................................................................................................................................3
Phương pháp thực hiện đề tài................................................................................................................3
Phạm vi thực hiện đề tài :......................................................................................................................3
Phần II : NỘI DUNG ................................................................................................................................4
Chương 1 : Các khái niệm.....................................................................................................................4
1.1Tăng trưởng kinh tế......................................................................................................................4
1.2 Đo lường tăng trưởng kinh tế:.....................................................................................................4
1.3 Tác động của vốn đầu tư đến quá trình tăng trưởng kinh tế........................................................5
1.4 Vốn FDI trong nền kinh tế mở : ..................................................................................................7
1.5 Hàm Dobb – Douglass: .............................................................................................................11
Chương 2 : Phân tích vai trò của vốn đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam: ................................12
2.1 Chính sách thu hút FDI của nước ta :........................................................................................12
2.2 Tổng quan tăng trưởng kinh tế Việt Nam .................................................................................16
2.3 Thực trạng và vai trò của vốn FDI trong nền kinh tế nước ta thời gian qua: ............................19
Chương 3 : Giải pháp nâng cao hiệu quả đóng góp của nguồn vốn FDI ............................................26
Phần III : KẾT LUẬN.............................................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................................................29
Phần I : MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Kể từ khi mở cửa nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, từ vị
thế nằm tong những nhóm nước có thu nhập thấp nay đã vươn lên nằm trong nhóm
nước có thu nhập trung bình. Việt Nam đang có những thuận lợi rất lớn để phát
triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay, khi mà nền nền kinh tế ngày càng hội nhập
sau rộng vào nền kinh tế thế giới, cơ cấu dân số đang ở thời kỳ “ cơ cấu dân số vàng
“ rất thuận lợi cho những bước phát triển bức phá trong thời gian tới. Tuy vậy, nền
kinh tế nước ta cũng đang gặp những thách thức, những vật cản trong quá trình phát
triển, đó là cơ cấu kinh tế, hiện tượng đầu tư công không hiệu quả và nguy cơ lạm
phát đè nặng. Chính vì thế, em thực hiện đề tài này nhằm tìm ra những nhân tố đã
thúc đẩy kinh tế nước ta trong thời gian qua để có thể thúc đẩy nền kinh tế nước ta
phát triển vượt bậc theo hướng hiện đại trong thời gian tới đặc biệt là yếu tố vốn
FDI trong quá trình hội nhập đã tác động lên nền kinh tế nước ta như thế nào.
Phương pháp thực hiện đề tài
Trong đề tài này em thực hiện phương pháp nghiên cứu dựa trên những dữ liệu của
tổng cục thống kê để tìm hiểu vai trò của vốn FDI đối với tăng trưởng của nền kinh
tế nước ta trong giai đoạn vừa qua.
Phạm vi thực hiện đề tài :
Phạm vi thực hiện trong đề tài tiểu luận này của em là :
- Đối tượng nghiên cứu : vốn FDI
- Không gian kinh tế nghiên cứu : nền kinh tế Việt Nam
- Thời gian nghiên cứu : giới hạn khoảng thời gian từ năm 1995 đến năm
2010
Phần II : NỘI DUNG
Chương 1 : Các khái niệm :
1.1Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là một đình nghĩa được đưa ra khá sớm và liên tục phát
triển. Có nhiều quan điểm về tăng trưởng kinh tế nhưng nội hàm cốt lõi của quá
trình tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên hay mở rộng sản lượng của nền kinh tế quốc
dân và thường được đo lường bằng sự gia tăng về giá trị về sản lượng hàng hóa và
dịch vụ của một nước trong một thời gian nào đó.
Tăng trưởng kinh tế hiện đại được xác định có 6 đặc điểm :
- Thứ nhất, đó là sự tăng nhanh về năng suất.
- Thứ hai, đó là tốc độ tăng nhanh về thu nhập bình quân đầu người và dân
số
- Thứ ba, đó là tốc độ chuyển dịch cơ cấu nhanh
- Thứ tư, đó là chuyển biến nhanh về hệ tư tưởng và xã hội
- Thứ năm là sự vươn ra thế giới về mặt kinh tế
- Sự lan tràn có giới hạn của tăng trưởng kinh tế.
Trong giới hạn của đề tài này, em phân tích tăng trưởng kinh tế Việt Nam
trong thời gian qua dựa trên 3 đặc điểm đầu tiên của tăng trưởng kinh tế hiện đại.
1.2 Đo lường tăng trưởng kinh tế:
Trong thống kê kinh tế hiện đại, người ta thường sử dụng các chỉ số như :
GDP, GNI, GDP/người để đo lường biến số giá trị sản lượng kinh tế của quốc gia
trong một thời gian.
Yếu tố năng suất : hiện nay thường được đo lường là yếu tố năng suất tổng
hợp TFP.
Yếu tố cơ cấu kinh tế :
Cơ cấu kinh tế được phân chia theo nhiều quan điểm khác nhau tùy
theo từng mục đích phân tích như : cơ cấu kinh tế theo ngành, theo lĩnh vực; cơ cấu
kinh tế theo thành phần; cơ cấu kinh tế theo vùng,….
1.3 Tác động của vốn đầu tư đến quá trình tăng trưởng kinh tế
1.3.1 Tổng quan :
Khái niệm vốn được nhắc đến ở đây là vốn được tính bằng tiền tệ, vốn đầu tư
được tích lũy bằng tiết kiệm của nền kinh tế quốc dân và luồng vốn nước nước
ngoài chảy vào thông qua các kênh tài chính- tín dụng trên thị trường hay thông qua
các thỏa thuận của các nước.
Vốn có vai trò đặc biệt trong thúc đẩy nền kinh tế. Vốn thường được
phân biệt dưới 2 hình thức : vốn sản xuất và vốn đầu tư.
Vốn sản xuất : là toàn bộ những tài sản quốc gia tính bằng tiền
tham gia vào quá trình sản xuất hay là phương tiện phục vụ sản xuất. Vốn sản xuất
bao gồm 2 phần cơ bản là vốn cố định và vốn tồn kho; trong đó vốn cố định là phần
cơ bản bao gồm : công xưởng, nhà máy, thiết bị sản xuất,…
Vốn đầu tư là vốn tham gia vào hoạt động đầu tư, có thể là đầu
tư vào tài sản sản xuất hoặc phi sản xuất. Quá trình hoạt động đầu tư là việc sử dụng
vốn đầu tư để phục hồi hay tăng cường năng lực sản xuất, đó là sự chuyển hóa vốn
thành các dạng phục vụ cho quá trình sản xuất.
Vốn và sản lượng có mối quan hệ đặc biệt :
Thứ nhất, số lượng vốn xác định số lượng sản lượng được
sản xuất ra.
Thứ hai, số lượng sản lượng xác định số lượng tiết kiệm và
đầu tư và do đó xác định số lượng vốn tích lũy.
1.3.1.1 Theo lý thuyết tân cổ điển :
Vốn với vai trò là một trong những yếu tố sản xuất. Mỗi sự gia
tăng thêm của các yếu tố sản xuất sẽ làm gia tăng thêm sản lượng đầu
ra, các yếu tố sản xuất có mối quan hệ lẫn nhau và có vai trò nhất định
đối với tăng trưởng sản xuất; trong đó tư bản gia tăng được quan tâm
nhất bởi vì nó đi liền với tiến bộ kỹ thuật và công nghệ.
