Trong những năm vừa qua, chính sách thu hút đầu tư, xây dựng và
phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở của Đảng và
Nhà nước nói chung và các địa phương trong cả nước nói riêngđã mang lại
hiệu quả kinh tế -xã hộirất lớn, nó không những góp phần thực hiện chủ
trương CNH, HĐH đất nước, màcòn phục vụ cho chính yêu cầu phát triển
ngành nông nhiệp và kinh tế nông thôn.
19 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2612 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vấn đề việc làm của người nông dân sau khi bị thu hồi đất để xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC .....
KHOA ....
Tiểu luận
Vấn đề việc làm của người nông dân sau khi bị thu hồi
đất để xây dựng và phát triển các khu công nghiệp
Giảng viên hướng dẫn : ....................................
Sinh viên thực hiện : ....................................
Lớp : ....................................
MSSV : ....................................
2
Phát triển Khu công nghiệp ( KCN), khu chế xuất, khu kinh tế mở
nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ( CNH, HĐH) là chủ trương
nhất quán của Đảng và Nhà nước. Vì thế, trong thời gian qua hàng trăm
KCN đã được xây dựng và phát triển góp phần tạo nên một diện mạo nông
thôn mới. Tuy nhiên, có một thực tế trong vài năm trở lại đây, khi các khu
công nghiệp (KCN) mọc lên ngày càng nhiều thì cùng với sự phát triển đã
có hàng trăm ngàn hecta đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng.
Hệ lụy kéo theo chính là hàng nghìn người nông dân lâm vào tình cảnh mất
đất, mất nghề, phải xa xứ kiếm sống. Đây là một vấn đề bức xúc đang đặt ra
trong quá trình phát triển KCN ở nước ta hiện nay.
I. Tầm quan trọng của quá trình chuyển đổi đất nông nghiệp sang phát
triển công nghiệp, xây dựng các KCN ở các vùng nông thôn nước ta:
Trong lịch sử nhân loại, bất kỳ một quốc gia phát triển nào cũng phải
trải qua giai đoạn CNH, chuyển từ nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lên
kinh tế công nghiệp và thực hiện HĐH nền sản xuất nhằm phát triển mạnh
mẽ các ngành công nghiệp mới và dịch vụ. Việc Nhà nước ta thu hồi một
phần diện tích đất nông nghiệp chuyển sang phát triển công nghiệp trong
giai đoạn này là xu hướng tất yếu, xuất phát từ yêu cầu CNH, HĐH nền kinh
tế đất nước, vì lợi ích cộng đồng và vì lợi ích quốc gia. Và một trong những
chính sách nhằm thúc đẩy công nghiệp phát triển, phục vụ cho nhu cầu
CNH, HĐH đất nước ở nước ta là xây dựng và phát triển các KCN, các khu
chế xuất, khu kinh tế mở. Sự phát triển này có ý nghĩa rất quan trọng, nó góp
phần nâng cao năng suất lao động; phát triển các ngành công nghiệp hiện
đại, thu hút công nghệ, phương pháp quản lý tiên tiến của các nước phát
triển; thúc đẩy phát triển ngành nông nghiệp và dịch vụ, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu các ngành kinh tế theo hướng hiện đại; đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu.
3
Bên cạnh việc góp phần thực hiện chủ trương CNH, HĐH đất nước,
thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các KCN còn phục vụ cho chính yêu
cầu phát triển ngành nông nhiệp và kinh tế nông thôn:
- Thứ nhất, thông qua sự phát triển của công nghiệp, KCN, khu chế xuất,
khu kinh tế mở, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật được hình thành,
ngày càng hoàn chỉnh, đồng bộ và có chất lượng, tạo đà cho các ngành kinh
tế khác, biến những vùng nông thôn vốn lạc hậu, chậm phát triển thành
những vùng đô thị mới phát triển năng động, hiệu quả; thu hẹp khoảng cách
phát triển giữa các vùng, khu vực kinh tế. Chẳng hạn, việc phát triển công
nghiệp, KCN sẽ hình thành những tuyến đường giao thông huyết mạch,
những cảng biển; hình thành mạng lưới điện, mạng lưới thông tin, các
trường kỹ thuật...
- Thứ hai, xây dựng các KCN góp phần tạo nhiều việc làm, góp phần làm
giảm tỷ lệ thất nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế; chuyển một bộ phận
lực lượng lao động nông nghiệp, nông thôn, là khu vực có năng suất lao
động thấp sang khu vực công nghiệp, dịch vụ có năng suất lao động cao hơn,
làm tăng thu nhập, nâng cao mức sống của người nông dân. Theo tính toán
của các nhà khoa học, hiện nay ở nước ta cứ 1 héc ta đất nông nghiệp, sẽ thu
hút tối đa khoảng 10-15 lao động làm việc, với giá trị gia tăng thấp. Nhưng,
nếu chuyển sang phát triển công nghiệp nói chung, KCN nói riêng sẽ tạo ra
hàng trăm chỗ làm việc có giá trị gia tăng cao hơn nhiều so với sản xuất
nông nghiệp. Trung bình một KCN lấy đi khoảng 100 - 150 héc ta đất, nếu
được lấp đầy sẽ thu hút khoảng 15.000 - 18.000 lao động trực tiếp và hàng
vạn lao động vệ tinh. Bên cạnh đó còn có một số lượng lớn lao động hoạt
động trong các ngành nghề phi nông nghiệp, như dịch vụ ăn uống, buôn bán
nhỏ... phục vụ cho đời sống sinh hoạt do đòi hỏi tất yếu của KCN. Tính
thuần túy về kinh tế từ việc thu hồi đất để phát triển KCN, KCX, lợi ích kinh
tế đó là rất lớn.
