Ngày nay chất lượng sản phẩm có vai trò quyết định đối với sự sống còn của mỗi
doanh nghiệp. Vì vậy mọi doanh nghiệp đều tìm mọi cách nâng cao chất lượng sản
phẩm với chi phí hợp lí nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường. Các
doanh nghiệp ngành may mặc cũng không ngoài qui luật trên. Tuy rằng so với các
nước trong khu vực và trên thế giới thì chất lượng sản phẩm của ngành còn thấp hơn rất
nhiều song đó cũng đã là một sự đột phá lớn của ngành may Việt Nam trong những
năm vừa qua. Để đạt được những thành tựu như vậy, đó là nhờ vào việc áp dụng các hệ
thống quản lý chất lượng. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay tỷ lệ các doanh nghiệp may
mặc đã áp dụng và được cấp chứng chỉ hệ thống quản lý chất lượng còn nhỏ. Vì vậy
Nhà nước và các cơ quan chức năng cần có những biên pháp, chính sách thích hợp
nhằm thúc đẩy quá trình nghiên cứu và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng vào tất
cả các doanh nghiệp may mặc. Để may măc xứng đáng là ngành mũi nhọn hàng đầu về
sản xuất hàng xuất khẩu.
25 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 9682 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vấn đề chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm ngành may mặc cần được quan tâm nghiên cứu và giải quyết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
Vấn đề chất lượng và quản lý chất lượng
sản phẩm ngành may mặc cần được quan
tâm nghiên cứu và giải quyết
Lời nói đầu
Trong thời kì bao cấp chất lượng sản phẩm không phải là vấn đề quyết định vì
sản phẩm sản xuất ra đã có nhà nước tiêu thụ, vì vậy mà các doanh nghiệp chỉ quan tâm
đến việc chạy đua tăng năng suất để vượt mức kế hoạch, còn chất lượng sản phẩm thì bị
lơi lỏng bỏ quên. Nhưng ngày nay trong cơ chế thi trường có sự quản lý của nhà nước,
trong xu thế toàn cầu hoá về kinh tế, sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên
quyết liệt thì chất lượng sản phẩm và dịch vụ, sự thoả mãn nhu cầu của khách hàng, sự
hợp lí về giá cả đảm bảo đúng thời gian giao hàng sẽ là những nhân tố quyết định sự
thành bại của doanh nghiệp. Vì vậy ngày nay chất lượng sản phẩm là một trong ngững
mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp. Đặc biệt là ngành may mặc, một ngành sản
xuất hàng hoá tiêu dùng có tính thời vụ thì chất lượng sản phẩm càng trở thành một vấn
đề quan trọng. Với tính chất quan trọng của chất lượng sản phẩm và đặc điểm của
ngàmh may mặc thì ta thấy rằng vấn đề chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm
ngành may mặc cần được quan tâm nghiên cứu và giải quyết.
Phần I : Cơ sở lý luận về chất lượng và quản lý chất lượng
1.Chất lượng sản phẩm là gì?
1.1 Các quan điểm về chất lượng
Có thể nói chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế kĩ thuật khá trừu tượng .Khi
nhìn nhận sản phẩm trên những góc độ khác nhau ta lại có những quan niệm khác nhau
về chất lượng sản phẩm
Quan niệm siêu việt về chất lượng : chất lượng là sự tuyệt hảo của sản phẩm so với
sản phẩm cùng loại
Quan niệm chất lượng sản phẩm theo hướng sản phẩm: đứng trên góc độ này người
ta cho rằng chất lượng sản phẩm là một tập hợp các thuộc tính phản ánh tính năng tác
dụng của sản phẩm đó
Quan niệm chất lượng hướng theo người sản xuất: đứng trên góc độ người sản xuất
thì họ cho rằng chất lượng sản phẩm là sự phù hợp và đạt được của một sản phẩm so với
một tập hợp các yêu cầu và hệ thống tiêu chuẩn đã được thiết kế từ trước
Quan niệm chất lượng theo thị trường cho rằng chất lượng sản phẩm là sự phù
hợp với mục đích và yêu cầu của người sử dụng (xuất phát từ nhu cầu của thị trường)
+ Xuất phát từ giá cả (mối quan hệ giữa lợi ích của sản phẩm với chi phí phải
bỏ ra ) chất lượng là cung cấp những sản phẩm dịch vụ ở mức giá mà khách hàng có thể
chấp nhận được
+ Xuất phát từ cạnh tranh ta lại có định nghĩa : chất lượng đó là cung
cấpnhững đặc điểm của sản phẩm và dịch vụ mà đối thủ cạnh tranh không có .
Mỗi định nghĩa trên đều xuất phát từ một khía cạnh nhất định vì vậy tuy ở
mỗi cách đêù có những ưu điểm nhất định song cũng đều không tránh khỏi những hạn
chế nhất định để đưa ra một định nghĩa dễ hiểu, loại bỏ được những hạn chế trên thì tổ
chức tiêu chuẩn hoá quốc tế (ISO) có định nghĩa trong ISO 9000 như sau: ” chất lượng là
một tập hợp các tính chất và đặc trưng của sản phẩm có khả năng thoả mãn những nhu
cầu đã nêu ra hoạc tiềm ẩn”
1.2 Các yếu tố cấu thành chất lượng sản phẩm
Trong một sản phẩm có nhiều nhóm thuộc tính thể hiện chất lượng sản phẩm
như:
- Các thuộc tính phản ánh chức năng tác dụng của sản phẩm thể hiện khả
năng của sản phẩm có thể thực hiện chức năng hoạt động như mong muốn
- Tuổi thọ sản phẩm thể hiện khả năng giữ được tính năng tác dụng trong
điều kiện hoạt động bình thường trong khoảng thời gian nhất định
- Tính thẩm mĩ của sản phẩm : là các thuộc tính thể hiện sự gợi cảm thu hút
khách hàng như hình dáng màu sắc kích thước, cách trang trí, tính thời trang…
- Độ tin cậy của sản phẩm : là khả năng thực hiện đúng tính năng hoạt động
như thiết kế và hoạt động chính xác
- Tính kinh tế của sản phẩm thể hiện ở tiết kiệm chi phí tổng sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm
-Tính tiện dụng của sản phẩm thể hiện ở khả năng dễ bảo quản, dễ vận
chuỷên, dễ sửa chữa, dễ sử dụng
- Tính an toàn của sản phẩm khác với các thuộc tính trên đối với tính an toàn
của sản phẩm do nhà nước qui định các sản phẩm phải tuân thủ qui định về tính an toàn
sản phẩm
- Mức độ gây ô nhiễm của sản phẩm do các tổ chức các quốc gia qui định
- Các dịch vụ kèm theo như bảo hành vận chuyển hướng dẫn
1.3 . Đặc điểm của chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm được cấu thành bởi nhiều yếu tố vì vậy nó sẽ có rất
nhiều đặc điểm khác nhau . Dưới đây là một vài đặc điểm chung nhất
- Chất lượng sản phẩm là một phạm trù tổng hợp các yếu tố kinh tế xã hội kĩ
thuật vì vậy nó được thể hiện thông qua một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật văn
hoá của sản phẩm
- Chất lượng có ý nghĩa tương đối có nghĩa là chất lượng thường xuyên thay
đổi theo không gian và thời gian.
