Tiểu luận Việc đổi mới tư duy đối ngoại ảnh hưởng như thế nào đến quan hệ Việt – Mỹ giai đoạn 1986 - 1991

Giai đoạn 1986 – 1995 có thể nói là thời kỳ nhạy cảm nhất trong quan hệ giữa Việt Nam – Mỹ. Đây là thời kỳ đánh dấu những bước chuyển mình quan trọng trong đường lối đối ngoại của chúng ta, cũng như những nỗ lực trong bình thường hóa quan hệ với cường quốc số một thế giới. Sau 30 năm chiến tranh, và hơn 20 năm đàm phán gian khổ và chông gai để đi tới quyết định bình thường hóa và thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 11/7/1995. Vấn đề Việt – Mỹ đang còn rất nhiều điểm phải nhắc tới. Quan hệ giữa hai nước đã phát triển như thế nào sau chiến tranh, cả hai phía Việt Nam và Mỹ đã có những động thái gì để đi tới bình thường hóa quan hệ, góp phần cho việc phát triển và đảm bảo lợi ích quốc gia tối cao của hai nước Đây là thời kỳ vô cùng quan trọng trong việc chuyển đổi tư duy đối ngoại, cũng như hoạch định chính sách của Đảng và nhà nước ta. Việc phân tích giai đoạn 1986 – 1995 sẽ mang lại cho chúng ta những cái nhìn tổng quát và sâu sắc nhất về giai đoạn đổi mới toàn diện về cả chính trị, kinh tế, văn hóa và ngoại giao của đất nước. Nhận thấy rằng những thay đổi kịp thời trong thời kỳ thới giới có nhiều biến động lớn, cán cân quyền lực của hai cực đang có những thay đổi về cơ bản, cũng như tình hình trong khu vực đang chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại. LỜI MỞ ĐẦU 1 I Lý luận chung về việc đổi mới tư duy đối ngoại: 2 1 Đổi mới tư duy đối ngoại là gì?. 2 3 Nội dung đổi mới tư duy đối ngoại: 3 3.1 Đổi mới về nhận thức thế giới: 3 3.2 Đổi mới quan điểm về an ninh và phát triển, về lợi ích dân tộc – giai cấp, tập hợp lực lượng: 4 3.3 Đổi mới nhận thức về bản thân đường lối, chính sách, tư tưởng chủ đạo, phương châm chính sách đối ngoại: 5 II Cơ sở hình thành chính sách đối ngoại của Việt Nam với Mỹ (1986-1995): 6 1 Chính sách đối ngoại Việt Nam với Mỹ trước 1986: 6 1.1 Bối cảnh thế giới 6 2. Bối cảnh trong nước. 7 4. Chính sách của Việt Nam phục vụ cuộc đấu tranh chống bao vây cô lập những năm 1975-1985: 8 4.1 Triển khai chính sách: 8 4.1.1 Những nỗ lực đầu tiên 1975 -1978. 8 4.1.2 Giai đoạn chông gai 1978 -1985. 9 5. Đánh giá chính sách đối ngoại Việt Nam với Mỹ thời kỳ trước 1986. 10 6 Bài học kinh nghiệm: 10 III Chính sách đối ngoại Việt Nam với Mỹ (1986-1995): 11 1. Tình hình thế giới: 11 2. Tình hình trong nước: 11 3 Triển khai chính sách: 12 3.1 Vấn đề Campuchia: 12 3.2 Vấn đề MIA: 12 4. Thành tựu đạt được và hạn chế: 13 4.1 Thành tựu đạt được: 13 4.2 Hạn chế: 13 5.Khái quát quan hệ Việt – Mỹ giai đoạn 1986-1995 : 14 6.Bài học kinh nghiệm trong việc hoạch định CSĐN : 16

doc19 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5657 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Việc đổi mới tư duy đối ngoại ảnh hưởng như thế nào đến quan hệ Việt – Mỹ giai đoạn 1986 - 1991, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆC ĐỔI MỚI TƯ DUY ĐỐI NGOẠI ẢNH HƯỞNG NHƯ THẾ NÀO ĐẾN QUAN HỆ VIỆT – MỸ GIAI ĐOẠN 1986-1991 LỜI MỞ ĐẦU Giai đoạn 1986 – 1995 có thể nói là thời kỳ nhạy cảm nhất trong quan hệ giữa Việt Nam – Mỹ. Đây là thời kỳ đánh dấu những bước chuyển mình quan trọng trong đường lối đối ngoại của chúng ta, cũng như những nỗ lực trong bình thường hóa quan hệ với cường quốc số một thế giới. Sau 30 năm chiến tranh, và hơn 20 năm đàm phán gian khổ và chông gai để đi tới quyết định bình thường hóa và thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 11/7/1995. Vấn đề Việt – Mỹ đang còn rất nhiều điểm phải nhắc tới. Quan hệ giữa hai nước đã phát triển như thế nào sau chiến tranh, cả hai phía Việt Nam và Mỹ đã có những động thái gì để đi tới bình thường hóa quan hệ, góp phần cho việc phát triển và đảm bảo lợi ích quốc gia tối cao