4
- Thứ ba, việc áp dụng những sản phẩm của ngành công nghiệp ( máy nông
nghiệp, hóa chất nông nghiệp,…) trong sản xuất nông nghiệp góp phần thúc
đẩy năng suất lao động, làm tăng sản lượng, chất lượng nông sản, từ đó nâng
cao nguồn thu nhập từ việc bán sản phẩm nông nghiệp của người nông dân.
- Thứ tư, các KCN là thị trường tiêu thụ rộng lớn, là cơ sở cho phát triển
kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Việc cung cấp nông sản, cung cấp nguyên
vật liệu cho công nghiệp và lương thực, thực phẩm cho những người làm
công nghiệp, sẽ làm tăng tỷ suất lợi nhuận cho người nông dân. Điều này lại
thúc đẩy việc chăm lo sản xuất của họ, thúc đẩy tăng năng suất lao động,
kích thích sản xuất nông nghiệp gắn với thị trường.
- Thứ năm, các KCN cung cấp hàng tiêu dùng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu đời
sống của người dân nông thôn, tạo điều kiện cho họ tiếp cận với những sản
phẩm mới, đa dạng.
Như vậy, việc phát triển công nghiệp nói chung, KCN nói riêng đã tạo
động lực lan tỏa, thúc đẩy nền kinh tế phát triển với năng suất cao hơn, giá
trị sản xuất của các ngành nhờ đó mà tăng nhanh. Đồng thời không ngừng
tăng thu nhập, cải thiện đời sống của nhân dân, thu hẹp khoảng cách chênh
lệch phát triển giữa nông thôn và thành thị.
Vấn đề quan trọng nhất khi xây dựng các KCN là phải chuyển một
phần diện tích đất nông nghiệp sang công nghiệp để có mặt bằng xây dựng.
Đối với những nước đất đai được thừa nhận là của người dân, việc chuyển
đổi mục đích sử dụng đất giữa các bên được thực hiện thông qua quan hệ
mua bán do cơ chế thị trường và quan hệ cung – cầu điều tiết, nhà nước chỉ
có vai trò hỗ trợ việc chuyển đổi. Đối với nước ta, đất đai thuộc sở hữu của
toàn dân, nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Đất nông
nghiệp là đất Nhà nước giao cho nông dân nhằm đưa vào phát triển sản xuất
nông nghiệp, người nông dân có quyền có đất sản xuất, sử dụng đất, được
hưởng thành quả lao động trên mảnh đất được Nhà nước giao. Tuy nhiên,
với tư cách là đại diện chủ sở hữu, Nhà nước có quyền giao đất cho các tổ
5
chức, cá nhân sử dụng và có quyền thu hồi đất để chuyển đổi mục đích sử
dụng. Vì vậy, khi có quyết định thu hồi của Nhà nước, người dân phải giao
đất cho Nhà nước và được nhận một mức giá đền bù phù hợp.
II. Thực trạng chuyển đổi đất nông nghiệp sang phát triển các KCN ở
nước ta trong những năm qua và tác động của nó đến vấn đề việc làm
của người nông dân sau khi bị thu hồi đất:
1. Thực trạng chuyển đổi đất nông nghiệp sang phát triển các KCN ở
nước ta trong những năm qua:
Trong những năm qua, diện tích đất nông nghiệp được chuyển đổi
mục đích theo hai hướng chính là phục vụ xây dựng các khu công nghiệp,
khu chế xuất, cụm công nghiệp vừa và nhỏ hoặc phát triển các khu đô thị tập
trung theo các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng.
Tính đến năm 2007, cả nước đã có 137 KCN, khu chế xuất, với tổng
diện tích là 29.063 ha, phân bố rộng khắp trên 45 tỉnh, thành phố của cả
nước; ngoài ra còn có trên 200 cụm công nghiệp với tổng diện tích là 13.991
ha; nếu tính cả các khu kinh tế như Chu Lai, Dung Quất thì trong thời gian
qua, cả nước đã chuyển đổi khoảng 79.000 ha đất nông nghiệp, đất ven đô
thị sang xây dựng các KCN. Như vậy, bình quân mỗi năm nông dân cả nước
phải nhường 74.000 ha đất sản xuất phục vụ cho các khu công nghiệp, đô
thị...
Các khu vực kinh tế trọng điểm là khu vực có diện tích đất nông
nghiệp chuyển đổi lớn nhất, chiếm trên 50% tổng diện tích thu hồi. Mặc dù,
số diện tích đất nông nghiệp được thu hồi chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng diện
tích đất nông nghiệp, nhưng do thu hồi mang tính tập trung nên một số xã bị
mất từ 70 - 80% diện tích, kéo theo nhiều hộ bị thu hồi 100% diện tích,
không còn đất sản xuất. Còn lại, đa phần các hộ ở các địa phương có diện
tích đất thu hồi lớn như Hà Nội (5.469 ha), TP. Hồ Chí Minh (4.000 ha), Hải
Phòng (4.126 ha), Bắc Ninh (3.800 ha), Bình Dương (3.500 ha), ... thường bị
thu hồi từ 50 - 70% diện tích. Tính đến năm 2015, việc làm này sẽ tác động
6
đến cuộc sống của khoảng 2,5 triệu lao động tại các vùng chuyển đổi ( Theo
Số liệu điều tra của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn).