Có thể ở giai đoạn này sản phẩm có chất lượng được đánh giá là cao nhưng ở
giai đoạn sau thì không chắc đã cao do khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển và nhu cầu
của con người cũng ngày càng cao hơn. Vì vậy chất lượng chỉ được đánh giá theo từng
thời điểm. Các nhà sản xuất phải nắm chắc đặc điểm này để luôn luôn đổi mới và cải
tiến công nghệ để ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm để ngày càng đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của thị trường .
- Chất lượng chỉ phù hợp ở từng thị trường cụ thể do nhu cầu và sở thích của
người dân ở mỗi vùng là khác nhau .Vì vậy khi đưa sản phẩm mới vào thi trường thì
doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ thị trường đó.
- Chất lượng vừa mang tính trừu tượng vừa mang tính cụ thể . Tính trừu
tượng thông qua sự phù hợp, nó phản ánh mặt chủ quan của sản phẩm và phụ thuộc vào
nhận thức của khách hàng. Nâng cao chất lượng loại này sẽ có tác dụng tăng khả năng
hấp dẫn thu hút khách hàng nhờ đó tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm. Chất lượng phải
thông qua các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật, cụ thể được thể hiện thông qua chất lượng tuân
thủ thiết kế, thông qua tính khách quan của sản phẩm. Nâng cao chất lượng loại này làm
giảm chi phí và tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng thực hiện chính sách giá cả
linh hoạt.
- Chất lượng sản phẩm chỉ thể hiện đúng trong điều kiện tiêu dùng cụ thể,
phù hợp với mục đích sử dụng nhất định.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là một phạm trù tổng hợp kinh tế kĩ thuật xã hội nên nó chịu
sự tác động, ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố kinh tế, kĩ thuật, xã hội. Vì vậy nhà sản
xuất cần quan tâm đến các yếu tố đó để ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu về chất lượng sản
phẩm của thị trường.
1.4.1. Các nhân tố bên ngoài .
- Tình hình thị trường : tình hình thị trường tác động đến sản phẩm có ý nghĩa quyết
định đến định hướng xác định sản phẩm thông qua
Thứ nhất là đặc điểm của nhu cầu thị trường, đây là căn cứ để xác định đặc điểm
của sản phẩm . Có xác định được đặc điểm của nhu cầu thị trường thì sản phẩm sản xuất
ra mới phù hợp với thị trường có như vậy sản phẩm mới dược thị trường chấp nhận
Thứ hai là sự cạnh tranh trên thị trường tạo ra sức ép buộc các doanh nghiệp phải
đổi mới nâng cao chất lượng sản phẩm .
- Tiến bộ khoa học công nghệ: tiến bộ khoa học công nghệ tác động toàn diện nhất
đến chất lượng sản phẩm: khoa học công nghệ tạo khả năng để nâng cao chất lượng sản
phẩm thông qua:
Thứ nhất thông qua việc tạo ra được các nguyên vật liệu mới thay thế nguyên vật
liệu truyền thống tạo ra đầu vào có chất lượng cao hơn
Thứ hai là tạo ra thiết bị sản xuất mới có khả năng sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu
hơn, có tính chính xác hơn nên tạo ra sản phẩm có thuộc tính chỉ tiêu chất lượng cao hơn
- Cơ chế và chính sách quản lý : cơ chế hoạt động và chính sách quản lý có tác
động rất lớn đến chất lượng sản phẩm của mỗi doanh nghiệp thông qua:
+ Tạo ra môi trường bình đẳng bảo vệ lợi ích của những nhà sản xuất trong việc đầu
tư nghiên cứu để nâng cao chất lượng sản phẩm
+ Tạo ra môi trường cạnh tranh, đây là điều kiện cần thiết để các doanh nghiệp phải
nâng cao chất lượng sản phẩm
+Tạo ra môi trường thuận lợi để kích thích và định hướng cho sự phát triển của
doanh nghiệp .
1.4.2. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
doanh nghiệp là người trực tiếp tạo ra sản phẩm vì vậy tất cả khâu các giai đoạn
của quá trình sản xuất các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất đều có tác động đến
chất lượng sản phẩm. Nói đến các nhân tố bên trong doanh nghiệp tác động đến chất
lượng sản phẩm người ta thường nghĩ đến nguyên tắc 4M
-Con người(Men): con người là chủ thể của mọi hoạt động, của quá trình san xuất vì
vậy con người là yếu tố quan trọng trong việc quản lý để nâng cao chất lượng sản phẩm
thông qua: tay nghề, lòng nhiệt tình, tính sáng tạo…
- Máy móc thiết bị (Machinezy): là công cụ phương tiện để tạo ra sản phẩm vì vậy
chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào trình độ kĩ thuật và tính đồng bộ của máy móc thiết
bị của doanh nghiệp
- Nguyên vật liệu(Materials): là thứ cấu thành sản phẩm nên chất lượng sản phẩm
phụ thuộc vào chất lượng nguên vật liệu, thời gian cung ứng nguyên vật liệu, bảo quản
nguyên vật liệu …
- Quản lý( Management): trong doanh nghiệp nếu có 3 điều kiện trên đã tốt mà
khâu quản lý kém, sự kết hợp giữa các khâu không tốt thì chất lượng sản phẩm cũng
không cao. Vì vậy khâu quản lý cũng có vai trò quyết định đến chất lượng sản phẩm .
1.5. Vai trò của chất lượng sản phẩm .
Chất lượng sản phẩm có vai trò quyết định sự sống còn của doanh nghiệp, nó thể
hiện ở
- Chất lượng sản phẩm thể hiện sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Sản
phẩm có sức cạnh tranh lớn sẽ được tiêu thụ nhiều làm tăng thu nhập cho doanh nghiệp
- Chất lượng sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản vô hình (uy tín) của
doanh nghiệp trên thị trường…
2.Quản lý chất lượng sản phẩm
2.1. Các quan điểm về quản lý chất lượng (hay sự đóng góp của các chuyên gia hàng đầu
về chất lượng )
Trong mỗi giai đoạn mỗi thời kì phát triển của sản xuất công nghiệp người ta lại có
những quan điểm khác nhau về quản lý chất lượng và ở mỗi thời kì lại nổi lên những tên
tuổi lớn đại diện cho những phương pháp quản lý chất lượng hay (theo những quan điểm
về quản lý chất lượng nhất định )
*Shewharts : ông là người đề xuất việc sử dụng các công cụ thống kê trong kiểm
soát chất lượng . Theo ông tất cả mọi quá trình hoạt động đều có sự biến động, chính sự
biến động làm sản phẩm sản xuất ra có chất lượng không đồng đều nhau .Nhưng điều
quan trọng là có thể nhận biết được vấn đề biến động đó và kiểm soát được nó bằng
những công cụ thống kê đơn giản nhờ đó đảm bảo chất lượng sản phẩm sản xuất ra là
luôn nằm trong giới hạn tiêu chuấn sản phẩm cho phép
*E. Deming : ông cho rằng
- Quản lý chất lượng là một hoạt động cải tiến liên tục được thực hiện theo vòng
tròn chất lượng :hoạch định chất lượng ,thực hiện chất lượng kiểm tra chất lượng điều
chỉnh cải tiến chất lượng
- Quản lý chất lượng là trách nhiệm trước tiên là của cán bộ quản lý cấp cao của
doanh nghiệp
- Giảm sự lệ thuộc vào các biện pháp kiểm tra chất lượng sản phẩm cuối cùng
- Xây dựng các trương trình đào tạo giáo dục khuyến khích người lao động tham
gia vào quá trình quản lý chất lượng .
