Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật phổ biến trong toàn bộ tiến trình lịch sử của nhân loại. Sự thay thế,
phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua chế độ chiếm
hữu nô lệ, chế độ phong kién và đến xã hội cộng sản là do sự tác dộng của hệ thống
các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta cần phải hiểu và vận dụng tốt quy luật này
để phát triển kinh tế. Trên thực tế không thể có sự phù hợp tuyệt đối giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất. Song phải tuỳ theo tình hình thực tế mà chọn giải
pháp phù hợp. Sự vận dụng đúng đắn của Đảng và Nhà nước sẽ đem lại thành tựu
vô cùng to lớn cho nền kinh tế - xã hội nước ta ta hoàn thành tốt mục tiêu CNHHĐH đất nước. Tuy vậy, hạn chế, yếu kém còn rất nhiều, đòi hỏi cần có sự nỗ lực
hết sức, phát huy mọi tiềm năng vốn có để khắc phục.
16 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2441 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vận dụng quan điểm triết học Mác xít về quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất để phát triển những thành tựu, hạn chế trong phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong giai đoạn từ đổi mới đến nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
Vận dụng quan điểm triết học Mác xít về quy
luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ
lực lượng sản xuất để phát triển những thành
tựu, hạn chế trong phát triển kinh tế xã hội của
Việt Nam trong giai đoạn từ đổi mới đến nay
Phần mở đầu
Từ khi xuất hiện con người trên hành tinh này đến ngày nay đã trải qua 5
phương thức sản xuất tồn tại trong 5 chế độ xã hội: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu
nô lệ, phong kiến tập quyền, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Tư duy nhận
thức của con người không dừng lại ở một chỗ mà ngày càng phát triển hoàn thiện
hơn. Từ đó kéo theo sự thay đổi phát triển lực lượng sản xuất cũng như quan hệ sản
xuất. Từ hái lượm săn bắt để duy trì cuộc sống đến trình độ khoa học kỹ thuật lạc
hậu và đến ngày nay trình độ khoa học đã đạt tới mức tột đỉnh. Mà cốt lõi của nền
sản xuất xã hội chính là sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực
lượng sản xuất, như Mác và ăngen nói, đó là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với lực lượng sản xuất.
Từ quan điểm này của chủ nghĩa Mác xít, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng
vào quá trình phát triển kinh tế xã hội nước ta trong giai đoạn từ đổi mới đến nay.
Biện chứng quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất tạo điều kiện cho chúng
ta có được nhận thức về sản xuất xã hội và kinh tế. Thấy được ý nghĩa đó, tôi xin
bày tỏ một vài ý kiến bản thân về vấn đề: "Vận dụng quan điểm triết học Mác xít
về quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất để
phát triển những thành tựu, hạn chế trong phát triển kinh tế xã hội của Việt
Nam trong giai đoạn từ đổi mới đến nay"
Phần nội dung
I. Lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất - quy luật về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản
xuất, đồng thời thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra
của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm: người lao động với kỹ năng lao động
của họ và tư liệu sản xuất(trước hế là công cụ lao động) kết hợp với nhau thành lực
lượng sản xuất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất hàng đầu là
người công nhân, người lao động. Chính người lao động là chủ thể của quá trình
lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao
động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra
của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao
động của con người này càng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người không
ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ của lao động ngày càng cao. Ngày nay, với cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chủ yếu.
Cùng với người lao động công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản trong
lực lượng sản xuất đóng vài trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động
do con người tạo ra, nó "Nhân" sức mạnh của con người trong quá trình lao động
sản xuất. Công cụ lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất. Cùng với
quá trình tích luỹ kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ
lao động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Chính sự cải tiến và hoàn thiện
không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến
cùng đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của
công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu
chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng
to lớn. Sự phát triển khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc
đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức độ trở thành
nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở
thành "lực lượng sản xuất trực tiếp". Những phát minh khoa học trở thành điểm
xuất phát ra đời những ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, công nghệ
mới, nguyên vật liệu mới, năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa
học vào sản xuất, trở thành 1 yếu tố không thể thiếu được của sản xuất của sản xuất
đã làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển nhảy vọt, tạo thành cuộc cách
mạng khoa học và cách mạng hiện đại. Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng
cho lao động hiện đại không còn là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức
khoa học. Có thể nói: khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng
sản xuất hiện đại.