Mặt khác, để thu hút các nguồn vốn, công nghệ phục vụ yêu cầu đẩy
mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, những năm qua, Nhà nước và
chính quyền các địa phương đã thực hiện chính sách cởi mở, tạo điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc tìm kiếm, chọn lựa địa điểm sản
xuất, kinh doanh. Chính sự dễ dãi và cả sự yếu kém trong qui hoạch, kế
hoạch quản lý, sử dụng đã cùng với tư tưởng chạy theo lợi ích kinh tế trước
mắt đã đưa tới tình trạng sử dụng đất tuỳ tiện, lãng phí. Hầu hết các khu
công nghiệp, dịch vụ đều bám dọc các quốc lộ huyết mạch, các vùng nông
thôn trù phú. Hệ quả là, hàng chục vạn ha “đất cấu tượng” đất “bờ xôi, ruộng
mật” (chiếm 80% tổng diện tích đất nông nghiệp bị chuyển đổi) – bao đời
nay là tư liệu sản xuất quan trọng và quí giá nhất của người nông dân – đã bị
sử dụng phí phạm, tác động mạnh đến công ăn việc làm, thu nhập và đời
sống của hàng chục vạn hộ gia đình nông thôn với hàng triệu lao động nông
nghiệp. Trong năm 2000 – 2005, trên cả nước có tới 53% số hộ có thu nhập
giảm so với trước khi bị thu hồi đất và số hộ khá khẩm hơn lên chỉ là 13%.
An ninh lương thực của người dân tại vùng chuyển đổi nói riêng và quốc gia
nói chung cũng bị xâm hại nặng nề. Ví dụ như tại xã Tứ Minh (TP Hải
Dương) sau khi chuyển cho công nghiệp chỉ còn 65 ha đất nông nghiệp và
diện tích trồng lúa đến nay chỉ còn vỏn vẹn 3 ha nhưng năng suất cũng rất
thấp do thiếu nước, chuột bọ ở KCN sinh ra nhiều. Vậy nên, bình quân
lương thực đầu người ở đây chỉ còn 25,61kg/năm. Với tình trạng đó thì sẽ
không đảm bảo an ninh lương thực tại chỗ. Xã Đại Đồng (huyện Tiên Du,
Bắc Ninh) cũng xuất hiện tình trạng trên, có tới 342 ha trên tổng số 430 ha
đất nông nghiệp ở đây đã chuyển thành nhà máy, công xưởng. Dân số của xã
là 10.668 hộ, nhu cầu lương thực cần vào khoảng 1.536 tấn trong khi khả
năng lương thực tại chỗ chỉ đạt 1.022 tấn, như vậy xã này thiếu chừng 5.000
tấn lương thực/năm. Và, dự báo đến năm 2011 thì toàn bộ lương thực của xã
7
phải phụ thuộc vào nhập khẩu từ xã ngoài. Đời sống khó khăn cũng là
nguyên nhân sinh ra các tệ nạn: cờ bạc, lô đề, nghiện hút, trộm cắp…ở
những vùng nông thôn vốn bình yên.
2. Vấn đề việc làm của người nông dân sau khi bị thu hồi đất:
Đứng trên quan điểm phát triển, việc thu hồi đất nông nghiệp để xây
dựng các KCN là cần thiết và đúng đắn tạo điều kiện chuyển dịch lao động
từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ; góp phần tạo ra cơ hội việc làm
mới, ổn định hơn, thu nhập cao hơn so với sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên,
nếu xét riêng bộ phận bị thu hồi đất thì quá trình thu hồi đất nông nghiệp
phục vụ cho việc phát triển các KCN đang xuất hiện nhiều vấn đề bất cập.
Đó là tình trạng không ít lao động nông nghiệp bị mất đất, mất việc làm,
chưa tìm được việc làm mới dẫn đến thất nghiệp; và tình trạng nông dân bị
thu hồi đất phải chuyển đổi sang làm những nghề không cơ bản do trình độ
thấp, không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất công nghiệp và dịch vụ.
2.1. Nguy cơ thất nghiệp của người nông dân sau khi bị thu hồi đất:
Sau khi thực hiện việc chuyển một phần đất nông nghiệp sang xây
dựng các KCN, khu chế xuất, khu kinh tế mở, một bộ phận không nhỏ
những người nông dân bị mất việc, phải chuyển đổi nghề nghiệp.
Theo kết quả khảo sát của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội,
trung bình mỗi hộ bị thu hồi đất có 1,5 lao động rơi vào tình trạng không có
việc làm và mỗi ha đất nông nghiệp bị thu hồi có tới 13 lao động mất việc
làm, phải chuyển đổi nghề nghiệp.