*P. Crosby: quan điểm của ông về quản lý chất lượng
-Phòng ngừa là biện pháp cơ bản để thực hiện quản lý chất lượng trong doanh
nghiệp. Tiêu chuẩn để đánh giá tìng hình quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp là
không sai lỗi
-Tất cả mọi vấn đề chất lượng đều có thể đánh giá đo đếm được thông qua chi phí
nhờ đó căn cứ để đưa các quyết định cải tiến chất lượng
*Feigenbaun: ông là người đầu tiên đề xuất phương pháp quản lý chất lượng toàn
diện. Tức là quản lý chất lượng phải được thực hiện ở tất cả mọi khâu, mọi hoạt động
trong doanh nghiệp và quản lý chất lượng là trách nhiệm của mọi thành viên trong doanh
nghiệp, quản lý chất lượng cần có sự phối hợp chặt chẽ với khách hàngvà người cung
ứng.
*K. Ishikawa: ông là người đề xuất việc sử dụng sơ đồ nhân quả (sơ đồ xương cá)
trong quản lý chất lượng và ông cũng là người đề xuất cũng như trực tiếp tổ chức nhóm
chất lượng trong các doanh nghiệp .
* Theo tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế(ISO)” Quản lý chất lượng là hệ thống các
hoạt động. Các biện pháp, phương pháp và qui định hành chính, kinh tế kĩ thuật tổ chức
… dựa trên những thành tựu khoa học kĩ thuật, nhằn sử dụng tối ưu các tiếm năng trong
kinh doanh để bảo đảm duy trì và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm (thiết kế ,
sản xuất ,tiêu thụ và tiêu dùng ), thoả mãn nhu cầu của xã hội.” (định nghĩa về quản lý
chất lượng trong ISO 9000).
2.2 Các giai đoạn phát triển của quản lý chất lượng
Cho đến nay quản lý chất lượng đã chải qua ba giai đoạn phát triển khácnhau
*Giai đoạn 1 (từ đầu thập kỉ 20 dến 1939) :đây là quá trình hình thành và phát triển
của quản lý chất lượng. ở giai đoạn này chưa có khái niện về quản lý chất lượng mà chỉ
có khái niệm kiểm tra chất lượng .Đây là giai đoạn mà người ta đòng nghĩa quản lý chất
lượng và kiểm tra chất lượng, quản lý chất lượng được hiểu theo nghĩa hẹp vì vậy chức
năng chủ yếu là kiểm tra chất lượng .
Mục đích của quản lý chất lượng ở giai đoạn này là phát hiện sản phẩm không đạt
tiêu chuẩn ,tách ra khỏi những sản phẩm tốt để đảm bảo sản phẩm cuối cùng khi xuất
xưởng luôn đạt tiêu chuẩn.
Xuất phát từ mục đích quản lý chất lượng ở giai đoạn này mà nhiệm vụ quản lý chất
lượng được giao cho các cán bộ kĩ thuật, bộ phận kiểm tra chất lượng được tăng cường
củng cố, với những doanh nghiệp lớn thường thành lập phòng kiểm tra chất lượng riêng
Vì phương pháp thực hiện quản lý chất lượng ở giai doạn này là kiểm tra chất lượng
nên ở giai đoạn này quản lý chất lượng kém hiệu quả, chỉ thực hiện trong khâu sản xuất
Cho đến cuối giai đoạn này một số doanh nghiệp đã bước đầu sử dụng công cụ
thống kê đơn giản trong quản lý chất lượng .
*Giai đoan 2 (từ 1947 đến cuối những năm 60) ở giai đoạn này quản lý chất lượng
có những đặc đIểm sau:
- Đã có sự thay đổi về nhận thức trong quản lý chất lượng, khái niệm quản lý chất
lượng ra đời thay cho khái niệm kiểm tra chất lượng . Quản lý chất lượng được hiểu theo
nghĩa rộng hơn, nó bao gồm bốn chức năng chủ yếu: hoạch định chất lượng, thực hiện
chất lượng kiểm tra chất lượng, điều chỉnh cải tiến chất lượng (thể hiện bằng vòng tròn
chất lượng
- Quản lý chất lượng trở thành trách nhiệm cơ bản của cán bộ quản lý đồng thời có
phân định rõ ràng về nhiệm vụ quản lý chất lượng giữa cán bộ kĩ thuật cán bộ quản lý và
người lao động.
- Các hoạt dộng quản lý tập chung vào các biện pháp phòng ngừa, làm giảm vai trò
của kiểm tra chất lượng
- Tiếp tục mở rộng các công cụ thống kê trong quản lý chất lượng
*Giai đoạn 3 (từ 1970 đến nay) : ở giai doạn này quản lý chất lượng có những đặc
điểm nổi bật sau
- Chuyển từ quản lý chất lượng thông thường sang quản lý chất lượng toàn diện
(TQM): đây là phương pháp quản lý chất lượng mà quá trình quản lý chất lượng được
thực hiện ở tất cả mọi khâu mọi hoạt động trong doanh nghiệp .
- Quản lý chất lượng là trách nhiệm của tất cả mọi thành viên trong doanh nghiệp
- quản lý chất lượng cần có sự phối hợp chặt chẽ với khách hàng và người cung
ứng.
2.3 Hệ thống quản lý chất lượng và nội dung quản lý chất lượng theo hệ thống quản lý
chất lượng
2.3.1 Thực chất và vai trò của hệ thống quản lý chất lượng
*Khái niệm hệ thống quản lý chất lượng: hệ thống quản lý chất lượng là một tập
hợp các cơ cấu tổ chức, quản lý, trách nhiệm, thủ tục, phương pháp, và nguồn lực cần
thiết để thực hiện quản lý chất lượng của doanh nghiệp
* Cấu trúc của hệ thống quản lý chất lượng
- Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp bao gồm
+Vai trò trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo cấp cao trong doanh nghiệp về vấn đề
chất lượng
+ Quyền hạn và trách nhiệm của các đơn vị bộ phận trong doanh nghiệp
+ Mối quan hệ giữa các đơn vị bộ phận trong việc thực hiện các nhiệm vụ được đặt
ra .