1.3.1.2 Theo lý thuyết Harrod – Domar :
Sự phụ thuộc của sản lượng vào tư bản đầu tư. Lý thuyết này
đã xác định mức tăng thêm của sản lượng trong một thời kỳ nhất định
phụ thuộc vào mức tăng của tư bản và mức tiết kiệm. Để đo lường
các chỉ số, lý thuyết Harrod – Domar đã đưa ra chỉ số gia tăng tư bản
– đầu ra ( ICOR) để chỉ năng lực tăng trưởng :
ICOR = ∆K/∆Y
Từ đó suy ra : g = s/ ICOR.
1.3.1.3 Theo lý thuyết kinh tế học hiện đại
¾ Những ảnh hưởng của vốn đối với sản lượng :
Hàm sản lượng :
Y = F( K, N) ở đây ta xét đến 2 yếu tố sản xuất là vốn và nhân
công trong một nền kinh tế giả định không có tiến bộ công nghệ.
Khi đó ta có : Y/ N = F ( K/N; 1) hay đơn giản hơn Y/N=
f(K/N)
Trong đó hàm số f đại diện cho mối quan hệ giữa vốn và sản
lượng trên mỗi công nhân giống như hàm F. Với các giả định về số việc làm N
không đổi . Ta có Yt/N = f( Kt/N) . Điều này thể hiện tác động của việc tích lũy
vốn đối với sản lượng trên đầu công nhân. Sản lượng trên đầu công nhân tăng khi
vốn trên đầu công nhân tăng.
¾ Những ảnh hưởng của sản lượng đối với tích lũy vốn :
Với S là tỷ lệ tiết kiệm; là tỷ lệ khấu hao
It = sYt và Kt+1 = (1- ) Kt + It
Từ đó ta có
Hay
Từ 2 công thức trên cho ta thấy sản lượng ảnh hưởng đến việc
tích lũy vốn đầu tư cho năm tiếp theo, điều này con phụ thuộc vào tỉ lệ tiết kiệm của
quốc gia. Đầu tư tăng theo vốn nhưng lượng tăng ít hơn khi vốn tăng lên. Do đó, khi
vốn đã rất cao rồi, ảnh hưởng của việc tăng thêm vốn đối với sản lượng và sau đó
sản lượng lại ảnh hưởng đến đầu tư là rất nhỏ.
¾ Tỷ lệ tiết kiệm – sản lượng và quy tắc vàng
Từ những công thức trên đã đi đến những kết quả sau :
• Tỷ lệ tiết kiệm không ảnh hưởng gì đến tỷ lệ tăng
trưởng của sản lượng trên đầu công nhân. Trong dài
hạn tỷ lệ tăng trưởng này bằng không.
• Tỷ lệ tiết kiệm cao hơn quyết định sản lượng trên
đầu công nhân cao hơn trong dài hạn. Các điều kiện
khác như nhau, quốc gia nào có tỷ lệ tiết kiệm cao
hơn sẽ đạt mức sản lượng trên đầu công nhân cao
hơn trong dài hạn.
• Tăng tỷ lệ tiết kiệm sẽ dẫn đến tăng trưởng sản
lượng trên đầu công nhân cao hơn trong một thời
gian nào đó nhưng không phải là mãi mãi vì tỷ lệ tiết
kiệm không thể nào lớn hơn 1.
1.4 Vốn FDI trong nền kinh tế mở :
1.4.1 Tác động của vốn trong nền kinh tế mở
Trong nền kinh tế mở, thị trường tài chính và thị trường hàng hóa gắn bó chặt chẽ
với nhau. Xuất phá từ đồng nhất thức :
Y = C + I + G + NX
↔ Y – C – G = I + NX
↔ S = I + NX
Hay S – I = NX
Đồng nhất thức này cho thấy mối quan hệ giữa luồng vốn đầu tư và luồng hàng hóa,
dịch vụ quốc tế. Đầu tư nước ngoài ròng của một nước bằng với cán cân thương mại
của nước đó. Bằng việc sử dụng đồng nhất thức trên ta có thể biết được sự phản ứng
của cán cân thương mại của một nước hay nói một cách khác thì cán cân thương
mại bị quy định bởi mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư tại mức lãi suất thế
giới do lãi suất trong nước chịu sự quy định của mức lãi suất của thế giới.
Ngoài ra trong thuyết tăng trưởng nội sinh, các nhà kinh tế như Lucas,
Mankiw đã nhấn mạnh tác động tích cực của FDI tới vốn con người như kỹ năng,
kiến thức… tại các quốc gia đang phát triển. Lý thuyết tăng trưởng nội sinh chỉ ra
FDI có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tác động lan tỏa của công nghệ.
Các công ty đa quốc gia có tác động quan trọng tới nguồn vốn con người tại nước
sở tại thông qua các khóa đào tạo ngắn và dài hạn cho công nhân địa phương. Các
khóa đào tạo này có tác động tích cực tới toàn bộ đội ngũ lao động của doanh
nghiệp từ lao động không kỹ năng tới lao động có kỹ năng. Hoạt động nghiên cứu
và phát triển (R&D) được thực hiện bởi các công ty đa quốc gia được đánh giá là
một trong những đóng góp quan trọng tới nguồn vốn con người tại các quốc gia tiếp
nhận đầu tư và do đó thúc đẩy tăng trưởng tại các quốc gia này trong dài hạn.
1.4.2 Các yếu tố tác động đến việc thu hút nguồn vốn FDI :
Nếu một nền kinh tế thị trường tự do và mở, hội nhập với nền kinh tế thế giới
thì dòng chu chuyển vốn sẽ di chuyển theo nguyên tắc nguồn vốn sẽ chảy về nơi
thiếu vốn để tìm kiếm được nguồn lợi nhuận và các cơ hội đầu tư, cho vay cao
hơn.Ngoài ra, dòng chu chuyển vốn còn phụ thuộc các yếu tố vĩ mô, thể chế chính
sách của từng quốc gia và sự phát triển của nền kinh tế quốc gia đó.
• Nhân tố thị trường
Qui mô và tiềm năng phát triển của thị trường là một trong những
nhân tố quan trọng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Khi đề cập đến qui
mô của thị trường, tổng giá trị GDP - chỉ số đo lường qui mô của nền kinh tế
- thường được quan tâm. Theo UNCTAD, qui mô thị trường là cơ sở quan
trọng trong việc thu hút đầu tư tại tất cả các quốc gia và các nền kinh tế.
Nhiều nghiên cứu cho thấy FDI là hàm số phụ thuộc vào qui mô thị trường
của nước mời gọi đầu tư. Nhằm duy trì và mở rộng thị phần, các công ty đa
quốc gia (MNEs) thường thiết lập các nhà máy sản xuất ở các nước dựa theo
chiến lược thay thế nhập khẩu của các nước này. Các nghiên cứu khác cũng
chỉ ra rằng, mức tăng trưởng GDP cũng là tín hiệu tốt cho việc thu hút FDI.
Bên cạnh đó, nhiều nhà đầu tư với chiến lược “đi tắt đón đầu” cũng sẽ mạnh
dạn đầu tư vào những nơi có nhiều kỳ vọng tăng trưởng nhanh trong tương
lai và có các cơ hội mở rộng ra các thị trường lân cận. Khi lựa chọn địa điểm
để đầu tư trong một nước, các nhà đầu tư nước ngoài cũng nhắm đến những
vùng tập trung đông dân cư – thị trường tiềm năng của họ.