Nước ta từ trước tới nay nền kinh tế lấy nông nghiệp là chủ yếu, trình độ
khoa học kỹ thuật kém phát triển. Công cụ sản xuất của ta vừa nhỏ, vừa lạc hậu so
với trình độ phát triển chung trên thế giới. Thực tế trong nhiều ngành sản xuất thủ
công vẫn là chủ yếu, lao động thủ công chiếm tỉ lệ cao, cơ giới hoá vẫn còn chưa
phát triển. Mặt khác, trong 1 thời gian khá dài, lực lượng sản xuất bị kìm hãm trong
lối suy nghĩ bảo thủ, trì trệ. Chính bởi vậy, Đại hội Đảng 6 đặt ra nhiệm vụ "Giải
phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất
nước, sử dụng có hiệu quặ giúp đỡ của quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất". Chúng ta đang ở trong giai đoạn mà cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế
giới phát triển một cách mạnh mẽ, nó đòi hỏi chúng ta tiếp thu cái mới một cách
nhanh chóng để phát triển nguồn lực bên trong. Hiện nay nước ta đang tiến dần lên
với tự động hoá, lực lượng lao động có trình độ, có khả năng vận hành máy móc,
tay nghề thành thạo, được đào tạo căn bản đang dần tăng lên. Cùng với sự đầu tư
máy móc thiết bị tiên tiến, Việt Nam hy vọng có thể thay đổi căn bản trình độ lực
lượng sản xuất.
2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất
(sản xuất và tái sản xuất xã hội). Do con người không thể tách khỏi cộng đồng nên
trong quá trình sản xuất phải có những mối quan hệ với nhau. Vậy việc phải thiết
lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là một vấn đề có tính quy luật. Nhìn
tổng thể, quan hệ sản xuất gồm 3 mặt.
- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, tức là quan hệ giữa người với tư
liệu sản xuất, nói cách khác là tư liệu sản xuất thuộc về ai?
- Quan hệ trong tổ chức quản ly sản xuất, tức là quan hệ giữa người với người
trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như: phân công chuyên môn hoá và hợp
tác hoá lao động, quan hệ giữa người quản lý và công nhân…
- Quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra, tức là quan hệ chặt chẽ giữa
sản xuất vsà sản phẩm với cùng một mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu
quả tư liệu sản xuất.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách
quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc theo ý muốn chủ quan của con
người. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, giữa 3 mặt của quan hệ
sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối
so với sự vận động và phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Trong 3 mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu với tư liệu sản xuất là
quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội.
Nó quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quah hệ phân phối sản phẩm
cũng như các quan hệ sản xuất khác (sự phát triển của nhân loại đã chứng kiến có 2
loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất; sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở
hữu tư nhân là loại hình sở hữu trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào tay một số ít
người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Vì vậy quan hệ giữa
người với người trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội là quan hệ thống
trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà trong đó
tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên trong cộng đồng. Nhờ đó, quan hệ người
với người là quan hệ bình đẳng, hợp tác và giúp đỡ nhau.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất,
đến tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá
trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do quan hệ sở hữu quyết định và
nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên, cũng có quan hệ tổ chức và quản
lý không thích ứng với quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu tư liệu
sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi phối, song nó kích thích trực tiếp
đến lợi ích của con người, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản
xuất, và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.
ở nước ta vừa tồn tại quan hệ sản xuất mởi của quá trình đi lên chủ nghĩa xã
hội vừa tồn tại quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ. Chúng ta quan niệm chưa
đúng về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lý sản xuất và phân phối sản
phẩm chưa hợp lý. điều đó khiến nền kinh tế nước ta chưa thực sự phát triển. Muốn
phát triển, Đảng và Nhà nước cần xác định rõ quan hệ sở hữu cần thiết của quá trình
đổi mới, tổ chức quản lý sản xuất (đặc biệt là sự phân công chuyên môn hoá và hợp
tác hoá lao động) một cách khoa học, phân phối sản phẩm mở rộng. Đó chính là xây
dựng một quan hệ sản xuất lý tưởng trong tình hình hiện tại của nước ta.
3. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất,
chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng,
tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình đọ phát triển của
lực lượng sản xuất. Từ đó tạo nền quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển
sản xuất xã hội.
Khuynh hướng chung của sản xuất vận chuyển là không ngừng phát triển. Sự
phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng
sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Sự phát triển của lực lượng sản xuất được
đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất trong
từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục thiên nhiên của con người trong
giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ
lao động, trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức
và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học và sản xuất.
Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi
quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời thì
yêu cầu quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Sự phù hợp này tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người
lao động với tư liệu sản xuất để lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hoàn thiện.
Sự phát triển của lực lượng đến một mức nhất định sẽ làm quan hệ sản xuất từ chỗ
phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. điều này
dẫn đến quan hệ sản xuất kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển và yêu cầu khách
quan tất yếu là phải thay thế quan hệ sản xuất.
Như Các Mác đã viết; "Tới 1 giai đoạn phát triển nào đó, các lực lượng sản
xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có… trong khi
đó từ trước đến giờ các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình
thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của
các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại 1 cuộc cách mạng xã hội"
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất
cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất quyết định mục đích của sản xuất, tác động đến thía độ của
con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát
triển và ứng dụng khoa học công nghệ… do đó tác động đến sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp sẽ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng
sản xuất, ngược lại sẽ kìm hãm. Và khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển lực
lượng sản xuất thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng
quan hệ sản xuất mới phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất vừa tác động cho nhau lại vừa mâu
thuẫn với nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn này là yêu cầu cần có. Nó phải thông qua
nhận thức và cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua
đấu tranh giai cấp, quan cách mạng xã hội.
II. Sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nước ta
từ đổi mới đến nay
Đối với nước ta để phù hợp giữa lao động sản xuất và quan hệ sản xuất, Đảng
nêu ra công nghiệp hoá đi đôi hiện đại hoá. Mặt khác chúng ta phải chú trọng xây
dựng và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là 2 nhiệm
vụ thực hiện đồng thời chúng luôn tác động thúc đẩy và hỗ trợ lẫn nhau cùng phát
triển. Bởi lẽ "Công nghiệp hoá - hiện đại hoá" tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết
cho chế độ xã hội mới thì việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp
đưa đất nước ta tiến lên từng ngày.
1. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
Sau khi độc lập, nền kinh tế nước ta còn gặp vô vàn khó khăn do thói quen
lao động tự cung tự cấp, nền sản xuất nhỏ lẻ, trình độ khoa học kém phát triển, đời
sống xã hội vo cùng khó khăn… Với hoàn cảnh mới đất nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội, đòi hỏi nước ta phải có một chế độ kinh tế phù hợp, đó là nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần.
Thời gian qua, chúng đã quá coi trọng vài trò của quan hệ sản xuất, cho rằng
có thể đưa quan hệ sản xuất đi trước để mở đường san đất, thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển, quan niệm ấy là sai lầm, sự phát triển của lực lượng sản xuất trong
thời gian qua là minh chứng cho điều ấy và do đó gây ra sự mâu thuẫn giữa yêu cầu
phát triển lực lượng sản xuất với hình thức kinh tế - xã hội được áp đặt một cách
chủ quan trên đất nước ta. Mối mâu thuẫn ấy đem theo nhiều kết quả ngoài ý muốn:
kinh tế kém phát triển, xã hội nảy sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn, trình độ quản lý yếu
kém… yêu cầu cấp thiết là phải giải quyết đúng đắn mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất - quan hệ sản xuất, từ đó khắc phục khó khăn và tiêu cực của nền kinh tế - xã
hội. Thiết lập quan hệ sản xuất mới với những bước đi phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy sản xuất phát triển với hiệu quả kinh tế cao.