+ Các qui trình thủ tục cho việc đảm bảo cải tiến chất lượng trong doanh nghiệp
- Chính sách chất lượng của doanh nghiệp: do ban lãnh đạo cấp cao của doanh
nghiệp ban hành ,nó phải được công bố rộng rãi trước toàn bộ nhân viên. Giám đốc cam
kết thực hiện bằng văn bản . Nội dung của văn bản là viết những gì sẽ làm và cam kết
phải làm những gì đã viết.
- Mục tiêu chất lượng : đó là một cáI đích mà doanh nghiệp phải đạt được trong một
thời gian nhất định (bao gồm mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể)
- Kế hoạch chất lượng là một tài liệu đề cập đến từng hoạt động sản xuất, cung cấp
ra sản phẩm, dịch vụ. Trong đó chỉ ra những hoạt động cụ thể cần thiết để đảm bảo về
chất lượng sản phẩm, dịch vụ đó.
- Hệ thống tài liệu chất lượng là một hệ thống tài liệu gồm có: sổ tay chất lượng,
quá trình thủ tục, các hướng dãn công việc. Cụ thể
+ Sổ tay chất lượng là bản mô tả về chính sách chất lượng, những điều lệ về chất
lượng thuộc doanh nghiệp .
+ Qui trình thủ tục là sự mô tả về toàn bộ qui trình hoạt động của một công việc nào
đó cần thực hiện
+ Các hướng dẫn công việc là bản hướng dẫn được dùng để thực hiện những công
việc phức tạp: bản vẽ kĩ thuật, hướng dẫn kĩ thuật…
*Những hệ thống quản lý chất lượng đang được áp dụng
- QS 9000 là hệ thống quản lý chất lượng áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất ô
tô
- Hệ thống quản lý chất lượng tổng hợp (TQM)
- Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000
- Hệ thống quản lý chất lượng HCCAD áp dụng cho doanh nghiệp chế biến thực
phẩm
- Hệ thống quản lý chất lượng GMP áp dụng cho các doanh nghiệp dược phẩm.
- Hệ thống quản lý chất lượng Q Bass áp dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
- Hệ thống quản lý chất lượng ISO 14000 là hệ thống quản lý chất lượng môi
trường
* Yêu cầu trong tổ chức hệ thống quản lý chất lượng
- Hệ thống quản lý chất lượng phải dựa trên phòng ngừa là chính
- Hệ thống quản lý chất lượng phải có cấu trúc rõ ràng, xây dựng rõ chức năng
nhiệm vụ của từng bộ phận trong doanh nghiệp nhưng phải đảm bảo sự phối hợp, hợp
tác chặt chẽ giữa các đơn vị
- Hệ thống quản lý chất lượng phải phù hợp với lĩnh vực kinh doanh và qui mô hoạt
động của doanh nghiệp .
- Hệ thống quản lý chất lượng phải đảm bảo tính đồng bộ và toàn diện
- Hệ thống quản lý chất lượng phải có sự tham gia trực tiếp của mọi thành viên, mọi
đơn vị bộ phận vào quá trình xây dựng và triển khai.
* Vai trò của hệ thống quản lý chất lượng
- Hệ thống quản lý chất lượng là một phân hệ cơ bản trong hệ thống sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp nó có mối quan hệ chặt chẽ với các hệ thống khác và đảm bảo
liên kết với các hệ thống khác trong quá trình sản xuất
- Hệ thống quản lý chất lượng là một phương tiện quan trọng cần thiết để thực hiện
chức năng quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp
- Hệ thống quản lý chất lượng sẽ giúp các doanh nghiệp đảm bảo được hệ thống
tiêu chuẩn chất lượng đã đặt ra và thoả mãn được khách hàng
- Xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng giúp cho các doanh nghiệp
giảm sự biến động của các quá trình, các hoạt động nhờ đó tiết kiệm được chi phí sai
hỏng
- Hệ thống quản lý chất lượng nó còn có ý nghĩa rất lớn trong các doanh nghiệp
trong việc đảm bảo sự thống nhất giữa chính sách chất lượng chung của doanh nghiệp
với các bộ phận phân tán
2.3.2. Nội dung của quản lý chất lượng theo hệ thống quản lý chất lượng.
* Nâng cao mức thoả mãn của khách hàng trên cơ sở tiết kiệm chi phí (Vấn đề đẩm
bảo chất lượng và cải tiến chất lượng)
Đó là toàn bộ những hoạt động nhằm đưa chất lượng sản phẩm lên mức cao hơn
trước, giảm dần khoảng cách giữa những mong muốn của khách hàng và thực tế chất
lượng đạt được thoả mãn nhu cầu của khách hàng ở mức cao hơn
Theo tiêu chuẩn Việt Nam 5200-90, đảm bảo chất lượng chia ra làm hai phần:
- Đảm bảo chất lượng nội bộ
Xem xét đánh giá các vấn đề về chất lượng trong mối quan hệ với các yếu tố khác
của hoạt động quản lý chất lượng. Là các hoạt động đảm bảo lòng tin cho lãnh đạo của
doanh nghiệp rằng các sản phẩm, dịch vụ đã đạt chất lượng mong muốn, đúng tiêu chuẩn
thiết kế.
Để đảm bảo chất lượng nội bộ doanh nghiệp phải có một tổ chức hợp lý, phải có
ban lãnh đạo đủ tài năng, có mục tiêu chất lượng, chính sách chất lượng rõ ràng, có các
kế hoạch chi tiết để thực hiện mục tiêu chất lượng và chính sách chất lượng đó, phải quản
lý tốt chất lượng ở các khâu marketing, thiết kế, sản xuất thử nghiệm, bao gói, bảo quản,
vận chuyển bán và mua, quản lý tốt chất lượng các nguồn lực, quản lý tốt chi phí, áp
dụng linh hoạt các biện pháp quản lý chất lượng, đặc biệt áp dụngcác biện pháp phòng
ngừa.
- Đảm bảo chất lượng với bên ngoài
Là các hoạt động đảm bảo cho người mua và người đặt hàng tin rằng hệ thống chất
lượngcủa người cung cấp chắc chắn đảm bảo cho sản phẩmvà dịch vụ phù hợp với các
yêu cầu chất lượng. Để đảm bảo chất lượng với bên ngoài doanh nghiệpphải thỉa thuận
với người mua các yếu tố sau: hệ thống bảo đảm chất lượngcủa người cung cấp để người
mua tin rằng hàng hoá, dịch vụ thoả mãn các yêu cầu của họ về phương tiện kỹ thuật và
thủ tục tiến hành phòng ngừa thử nghiệm, kiểm tra và xuất trinh các tài liệu kiểm tra, tiến
hành kiểm tra hàng hoá khi giao nhận, chính sách chất lượng của doanh nghiệp. Các điều
khoản đảm bảo chất lượng cá thể thay đổi tuỳ thuộc vào từng loại sản phẩm cụ thể.
Hai phân hệ này không hề cô lập với nhau mà ngược lại chúng hỗ trợ cho nhau,
ràng buộc nhau và thống nhất với nhau trong hệ thống chất lượng. Chúng đều nhằm nâng
cao khả năng tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp.