• Nhân tố lợi nhuận
Lợi nhuận thường được xem là động cơ và mục tiêu cuối cùng của
nhà đầu tư. Trong thời đại toàn cầu hóa, việc thiết lập các xí nghiệp ở nước
ngoài được xem là phương tiện rất hữu hiệu của các MNEs trong việc tối đa
hóa lợi nhuận. Điều này được thực hiện thông qua việc thiết lập các mối liên
kết chặt chẽ với khách hàng và thịtrường, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, chia
rủi ro trong kinh doanh và tránh được các rào cản thương mại. Tuy vậy trong
ngắn hạn, không phải lúc nào lợi nhuận cũng được đặt lên hàng đầu để cân
nhắc.
• Nhân tố về chi phí
Nhiều nghiên cứu cho thấy, phần đông các MNEs đầu tư vào các nước là
để khai thác các tiềm năng, lợi thế về chi phí. Trong đó, chi phí về lao động
thường được xem là nhân tố quan trọng nhất khi ra quyết định đầu tư. Nhiều
nghiên cứu cho thấy, đối với các nước đang phát triển, lợi thế chi phí lao động
thấp là cơ hội để thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong các thập kỷ qua.
Khi giá nhân công tăng lên, đầu tư nước ngoài có khuynh hướng giảm rõ rệch.
Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư trực tiếp ở nước ngoài cho phép các công ty tránh
được hoặc giảm thiểu các chi phí vận chuyển và do vậy có thể nâng cao năng
lực cạnh tranh, kiểm soát được trực tiếp các nguồn cung cấp nguyên nhiên vật
liệu với giá rẻ, nhận được các ưu đãi về đầu tư và thuế, cũng như các chi phí sử
dụng đất. Ngoài chi phí vận chuyển và các khía cạnh chi phí khác, cũng cần
nhấn mạnh đến động cơ đầu tư của các công ty xuyên quốc gia nhằm tránh ảnh
hưởng của hàng rào quan thuế và phi quan thuế, cũng như giúp giảm thiểu đáng
kể chi phí xuất nhập khẩu.
• Nguồn nhân lực
Khi quyết định đầu tư một cơ sở sản xuất mới ở một nước đang
phát triển, các MNEs cũng nhắm đến việc khai thác nguồn nhân lực trẻ và
tương đối thừa thãi ở các nước này. Thông thường nguồn lao động phổ thông
luôn được đáp ứng đầy đủ và có thể thỏa mãn yêu cầu của các công ty. Tuy
vậy, chỉ có thể tìm được các nhà quản lý giỏi, cũng như cán bộ kỹ thuật có
trình độ và kinh nghiệm ở các thành phố lớn. Động cơ, thái độ làm việc của
người lao động cũng là yếu tố quan trọng trong việc xem xét, lựa chọn địa
điểm để đầu tư.
• Tài nguyên thiên nhiên
Sự dồi dào về nguyên vật liệu với giá rẻ cũng là nhân tố tích cực
thúc đẩy thu hút đầu tư nước ngoài.
• Cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Chất lượng của cơ sở hạ tầng kỹ thuật và trình độ công nghiệp hóa có ảnh
hưởng rất quan trọng đến dòng vốn đầu tư nước ngoài vào một nước hoặc một
địa phương. Một hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật hoàn chỉnh (bao gồm cả hệ
thống đường bộ, đường sắt, đường hàng không, mạng lưới cung cấp điện,
nước, bưu chính viễn thông và các dịch vụ tiện ích khác), là điều mong muốn
đối với mọi nhà đầu tư nước ngoài.
• Cơ sở hạ tầng xã hội
Ngoài cơ sở hạ tầng kỹ thuật, môi trường thu hút đầu tư còn chịu ảnh
hưởng khá lớn của cơ sở hạ tầng xã hội. Cơ sở hạ tầng xã hội bao gồm hệ thống
y tế và chăm sóc sức khỏe cho người dân, hệ thống giáo dục và đào tạo, vui
chơi giải trí và các dịch vụ khác. Ngoài ra, các giá trị đạo đức xã hội, phong tục
tập quán, tôn giáo, văn hóa ... cũng cấu thành trong bức tranh chung về cơ sở hạ
tầng xã hội của một nước hoặc một địa phương. Nghiên cứu của UNDP/ World
Bank cho thấy xu hướng đầu tư vào khu vực Đông Nam Á có nhiều chuyển biến
tích cực là nhờ vào “tính kỷ luật của lực lượng lao động” cũng như “sự ổn định
về chính trị và kinh tế” tại nhiều quốc gia trong khu vực này.
• Cơ chế chính sách
Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào các nước đang phát triển không chỉ
được quyết định bởi các yếu tố về kinh tế, mà còn chịu sự chi phối của các
yếu tố chính trị. Sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô, kết hợp với các ổn định
về chính trị được xem là rất quan trọng. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy
mối quan hệ rất chặt chẽ giữa ổn định vềchính trị với việc thu hút đầu tư
nước ngoài. Chính sách cởi mở và nhất quán của chính phủ cũng đóng một
vai trò rất quan trọng.
1.5 Hàm Dobb – Douglass:
Hàm tổng quát về sản xuất thể hiện mối quan hệ giữa đầu ra với các yếu tố
đầu vào theo mối tương quan theo các biến lũy thừa của các yếu tố đó.
Hàm Dobb – Douglas :
Y = A . f( Kα . L β )
Trong đó α + β = 1 ; A là yếu tố năng suất tổng hợp ; K,L lần lượt là vốn và
lao động.
Hàm sản xuất này biểu diễn mối tương quan giữa các yếu tố vốn và lao động
đối với sự tăng trưởng kinh tế. Qua đó nó còn thể hiện yếu tố khoa học công nghệ
đóng góp vào quá trình tăng trưởng của nền kinh tế. Do đó qua phân tích ta sẽ có
cái nhìn tổng quát hơn về quá trình tăng trưởng của một nền kinh tế.
Chương 2 : Phân tích vai trò của vốn đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam:
2.1 Chính sách thu hút FDI của nước ta :
Chính sách thu hút vốn FDI tại Việt Nam đã được thực hiện ngay từ khi Việt
Nam tiến hành cải cách kinh tế và được thể chế hóa thông qua ban hành Luật Đầu
tư Nước ngoài năm 1987. Cho đến nay, Luật Đầu tư Nước ngoài đã được sửa đổi
và hoàn thiện 4 lần vào các năm 1990, 1992, 1996 và gần đây nhất là năm 2000.
Những thay đổi quan trọng trong chính sách thu hút FDI qua các kỳ sửa đổi Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Xu hướng chung của thay đổi chính sách Việt
Nam là ngày càng nới rộng quyền, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư
nước ngoài và thu hẹp sự khác biệt về chính sách đầu tư giữa đầu tư nước ngoài và
đầu tư trong nước. Những thay đổi này thể hiện nỗ lực của Chính phủ trong cải
thiện, tạo môi trường đầu tư chung theo xu hướng hội nhập của Việt Nam :
Luật sửa đổi 1996 – 1999 Luật sửa đổi năm 2000
đến nay
Trình tự đăng ký Doanh nghiệp FDI được
tự lựa chọn loại hình đầu
tư, tỷ lệ gop vốn, địa điểm
đầu tư, đối tác đầu tư.