Đó là sự cho phép phục hồi và phát triển chủ nghĩa tư bản, buôn bán tự do rộng rãi,
nang cao đời sống xã hội,… Như lời của đồng chí Lê Khả Phiêu nói: … không chấp
nhận Việt Nam theo con đường chủ quan của tư bản nhưng không phải triệt tiêu tư
bản trên đất nước Việt Nam và vẫn quan hệ với chủ nghĩa tư bản trên cơ sở có lợi.
Cho đôi bên và như vậy cho phép phát triển thành phần kinh tế tư bản là sáng
suốt. Hay quan điểm từ Đại hội Đảng VI cũng khẳng định: Không những khôi phục
thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể mà còn phải phát triển chúng
rộng rãi theo chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhưng điều quan trọng là phải
nhận thức được vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trng thời kỳ quá độ.
Ngoài ra nền kinh tế nhiều thành phần này còn được vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc thay đổi
cơ chế quản lý kinh tế theo hướng: xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp hình
thành cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN
khẳng định việc thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới được tạo ra
bởi nền kinh tế nhiều thành phần.
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất được vận dụng trong quá trình CNH- HĐH đất nước
CNH-HĐH được xem xét từ tư duy triết học là thuộc phạm trù của lực lượng
sản xuất trong mối quan hệ biện chứng của phương thức sản xuất. Muốn CNH-
HĐH đất nước cần phải có tiềm lực về kinh tế, con người, trong đó lực lượng lao
động là yếu tố vô cùng quan trọng. Ngoài ra phải có sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Với tiềm năng lao động lớn nhưng công cụ lao động lại hết sức thô sơ, lạc
hậu, CNH- HĐH đứng trước khó khăn lớn cần nhanh chóng khắc phục. Đảng ta đã
thực hiện một cơ cấu sở hữu hợp quy luật, gắn liền với một cơ cấu thành phần kinh
tế hợp lý, và trong thời cơ cũng như thách thức to lớn hiện nay, đất nước ta đang có
rất nhiều tiềm năng phát triển, mà cốt lõi của sự phát triển cũng vẫn là quy luật quan
hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Mục tiêu của CNH-HĐH đất nước đang được nỗ lực thực hiện và đã đạt được
nhiều thành tựu đáng kể. Cùng với nó vẫn là những khó khăn, hạn chế song tương
lai phát triển đất nước vẫn mang nhiều yếu tố chủ quan.
III. Thành tựu và hạn chế trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ đổi
mới đến nay
1. Thành tựu đạt được
Trong Đại hội Đảng VI (121986) là mốc thời gian quan trọng, đánh dấu bước
chuyển mình phát triển của đất nước ta: xoá bỏ chế độ bao cấp sản phẩm, bãi bỏ sự
cấm đoán phát triển kinh tế thị trường, sự phát triển yếu ớt của đời sống xã hội thay
thế bằng sự hội nhập với thế giới, quan tâm và chú trọng phát triển đời sống của
người dân…
Đại hội VII (6/1991), Đại hội VIII (61996), Đại hội IX (4/2001) đã tiếp tục
khẳng định bổ sung và hoàn thiện các chủ trương, chính sách đổi mới kinh tế - xã
hội: phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, điều chỉnh cơ cấu các ngành kinh tế,
đổi mới cơ chế quản lí, đổi mới về công cụ lao động và chính sách quản lý kinh tế -
xã hội, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại (cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân).
Sau 16 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa quan trọng.