Đặc biệt, ở các tỉnh Đồng bằng sông Hồng là nơi đất chật người đông,
lao động nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn, thì vấn đề đảm bảo việc làm cho nông
dân càng trở nên bức xúc hơn. Trung bình mỗi ha đất nông nghiệp thu hồi ở
vùng Đồng bằng sông Hồng có 15,33 người bị mất việc làm.
Hà Tây là địa phương số lao động mất việc làm lớn nhất do thu hồi
đất, lên tới 35.700 người/ha, kế đến là Vĩnh Phúc (22.800 người/ha), Hà
8
Nội, 1 ha đất thu hồi có tới gần (20 người/ha), Đồng Nai (12.300
người/ha)…
Như vậy, với 79.000 ha diện tích đất thu hồi để xây dựng KCN, khu
kinh tế mở, cả nước đã có khoảng 1 triệu lao động nông nghiệp bị mất việc
làm, phải chuyển đổi nghề nghiệp, trong số đó hiện nay nhiều người vẫn
chưa có việc làm và rơi vào tình trạng thất nghiệp toàn phần.
2.2. Thực trạng chuyển đổi việc làm của nông dân khi bị thu hồi đất
nông nghiệp:
Việc xây dựng các KCN được đánh giá là góp phần tích cực chuyển
một bộ phận lực lượng lao động nông nghiệp, nông thôn sang khu vực công
nghiệp, dịch vụ có năng suất lao động cao hơn, làm tăng thu nhập, nâng cao
mức sống của người nông dân. Nhưng thực tế, số người bị thu hồi đất được
nhận vào làm công nhân tại các doanh nghiệp trong KCN là rất thấp, nhiều
người sau khi bị thu hồi đất, không tìm được việc làm đã phải quay sang làm
các nghề không cơ bản như “xe ôm”, cửu vạn, bán hàng rong,… có người thì
quay lại làm nông nghiệp trên diện tích đất ít ỏi còn lại của gia đình mình.
Đối với những người được nhận vào làm việc tại các KCN, số tiền lương họ
nhận được hàng tháng cũng rất thấp, có những nơi lương tháng chỉ 700 - 800
ngàn đồng, trong khi giá cả cái gì cũng tăng thì người dân không thể có được
một cuộc sống đảm bảo.
Theo điều tra khảo sát của trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội
(năm 2008) tại một số tỉnh có diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi để xây
dựng KCN cho thấy: sau khi bị thu hồi đất, số người lao động làm nông
nghiệp giảm 18,17%, số lao động chuyển sang làm công nghiệp chỉ tăng có
2,79%, số người chạy “xe ôm” tăng 3,64%, số người làm các công việc khác
tăng 3,64%, còn lại là chưa có việc làm.
Để thấy rõ hơn tình trạng việc làm của người nông dân sau khi mất
đất, ta có thể tham khảo kết quả khảo sát tại Hà Nội (2008) – thủ đô, nằm
trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc.
9
- Khác với nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước, Hà Nội chỉ có 33.446 ha đất
nông nghiệp; nếu kể cả đất lâm nghiệp thì cũng chỉ có 41.149 ha, chiếm
44,56% tổng diện tích đất tự nhiên của thành phố (theo mức chung, đất
nông nghiệp chiếm 28% diện tích đất tự nhiên của cả nước). Tức là ở Hà
Nội, khi những người nông dân bị thu hồi đất, họ có rất ít khả năng để tiếp
tục sinh sống bằng nghề nông, mà phải chuyển sang làm công nghiệp, dịch
vụ.
- Thực trạng công việc của những người sau khi bị thu hồi đất tại Hà Nội
được thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng so sánh tỷ lệ số người có việc làm trước và sau khi
bị thu hồi đất ở Hà Nội ( %)
Công việc
Trước khi thu
hồi đất
Sau khi thu hồi
đất
Chênh lệch
Làm nông nghiệp 69,5 53,0 - 16,5
Làm công nghiệp 8,3 10,3 + 2,0
Buôn bán 4,6 6,2 + 1,6
Làm thuê, xe ôm 1,5 6,2 + 4,7
Làm hành chính 3,6 4,4 + 0,8
Làm các công việc khác 8,8 7,5 - 1,3
Không có việc làm 4,7 12,4 + 7,7
- Theo bảng trên, số người làm nông nghiệp sau khi thu hồi đất đã giảm
đáng kể (-16,5%), số người làm công nghiệp và dịch vụ được tăng lên. Đây
là chiều hướng tốt.
- Tuy nhiên, mức tăng trưởng lao động công nghiệp còn chậm ( + 2,0%),
trong khi đó tỷ lệ người làm thuê và xe ôm tăng nhanh hơn ( + 4,7%). Như
vậy, số người được thu hút vào các cơ sở đầu tư trên đất thu hồi còn hạn chế
và họ phải chọn các ngành không cơ bản để giải quyết tình trạng thất nghiệp.
- Tình trạng việc làm cũng có tình huống xấu, tỷ lệ thất nghiệp sau khi thu
hồi đất đã cao hơn so với trước khi thu hồi đất ( + 7,7%).