Doanh nghiệp xuất khẩu
sản phẩm trên 80% được
ưu tiên nhận giấy phép.
Ban hành danh mục mà
danh nghiệp FDI đăng ký
kinh doanh không cần xin
phép.
Bỏ chế độ thu phí đăng ký
đầu tư FDI
Lĩnh vực đầu tư Khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư vào những
lĩnh vực định hướng xuất
khẩu, công nghệ cao
Ban hành danh mục dự án
kêu gọi đầu tư.
Mở rộng lĩnh vực cho
phép đầu tư
Đa dạng hóa hình thức
đầu tư, được mua cổ phần
của các công ty Việt Nam
Ngoại tệ Tự đảm bảo cân đối nhu
cầu về ngoại tệ cho hoạt
động của mình. Doanh
nghiệp có thể mua ngoại
tệ dưới sự cho phép của
ngân hàng nhà nước.
Áp dụng tỷ lệ kết hối 80%
Được mua ngoại tệ tại các
ngân hàng thương mại để
đáp ứng nhu cầu giao
dịch.
Giảm phí chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài.
Giảm tỷ lệ kết hối ngoại
từ 80% xuống 30 % đến
50% và 0%
Thuế Miễn thuế nhập khẩu đối
với thiết bị, máy móc, vận
tải chuyên dùng, nguyên
liệu vật tư...;
+Miễn thuế nhập khẩu đối
với doanh nghiệp đầu tư
vào những lĩnh vực ưu
tiên, địa bàn ưu tiên trong
5 năm đầu hoạt động;
Doanh nghiệp xuất khẩu
được miễn thuế nhập
khẩu nguyên vật liệu để
Bãi bỏ qui định bắt buộc
doanh nghiệp trích quĩ dự
phòng;
Tiếp tục cải cách hệ
thống thuế, từng bước thu
hẹp khoảng cách về thuế
giữa đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngoài
xuất khẩu sản phẩm;
Doanh nghiệp cung ứng
sản phẩm đầu vào cho
doanh nghiệp xuất khẩu
cũng được miễn thuế
nhập khẩu nguyên vật
liệu trung gian với tỷ lệ
tương ứng;
Bên cạnh diễn biến về thu hút vốn FDI và thực tiễn hoạt động của khu vực
có vốn FDI, những thay đổi trong chính sách thu hút FDI của Việt Nam trong 17
năm qua còn xuất phát từ ba yếu tố khác:
o Sự thay đổi về nhận thức và quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với
khu vực có vốn FDI :
Cho đến nay, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về
vai trò của đầu tư nước ngoài nói chung, FDI nói riêng đã có nhiều
thay đổi. Những thay đổi này xuất phát từ thực tiễn của nền kinh tế và
do thay đổi về bối cảnh kinh tế trong khu vực và thế giới. Nếu như
trước năm 2000, các doanh nghiệp FDI chưa được coi như một chủ
thể độc lập trong nền kinh tế thì từ Đại hội Đảng lần thứ IX (năm
2001) trở lại đây, khu vực FDI đã được khẳng định là một trong 6
thành phần cùng tồn tại trong nền kinh tế. Dưới đây nêu các mốc
quan trọng đánh dấu sự thay đổi về quan niệm và nhận thức của Đảng
và Nhà nước về vai trò của FDI đối với nền kinh tế.
o Chính sách thu hút FDI của các nước:
Khi tiến hành chọn lựa đất nước đầu tư, các doanh nghiệp so sánh
thường so sánh những lợi thế và chính sách thu hút đầu tư giữa các nước
để tiến hành đầu tư. Việt Nam hấp dẫn các nhà đầu tư vì chính sách liên
tục được cải tiến theo hướng có lợi cho các nhà đầu tư và so sánh trong
khu vực thì quá trình cải thiện liên tục môi trường đầu tư đã thúc đẩy các
nhà đầu tư lựa chọn Việt Nam để đầu tư.
o Những cam kết quốc tế của Việt Nam về đầu tư nước ngoài:
Cùng với việc xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống luật pháp,
chính sách về đầu tư nước ngoài, trong những năm gần đây Việt Nam
đã ký kết, tham gia một số điều ước quốc tế song phương và đa
phương về đầu tư nước ngoài. Đây có thể được coi là một trong
những bước đi không thể tách rời trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc
tế và trong tổng thể chính sách khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam.
Đến nay, Việt Nam đã ký kết Hiệp định song phương về khuyến khích
và bảo hộ đầu tư với 45 nước và vùng lãnh thổ. Theo đó, phạm vi
điều chỉnh của các hiệp định này đều mở rộng hơn so với những qui
định hiện hành của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam. Chẳng hạn, các hiệp định này có những điều khoản qui định đối
với nhiều loại hình đầu tư: trực tiếp, gián tiếp, các quyền theo hợp
đồng, tài sản hữu hình, tài sản vô hình, quyền sở hữu trí tuệ, và các
quyền khác theo qui định của pháp luật. Tuy nhiên, hiện tại Việt Nam
mới chỉ cam kết về đối xử theo quy chế tối huệ quốc, đồng thời cam
kết thực hiện các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư phù hợp
với những tiêu chuẩn và tập quán thông dụng.
Từ năm 1995 đến nay Việt Nam đã ký kết, tham gia một số
điều ước và diễn đàn quốc tế như: Hiệp định khung về khu vực đầu tư
ASEAN (AIA); Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái bình dương
(APEC) với việc đưa ra kế hoạch hành động nhằm tự do hoá và mở
của đầu tư trong khu vực; iii) Diễn đàn hợp tác Á - Âu, trong đó có
việc triển
khai thực hiện chương trình hành động về xúc tiến đầu tư (IPAP). Đặc
biệt, Việt Nam đang trong giai đoạn tích cực đàm phán để sớm trở
thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại quốc tế (WTO).
Trong đó, việc cam kết thực hiện Hiệp định TRIMS là một yêu cầu tất
yếu trong tiến trình đàm phán gia nhập tổ chức này.
2.2 Tổng quan tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Quá trình tăng trưởng của Việt Nam từ sau mở cửa hội nhập thế giới là một
quá trình tăng trưởng liên tục với tốc độ khá cao trong khu vực và trên thế giới.
Biểu đồ trên thể hiện tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của nước ta giai đoạn từ
1997 đến 2009 với các số liệu lấy từ tổng cục thống kê Việt Nam.
Giai đoạn 1997 – 1999 : do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu
Á 1997 nước ta bị suy giảm tốc độ tăng trưởng và ảnh hưởng vẫn còn ảnh hưởng
đến sự tăng trưởng kinh tế đến năm 1999.
Giai đoạn 2000 – 2007 : nền kinh tế dần dần hồi phục và tăng trưởng với tốc độ cao
Giai đoạn 2008 – 2009 : Do khủng hoảng kinh tế thế giới, nước ta chịu ảnh hưởng
mạnh, tốc độ tăng trưởng bị suy giảm mạnh.