* Cải tiến và hoàn thiện chất lượng
Cải tiến và hoàn thiện chất lượng cũng có ý nghĩa tương tự như đảm bảo chất lượng.
Hoàn thiện chất lượng được tiến hành theo các bước sau:
-Phát triển sản phẩm mới, đa dạng hoá sản phẩm.
-Thực hiện công nghệ mới áp dụng vào sản xuất.
-Thay đổi quá trình sản xuất nhằm giảm khuyết tật của sản phẩm.
Yêu cầu đặt ra đối với hoàn thiện chất lượng là tiến hành cải tiến đặc điểm của sản
phẩm, đồng thời làm giảm tỷ lệ khuyết tật. Các bước tiến hành:
- Thiết lập cơ sở hạ tầng cần thiết để đảm bảohoàn thiện chất lượng.
- Xác định những nhu cầu đặc trưng về hoàn thiện chất lượng, đè ra dự án thực hiện
những nhu cầu đó.
- Thành lập tổ công tác có đủ khả năng thực hiện thành công dự án.
- Cung cấp các nguồn lực cần thiết(tài chính, kỹ thuật,lao động).
- Động viên đào tạo khuyến khích quá trìnhthực hiện dự án hoàn thiện chất lượng
sản phẩm.
- Coi chất lượng sản phẩm là nhận thức của khách hàng, múc độ thoả mãn nhu cầu
của khách hàng chính là mức độ chất lượng sản phẩm đạt được. Khách hàng là người
đánh giá xác định chất lượng sản phẩm. Lấy con người làm trung tâm, là nhân tố cơ bản
có ý nghĩa quyết định đến việc tạo ra và nâng cao chất lượng sản phẩm, mọi người từ
giám đốc đều có vai trò về chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, tinh thần
trách nhiệm, ý thức tự giác, lòng nhiệt tình và khả năng trang bị kiến thức, phương tiện
quản lý chất lượng. Lấy phòng ngừa là chính, với phương châm làm đúng ngay từ đầu,
sản phẩm không có phế phẩm.
Không ngừng nâng cao chất lượng của hệ thống và các quá trình từ thiết kế sản
phẩmđến sản phẩm và tiêu dùng sản phẩm.
* Quản lý chất lượng được thực hiện trong tất cảmọi khâu của quá trình sản xuất kinh
doanh. Khác với quản lý chất lượng chỉ kiểm tra ở khâu cuối của quá trình sản xuất.
Quản lý chất lượng thuộc hệ thống quản lý chất lượng nhằm giảm thiểu sản phẩm hỏng
dẫn đén giảm chi phí bằng cáchkiểm tra chất lượngở tất cả các khâu của quá trình sản
xuất nhằm không để sai hỏng xảy ra chứ không bị động biết hỏng rối mới sửa. Việc thực
hiện được bắt đầu từ khâu thiết kế sản phẩm, mua nguyên vật liệu, quá trình bảo quản
cũng như cung cấp nguyên vật liệu, quá trình gia công sản xuất tạo ra sản phẩm.
* Quản lý chất lượng là quá trình thực hiện chức năng của quản lý theo vòng tròn
chất lượng:hoạch định chất lượng –thực hiện chất lượng –kiểm tra chất lượng -điều chỉnh
cải tiến chất lượng.hoạt động quản lý chất lượng là hoạt động quản lý chứ không đơn
thuần thuầ
2.3.3. Sự khác nhau giữa quản lý chất lượng trước kia và ngày nay
Sự khác nhau này được thể hiện thông qua các phương diện sau:
- Về tính chất : quản lý chất lượng trước kia mang tính chất kĩ thuật đơn thuần vì
vậy vấn đè quản lý chất lượng thuộc phạm vi trách nhiệm của cán bộ kĩ thuật. Còn ngày
nay vấn đè quản lý chất lượng không đơn thuần là vấn đề kĩ thuật mà nó thuộc lĩnh vực
quản lý. Khi nó được coi là vấn đề quản lý thì những mục tiêu về chất lượng bao giờ
cũng được thực hiện một cách tốt nhất.
- Xét trên phương diện quan niệm về sản phẩm. Trước kia cho rằng tất cả những
gì mà doanh nghiệp bán ra ngoài thị trường mới là sản phẩm. Còn ngày nay người ta cho
rằng tất cả những gì là kết quả của doanh nghiẹp tạo ra có thể tiêu dùng nội bộ hoạc bán
ra ngoàiđều là sản phẩm của doanh nghiệp. Quan niêm về sản phẩm như ngày nay bắt
buộc mọi người phải có trách nhiệm với sản phảm mà mình tạo ra.
-Xét trên quan niệm về khách hàng. Trước kia cho rằng khách hàng phải là những
người không thuộc doanh nghiệp mà mua sản phẩm của doanh nghiệp. Còn bây giờ
người ta cho rằngkhách hàng là toàn bộ những đối tượng đòi hỏi về chất lượng sản phẩm
của doanh nghiệp (kể cả đối tượng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, kể cả những đối
tượng không mua sản phẩm của doanh nghiệp)
-Xét trên phương diện phạm vi, đối tượng, trách nhiệm, mục đích của quản lý chất
lượng ta thấy rằng trước kia quản lý chất lượng chỉ được thực hiện trong khâu sản xuất
và đối tượng là kết quả cuối cùng, trách nhiệm quản lý thuọc về phòng kiểm tra kĩ
thuật(KCS) và lấy mục tiêu tài chính làm cơ bản. Còn bây giờ quản lý chất lượng được
thực hiện ở tất cả các khâu, các hoạt động, các quá trình của doanh nghiệp,đối tượng là
tất cả các khâu các giai đoạn trong quá trìng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, quản
lý chất lượng là nhiệm vụ của tất cả mọi đối tượng, mọi đơn vị bộ phận trong doanh
nghiệp, nhằm mục đích là thoả mãn nhu cầu của khách hàng, lấy khách hàng làm gốc,
làm cơ sở
- Trước kia đánh giá chất lượng một cách trực diện, tập chung vào con người,
xem xét biệt lập với các yếu tố khác.Còn ngày nay người ta xem xét chất lượng nằm
trong mối quan hệ với các yếu tốkhác của hệ thống quản lý chất lượng
- Trước kia đẻ đánh giá tình hình chất lượng người ta sử dụng hệ thống các tiêu
chuẩn kĩ thuật đã được đề ra. Còn ngày nay người ta xem xét đánh giá chất lượng sản
phẩm hàng hoá dịch vụ bằng phản ứng của khách hàng về chất lượng.
