Tiểu luận Về tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân

Cần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là các cấp uỷ Đảng đối với HĐND các cấp. Sớm có quy định thống nhất về các chức danh của Đảng trong lãnh đạo HĐND - Cần đổi mới nhận thức về tính chất và vai trò của HĐND. Nếu tính chất tự quản được xác định thì cần có những quy định pháp luật về phạm vi, phương thức, điều kiện pháp lý, tổ chức, vật chất; quyền giám sát, quyền bỏ phiếu tín nhiệm những người giữ chức vụ do HĐND bầu ra hoặc phê chuẩn, quyết định ngân sách địa phương. - Cần nâng cao chất lượng tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND. Tiếp xúc cử tri là điều kiện để người đại biểu thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trước sự tín nhiệm của nhân dân. Tiếp tục nâng cao chất lượng đại biểu HĐND, chất lượng các cuộc tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp HĐND . - Cần nâng cao năng lực, hiệu lực giám sát của HĐND. Giám sát của HĐND phải góp phần tích cực vào việc giải quyết trả lời các kiến nghị của cử tri; các đơn thư, khiếu nại, tố cáo của công dân; các vụ việc tiêu cực; các vi phạm về quản lý kinh tế, tài chính và các vấn đề khác liên quan đến quyền và lợi ích của các cơ quan, tổ chức Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

doc9 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 11291 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Về tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Hội đồng nhân dân là cơ quan có vị trí và vai trò rất quan trọng trong việc thực thi quyền lực nhà nước tại địa phương. Hội đồng nhân dân do nhân dân địa phương bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương. Vì vậy nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành có ý nghĩa cả lý luận cũng như thực tiễn, góp phần hoàn thiện hơn cơ cấu tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay. NỘI DUNG 1) Tổ chức của hội đồng nhân dân. 1.1) Cơ cấu của Hội đồng nhân dân. Theo Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 thì Hội đồng nhân dân được tổ chức ở cả ba cấp: Cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Trong đó, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện có Thường trực Hội đồng nhân dân và các ban của Hội đồng nhân dân. Còn ở cấp xã có Thường trực Hội đồng nhân dân mà không có các ban của Hội đồng nhân dân như ở cấp tỉnh và cấp huyện. 1.1.1)Thường trực Hội đồng nhân dân. Thường trực Hội đồng nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra trong số các đại biểu của mình tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa Hội đồng nhân dân. Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; cấp huyện gồm có Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Ủy viên thường trực Hội đồng nhân dân; Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã chỉ có Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Theo quy định tại Điều 52 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân: Thành viên của Thường trực Hội đồng nhân dân không thể đồng thời là thành viên của Ủy ban nhân dân cùng cấp, bởi vì: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân là hai cơ quan có chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, do Hội đồng nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân. Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của Ủy ban nhân dân để đảm bảo tính độc lập, khách quan trong hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các hoạt động của Ủy ban nhân dân. 1.1.2) Các ban của Hội đồng nhân dân. Các ban của Hội đồng nhân dân chỉ được thành lập ở hai cấp hành chính là cấp tỉnh và cấp huyện. Các ban của Hội đồng nhân dân chính là hình thức tham gia tập thể của các đại biểu Hội đồng nhân dân vào việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân. Theo quy định tại điều 54 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, thì Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thành lập ba ban: Ban kinh tế và ngân sách; Ban văn hóa – xã hội; Ban pháp chế; nơi có nhiều dân tộc thì có thể lập thêm một ban nữa là Ban dân tộc, phụ trách các vấn đề dân tộc. Hội đồng nhân dân cấp huyện thành lập hai ban là Ban kinh tế - xã hội và Ban pháp chế. Số lượng thành viên của mỗi ban do Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định. Thành viên trong các ban của Hội đồng nhân dân không thể đồng thời là thành viên của Ủy ban nhân dân cùng cấp ôi1.2) Nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân.   Nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân quy định chung đối với cả ba cấp (cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã) là năm năm theo nhiệm kỳ của Quốc hội. 1.3) Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân.  Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân mỗi cấp được bầu căn cứ theo quy định của Luật bầu cử Hội đồng nhân dân. Tùy từng địa phương, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định cụ thể số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân ở từng cấp, trên cơ sở có tính đến các điều kiện về vị trí địa lý, dân cư, trình độ dân trí, các điều kiện kinh tế - xã hội  của từng vùng. Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp được bầu theo đơn vị bầu cử. Mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân bầu không quá 05 đại biểu. 1.4)Tổ chức Hội đồng nhân dân trong trường hợp sát nhập địa giới hành chính, chia đơn vị hành chính. 1.4.1) Trường hợp sát nhập địa giới hành chính. Trường hợp nhiều đơn vị hành chính sát nhập thành đơn vị hành chính mới thì Hội đồng nhân dân của các đơn vị hành chính cũ được nhập thành Hội đồng nhân dân của đơn vị hành chính mới và tiếp tục hoạt động cho tới hết nhiệm kỳ. 1.4.2) Trường hợp chia tách đơn vị hành chính. Trong trường hợp một đơn vị hành chính được chia thành nhiều đơn vị hành chính mới, các đại biểu Hội đồng nhân dân đã được bầu hoặc công tác ở địa hạt thuộc đơn vị hành chính mới nào thì hợp thành Hội đồng nhân dân của đơn vị hành chính đó và tiếp tục hoạt động cho đến hết nhiệm kỳ. 2) Hoạt động của hội đồng nhân dân. 2.1) Kỳ họp của hội đồng nhân dân. Kỳ họp của Hội đồng nhân dân là một trong những hình thức hoạt động chủ yếu của Hội đồng nhân dân. Thông qua kỳ họp, ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương được chuyển thành nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, quyền giám sát việc thực hiện nghị quyết và hoạt động của các cơ quan trực thuộc Hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước, tổ chức khác ở địa phương được thực hiện. Ngoài kỳ họp thường lệ, Hội đồng nhân dân tổ chức các kỳ họp chuyên đề hoặc kỳ họp bất thường theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp hoặc khi có ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân cùng cấp yêu cầu.  Ngày họp, nơi họp và chương trình của kỳ họp Hội đồng nhân dân phải được thông báo cho nhân dân biết, chậm nhất là năm ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp. Kỳ họp Hội đồng nhân dân được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân tham gia. Đại biểu quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân cấp trên đã được bầu ở địa phương, Chủ tịch Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam , người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa phương và đại diện cử tri được mời tham dự kỳ họp của Hội đồng nhân dân, được phát biểu ý kiến nhưng không được biểu quyết. 2.1.1) Kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân. Kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa Hội đồng nhân dân do Chủ tịch Hội đồng nhân dân khóa trước triệu tập và chủ tọa cho đến khi Hội đồng nhân dân khóa mới bầu được Chủ tịch Hội đồng nhân dân khóa mới. Tại phiên họp đầu tiên của kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa, Hội đồng nhân dân thực hiện các công việc sau: Thẩm tra tư cách đại biểu Hội đồng nhân dân; Bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng ban (các ban của Hội đồng nhân dân); Bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Ủy ban nhân dân;  Bầu thư ký kỳ họp của Hội đồng nhân dân. 2.1.2) Kỳ họp thường lệ.   Tại kỳ họp thường lệ Hội đồng nhân dân quyết định các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; quyết định dự toán và phân bổ ngân sách, phê duyệt ngân sách, quyết định các chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách địa phương; điều chỉnh ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật; quyết định các vấn đề khác thuộc nhiệm vụ quyền hạn của mình… 2.1.3) Kỳ họp cuối năm. Kỳ họp cuối năm cũng đồng thời là kỳ họp thường lệ của Hội đồng nhân dân. Tại kỳ họp cuối năm, Hội đồng nhân dân xem xét, thảo luận, báo cáo công tác trong năm của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân do các cơ quan này gửi báo công tác đến đại biểu Hội đồng nhân dân tại kỳ họp giữa năm. 2.1.4) Kỳ họp cuối nhiệm kỳ.  