Hiện nay, chính sách thắt chặt tiền tệ và hàng loạt giải pháp chống lạm phát
đang làm tụt giảm mạnh tốc độ tăng trưởng và nền kinh tế đang có nguy cơ lâm
vào tình trạng giảm phát. Khu vực quốc doanh vốn được coi là “xương sống” của
nền kinh tế, chiếm tới xấp xỉ 50% vốn đầu tư xã hội nhưng chỉ đóng góp được 37-
39% GDP, tạo khoảng 9,7 % tổng số việc làm trong nền kinh tế và ít liên kết được
với khu vực FDI. Năm 2000 đến 2005 đều có mức tăng trưởng > 7,1%, năm 2005
tăng trưởng 7,36%, nhưng phần đóng góp vào mức tăng trưởng của toàn nền kinh tế
đã giảm tương đối . Trong khi đó, khu vực dân doanh (khu vực kinh tế ngoài nhà
nước và khuvực đầu tư nước ngoài) chỉ chiếm 14,8% vốn đầu tư xã hội nhưng lại
đóng góp được 50% GDP và thu hút được khoảng 90,4% việc làm của cả nước.
Khu vực kinh tế ngoài Nhà nước ngày càng chiếm vị thế quan trọng hơn, góp phần
cho mức tăng trưởng của toàn nền kinh tế là 3,88 điểm trong mức tăng trưởng toàn
nền kinh tế là 8,43%. Điều đáng ghi nhận ở đây là mức tăng trưởng GDP do thành
phần kinh tế ngoàiNhà nước tăng liên tục, năm 2003 (6,36%), 2004 (6,95%), 2005
(8,19%)- nhanh hơn thành phần Nhà nước và toàn nền kinh tế, đặc biệt thành phần
kinh tế tư nhân có mức độ tăng trưởng nhanh nhất trong tất cả các thành phần kinh
tế, từ 2001-2005 đều tăng trên 10% mỗi năm; riêng năm 2005 tăng 14,1%, đóng
góp vào mức tăng trưởng chung toàn nền kinh tế 1,295 điểm. Khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài cũng liên tục tăng, mức tăng trung bình một năm thời kỳ 2001-2005
là 9,95; riêng năm 2005 tăng 13,2%, góp phần tăng trưởng chung toàn nền kinh tế là
1,526 điểm. Hiện nay và dự báo trong năm 2009, khu vực dân doanh,trong đó chủ
yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang gặp rất nhiều khó khăn và có nguy cơ bị
phá sản hàng loạt.
Tính theo giá so sánh năm 1994 thì tốc độ tăng GDP/người của nước ta tăng
liên tục từ năm 2001 đến 2006 đến năm 2007 thì tốc độ suy giảm bớt. Tuy vậy về
tổng quan tốc độ vẫn được xem là khá cao.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế theo khu vực :
Tốc độ tăng trưởng khu vực ngoài quốc doanh luôn tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng
GDP, khu vực kinh tế nhà nước luôn là khu vực tăng thấp hơn so với các khu vực
còn lại của nền kinh tế và so với GDP.
Đồ thị thể hiện vốn FDI thu hút trong thời gian qua :
( Nguồn : tổng cục thống kê )
Từ 1988 đến 1996: Trong giai đoạn này, vốn FDI đổ vào Việt Nam liên tục
tăng
với tốc độ nhanh cả về số dự án, số vốn đăng ký mới tăng và đạt mức đỉnh điểm gần
8,9 tỷ USD vào năm 1996. Kết quả này phần nào là do kỳ vọng của các nhà đầu tư
nước ngoài đối với một nền kinh tế mới mở cửa, có quy mô dân số khá lớn với trên
70 triệu người và thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng. Đặc điểm của giai đoạn này là
vốn thực tế giải ngân tăng về tuyệt đối và tương đối, nhưng tỷ lệ vốn giải ngân thấp,
một phần do đây là giai đoạn đầu, một phần do tốc độ tăng vốn đăng ký cao hơn.
Từ 1997 đến 1999: Đặc trưng bởi sự giảm sút mạnh của dòng vốn FDI đổ
vào Việt Nam, chủ yếu do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á và do
môi trường đầu tư ở Việt Nam trở nên kém hấp dẫn hơn so với các nước trong khu
vực, nhất là Trung Quốc. Một nguyên nhân có thể là do Luật Đầu tư Nước ngoài
sửa đổi năm 1996 đã giảm đi một số ưu đãi đối với nhà đầu tư nước ngoài. Vốn FDI
đăng ký mới giảm trung bình tới 24%/năm, trong khi vốn giải ngân giảm với tốc độ
chậm hơn, trung bình khoảng 14%, góp phần thay đổi sự tương quan giữa vốn giải
ngân và vốn đăng ký. Từ năm 1999 trở đi, vốn giải ngân luôn vượt vốn đăng ký
mới.
Từ 2000 đến 2003: Vốn giải ngân có xu hướng tăng, nhưng với tốc độ chậm,
trong khi vốn và số dự án đăng ký mới biến động thất thường. Năm 2002 được ghi
nhận là năm có số vốn đăng ký thấp nhất.
Từ năm 2004 đến giữa năm 2005: tổng vốn đăng ký tăng trên 30% so với
năm 2003 (của riêng phía nước ngoài tăng 28,4%), tổng vốn thực hiện tuy nhiên chỉ
tăng 7,6%. Tốc độ tăng nhanh vốn FDI năm 2004 và 6 tháng đầu năm 2005 một
phần là do kết quả của cải thiện môi trường đầu tư bằng việc sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Đầu tư nước ngoài.
2.3 Thực trạng và vai trò của vốn FDI trong nền kinh tế nước ta thời gian qua:
Tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội liên tục tăng theo thời gian :
Trong đó tăng nhanh trong giai đoạn từ 2000 - 2007 điều này có thể giải
thích là do quá trình hội nhập ngày càng tăng.
Cơ cấu đầu tư theo các thành phần kinh tế :
Năm Tổng Khu vực nhà
nước
Khu vực ngoài
nhà nước
Khu vực đầu tư
nước ngoài
1995 100.0 42.0 27.6 30.4
1996 100.0 49.1 24.9 26.0
1997 100.0 49.4 22.6 28.0
1998 100.0 55.5 23.7 20.8
1999 100.0 58.7 24.0 17.3
2000 100.0 59.1 22.9 18.0
2001 100.0 59.8 22.6 17.6
2002 100.0 57.3 25.3 17.4
2003 100.0 52.9 31.1 16.0
2004 100.0 48.1 37.7 14.2
2005 100.0 47.1 38.0 14.9
2006 100.0 45.7 38.1 16.2
2007 100.0 37.2 38.5 24.3
2008 100.0 33.9 35.2 30.9
Sơ bộ 2009 100.0 40.6 33.9 25.5
Khu vực đầu tư nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu tổng đầu
tư toàn xã hội qua các năm trong khi đó khu vực đầu tư nước ngoài luôn có sự biến
động theo tình hình kinh tế thế giới và biến động kinh tế nước ta.