Phần II . Quản lý chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp ngành
may Việt Nam
1.Thực trạng về chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm ngành may
1.1 Ngành may ngày càng nâng cao mức thoả mãn của khách hàng trên cơ sở tiết kiệm
chi phí
Trong một vài năm gần đây ngành may đã không ngừng nâng cao chất lượng sản
phẩm, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng trong và ngoài nước, dần
chiếm lại thị trường nội địa, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, có được những
thành tựu trên là do đa số những doanh nghiệp may mặc Việt Nam những năm gần đây
đã thường xuyên đầu tư đổi mới công nghệ. Nhưng theo thống kê và đánh giá của các
chuyên gia, thiết bị công nghệ ngành may, tuy đã đổi mới 90-95% thiết bị nhưng trình độ
tự động hoá quá trình sản xuất cũng chỉ ở mức trung bình, công nghệ lạc hậu hơn các
nước tiên tiến trong khu vực khoảng 5 năm. Năng lực thiết kế thời trang, nhất là thời
trang cuộc sống của người tiêu dùng trong nước tuy đã có những bước tiến đáng kể song
vẫn còn yếu. Ngoài ra, chất lượng dịch vụ trong ngành may mặc như hệ thống thông tin,
giao dịch, khả năng giao hàng đúng tiến độ cũng như khả năng tổ chức thực hiện các đơn
đặt hàng nhỏ của các doanh nghiệp nước ta cũng có một khoảng cách so với các nước
trong khu vực.
Giá cả là yếu tố hạn chế lớn nhất của hàng may mặc nước ta, với mức giá thường
cao hơn mức giá sản phẩm cùng loại của các nước ASEAN khoảng 10-15%, cao hơn
hàng Trung Quốc hơn 20%. Để giảm giá thành sản phẩm, các doanh nghiệp cần xúc tiến
ngay việc cải tiến hệ thống quản lý, tổ chức dây truyền sản xuất, nâng cao tay nghề, kỹ
năng vận hành và xử lý công việccủa người lao động nhằm tăng nhanh năng suất (hiện
năng suất lao động chỉ bằng 50-70% của Singapo, Malaysia, Thái Lan). Đồng thời, áp
dụng các biện pháp tiết kiệm chi phí sản xuất, hạn chế những lãng phí lớn về thời gian và
sức người, vốn ít được để tâm tới.
Nghệ thuật bán hàng của ta, tuy đã tiến bộ hơn rất nhiều so với 10 năm trước đây,
nhưng vẫn là điểm yếu cơ bản so với các nước trong khu vực. Đội ngũ xúc tiến thương
mại, tiếp thị, hệ thống bán hàng yếu về chất lượng, thiếu về số lượng. Nhiều doanh
nghiệp chưa thiết lập được mạng lưới trao đổi thông tin, hệ thống phân phối, đại diện
thương mại ở các thị trườngxuất khẩu, nên khả năng phản ứng nhanh trước diễn biến của
thị trường rất hạn chế và thường phải đối phó trong thế bị động, kém hiệu qua. Để khắc
phục những điểm yếu này, các doanh nghiệp cần sớm đào tạo, xây dựng đội nhũ bán
hàng và tiếp thị có kĩ năng cao kết hợp với việc thiết lập kênh phân phối rộng khắp trên
thị trường nội địa. Đối với các thị trường xuất khẩu tiềm năng, nếu như từng doanh
nghiệp chưa có khả năng làm được thì 5-7 doanh nghiệp nên phối hợp với nhau mở văn
phòng đại diện thương mại thường trực.
Bên cạnh các biện pháp tăng khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp, đã có sự
chú trọng nâng cao khả năng cạnh tranh của toàn hệ thống –tức môi trường trường kinh
doanh của toàn ngành may mặc. Chính phủ đang tập chung giải quyết nhiều vấn đề nhằm
tạo điều kiện tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may gồm: mở rộng quan hệ
thương mại song phương và đa phương với các tổ chức quốc tế (EU, Mỹ, WTO, Trung
và Nam Mỹ…) nhằm đẩy mạnh xuất khẩu ngành dệt may như nới lỏng hạn ngạch nhập
khẩu vào EU như các nước khác trong ASEAN, hưởng thuế suất bình thường (NTR) vào
thị trường Mỹ, giảm thuế nhập khẩu vao các nước Trung và Nam Mỹ, hưởng qui chế bãi
bỏ hạn ngạch nhập khẩu như các thành viên WTO. Đòng thời xây dựng cơ chế định
hướng cũng như qui hoạch và chính sách hỗ trợ các dự án phát triển sản xuất nguyên phụ
liệu cung cấp cho ngành dệt may, nhằm tăng tỉ lệ nội địa hoá trong hàng may mặc xuất
khẩu từ 25-30% lên 50% vào năm 2005 và 70%vao năm 2010.
1.2.Hầu hết các doanh nghiệp may Việt Nam đều cho rằng quản lý chất lượng sản phẩm
là trách nhiệm của cán bộ kỹ thuật.
Như đã biết phương pháp quản lý chất lượng bằng các hệ thống quản lý chất lượng
mới được đưa vào áp dụng ở Việt Nam (từ năm 1998. Mặc dù nhà nước đã có nhiều
chính sách tạo điều kiện để các doanh nghiệp nghiên cứu và áp dụng các phương pháp
quản lý chất lượng mới. Song vẫn còn nhiều nguyên nhân (cả về phía doanh nghiệp, cả
về phía môi trường) đã ngăn cản các doanh nghiệp nghiên cứu và áp dụng các phương
pháp quản lý chất lượng mới đó. Ngành may mặc cũng không phải là ngoại lệ. Vì vậy
cho đến nay tỷ lệ doanh nghiệp ngành dệt may đã được cấp chứng chỉ tiêu chuẩn quản lý
chất lượng ISO 9000 chiếm chỉ khoảng 5% trong tổng số các doanh nghiệp của ngành.
Số còn lại vẫn tiếp tục thực hiện quản lý chất lượng theo kiểu kiểm tra chất lượng. Tức là
vẫn coi quản lý chất lượng là hoạt động thuộc lĩnh vực kỹ thuật và trách nhiệm quản lý
chất lượng thuộc về cán bộ kỹ thuật, thông qua việc kiểm tra chất lượng sản phẩm trước
khi đưa ra thi trường bằng các chỉ tiêu chất lượng. Cho nên bị động trong việc kiểm soát
chất lượng sản phẩm-kiểm tra, phát hiện để sửa chữa những lỗi sai- chứ không phải là
chủ động kiểm tra ở tất cả các khâu, các công đoạn, các loại nguyên vật liệu… có như
vậy mới hạn chế được sự sai hỏng, kém chất lượng ở mức tối thiểu. Vì vậy mà chất
lượng sản phẩm còn thấp hơn so với các nước trong khu vực, tỷ lệ phế phẩm cao nên chi
phí sản xuất lớn dẫn đến giá thành sản phẩm cao. Làm cho sản phẩm kém sức cạnh tranh
trên thị trường…
2.Những điều gặp phải khi áp dụng ISO 9000 cho ngành may mặc
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để tăng chất lượng sản phẩm các doanh
nghiệp ngành may mặc đã và đang tiếp tục áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO
9000. Trong quá trình này các doanh nghiệp đã có những điều kiện thuận lợi song
cũng gặp không ít những khó khăn, vẫn còn nhiều điều vướng mắc từ đó đã nảy sinh
những quan niệm sai lầm về chứng chỉ ISO 9000 .