của hai nước… Đây là thời kỳ vô cùng quan trọng trong việc chuyển đổi tư duy đối ngoại, cũng như hoạch định chính sách của Đảng và nhà nước ta. Việc phân tích giai đoạn 1986 – 1995 sẽ mang lại cho chúng ta những cái nhìn tổng quát và sâu sắc nhất về giai đoạn đổi mới toàn diện về cả chính trị, kinh tế, văn hóa và ngoại giao của đất nước. Nhận thấy rằng những thay đổi kịp thời trong thời kỳ thới giới có nhiều biến động lớn, cán cân quyền lực của hai cực đang có những thay đổi về cơ bản, cũng như tình hình trong khu vực đang chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại. Trong những năm 1986 – 1995 chúng ta đã nhìn nhận rất khác về quan hệ đồng minh, kẻ thù. Thay đổi về ý thức hệ trong việc cân bằng giữa nghĩa vụ quốc tế và lợi ích quốc gia. Nhất là sau đại hội đảng lần thư IV( 12/1986) và nghị quyết 13 của bộ chính trị được đưa ra. Việt Nam đã có cái nhìn chân thực hơn về quan hệ với Mỹ, cũng như với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chúng ta đã nhận ra rằng tình hình kinh tế khó khăn và kiệt quê của Việt Nam có nguyên nhân rất lớn từ sự bao vây cấm vận và cô lập của Mỹ. Chính vì thế mà việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ được đặt thành mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong đường lối đối ngoại của chúng ta. 1986 – 1995 cũng là thời kỳ quan trọng để mỗi người nhìn lại những mặt chúng ta đã làm được, những điều còn phải nhìn nhận lại trong quan hệ đối ngoại, nhất là với những người làm trong lĩnh vực ngoại giao. Một thời kì mang lại rất nhiều thành công về mọi mặt, góp phần lớn đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng và cũng là thời kỳ giúp chúng ta rút ra được rất nhiều bài học kinh nghiệm xương máu trong quá trình đấu tranh ngoại giao để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và phát triển đất nước. Công tác hoạch định chính sách đối ngoại trong thời kỳ thế giới có những bước thay đổi nhanh chóng. Và nhất là làm thế nào để luôn đảm bảo đưa lợi ích quốc gia dân tộc lên hàng đầu. I Lý luận chung về việc đổi mới tư duy đối ngoại: 1 Đổi mới tư duy đối ngoại là gì? Tiến sĩ Vũ Dương Huân, trong bài viết “Về vấn đề đổi mới tư duy đối ngoại của Việt Nam” đã đưa ra một định nghĩa như sau: “Đổi mới tư duy đối ngoại là đổi mới nhận thức, quan niệm, cách tiếp cận, cách đánh giá về tình hình thế giới và quan hệ Quốc tế, trước hết là các vấn đề thời đại như nội dung, tính chất, đặc điểm, vấn đề chiến tranh và hòa bình, các lực lượng Cách mạng, chủ nghĩa tư bản và hiện đại và các xu thế phát triển của thế giới hiện nay” Tạp chí nghiên cứu quốc tế số 1(68), Tháng 3/2007, TR.9-19 . Đổi mới về tư duy đối ngoại, mặt khác, cũng là thay đổi cách thức, cách tiếp cận trong việc hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại, xác định mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, phương châm hoạt động đối ngoại cũng như những hướng ưu tiên. Trong đổi mới về đối ngoại, đổi mới về tư duy lý luận đóng vai trò nền tảng, làm cơ sở cho đổi mới đường lối chính sách, cũng như xác định tư tưởng chỉ đạo, phương châm triển khai đường lối, chính sách đối ngoại và ngoại giao. 2.Sơ lược về quá trình Đổi mới tư duy đối ngoại Đổi mới tư duy đối ngoại là một quá trình liên tục.Quá trình này đã được manh nha từ trước Đại hội VI (12/1986) đến Đại hội VI, VII và kéo dài cho đến tận ngày nay - Đại hội XI. Trước Đại hội VI, Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị với tiêu đề: “Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta” đã đặt bước đi đầu tiên của việc đổi mới tư duy trong hoạt động đối ngoại. Các Đại hội VI, VII và VIII là những bước tiến vĩ đại trong công cuộc đổi mới tư duy đối ngoại. Bằng việc đánh giá đúng đắn các đặc điểm, xu thế lớn của thế giới; nhìn nhận chuẩn xác tình hình, bối