- Nền kinh tế tăng trưởng liên tục, nhiều năm có tốc độ cao và trong 5 năm
đầu đổi mới (86-90), khi chế độ bao cấp bị xoá bỏ dần, các doanh nghiệp nhà nước
và hợp tác xã gặp nhiều khó khăn, khu vực kinh tế tư nhân và cá thể chưa phát triển,
nền kinh tế rơi vào tình trạng bất ổn, bình quân chỉ đạt 3,9%/năm (riêng 1986:
0,3%) và lạm phát cao kéo dài. Nhưng đầu thập kỷ 90, nền kinh tế liên tục tăng
trưởng ổn định và đạt đến đỉnh cao là 9,5% vào năm 1995. Đặc biệt trong kế hoạch
5 năm (1991 - 1995) ta đã hoàn thành vượt mức vì chỉ tiêu chủ yếu đưa nước ta thực
sự thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH-
HĐH đất nước. Toàn bộ các mục tiêu chuyển kế hoạch 5 năm 1996-2000 và chiến
lược 10 năm đều đạt và vượt kế hoạch. GDP trong 10 năm này tăng bình quân
7,56%/năm, GDP năm 2000 gấp 2,07 lần năm 1990. Đến năm 2000-2002 tốc độ
tăng trưởng bình quân đạt ổn định 6,7%; 6,8% và 7,0%.
Nông nghiệp phát triển toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi, nghề rừng và
thuỷ sản. Sản lượng lương thực tăng nhanh từ 21,5% triệu tấn (1990) lên 27,5 triệu
tấn (1995) và 34,5 triệu tấn (năm 2000), gần 36 triệu tấn (năm 2002), bình quân mỗi
năm tăng 1,4% triệu tấn. Tốc độ tăng lương thực bình quân 5%/năm, cao hơn tốc độ
tăng dân số (1,8%) nên sản lượng lương thực bình quân đầu người tăng từ 304 kg
(1985) lên 364 Kg (1995); 4448 Kg (2000) và 450 Kg (2002). Việt Nam từ một
nước thiếu lương thực đến 1989 trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới. Sở dĩ
nông nghiệp tăng nhanh là nhờ những đổi mới trong cơ chế chính sách quản lý nông
nghiệp: nhân dân được giao ruộng đất để sử dụng lâu dài, phát triển trang trại,
khuyến khích khai hoang mở rộng diện tích canh tác, nâng cao năng suất cây trồng.
Những thành tựu trên mặt trận lương thực đã góp phần quan trọng vào sự ổn định
đời sống nhân dân.
Trong 10 năm 1991- 2000, bình quân mỗi năm xuất khẩu gạo tăng 7,6%, cao
su tăng 12,4%, cà phê tăng 17,7%, rau quả tăng 10,8%, hạt tiêu 24,8%, hạt điều
tăng 37,5%. Tổng giá trị nông sản xuất khẩu chiếm 40% tổng giá trị xuất khẩu cả
nước. Một nền nông nghiệp hàng hoá nhiều thành phần gắn với thị trường quốc tế.
Công nghiệp tăng liên tục, bình quân trong thời kỳ 1991-1995 tăng 13,7%;
1996-2000 tăng 13,2%. Công nghiệp tăng nhanh là do đầu tư lớn của nhà nước
trong những năm trước đây cho một số ngành quan trọng như dầu khí, điện, xi
măng, thép, giấy, đường.. nhưng quan trọng hơn là có sự đổi mới cơ chế, chính sách
quản lý của nhà nước, xóa bỏ bao cấp, nhận vốn đầu tư nước ngoài.
Hệ thống đường giao thông, bưu điện xây dựng mới và nâng cấp trên khắp
mọi miền của tổ quốc: quốc lộ 1A, 5, 18, sân bay, bến cảng được nâng cấp và xây
dựng, thương mại và dịch vụ có nhiều khởi sắc.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ: chuyển từ khu vực I (Nông
nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản) sang khu vực II (Công nghiệ - xây dựng) và khu
vực III (dịch vụ), chuyển từ khu vực quốc doanh, hợp tác xã sang đa thành phần và
chuyển theo hướng hình thành 3 vùng kinh tế trọng điểm ở 3 miền Bắc -Trung -
Nam.
- Đẩy lùi lạm phát: 1986: 774,7%; 1990: 67,4%; 1994L 12,7%; 1997: 3,7%;
1999: 0,1%.
- Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh: Xuất khẩu: kim ngạch xuất khẩu năm
1996: 822,9 triệu USD; năm 2001: 15,027 tỉ USD. Nhập khẩu: 2,16 tỉ USD (1986);
16,16 tỉ USD (2001).
Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ nét: lao động
có việc làm tăng nhanh, mỗi năm tạo 1,3 triệu việc làm mới, thu nhập bình quân đầu
người đạt gần 400 USD/năm. Số hộ giàu tăng > 10%; số hộ nghèo giảm từ 55%
(1989) xuống 11,4% (2000).
Nhờ những thành tựu tăng trưởng ổn định hoá kinh tế, tình hình xã hội đã
được cải thiện rất nhiều. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên giảm mỗi năm 1% và giữ mức
bình quân 2,1%/năm, giảm so với thời kì trước (2,3%) nhưng vẫn cao hơn mục tiêu
đề ra (1,9%). Số người đi học bình quân tính trên 1 vạn dân, tăng từ 1834 người
(1990) tăng lên 2171 (1995).
Tỉ trọng cho các lĩnh vực xã hội chiếm từ 24,4 - 28,4% tổng ngân sách nhà
nước và có xu hướng tăng lên. Hệ thống y tế được cải thiện, đặc biệt là hệ thống bảo
hiểm y tế.
Tình hình nông thôn được cải thiện thêm một bước. Có khoảng 60,2% số xã
có điện, 86,4% số xã có đường ô tô, 91,6% xa có trạm xá và 97,7% số xã có trường
tiểu học; 76,2% số xã có trường PTCS.
Những thành tựu đạt được là kết quả của con đường đổi mới do Đảng khởi
xướng và lãnh đạo. Nó là kết quả của nhận thức đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất để phát triển kinh tế - xã hội này.
Ngoài ra, cũng không thể không kể đến một số nguyên nhân khách quan quan
trọng, đó là:
- Quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam được tiến hành muộn, đi sau các nước
phương tây và một số nước châu á. Do bắt đầu muộn nên Việt Nam có thể học hỏi
được nhiều kinh nghiệm, cả kinh nghiệm thành công lẫn không thành công của các
nước đi trước, để trên cơ sở đó, rút ra bài học bổ ích cho cách đi riêng của bản thân
mình.
- Trong quá trình CNH-HĐH, Việt Nam có thể tranh thủ cơ hội đi tắt đón đầu
bằng việc nhập các thiết bị kĩ thuật tiên tiến để đổi mới thiết bị kĩ thuật đã lạc hậu.
- Quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam được tiến hành trong môi trường hoà
bình với xu hướng hoà hoãn và hợp tác quốc tế. Nhờ vậy, nước ta mở rộng quan hệ
bạn bè và hợp tác với nhiều nước nhằm tranh thủ sự viện trợ, giúp đỡ của các nước
trên thế giới. Đồng thời xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới đã tạo điều
kiện và thời cơ cho Việt Nam có thể sử dụng khoa học, công nghệ mới, nguồn vốn
của các nước giàu vào sự nghiệp CNH-HĐH, trên cơ sở đó, tham gia vào quá trình
phân công và hợp tác quốc tế.
Có thể nói, môi trường quốc tế và xu hướng phát triển mới của thếgiới đang
tạo tiền đề bên ngoài thuận lợi cho quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam. Việc Việt
Nam gia nhập các tổ chức quốc tế như ASEAN, OPEC, việc quốc hội Mĩ thông qua
hiệp dịnh thương mại Việt - Mỹ gần đây… là những bằng chứng khẳng định điều
đó.
2. Hạn chế
Do nền kinh tế nước ta có điểm xuất phát thấp chủ yếu vẫn là nông nghiệp,
công nghiệp còn nhỏ bém, kết cấu hạ tầng kém phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật
chưa xác định được nhiều. Mặc dù cơ cấu các ngành GDP có chuyển dịch rõ rệt
những cơ hội nhưng cơ cấu lao động chậm biến đổi. Hiện nay hơn 75% dân số vẫn
sống ở nông thôn, lao động nông nghiệp vẫn chiếm > 60% tổng số lao động xã hội.