Tại kỳ họp cuối nhiệm kỳ, Hội đồng nhân dân xem xét, thảo luận báo cáo công tác cả nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cùng cấp. Hội đồng nhân dân có thể yêu cầu Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân báo cáo về những vấn đề khác khi xét thấy cần thiết. Báo cáo công tác của Ủy ban nhân dân phải được Thường trực Hội đồng nhân dân thẩm tra trước khi đưa ra trước Hội đồng nhân dân xem xét, thảo luận.  2.2 Hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân. Theo luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi) năm 2003 thì Thường trực Hội đồng nhân dân đã được thành lập ở cả ba cấp (tỉnh, huyện, xã) và do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra. Hoạt động của thường trực Hội đồng nhân dân mỗi cấp hành chính được cụ thể hóa tại các quy định trong Luật tổ chức hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, nhưng tập trung lại thì Hội đồng nhân dân có các nhiệm vụ và quyền hạn sau: - Triệu tập và Chủ tọa các kỳ họp của Hội đồng nhân dân; phối hợp với Ủy ban nhân dân trong việc chuẩn bị kỳ họp của Hội đồng nhân dân;   - Đôn đốc, kiểm tra Ủy ban nhân dân cùng cấp và các cơ quan nhà nước khác ở địa phương thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân;   - Giám sát việc thi hành pháp luật tai địa phương; - Điều hòa, phối hợp hoạt động của các ban của Hội đồng nhân dân, xem xét kết quả giám sát của các ban của Hội đồng nhân dân khi cần thiết và báo cáo Hội đồng nhân dân tại các kỳ họp gần nhất; - Tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra và xem xét tình hình giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân; tổng hợp ý kiến và nguyện vọng của nhân dân để báo cáo tại các kỳ họp của Hội đồng nhân dân   - Phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên Thường trực Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp; - Trình Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu theo đề nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân; Phối hợp với Ủy ban nhân dân quyết định việc đưa ra Hội đồng nhân dân hoặc đưa ra cử tri bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân theo đề nghị của Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp; - Báo cáo về hoạt động của Hội đồng nhân dân cùng cấp lên Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp; Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh báo cáo hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp mình lên Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ; 2.3 Hoạt động của các ban của Hội đồng nhân dân.  Các ban của Hội đồng nhân dân chỉ được thành lập ở hai cấp hành chính là cấp huyện và cấp tỉnh, còn cấp xã không thành lập các ban của Hội đồng nhân dân. Theo luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 thì các ban của Hội đồng nhân dân có các nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: - Tham gia chuẩn bị các kỳ họp của Hội đồng nhân dân; - Thẩm tra các báo cáo, đề án do Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân phân công; - Giúp Hội đồng  nhân dân giám sát hoạt động của Ủy ban nhân dân và các cơ quan của chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; - Giúp Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công nhân trong việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và các nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Trong khi thi hành nhiệm vụ, các Ủy ban của Hội đồng nhân dân có quyền yêu cầu Ủy ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội tại địa phương cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết liên quan đến hoạt động giám sát. 2.4 Hoạt động của các đại biểu Hội đồng nhân dân. Hoạt động của các đại biểu Hội đồng nhân dân góp phần quan trọng vào việc xây dựng và thực hiện các chủ trương công tác của Hội đồng nhân dân. Theo luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi năm 2003) thì Đại biểu Hội đồng nhân dân có các nhiệm vụ và quyền hạn sau: 2.4.1) Về nhiệm vụ của đại biểu Hội đồng nhân dân. Đại biểu hội đồng nhân dân chính là người đại diện cho nhân dân địa phương. Vì thế đại biểu Hội đồng nhân dân luôn gương mẫu chấp hành pháp luật của nhà nước, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách pháp luật và tham gia vào việc quản lý nhà nước. Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ tham dự đầy đủ các kỳ họp, phiên họp của Hội đồng nhân dân, tham gia thảo luận, biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân.  Đại biểu Hội đồng nhân dân phải liên hệ chặt chẽ với cử tri tại đơn vị bầu ra mình, chịu sự giám sát của cử tri, phải thu thập và phản ánh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cử tri Đại biểu Hội đồng nhân dân khi nhận được khiếu nại, tố cáo của nhân dân thì phải có trách nhiệm nghiên cứu và kịp thời chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền giải quyết và theo dõi, đôn đốc việc giải quyết và thông báo cho người khiếu nại, tố cáo biết. 2.4.2) Quyền hạn của đại biểu Hội đồng nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền tham gia thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân tại các kỳ họp, phiên họp. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và các thành viên khác của Ủy ban nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Thủ trưởng các cơ quan cuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền đề nghị Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với người do Hội đồng nhân dân bầu ra. 3) Những hạn chế và kiến nghị nhằm củng cố HĐND hiện nay. 3.1) Những hạn chế, bất cập - Về cơ chế tổ chức: Đại biểu HĐND hầu hết là kiêm nhiệm, số lượng không tương xứng với với chức năng, nhiệm vụ. HĐND cấp dưới chịu sự lãnh đạo của UBND cấp trên, không tổ chức thành hệ thống dọc, không có sự chỉ đạo thống nhất từ trung ương tới cơ sở. Các thành viên của các Ban HĐND tỉnh, huyện (5 đến 7 thành viên/Ban) chủ yếu hoạt động kiêm nhiệm. Phần lớn uỷ viên các Ban, kể cả trưởng-phó Ban HĐND là trưởng - phó các cơ quan Đảng hoặc cơ quan chuyên môn của UBND cùng cấp hay cơ quan Nhà nước cấp dưới. - Về cơ chế giao nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND HĐND, Thường trực, các Ban HĐND và mỗi đại biểu rất nhiều nhiệm vụ, nhưng lại giao quyền không tương ứng. Nội dung kỳ họp HĐND các cấp có rất nhiều vấn đề (ít nhất không dưới 9 nội dung theo luật định, lại còn các nội dung chuyên đề, báo cáo thẩm định của các Ban HĐND), trong khi đó thời gian của mỗi kỳ họp lại rất ít. HĐND thường mỗi năm có hai kỳ họp, mỗi kỳ họp cấp tỉnh thường từ 3 đến 4 ngày, cấp huyện từ 2 đến 3 ngày, cấp xã từ 1 đến 2 ngày, cá biệt có cấp xã chỉ họp có 1/2 ngày. - Về cơ chế đảm bảo điều kiện hoạt động của HĐND chưa đáp ứng được yêu cầu. Hầu hết các HĐND không có trụ sở làm việc riêng; không có văn phòng riêng; ở cấp xã không có các Ban; các chức danh của HĐND như chủ tịch, trưởng, phó các Ban HĐND hoạt động kiêm nhiệm không có phụ cấp. Tóm lại, từ cơ chế tổ chức, cơ chế giao nhiệm vụ, đến cơ chế đảm bảo điều kiện hoạt động của HĐND hiện hành, nhằm thực hiện quyền lực, thực hiện nhiệm vụ của HĐND còn nhiều vướng mắc, chưa thông thoáng, hiệu quả hoạt động của HĐND còn nhiều hạn chế, còn mang nặng tính hình thức. 3.2) Những đề xuất, kiến nghị Nhằm khắc phục tính hình thức trong hoạt động, để hoạt động của HĐND có chất lượng, hiệu quả. - Cần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là các cấp uỷ Đảng đối với HĐND các cấp. Sớm có quy định thống nhất về các chức danh của Đảng trong lãnh đạo HĐND - Cần đổi mới nhận thức về tính chất và vai trò của HĐND. Nếu tính chất tự quản được xác định thì cần có những quy định pháp luật về phạm vi, phương thức, điều kiện pháp lý, tổ chức, vật chất; quyền giám sát, quyền bỏ phiếu tín nhiệm những người giữ chức vụ do HĐND bầu ra hoặc phê chuẩn, quyết định ngân sách địa phương. - Cần nâng cao chất lượng tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND. Tiếp xúc cử tri là điều kiện để người đại biểu thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trước sự tín nhiệm của nhân dân. Tiếp tục nâng cao chất lượng đại biểu HĐND, chất lượng các cuộc tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp HĐND . - Cần nâng cao năng lực, hiệu lực giám sát của HĐND. Giám sát của HĐND phải góp phần tích cực vào việc giải quyết trả lời các kiến nghị của cử tri; các đơn thư, khiếu nại, tố cáo của công dân; các vụ việc tiêu cực; các vi phạm về quản lý kinh tế, tài chính và các vấn đề khác liên quan đến quyền và lợi ích của các cơ quan, tổ chức Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. KẾT LUẬN  Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân hiện nay đang ngày càng được hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt ưu điểm, thì tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân hiện nay vẫn bộc lộ nhiều mặt hạn chế. Chính vì vậy mà yêu cầu đặt ra là phải ngày càng đổi mới và hoàn thiện hơn về cả cơ cấu và tổ chức nhằm đưa mô hình Hội đồng nhân dân phù hợp nhất trong giai đoạn hiện nay. Danh mục tài liệu tham khảo 1) Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật hiến pháp Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2008,2009. 2) Hiến pháp Việt Nam năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992, năm 2002( sửa đổi bổ sung năm 2001) 3) Luật tổ chức HDND và UBND 4) Tạp chí luật học 5)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận về tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân( bai được điểm cao).doc
Luận văn liên quan