cảnh quốc tế (trật tự hai cực tan rã, phe XHCN lâm vào khủng hoảng, xu thế toàn cầu hóa, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ...), các Đại hội Đảng đã từng bước đưa ra những quan điểm đối ngoại hợp lí, kịp thời. Từ “giữ vững hòa bình, phát triển kinh tế” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đại hội VI, (Hà Nội: NXB Sự thật 1987), TR.99 đển “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Kiện Đại hội VIII, (Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia 1996), TR.76 . Chính nhờ sự sáng suốt trong chỉ đạo đường lối đối ngoại đúng đắn. Đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, thêm bạn bớt thù, kinh tế được cải thiện và trên đà đi lên. Trong khu vực Đông Dương, mối quan hệ anh em khăng khít Việt Nam - Lào - Campuchia đã càng thêm bền chặt, vấn đề Campuchia đã có được một giải pháp chính trị êm đẹp, quan hệ với Trung Quốc đã được bình thường hóa và nhất là quan hệ giữa Việt Nam với Mỹ được nâng lên một tầng cao mới. 3 Nội dung đổi mới tư duy đối ngoại: 3.1 Đổi mới về nhận thức thế giới: Muốn hoạch định đúng đường lối chính sách đối ngoại và ngoại giao, yếu tố hết sức quan trọng là phải nhìn nhận đánh giá một cách khoa học, khách quan tình hình thế giới và quan hệ quốc tế. Đảng ta luôn tin tưởng rằng “ CNXH hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”. Đảng khẳng định sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô, Đông Âu, Mông Cổ không phải sự cáo chung của CNXH Khoa Học, mà do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan như: Coi thường quy luật khách quan, duy trì quá lâu cơ chế quan liêu bao cấp, không coi trọng sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị, sai lầm về đường lối của Đảng cầm quyền, thiếu dân chủ, bệnh chủ quan duy ý chí và sự chống phá của kẻ thù của CNXH. Về mâu thuẫn giữa XHCN và TBCN thì Đảng nhận định là “đang diễn ra gay gắt” , mâu thuẫn trong lòng các nước Tư Bản thì cương lĩnh 1991 viết “Mâu thuẫn cơ bản vốn có của CNTB giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN ngày càng sâu sắc”. Chúng ta cần suy nghĩ xem mâu thuẫn giữa các nước lớn, nhất là giữa Mỹ và Trung Quốc, mâu thuẫn giữa 2 nước này được các quốc gia tính đến khi hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại. Chúng ta không nói đến mâu thuẫn chủ yếu nữa mà các mâu thuẫn này đan xen và tùy từng lúc, từng nơi, một loại mâu thuẫn sẽ nổi lên mang tính chất chủ yếu. Ngoài ra, Đảng ra còn có những nhận thức mới về các xu thế phát triển của thế giới. Qua các văn kiện, nghị quyết của Đảng đều nêu rõ nguy cơ chiến tranh mới đó là chiến tranh hạt nhân nên vấn đề hòa bình hợp tác càng trở nên cấp thiết cho mỗi dân tộc và là xu thế lớn. Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đưa đến bước phát triển mới của lực lượng sản xuất, xu thế toàn cầu hóa… tác động đến các mặt đời sống xã hội nước ta mang đến những thuận lợi nhưng đồng thời cũng tạo ra nhiều thách thức. 3.2 Đổi mới quan điểm về an ninh và phát triển, về lợi ích dân tộc – giai cấp, tập hợp lực lượng: Nếu như trước đây khi nói đến an ninh – quốc phòng thường thì chúng ta hay nói đến sức mạnh quân sự, sức mạnh chuyên chính vô sản. Trong bối cảnh cách mạng khoa học công nghệ và xu thế toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ, các nước nhỏ tuy độc lập song lại tùy thuộc nhau vậy nên an ninh của mỗi quốc gia phải dựa vào sự phát triển kinh tế , khoa học công nghệ và an ninh của các quốc gia khác. Nghị quyết 13 Bộ Chính Trị 5/1988 khẳng định: “ với một nền kinh tế manh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công CNXH hơn”. Đảng ta cũng có nhận thức mới về mối quan hệ giai cấp và dân tộc. Dân tộc và giai cấp luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Lợi ích cao cả và thiêng liêng nhất của