10
Như vậy, việc phát triển KCN trong thời gian qua đã làm cho một bộ
phận lao động, chủ yếu là lao động nông nghiệp bị mất một phần hoặc toàn
bộ tư liệu sản xuất, dẫn đến mất việc làm, gặp nhiều khó khăn trong tìm và
tạo việc làm mới. Đất canh tác của họ đã được chuyển đổi mục đích sử dụng,
nhường chỗ cho các KCN, nhưng lao động lại chưa được chuyển đổi tương
ứng. Tốc độ chuyển đổi đất nông nghiệp sang công nghiệp và đô thị hóa
nhanh, nhưng tốc độ chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp
còn chậm, chưa tương xứng. Sự lệch pha này làm cho người nông dân bị thu
hồi đất rơi vào cảnh không có việc làm, không tìm được việc làm mới và
không có thu nhập ổn định.
III. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng mất đất, thất nghiệp của
người nông dân sau khi bị thu hồi đất:
Một số nguyên nhân chủ yếu khiến người dân thất nghiệp, phải
chuyển đổi sang các nghề không cơ bản sau khi bị thu hồi đất:
Thứ nhất, trình độ của người lao động còn nhiều hạn chế. Bản thân
của người lao động bị thu hồi đất có xuất thân từ nông dân, có nhiều hạn chế
về năng lực, tình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp, chưa hình thành
được tác phong lao động công nghiệp nên không đáp ứng được yêu cầu của
thị trường lao động.
- Theo một cuộc điều tra khảo sát về trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao
động ở các hộ bị thu hồi đất ( 5/2008), số người có trình độ cao đẳng, đại
học trở lên chỉ chiếm 8,2%, trung cấp 6,8%, học nghề và tương đương 8,8%,
không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 76,2% .
- Về cơ cấu nghề nghiệp, công việc của những người này trước khi bị thu hồi
đất có tới 69,5% số người trong độ tuổi lao động làm nông nghiệp, 8,3% làm
công nhân, 4,6% làm thương mại, 3,6% làm các công việc hành chính, 1,5%
làm nghề xe ôm và 7,8% làm nghề khác, 4,7% không có việc làm. Tuy nghề
nghiệp của họ khá đa dạng, nhưng phần lớn là nghề nông.
11
- Do trình độ chuyên môn và nghề nghiệp như vậy, nên cơ hội người dân tự
tìm việc làm trong công nghiệp và dịch vụ của những người sau khi bị thu
hồi đất là rất khó khăn.
- Trước thực tế ấy, Bộ Tài chính và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
đã ban hành Thông tư liên tịch số 65/2004/TTLT/BTC-BLĐTBXH quy định
về hỗ trợ kinh phí dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn, trong đó có
các hộ bị thu hồi đất canh tác để xây dựng các công trình công cộng, KCN.
Một số địa phương cũng có những quy định cụ thể nhằm tạo điều kiện cho
người bị thu hồi đất đi học nghề và chuyển đổi nghề nghiệp như: hỗ trợ thêm
kinh phí đào tạo, thậm chí đào tạo miễn phí cho người bị thu hồi đất; mở
thêm nhiều cơ sở dạy nghề xuống tận huyện, xã,... Tuy nhiên, trong những
năm qua, việc đào tạo nghề cho người lao động không bài bản, thiếu chiến
lược và kế hoạch rõ ràng, cụ thể. Số lao động mất đất, không có nghề, cần
đào tạo thì nhiều, nhưng đào tạo không được bao nhiêu. Các địa phương chủ
yếu cho lao động đi học nghề tại các cơ sở dạy nghề nên người lao động
không được chủ động học nghề và doanh nghiệp cũng không chủ động đào
tạo nghề để tuyển dụng lao động. Không ít lao động bị thu hồi đất được đào
tạo nghề không phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động, chất lượng đào
tạo nghề còn thấp. Mức độ đào tạo mà người lao động nhận được từ các đơn
vị nhận đất và từ Nhà nước là rất thấp, các hộ bị thu hồi đất vẫn tự đào tạo là
chính. Theo số liệu điều tra ở một số địa phương cho thấy, tỷ lệ lao động sau
khi tự đi học chuyển đổi nghề nhưng không tìm được việc làm khá cao.
Trung bình cứ 1.000 hộ dân bị thu hồi đất thì có 300 người tự đầu tư bỏ tiền
đi học nghề, nhưng chỉ có 90 người được tuyển dụng, 210 người không tìm
được việc làm, tức là có 66% lao động không tìm được việc làm sau khi đã
đào tạo nghề.
Thứ hai, số lao động quá tuổi tuyển dụng chiếm tỷ lớn. Trong số
những người bị mất việc làm do thu hồi đất thì số lao động trên 35 tuổi
chiếm tỷ lệ khá lớn, khoảng 50%, họ là những người có nhiều kinh nghiệm
12
trong sản xuất nông nghiệp nhưng thường quá tuổi tuyển dụng, trình độ văn
hóa hạn chế, khả năng học nghề thấp và khó thích nghi với công việc mới.
Trong khi đó, các doanh nghiệp chủ yếu tuyển dụng lao động trẻ độ tuổi từ
18 – 35 tuổi, có tay nghề trong các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ.