Thực trạng và nhu cầu phát triển kinh tế của Việt Nam cũng có nhiều thay
đổi hơn so với thập kỷ của thời kỳ đầu thực hiện chính sách đổi mới. Các lợi thế “có
tính tự nhiên” trong thu hút FDI đã mất dần hấp dẫn. Giá lao động đã tăng cao và
xuất hiện nhiều vụ đình công, thiếu hụt lao động có tay nghề, nhiều lĩnh vực đầu tư
thu hồi vốn nhanh, hấp dẫn đã bão hoà. Cơ sở hạ tầng, năng lượng, dịch vụ kỹ thuật,
nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư. Khả năng hấp thụ
vốn FDI do vậy đã đến mức ‘bão hòa’. Mặt khác, trong những năm gần đây, thị
trường tài chính ở Việt Nam đã phát triển khá mạnh và đầu tư nước ngoài gián tiếp
(FPI) cũng gia tăng nhanh, dòng vốn FPI ròng ước đạt khoảng 6 tỷ USD năm 2007,
chiếm 50% tổng lượng vốn nước ngoài chảy vào Việt Nam1.Thêm vào đó, nguồn
vốn kiều hối chuyển về nước hàng năm cũng rất lớn, năm 2006 là 6,82 tỷ USD,
đứng hàng thứ hai ở khu vực Đông Nam Á, chỉ sau Philippines (14,8 tỷ USD). Con
số này tương đương với 11,21% GDP và tính bình quân mỗi người Việt Nam ở
nước ngoài gửi về nước trong năm 2006 là 3.398,42 USD. Tính chung ở châu Á,
Việt Nam đứng hàng thứ tư về số tiền gửi về, sau Ấn Độ (24,5 tỷ USD), Trung
Quốc (21,07 tỷ USD) và Philippines. Số tiền người Việt Nam gửi về nước trong
năm 2007 là trên 7,5 tỷ USD. Vụ quản lý ngoại hối thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam cho biết lượng kiều hối chuyển vềViệt Nam vẫn trong xu hướng tăng và dự
kiến năm 2008 có thể đạt tới 8 tỷ USD. Do đó, vaitrò của FDI đối với bổ sung vốn
đầu tư mặc dù vẫn còn quan trọng nhưng không còn bức thiết như những năm đầu
của thời kỳ đổi mới. Trái lại, nếu nguồn vốn vào quá nhiều so với năng lực hấp thụ
hạn chế trong nước thì có nguy cơ làm phá vỡ nhiều kết cấu kinh tế trong nước,
trong đó đặc biệt là sự quá tải của cơ sở hạ tầng, thiếu hụt năng lượng, v.v.
2.3.1 Vai trò của vốn FDI thời gian qua :
Việt Nam thực hiện Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài (12/1987) trong bối
cảnh
phát triển kinh tế - xã hội còn rất thấp. Hạ tầng cơ sở nghèo nàn, khoa học công
nghệ lạc hậu, nguồn nhân lực phần lớn chưa qua đào tạo,…Trong khi đó, nhu cầu
phát triển luôn phải đối mặt với sức ép cần vồn đầu tư, công nghệ tiên tiến, đẩy
mạnh xuất khẩu,… để khai thác lợi thế so sánh nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng
cao, giải quyết công ăn việc làm và ổn định đời sống xã hội. Mặt khác, từ những
năm cuối thập kỷ 80 đến hết thập kỷ 90 của thế kỷ trước, xu hướng đầu tư quốc tế
vào các nước đang phát triển chủ yếu tập trung vào các ngành khai thác, công
nghiệp chế tạo và những ngành cần nhiều lao động. Trong bối cảnh phát triển đó,
Việt Nam rất khó thu hút FDI vào các ngành công nghệ cao, sản xuất những sản
phẩm có giá trị gia tăng lớn hoặc vào những ngành phải đáp ứng được các tiêu
chuẩn khắt khe của bảo vệ môi trường. Vì vậy, việc định hướng thu hút FDI vào
những ngành mà Việt Nam có lợi thế tự nhiên, phù hợp với trình độ phát triển và
đón bắt được xu hướng đầu tư quốc tế là khá phù
hợp. Do đó, mặc dù còn những hạn chế nhất định, nhưng FDI đã đóng góp rất tích
cực, có vai trò như những trụ cột đối với thành công của chính sách đổi mới nền
kinh tế.
• Đóng góp quan trọng dễ thấy nhất đó là tăng cường nguồn vốn đầu tư cho
tăng trưởng. Vốn FDI (giải ngân) đã tăng từ 2,451 tỷ USD năm 2001 lên
8,100 tỷ USD năm 2007 và đạt được khoảng 40 tỷ USD trong gian đoạn
1988 đến nay. Đóng góp của FDI trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động
lớn, từ tỷ trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đã tăng lên mức 32,3% trong
năm 1995. Tỷ lệ này đã giảm dần trong giai đoạn 1996-2000, do ảnh hưởng
của khủng hoảng tài chính khu vực (năm 2000 chiếm 20%) và trong 5 năm
2001-2005 chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư xã hội; hai năm 2006-2007
chiếm khoảng 16%. Ưu điểm vượt trội của nguồn vốn này so với các nguồn
vốn đầu tư khác là đi kèm theo chuyển giao công nghệ, thúc đẩy xuất khẩu,
tiếp nhận kiến thức quản lý hiện đại. Mặt khác, so với các nguồn vốn nước
ngoài khác, vốn FDI “ít bị nhạy cảm” trước những biến động của thị trường
tài chính toàn cầu. Thực tế ở các nước Đông Nam Á bị khủng hoảng tài
chính năm 1997 đã chứng minh rất rõ đặc điểm này.
• Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. Do vậy,
xét về nhu cầu vốn, FDI được coi là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho
vốn đầu tư trong nước, nhằm đáp nhu cầu đầu tư cho phát triển. Đóng góp
của FDI trong đầu tư xã hội biến động lớn, một phần phản ánh diễn biến thất
thường của nguồn vốn này như đã phân tích ở trên, một phần thể hiện những
thay đổi về đầu tư của các thành phần kinh tế trong nước.Giai đoạn 1994-
1995, tỷ trọng của FDI trong tổng đầu tư xã hội lên tới 30-31 %, là mức cao
nhất cho đến nay. Tỷ lệ này đã giảm dần và năm 2004, FDI thực hiện ước
còn chiếm 15,5 % trong tổng đầu tư toàn xã hội. Đồ thị sau thể hiện tổng
đóng góp của FDI vào GDP Việt Nam thời gian qua :
( Nguồn : tổng cục thống kê )
• Chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI là một trong những kênh
chủ yếu, có tính đột phá để nâng cao năng lực công nghệ của Việt
Nam. Chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI luôn đi kèm với đào
tạo nhân lực vận hành, quản lý và nhờ học qua làm (learning by
doing), nhờ đó đã hình thành được đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật
có trình độ, tay nghề khá cao. Khảo sát cho thấy, có 44% doanh
nghiệp FDI thực hiện đào tạo lại lao động với các mức độ khác nhau
(cho khoảng 30% số lao động tuyển dụng). Đối với một số khâu chủ
yếu của dây chuyền công nghệ tiên tiến hoặc đặc thù, lao động sau khi
tuyển dụng được đưa đi bồi dưỡng ở các doanh nghiệp mẹ ở nước
ngoài. Đến nay, hầu hết các công nghệ có trình độ tiên tiến và đội ngũ
cán bộ, công nhân kỹ thuật cao ở Việt Nam được tập trung trong khu
vực có vốn FDI.