Nền kinh tế có mức tăng trưởng khá nhưng năng suất, chất lượng hiệu quả
còn thấp. Đất nước Việt Nam vẫn thuộc 20 nước nghèo nhất thế giới. Đây là thách
thức cực kỳ to lớn cần phát huy mọi tiềm năng để giải quyết.
Vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế - xã hội còn yếu: khả năng
kiềm chế lạm phát còn chưa vững chắc. Ngân sách thu không đủ chi, tỉ lệ bội chi
ngân sách còn cao.
Tình trạng bất công xã hội, tham nhũng, buôn lậu, vi phạm kỉ cương còn
nặng và phổ biến. Nạn buôn lậu và tệ quan liêu được coi là quốc nạn, được đưa vào
chương trình nghị sự quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Song hiện vẫn chưa khắc
phục được, thậm chí còn có phần nghiêm trọng hơn.
Ngoài ra, sự thiếu hụt nguồn lực tài nguyên và nạn ô nhiễm môi trường cũng
gây khó khăn cho quá trình CNH-HĐH ở nước ta. Hạn chế trong nền kinh tế - xã
hội nước ta còn nhiều. Nhưng nguyên nhân của những yếu kém đó là do hậu quả
của nhiều năm trước để lại khi không hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất, sự phù hợp mang tính tất yếu của chúng, đồng thời
những bất lợi của tình hình thế giới hiện nay và những khuyết điểm còn mang tính
chủ quan duy ý chí trong công tác lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước ta,
tạo ra một đội ngũ cán bộ hạn chế về trình độ, thiếu sự năng động trong làm ăn và
quản lý kinh tế.
Phần kết luận
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật phổ biến trong toàn bộ tiến trình lịch sử của nhân loại. Sự thay thế,
phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua chế độ chiếm
hữu nô lệ, chế độ phong kién và đến xã hội cộng sản là do sự tác dộng của hệ thống
các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta cần phải hiểu và vận dụng tốt quy luật này
để phát triển kinh tế. Trên thực tế không thể có sự phù hợp tuyệt đối giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất. Song phải tuỳ theo tình hình thực tế mà chọn giải
pháp phù hợp. Sự vận dụng đúng đắn của Đảng và Nhà nước sẽ đem lại thành tựu
vô cùng to lớn cho nền kinh tế - xã hội nước ta ta hoàn thành tốt mục tiêu CNH-
HĐH đất nước. Tuy vậy, hạn chế, yếu kém còn rất nhiều, đòi hỏi cần có sự nỗ lực
hết sức, phát huy mọi tiềm năng vốn có để khắc phục.
Chỉ tính từ đổi mới đến nay, đất nước ta đã có những bước chuyển mình lớn
lao trong đời sống kinh tế xã hội. Đó là nhờ sự nhận thức và vận dụng kịp thời quy
luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, mở ra con đường đầy
hứa hẹn cho sự phát triển của đất nước. Trong tương lai, chúng ta sẽ là những người
gánh vác nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước, vì vậy ngay từ lúc này cần nhận
thức rõ ràng và đúng đắn mối quan hệ biện chứng của quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất, như quan điểm triết học Macxit thì đó là quy luật về sự phù hợp của quan
hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Triết học Mác - Lênin
NXB Chính trị Quốc gia
2. Giáo trình Lịch sử kinh tế
3. Văn kiện Đại hội Đảng
4. Một số bài báo, bài luận khác.
Mục lục
Phần mở đầu ............................................................................................................1
Phần nội dung ..........................................................................................................3
I. Lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất - quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ...............................................3
1. Lực lượng sản xuất ......................................................................................3
2. Quan hệ sản xuất .........................................................................................4
3. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất .................................................................................................6
II. Sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nước ta từ
đổi mới đến nay ...................................................................................................7
1. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần .............8
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất được vận dụng trong quá trình CNH- HĐH đất nước ...............................9
III. Thành tựu và hạn chế trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ đổi
mới đến nay .........................................................................................................9
1. Thành tựu đạt được ......................................................................................9
2. Hạn chế ..................................................................................................... 12
Phần kết luận ......................................................................................................... 14
Danh mục tài liệu tham khảo ................................................................................. 15
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 51_0901.pdf