Thứ ba, nhận thức của một bộ phận lao động còn thụ động. Một bộ
phận nông dân còn trông chờ, ỷ lại vào chính sách đền bù mà chưa tự mình
cố gắng vượt khó khăn, tìm kiếm việc làm. Bên cạnh đó, còn thực trạng là
người nông dân không thực sự mặn mà với việc học nghề, chưa nhận thức
được tầm quan trọng của việc học nghể để chuyển đổi nghề nghiệp và tìm
được việc làm mới. Một trong những nguyên nhân là họ chưa quen với
những việc cần phải vận động suy nghĩ, học các kiến thức mới để điều khiển
những thiết bị hiện đại. Họ thường có chung một suy nghĩ là làm nghề nông
cơ cực, nhưng lại dễ. Việc bồi thường, hỗ trợ từ trước đến nay đều được thực
hiện dưới hình thức chi trả trực tiếp. Chính vì vậy, khi được chính quyền địa
phương giao số tiền này, thì họ thường sử dụng để mua sắm phương tiện, vật
dụng chứ không chú tâm đến việc học nghề, giải quyết việc làm. Lãnh đạo
Sở LĐ-TBXH Hà Nội cho biết, gần 58% người dân sử dụng tiền đền bù để
xây dựng nhà cửa, trong khi đó, đầu tư cho sản xuất phi nông nghiệp chỉ
chiếm 1,27%, cho học nghề là 2,55%. Năm 2007, trong tổng số 20.000 lao
động bị thu hồi đất trên địa bàn chỉ có chưa đầy 5.000 lao động có nhu cầu
học nghề. Nhìn bề ngoài có vẻ như đời sống của họ được cải thiện rõ rệt,
nhưng bên trong tiềm ẩn một nguy cơ bất ổn rất lớn do không có nghề
nghiệp, không có thu nhập ổn định.
Thứ tư, công tác quản lý của Nhà nước còn nhiều bất cập ở nhiều
địa phương, kế hoạch thu hồi đất xây dựng KCN chưa gắn kết được với quy
hoạch tái định cư và kế hoạch đào tạo chuyển đổi nghề cho những người dân
bị mất đất; chưa chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho người dân có đất bị
thu hồi chuyển đổi nghề nghiệp. Hơn nữa, các cấp chính quyền chưa thông
tin, tuyên truyền đầy đủ về kế hoạch, quy hoạch thu hồi đất, làm cho người
13
lao động bị động trong việc chuyển đổi nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm.
Khi qui hoạch KCN, đã có rất nhiều hộ ôm tiền đền bù mà không biết làm gì
để sống. Vài năm sau, khoản tiền ít ỏi ấy vơi dần nên phải đi làm thuê, làm
mướn sống lay lắt hoặc bỏ xứ đi nơi khác tìm kế mưu sinh.
Thứ năm, đào tạo chuyển đổi nghề chưa đáp ứng được nhu cầu thị
trường. Hệ thống cơ sở dạy nghề hiện nay chủ yếu là đào tạo nghề phổ
thông, các nghề truyền thống. Giáo trình, trang thiết bị dạy nghề còn lạc hậu
so với yêu sản xuất, với dây chuyền trong các doanh nghiệp, và nhất là với
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hệ quả là chất lượng đào tạo
không đáp ứng được yêu cầu của người tuyển dụng. Hơn nữa, chưa có sự
phối hợp chặt chẽ giữa các ngành trong việc định hướng cho người dân học
nghề, chuyển đổi nghề phù hợp sau khi bị thu hồi đất sản xuất.
Thứ sáu, Nhà nước và chính quyền địa phương chưa có chế tài cụ
thể quy định trách nhiệm của các doanh nghiệp đối với lao động bị mất
việc làm sau khi giải phóng mặt bằng. Nhiều nông dân thiếu việc làm có
nguyên nhân từ sự thất hứa của các chủ sử dụng lao động. Cục Hợp tác xã –
Phát triển nông thôn đưa ra con số đáng lo ngại là có tới 67% số lao động
mất đất vẫn phải bám nghề nông để sống và thêm 20% nữa thì chịu cảnh thất
nghiệp hoặc không ổn định. Có nghĩa là, chỉ có 13% là tìm được công việc
mới. Trước khi đầu tư, chủ doanh nghiệp hứa sẽ sử dụng lao động tại địa
phương nhưng thực tế tỷ lệ này rất thấp. Mặc dù trong đề án nghiên cứu khả
thi, hầu hết doanh nghiệp nào cũng cam kết ưu tiên tuyển dụng lao động bị
thu hồi đất sau khi dự án đi vào hoạt động; và nhiều địa phương cũng tích
cực chỉ đạo các doanh nghiệp phải nhận người lao động bị mất đất vào làm
việc trong các KCN, nhưng thực tiễn việc này diễn ra không hoàn toàn như
vậy. Trên thực tế sau khi thanh toán một khoản tiền đền bù, người chủ đầu
tư dự án không phải không phải chịu trách nhiệm gì về tạo việc làm đối với
người lao động bị thu hồi đất trước pháp luật. Do đó, số người được nhận
vào làm việc tại doanh nghiệp trong KCN là rất ít. Ngay tại Bắc Ninh, sau
14
khi thu hồi đất, mặc dù UBND tỉnh đã có chính sách giải quyết việc làm cho
nông dân bằng cách mở rộng hệ thống trường dạy nghề, các doanh nghiệp
khi thuê đất đã có chính sách tuyển chọn lao động vào làm việc, tuy nhiên,
con số đó thật nhỏ nhoi. Từ năm 2001 đến năm 2005, các doanh nghiệp trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh mới thu hút được 60.000 lao động, trong đó, số lao
động tại các địa phương có đất bị thu hồi được tuyển dụng là 3.200 người.