• Đẩy mạnh xuất khẩu cũng là đóng góp nổi bật, thể hiện rõ nét vai trò
của FDI trong suốt 20 cải cách kinh tế vừa qua. Thời kỳ 1996-2000,
xuất khẩu của khu vực FDI đạt 10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng
hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả
nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%, tính cả dầu thô
thì tỷ trọng này đạt khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên 55% trong
các năm 2005, 2006 và 2007. Điều đó được thể hiện qua biểu đồ sau :
(Nguồn: Thống kê kim ngạch xuất nhập khẩu của Bộ Công thương
2007)
• Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng rất nhanh, từ 18,398
triệu USD năm 1996 tăng lên 30,120 USD năm 2000 và đạt tới
84,015USD năm 2006.Ngay cả trong những năm xuất khẩu của các
ngành kinh tế khác tăng chậm hoặc giảm thì xuất khẩu của khu vực
FDI vẫn tăng cao, nhờ đó duy trì được tốc độ tăng xuất khẩu của cả
nước khá cao trong nhiều năm. Cũng cần lưu ý rằng khu vực FDI có
mức thặng dư thương mại khá cao.Điều đó góp phần làm giảm mức
thâm hụt thương mại chung cho cả nền kinh tế.
• Tạo việc làm là những đóng góp quan trọng, không thể phủ nhận của
khu vực FDI. Tính đến năm 2007 khu vực có vốn FDI đã tạo ra việc
làm cho trên 1,2 triệu lao động trực tiếp, trong đó nhiều lao động đã
được đào tạo ở trong và ngoài nước. Mặc dù so với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ thì số việc làm được tạo ra còn hạn chế, nhưng “chất
lượng” của lực lượng lao động trong khu vực FDI tốt hơn rõ rệt.
Nhiều cán bộ, công nhân trong khu vực FDI đã và đang là những “hạt
nhân” để phát triển lực lượng lao động trình độ, tay nghề cao của Việt
Nam. Thêm vào đó, số việc làm tạo ra nhờ hiệu ứng lan tỏa của khu
vực FDI cũng có thể là một con số đáng kể.
• Cùng với sự phát triển, khu vực có vốn FDI đóng góp ngày càng tăng
vào nguồn thu ngân sách của Nhà nước. Theo tính toán của Tổng cục
Thuế, năm 2002, khu vực FDI đóng góp khoảng 480 triệu USD vào
ngân sách Nhà nước, tăng 4,2 lần so với năm 1994. Tính riêng giai
đoạn 1996-2002, khu vực này đóng góp (trực tiếp) vào ngân sách
trung bình ở mức khoảng 6%. Tỷ trọng đóng góp nhỏ là do các doanh
nghiệp FDI được hưởng chính sách khuyến khích của Chính phủ
thông qua giảm thuế thu nhập trong những năm đầu hoạt động. Tuy
nhiên, nếu tính cả thu từ dầu thô thì tỷ trọng này ước khoảng 20%.Bên
cạnh đó, FDI đã góp phần quan trọng vào việc tăng thặng dư của tài
khoản vốn, góp phần cải thiện cán cân thanh toán nói chung. Động
thái của cán cân vốn trong thời kỳ 1994-2002 cho thấy có mối quan
hệ khá rõ giữa số dư tài khoản vốn và dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam
hàng năm:
(Nguồn : tổng cục thống kê)
2.3.2 Các hạn chế của vốn FDI trong thời gian qua :
Bên cạnh những đóng góp tích cực như đã khái quát trên, FDI cũng đã và
đang tạo ra không ít những vấn đề, tác động tiêu cực, làm bức xúc dư luận xã hội.
Chất lượng thu hút FDI còn thấp, thiếu tính bền vững là một thực tế khó bác bỏ.
Biểu hiện rõ nhất của hạn chế này là phần giá trị gia tăng còn thấp. Như chúng ta đã
biết các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam hiện đóng góp một tỷ lệ quan trọng về kim
ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, theo số liệu tổng hợp từ Tổng cục Thống kê, UN, và
JETRO do Giáo sư Trần Văn Thọ từ Đại học Waseda (Tokyo) thực hiện, cơ cấu
xuất khẩu của Việt Nam hầu như không thay đổi từ 2004–2006, trong đó nông thủy
sản, thực phẩm và các mặt hàng giá trị gia tăng thấp như dệt, may, và tạp phẩm
chiếm đến 49,4% so với tỷ lệ 14,5% của các quốc gia Đông Á và Ấn Độ. Và ngược
lại, đối với các ngành chế tạo đòi hỏi công nghệ cao hơn như máy móc các loại,
máy phát điện, máy công cụ, xe hơi và bộ phận xe hơi, đồ điện tử và IT thì Việt
Namchỉ chiếm tỷ lệ 7,5% so với 54,6% của Đông Á và Ấn Độ…Phần lớn các doanh
nghiệp FDI tập trung khai thác lợi thế lao động rẻ, nguồn tài nguyên sẵn có, thị
trường tiêu thụ “dễ tính”để lắp ráp, gia công sản phẩm tiêu thụ nội địa và xuất
khẩu.Liên kết giữa khu vực FDI với các doanh nghiệp nội địa còn rất ít, chưa hình
thành được các ngành công nghiệp phụ trợ, liên kết sản xuất theo chuỗi cung ứng
hàng hoá. Thông thường công nghiệp phụ trợ có thể tạo ra 80-95% giá trị gia tăng
cho sản phẩm tuy nhiên
hiện các doanh nghiệp sản xuất-lắp ráp ở VN phải nhập khẩu từ 70%-80% lượng
sản phẩm phụ trợ. Do hạn chế này mà phần giá trị được tạo ra ở Việt Nam còn thấp,
nhiều doanh nghiệp FDI khó phát triển được qui mô và đầu tư chiều sâu nên gần
đây đã xuất hiện xu hướng một số dự án FDI đã chuyển sản xuất ra nước khác hoặc
đóng cửa hay phải chuyển sang lĩnh vực đầu tư mới ở Việt Nam.
Cùng với những hạn chế trên, hậu quả gây ô nhiễm môi trường từ các dự án
FDI
đang được bộc lộ rõ và làm huỷ diệt môi trường sống nghiêm trọng. Gần đây, dư
luận xã hội rất bức xúc về chất thải của dự án VEDAN (chủ đầu tư Đài Loan) đã
làm huỷ diệt cả dòng sông Thị Vải, gây thiệt hại lớn về người và của của cư dân
trong vùng. Nhiều vụ ô nhiễm môi trường trầm trọng của các dự án FDI khác cũng
đang được phát giác. Rõ ràng,những hậu quả này là rất nặng nề và làm giảm tính
bền vững của tăng trưởng kinh tế.
Nguyên nhân của những hạn chế đã nêu có nhiều. Song, trước hết phải nhìn
từ phía nước chủ nhà. Về khách quan, do điều kiện phát triển còn thấp, thiếu kiến
thức và kinh nghiệm trong thu hút, sử dụng FDI nên chưa có nhiều sự lựa chọn và
không lường hết được những hậu quả là điều khó tránh khỏi. Mặt khác, nhiều hạn
chế bắt nguồn từ nguyên nhân chủ quan vì chú trọng đến lợi ích trước mắt,có tính
cục bộ, bất chấp hậu quả lâu dài, chạy theo “bệnh thành tích”, có tính số lượng.