2.1. Những thuận lợi
-Thuận lợi đàu tiên mà ta dễ dàng nhận thấy đó là sự tạo điều kiện thuận lợi, sự
giúp đỡ của các cấp các ngành đối với các doanh nghiệp. Điều đó được thể hiện
thông qua việc các cấp các ngành ở nhiều địa phương đã thành lập ban chỉ đạo trương
trình triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 hoạc giúp đỡ bằng
việc hỗ trợ kinh phí. Một trong những nơi đi đầu trong phong trào này là thành phố
Hà Nội. Ngày 29/4/1999,Chủ tịch UBND thành phố đã ra quyết định số 1807/QĐ-
UB về việc thành lập ban chỉ đạo chương trình triển khai áp dụng hệ thống quản lý
chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000, và ngày 19/5/1999, UBND thành phố đã ra chỉ
thị 13/CT-UB về đẩy mạnh việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn
ISO 9000. UBND thành phố Hà Nội đã kịp thời xây dựng kế hoạch, nội dung đề tài
và hỗ trợ cho trương trình áp dụng ISO 9000 với tổng kinh phí năm 1999 là 440 triệu
đồng và năm 2000 là 720 triệu đồng…
-Các doanh nghiệp Việt Nam là những doanh nghiệp đi sau trong qúa trình áp
dụng hệ thống ISO 9000 nên sẽ tích luỹ được nhiều kinh nghiệm và tránh được
những sai lầm đáng tiếc…
2.2. Những khó khăn gặp phải.
Khi triển khai áp dụng ISO 9000, các doanh nghiệp cũng gặp lhông ít những
khó khăn.
- Trình độ công nghệ quản lý, mặt bằng, nhà xưởng, kho tàng… của các
doanh nghiệp còn bị hạn chế so với các doanh nghiệp của các nước trong khu vực.
- Phải chỉnh hoạc thay đổi cách thức và phương pháp làm việc cũ đã tồn
tại cố hữu trong nhiều năm qua
- Việc chuẩn hoá và văn bản hoá hệ thống chất lượng theo yêu cầu của
ISO 9000 là một công việc rất khó khăn đòi hỏi phải có thời gian và đầu tư công sức .
- Công tác tư vấn còn nhiều hạn chế. Chuyên gia tư vấn trong nước còn ít,
chưa có nhiều kinh nghiệm nhưng khi tư vấn còn gặp những khó khăn do sự khác
biệt về ngôn ngữ, văn hoá.
- Vai trò của giám đốc công ty quyết định sự thành công và thời gian
nhanh hay chậm. Khác với công tác quản lý khác,trong hệ thống quản lý chất lượng,
lãnh đạo không chỉ ra lệnh, chỉ đạo thực hiện mà phải trực tiếp tham gia cùng mọi
người, luôn giữ vai trò đầu tầu. Giám đốc phải là một trong những người hiểu rõ nhất
về ISO 9000. Trên thực tế, ở một số nơi, vai trò thúc đẩy của lãnh đạo còn chưa nổi
bật.
- Chi phí áp dụng ISO 9000 là một trong những vấn đề băn khoăn nhất,
bởi lẽ chi phí cho tư vấn giúp cho xây dựng hệ thống chất lượng,đánh giá, cấp chứng
chỉ ISO 9000 là một con số không nhỏ, chưa kể chi phí phát sinh trong quá trình triển
khai hệ thống quản lý chất lượng (đầu tư, trang bị thêm, cải tạo nhà xưởng…) thường
phải cân nhắc-nhất là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
2.3 Những quan đIểm sai lầm về chứng chỉ chất lượng ISO 9000
2.3.1. Ngộ nhận khi xây dựng hệ thống chất lượng
-Trình độ công nghệ không nhất thiết phảI có công nghệ thật tiên tiến mới phấn đấu
có hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 và được chứng nhận ISO 9000
- Chất lượng sản phẩm
Doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm có chất lượng chưa cao nhưng ổn định và
được khách hàng chấp nhận đặt mua vì phù hợp với yêu cácầu sử dụng của họ, mặc dù
đoi khi các sản phẩm này không hoàn toàn đáp ứng đúng yêu cầu tiêu chuẩn kĩ thuật
quốc tế hay quốc gia nhưng vẫn đảm bảo các yếu tố an toàn, vệ sinh sức khoẻ và môi
trường, vẫn có thể xây dựng hệ thống chất lượng theo tiêu chuẩn của ISO 9000. Điều
quan trọng là sự phù hợp của sản phẩm với tiêu chuẩn mà xí nghiệp đã được khách hàng
chấp nhận.
ở Nam Phi dù nhân viên không biết chữ, một xí nghiệp vẫn đạt được chứng chỉ ISO
9001 mặc dù các qui trình và chỉ dẫn công việc đều được trình bày dưới dạng hình vẽ !
ISO 9000 không đòi hỏi mọi nhân viên sản xuất phải có học vấn cao, mà chỉ đòi hỏi họ
được đào tạo và đạt đến sự thành thạo theo yêu cầu cho công việc.
2.3.2 Ngộ nhận và vướng mắc trong khi xây dựng hệ thống
- Các tiêu chuẩn ISO 9000 không đề cập đến khía cạnh tài chính như quản lý tài sản
cấu trúc hành chính. Do khi đó xây dựng ISO 9000 xí nghiệp không cần đề cập mọi
phạm vi tài chính kế toán trong hệ thống văn bản chất lượng .Người tư vấn và đánh giá
viên bên ngoài không có quyền xem xét hay đề cập đến vấn đề tài chính kế toán .
- Tổ chức nhân sự
Theo tiêu chuẩn ISO 9000 người lãnh đạo tối cao (giám đốc) phải bổ nhiệm người đại
diện của lãnh đạo, được gọi là người phụ trách chất lượng . Người phụ trách chất lượng
có năng lực chuyên môn và có thực quyền trong lãnh đạolà một thuận lợi đáng kể, Trong
thực tế, người phụ trách chất lượng phải giành được ít nhất là 60-80% thời gian cho việc
xây dựng hệ thống.
Người phụ trách chất lượng và ban chất lượng là một nhóm đặc biệt được thành lập
để xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000
-Hệ thống văn bản
Vì muốn được sớm chứng nhận ISO 9000, có đơn vị cho rằng có thể tham khảo,
thậm chí có thể “sao chép” các văn bản của những cơ sở đã được chứng nhận đẻ rút ngắn
quá trình hoàn tất văn bản, nhưng họ không biết rằng như vậy sẽ không mô tả chính xác
những gì đang xảy ra trong cách vận hành doanh nghiệp và không được các cán bộ và
nhân viên sử dụng làm cơ sở cho việc cải tiến chất lượng . Những văn bản như vậy càng
không thể làm cơ sở cho việc đánh giá nội bộ
2.3.3 Những ngộ nhận sau khi xây dựng hệ thống
Trên nguyên tắc, việc đánh giá hệ thống cho mục đích cứng nhận chỉ được thực hiện
sau khi các cuộc đánh giá nội bộ đã được thực hiện một cách thoả đáng cho toàn hệ
thống. Nhiệm vụ của người phụ trách chất lượng là giúp đánh giá hệ thống bên ngoài
hiểu và đồng tình với mình về sự hợp lí hay phù hợp của hệ thống chất lượng của mình .