Thứ bảy, vẫn tồn tại thực trạng đất nông nghiệp bị thu hồi không được
sử dụng ngay mà bỏ hoang hoá do dự án xây dựng các KCN “bị treo”. Tình
trạng này gây lãng phí đất nông nghiệp rất lớn, nông dân không có đất sản
xuất, mất việc làm, thất nghiệp, đời sống bấp bênh. Theo thống kê của Bộ
Kế hoạch-đầu tư, 61 tỉnh, thành còn khoảng 1200 dự án treo với diện tích
trên 130.000 ha.
Có nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan dẫn tới cảnh nông
dân sau khi giao đất bị mất việc làm, trong đó nguyên nhân chính là do các
cơ quan chức năng và bản thân người nông dân trong vẫn chưa có sự chuẩn
bị tốt về khả năng tìm kiếm việc làm trước khi Nhà nước thu hồi đất.
IV. Các giải pháp:
Giải quyết việc làm cho người dân có đất bị thu hồi là một trong
những giải pháp để chuyển đổi cơ cấu lao động và phát triển bền vững. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân, vấn đề này đã gây bức xúc trong một bộ phận
dân cư, chủ yếu là ở nông thôn. Để khắc phục tình trạng này đòi hỏi phải có
những biện pháp thiết thực, cụ thể và mang tính bắt buộc cao. Đồng thời
phải quan tâm đến lợi ích lâu dài của người dân, đảm bảo cuộc sống của họ
sau khi mất đất sản xuất, coi đó là mục tiêu cao nhất.
Sau đây là một số kiến nghị và đề xuất:
Thứ nhất, Nhà nước cần có chính sách cụ thể giúp người nông dân
tìm kiếm việc làm mới, ổn định, như:
- Hỗ trợ, cho vay ưu đãi đối với người dân bị thu hồi đất để họ đầu tư sản
xuất kinh doanh, phát triển nghề mới và học nghề mới.
15
- Khuyến khích phát triển các nghề thủ công truyền thống, nghề phụ, nghề
phi nông nghiệp, nghề phụ trợ cho các doanh nghiệp trong KCN. Điều này
không chỉ có ý nghĩa tạo ra việc làm và thu nhập cho lao động ở những vùng
bị thu hồi đất, mà còn góp phần giữu gìn bản sắc văn hóa dân tộc; góp phần
xây dựng nông thôn mới và đảm bảo cho người lao động ly nông nhưng bất
ly hương.
- Đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu lao động, trong đó chú trọng tuyển
dụng lao động bị thu hồi đất. Những đối tượng này cần phải được ưu tiên
tuyển dụng và hỗ trợ kinh phí để tham gia các khóa học giáo dục hướng
nghiệp và đào tạo nghề trước khi đi xuất khẩu. Có như vậy họ mới có cơ hội
nâng cao khả năng kiếm được công việc tốt khi đi xuất khẩu lao động.
Thứ hai, có chính sách tạo việc làm riêng đối với người lao động từ
độ tuổi 35 trở lên, ít có khả năng chuyển đổi nghề nghiệp khi bị thu hồi
đất. Nhà nước cần dành một phần đất trong hoặc sát với KCN cấp cho họ để
họ tổ chức hoạt động dịch vụ như cho thuê nhà trọ, bán hàng tạp hóa, quán
ăn,…phục vụ nhu cầu của công nhân trong KCN; có thể giới thiệu họ sang
các bộ phận tư vấn nông nghiệp, hướng dẫn kỹ thuật canh tác để tăng năng
suất sản xuất hoặc tạo điều kiện cho họ đăng ký học các lớp về nghiệp vụ
sản xuất nông nghiệp để kiếm thu nhập, ...
Thứ ba, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục, công
tác cán bộ và tăng cường vai trò của chính quyền các cấp để các hộ dân
mất đất ý thức việc chuyển đổi đất từ nông nghiệp sang đất công nghiệp,
dịch vụ và chuyển lao động từ thần nông sang công nghiệp, dịch vụ là tất
yếu khách quan, tuân theo đúng quy luật vận động của các nền kinh tế khi
tiến hành CNH, HĐH. Do đó, việc giải quyết việc làm cho các hộ mất đất là
trách nhiệm chung của các cá nhân và xã hội. Mặt khác, các hộ bị thu hồi đất
phải tự chủ một phần, không thể trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước.
Thứ tư, trong công tác xây dựng quy hoạch KCN, các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền lập quy hoạch cũng như thỏa thuận quy hoạch chi tiết
16
KCN phải có phương án đào tạo, giải quyết việc làm phải thật cụ thể, chi tiết
trên cơ sở nắm rõ tình hình lao động bị mất việc làm, tính toán nhu cầu
của các doanh nghiệp để đảm bảo người lao động sẽ được tuyển dụng và bố
trí việc làm ngay sau khi giao đất.
Thứ năm, cải cách hệ thống hướng nghiệp và đào tạo nghề theo
hướng hiện đại, gắn dạy nghề với yêu cầu của sản xuất kinh doanh và thị
trường lao động.