Việc trao quyền cho địa phương trong việc thu hút FDI một mặt làm tăng tính chủ
động của địa phương trong việc vận động, khuyến khích FDI, song mặt khác cũng
tạo ra hiệu ứng cạnh tranh thu hút FDI bằng mọi giá, làm giảm chất lượng dự án
dẫn đến hiện tượng ‘racing to the bottom’. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh chính sách
FDI còn khá chậm, chưa phù hợp với bối cảnh phát triển mới của Việt Nam.
Chương 3 : Giải pháp nâng cao hiệu quả đóng góp của nguồn vốn FDI
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới tư duy và đổi mới cách tiếp cận trong xây dựng
chính sách đầu tư nước ngoài cho giai đoạn tới. Bên cạnh công nhận khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, thì việc thực hiện
các cam kết về hội nhập và điều chỉnh luật lệ cho phù hợp với qui định và nguyên
tắc cuả WTO sẽ ảnh hưởng tích cực tới thu hút vốn FDI vào Việt Nam. Chính sách
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vì vậy cần tính đến bối cảnh toàn cầu hóa và cần
được xây dựng trên cơ sở xác định rõ các mục tiêu trung và dài hạn để có những
giải pháp mang tính kết hợp và có tính chuyển tiếp, hỗ trợ cho nhau. Ví dụ, trong
giai đoạn tới, thu hút FDI về chiều rộng cần được tiếp tục (do nhiều lý do khác
nhau). Nhưng về lâu dài, để thu hút các nhà đầu tư lớn Việt Nam cần chuẩn bị nâng
cao năng lực theo nghĩa rộng như cải thiện môi trường đầu tư, tăng trình độ của lực
lượng lao động, tăng năng lực về R&D v.v. Để đạt mục tiêu này thì cần có thực
hiện ngay từ bây giờ.
Thứ hai, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tăng sự hấp dẫn cho các nhà
đầu tư
nước ngoài để có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực về thu hút FDI.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, áp lực cạnh tranh sẽ không giảm mà còn tăng. So với
các nước trong khu vực, môi trường đầu tư của Việt Nam đang kém cạnh tranh
hơn84. Vì vậy, cải thiện môi trường đầu tư là hết sức quan trọng và cần thiết. Việc
đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư nhằm mục đích chính là lợi nhuận. Vì vậy, ở
đâu có điều kiện thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn, chi phí đầu tư và kinh doanh thấp hơn
cho đầu tư hiệu quả (lợi nhuận) sẽ thu hút FDI nhiều hơn. Về phía nước sở tại, khía
cạnh tạo việc làm, tạo môi trường cho chuyển giao công nghệ và tạo sự ổn định cho
kinh doanh lâu dài của các nhà đầu tư nước ngoài cũng là mục tiêu của cải thiện
môi trường đầu tư. Nghiên cứu cho rằng các chính sách cần tập trung vào ba vấn đề:
- Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế. Trước hết cần nhanh chóng xóa bỏ sự phân biệt đối
xử và tạo sân chơi bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp nhằm giảm thiểu
rủi ro (xuất hiện do thay đổi chính sách, do bất ổn vĩ mô, do không đảm bảo
quyền sở hữu, do tính thực thi hợp đồng kém v.v.).
- Nhanh chóng hoàn thiện thị trường các nhân tố sản xuất, trước hết là
thị trường vốn, thị trường lao động và thị trường bất động sản. Các nhà đầu
tư nước ngoài thường đến từ các nước có nền kinh tế thị trường và các thị
trường nhân tố vận hành khá hiệu quả. Tức là, khả năng tiếp cận các nhân tố
sản xuất là dễ dàng và có thể sử dụng linh hoạt xét về phạm vi giá cả, không
gian và thời gian. Sự kém phát triển của các thị trường này ở Việt Nam đang
là một yếu điểm lớn và là một nguyên nhân đẩy chi phí sản xuất lên cao và
giảm cơ hội tận đụng thời cơ kinh doanh.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là ở cấp địa phương gắn với quá
trình phân cấp quản lý Nhà nước nói chung và quản lý đầu tư nói riêng. Phân
cấp cần đi đối với trách nhiệm rõ ràng của từng cá nhân trên cơ sở lấy lợi ích
chung của xã hội làm căn cứ để đánh giá. Điều đó có nghĩa là, phân cấp
không chỉ là việc trao quyền chủ động ra quyết định theo đúng với thẩm
quyền nhà nước quy định, mà cần đánh giá tác động đích thực của việc ra
quyết định đầu tư sau khi dự án đi vào hoạt động (ví dụ đối với tạo việc làm,
đóng góp vào tăng giá trị sản lượng và giá trị gia tăng cho địa phương v.v.) .
Ở cấp địa phương cần có chính sách nhanh chóng nâng cao năng lực cho đội
ngũ cán bộ.
Thứ ba, thực hiện các biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút các công ty đa quốc
gia lớn có tiềm năng về công nghệ và tận dụng tối đa thế mạnh về nghiên cứu và
phát triển của các công ty nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Nhanh chóng
cải cách các tổ chức nghiên cứu và phát triển của nhà nước nhằm tăng năng lực của
các tổ chức này, kể cả nhân lực sao cho đủ khả năng tiếp thu kiến thức và tiến bộ
công nghệ mới nâng cao năng lực công nghệ cho nền kinh tế.
Phần III : KẾT LUẬN
Vốn là yếu tố cần thiết và cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế
của mỗi quốc gia, đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì nó lại trở
nên cực kỳ thiết yếu để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa đất nước. Bên cạnh
đó, vốn FDI không chỉ giúp tăng nguồn vốn trong nước để đầu tư mà nó còn mang
đến những cải tiến, phát triển về công nghệ, về khoa học kỹ thuật cho nền kinh tế.
Chính vì vậy, việc thu hút vốn FDI, thu hút các công ty xuyên quốc gia đóng vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế còn nhỏ bé và lạc hậu như nước ta
hiện nay.
Thời gian qua, việc thu hút nguồn vốn FDI vào nước ta đã có những chuyển
biến tích cực, vai trò của nguồn vốn FDI được ngày càng nâng cao mang tính
chuyển biến cho nền kinh tế nước ta, bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế về ô
nhiễm môi trường, khiếu nại biểu tình của công nhân vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi.
Do đó cần phải phối hợp các chính sách một cách đồng bộ để phát huy hơn nữa vai
trò của nguồn vốn này trong nền kinh tế và hạn chế các tác động tiêu cực của nó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.PSG.TS Nguyễn Văn Luân, Kinh tế vĩ mô, Đại học kinh tế - luật, 2010
2.TS.Nguyễn Chí Hải, Bài giảng môn kinh tế phát triển, 2010.
3.TS.Nguyễn Ngọc Sơn, Nguồn tài chính trong nước và nước ngoài cho tăng trưởng
kinh tế Việt Nam, Diễn đàn phát triển Việt Nam, 2007.
4.PSG.TS Phùng Văn Nhạ, Nhìn lại vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
bối cảnh phát triển mới của Việt Nam, Đại học quốc gia Hà Nội.
5. Cục đầu tư nước ngoài, 20 năm Đầu tư nước ngoài: Nhìn lại và Hướng tới, Nhà
xuất bản Tri thức, 2008.
6. Các số liệu lấy từ tổng cục thống kê :
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bia_kt_vi_mo_2_3097.pdf