Có thời gian, người đánh giá bên ngoài được gọi là “thanh tra” nên đã đem lại những ấn
tượngvề quyền uy mà họ có. Do đó, việc đánh giá hệ thống chất lượng có thể coi như
việc hợp tác chặt chẽ giữa người đánh giá chất lượng bên ngoài và người phụ trách chất
lượng .
Một thái độ đúng đắn và hợp tác từ người phụ trách chất lượng, sự cởi mở, kiên nhẫn đẻ
nắm vững hiện trình của doanh nghiệp là điều tối cần thiết của người đánh giá bên ngoài-
sự hợp tác như vậy sẽ giúp cho doanh nghiệp thấy rõ cái được và chưa được trong hệ
thống chất lượng của mình, nhằm tìm ra giải pháp tốt nhất cho việc cải tiến chất lượng
liên tục
2.3.4 Ngộ nhận về chứng chỉ ISO
Một hệ thống chất lượng chỉ thực sự được thừa nhận phù hợp tiêu chuẩn sau khi nhận
được chứng chỉ .Tiếp đó, doanh nghiệp cần từ 3 đến 5 năm để phát huy toàn bộ lợi ích
của hệ thống chất lượng Cứ 6 tháng hoạc 1 năm các chuyên gia lại được cử đến thực hiện
việc đánh giá định kì nhằm duy trì hiệu năng của hệ thống. Mỗi lần đánh giá tiếp theo,
chuyên gia càng đào sâu thêm và khắt khe hơn trước những thiếu sót của doanh nghiệp,
và vì vậy chương trình chất lượng sẽ không thể dừng lại và ngày càng hoàn thiện hơn.
Chứng chỉ ISO 9000 là chứng chỉ từ một tổ chức có tín nhiệm của thi trường, nhưng sự
thừa nhận cuối cùng phải là sự thừa nhận của người tiêu thụ sản phẩm .Vì vậy chất lượng
sản phẩm, chất lượng dich vụ … phải không ngừng được cải tiến và nâng cao mới đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng .Duy trì hệ thống chất lượng chỉ để bảo
vệ chứng chỉ mà quên sự cam kết đầu tư vào việc cải tiến chất lượng sản phẩm liên tục
giảm phế phẩm, tăng năng suất nhằm đáp ứng mỗi ngày một hữu hiệu cho nhu cầu và
mong muốn của khách hàng, có thể đưa doanh nghiệp đến bại sản vì tăng phí tổn, hướng
nội xa thực tế…
Phần III. Những giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình áp dụng phương pháp
quản lý chất lượng bằng tiêu chuẩn ISO 9000 vào ngành may Việt Nam.
1.Điều chỉnh hoạc thay đổi cách thức và phương pháp làm việc đã tồn tại
cố hữu trong nhiều năm qua.
Như đã biết quá trình sản xuất ở nước ta còn chịu sự ảnh hưởng nặng nề của những
năm bao cấp, một trong những khâu chịu ảnh hưởng lớn nhất đó là khâu quản lý chất
lượng. Trong ngành may mặc cũng vậy, hầu hết thành viên trong doanh nghiệp đều cho
rằng quản lý chất lượng là thuộc phạm vi kĩ thuật vì vậy trách nhiệm của việc quản lý
chất lượng là thuộc về cán bộ kỹ thuật còn các thành viên khác không chịu trách nhiệm
nhất là giám đốc. Vì vậy mà cần phải có những chính sách chiến lược hợp lý tác động
vào nhận thức cuả mọi thành viên trong doanh nghiệp để họ hiểu rằng trách nhiệm quản
lý chất lượng là của tất cả mọi người nhất là cán bộ cấp cao trong doanh nghiệp
2. Tăng cường tư vấn, tuyên truyền về hệ thống quản lý chất lượng ISO
Để áp dụng đượcphương pháp quản lý chất lượng theo chứng chỉ ISO thì trước tiên
các doanh nghiệp phải hiểu về ISO. Vì vậy mà nhà nước và các tổ chức kinh tế xã hội
khác cần tăng cường đầu tư cho các hoạt động tuyên truyềnvề ISO để các doanh nghiệp
hiểu và biết cách áp dụng. Để áp dụng thành công ISO và được cấp chưng chỉ thì các
doanh nghiệp lại phải tuyên truyền sao cho tất cả mọi thành viên trong doanh nghiệp phải
nắm vững về nó có như vậy họ mới hiểu và xác định được trách nhiệm của họ đối với
công việc mà họ làm. Để làm được điều này thì phải tổ chức xây dựng nhiều trung tâm tư
vấn, nâng cao bồi dưỡng trình độ các nhà tư vấn, tổ chức hội nhị, các buổi thuyết trình về
ISO để các giám đốc hiểu được lợi ích của ISO, hiểu rõ trách nhiệm của mình.Đối với
các doanh nghiệp phải tổ chức các lớp họcvề ISO cho các thành viên trước khi xây dựng
hệ thống quản lý chất lượng ISO
3.Phải có cơ chế khuyến khích vật chất
Để khuyến khích động viên những hoạt động tích cực hay răn đe những sai phạm cần
phải có những chính sách vật chất cụ thể. Khi người lao động có những hành độnh tích
cực cần được động viên khen thưởng kịp thời bằng các yếu tố vật chất. Còn khi họ mắc
phải những lỗi lầm cần phải xem xét kĩ với những yếu tố liên quan trước khi đưa ra quyết
định cụ thể, mức đọ xử phạt tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại do sai phạm gây ra…
Kết luận
Ngày nay chất lượng sản phẩm có vai trò quyết định đối với sự sống còn của mỗi
doanh nghiệp. Vì vậy mọi doanh nghiệp đều tìm mọi cách nâng cao chất lượng sản
phẩm với chi phí hợp lí nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường. Các
doanh nghiệp ngành may mặc cũng không ngoài qui luật trên. Tuy rằng so với các
nước trong khu vực và trên thế giới thì chất lượng sản phẩm của ngành còn thấp hơn rất
nhiều song đó cũng đã là một sự đột phá lớn của ngành may Việt Nam trong những
năm vừa qua. Để đạt được những thành tựu như vậy, đó là nhờ vào việc áp dụng các hệ
thống quản lý chất lượng. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay tỷ lệ các doanh nghiệp may
mặc đã áp dụng và được cấp chứng chỉ hệ thống quản lý chất lượng còn nhỏ. Vì vậy
Nhà nước và các cơ quan chức năng cần có những biên pháp, chính sách thích hợp
nhằm thúc đẩy quá trình nghiên cứu và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng vào tất
cả các doanh nghiệp may mặc. Để may măc xứng đáng là ngành mũi nhọn hàng đầu về
sản xuất hàng xuất khẩu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 64883_0067.pdf