- Đẩy mạnh đầu tư phát triển hệ thống đào tạo nghề, từ trường lớp, trang
thiết bị đội ngũ giáo viên, lĩnh vực đào tạo đến chương trình đào tạo.
- Các tỉnh phải hình thành và quản lý quỹ hỗ trợ đào tạo nghề, phát triển các
mô hình đào tạo có liên kết chặt chẽ với các cơ sở đào tạo nghề.
- Có thể hỗ trợ trực tiếp, thiết thực cho người lao động tự lựa chọn các cơ sở
đào tạo nghề, hoặc giao cho doanh nghiệp ký hợp đồng đào tạo nghề với
người lao động, hoặc kết hợp giữa cơ sở đào tạo nghề với doanh nghiệp để
đào tạo lao động cho doanh nghiệp.
- Do khả năng tiếp nhận kiến thức về chuyên môn, kĩ thuật của người nông
dân hạn chế, nên cần tập trung nhiều hơn vào hướng dẫn thực hành cho họ.
Thứ sáu, có những chế tài bắt buộc quy định trách nhiệm, nghĩa vụ
cụ thể đối với các đơn vị sử dụng đất trong việc giải quyết việc làm cho
người dân bị mất đất. Đây phải coi là điều kiện tiên quyết để xem xét, phê
duyệt kế hoạch xây dựng KCN. Bên cạnh đó, có chính sách ưu đãi những
doanh nghiệp nào sử dụng nhiều lao động tại chỗ, đặc biệt là lao động bị thu
hồi đất để xây dựng KCN. Đây là một trong những giải pháp được Vĩnh
Phúc áp dụng triệt để và đã đem lại kết quả tốt. Mỗi doanh nghiệp khi nhận
lao động là nông dân vào làm sẽ được tỉnh hỗ trợ 100.000 - 200.000
đồng/người hoặc mỗi người tự tìm việc làm sẽ được hỗ trợ 300.000-700.000
đồng... Đây có thể coi là mô hình điểm trong việc giúp nông dân mất đất tìm
được việc làm.
17
Thứ bảy, có chế tài xử lý "quy hoạch treo", "dự án treo" làm ảnh
hưởng trực tiếp đến việc làm, thu thập và đời sống của người bị thu hồi đất.
Cần xem xét kỹ các trường hợp xin bổ sung quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để tránh những tiêu cực. Phải
thực hiện lấp đầy các KCN hiện có, mới được xây dựng thêm các KCN mới
và có biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất trong từng KCN.
Ngoài ra, Nhà nước và chính quyền địa phương có thể áp dụng các
biện pháp nhằm hạn chế bồi thường bằng tiền, đa dạng hóa các hình thức
bồi thường như: Hoán đổi đất sản xuất nông nghiệp của những hộ không có
nhu cầu sản xuất cho hộ bị thu hồi đất; giao đất phi nông nghiệp để làm kinh
doanh, dịch vụ; góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất với nhà đầu tư KCN,
đô thị, kinh doanh dịch vụ và thương mại; hoặc tham gia bảo hiểm xã hội;…
KẾT LUẬN
Trong những năm vừa qua, chính sách thu hút đầu tư, xây dựng và
phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở của Đảng và
Nhà nước nói chung và các địa phương trong cả nước nói riêng đã mang lại
hiệu quả kinh tế - xã hội rất lớn, nó không những góp phần thực hiện chủ
trương CNH, HĐH đất nước, mà còn phục vụ cho chính yêu cầu phát triển
ngành nông nhiệp và kinh tế nông thôn.
Đứng trên quan điểm phát triển, việc thu hồi đất nông nghiệp để xây
dựng các KCN là cần thiết và đúng đắn tạo điều kiện chuyển dịch lao động
từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ; góp phần tạo ra cơ hội việc làm
mới, ổn định hơn, thu nhập cao hơn so với sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên,
quá trình phát triển KCN đi liền với việc thu hồi đất, mà chủ yếu là đất nông
nghiệp của một bộ phận dân cư ở nông thôn đang đẩy hàng chục vạn lao
động nông nghiệp rơi vào cảnh mất đất, mất việc làm, phải chuyển đổi
ngành nghề, đời sống bấp bênh, khó khăn.
Nguyên nhân của tình trạng này rất đa dạng, bắt nguồn từ những yếu
kém về trình độ, nhận thức của người lao động, công tác quản lý của cơ
18
quan có thẩm quyền, công tác đào tạo… nhưng suy cho cùng nguyên nhân
chủ yếu là do Nhà nước, chính quyền địa phương và bản thân người lao
động chưa có sự chuẩn bị tốt về khả năng tìm kiếm việc làm trước khi bị thu
hồi đất.
Để khắc phục tình trạng này, phải giải quyết tốt lợi ích của người dân
và coi đó là gốc rễ cho sự thành công của chủ trương thu hồi đất, xây dựng
các KCN, thúc đẩy phát triển CNH, HĐH; cần phải có sự chuẩn bị tốt khả
năng tìm kiếm việc làm và tạo việc làm cho họ.
19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế - Số 10/2010
2. Tạp chí Kinh tế và Dự báo – Số 8/2007
3. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu - 2008
4.
html
5.
5
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hanh_vi_to_chuc_7373.pdf