dân tộc ta và của giai cấp công nhân là xây dựng thành công CNXH, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, ra sức phát triển nhanh về kinh tế - xã hội. Đồng thời, chúng ta luôn phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước theo khả năng thực tế của ta và phù hợp với sự chuyển biến của tình hình thế giới. Về vấn đề đồng minh và tập hợp lực lượng, đối tượng, đối tác, đây là vấn đề lớn và quan trọng trong chính sách đối ngoại của quốc gia. Trong bối cảnh quốc tế cũng như khu vực có nhiều biến động chúng ta luôn phải tìm tòi, sáng tạo và đưa ra những nhận thức mới. Việt Nam tuyên bố muốn làm bạn, rồi sẵn sàng là bạn, tiếp đến là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Mặt khác, phát triển them một bước trong quan hệ mở rộng them bạn, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ. Nhận thức “ trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác vẫn có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta” nên quan hệ đối ngoại của chúng ta càng có điều kiện mở rộng hơn đương nhiên vẫn trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. 3.3 Đổi mới nhận thức về bản thân đường lối, chính sách, tư tưởng chủ đạo, phương châm chính sách đối ngoại: Trước hết, Đảng ta xác định đúng mục tiêu chiến lược, lợi ích cao nhất là “ củng cố giữ vững hòa bình để tập trung xây dựng và phát triển kinh tế” nên nhiệm vụ bao trùm của ngoại giao là “tranh thủ điều kiện thuận lợi bên ngoài và tranh thủ thời gian tập trung những cố gắng đến mức cao nhất nhằm từng bước ổn định và tạo cơ sở phát triển kinh tế trong vòng 20 – 25 năm tới, xây dựng CNXH và bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung cho hòa bình, độc lập dân tộc và CNXH” Đồng thời, Đảng ta cũng xác định chuẩn xác tư tưởng chỉ đạo, cũng như phương châm hoạt động đối ngoại và ngoại giao. Hội nghị TW 3 khẳng định “giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và CNXH; đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cùng diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng ta có thể quan hệ”. Và 4 phương châm lớn là: Đảm bảo lợi ích dân tộc, kết hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế; Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực, tự cường đẩy mạnh đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ đối ngoại; Trong quan hệ quốc tế nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh; Đẩy mạnh hợp tác khu vực, đồng thời tăng cường hợp tác với tất cả các nước khác. Chúng ta cũng đổi mới nhận thức về hướng ưu tiên đối ngoại đó là các nước láng giềng, các nước lớn và các nước trong khu vực. Việc giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ đảm bảo độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia; ngoại giao kinh tế, văn hóa, ngoại giao đa phương là những trọng tâm hoạt động đối ngoại của chúng ta. II Cơ sở hình thành chính sách đối ngoại của Việt Nam với Mỹ (1986-1995): 1 Chính sách đối ngoại Việt Nam với Mỹ trước 1986: 1.1 Bối cảnh thế giới Từ giữa những năm 1970, tình hình thế giới diễn ra những biến động lớn trên các mặt chính trị, kinh tế và quan hệ quốc tế, mở màn cho những phát triển và biến đổi có tính chất bước ngoặt trong mấy thập kỷ cuối XX. Sau chiến tranh Việt Nam, Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á lục địa, nền chính trị quốc tế bước vào thời kỳ “Sau chiến tranh Việt Nam”. Chính sách ngoại giao Việt Nam, tập II (1975-2006), HVQHQT, Hà Nội 2007 Các nước lớn có những điều chỉnh quan trọng trong chính sách đối ngoại. Cục diện quan hệ giữa những nước lớn có diễn biến phức tạp. Cụ thể: nước Mỹ suy giảm thế và lực, khủng hoảng toàn diện về chính trị, kinh tế, xã hội. Tây Âu và Nhật Bản vươn lên trở thành cáctrung tâm kinh tế thế giới cạnh tranh với Mỹ. Các khối quân sự trở nên lỏng lẻo hoặc tan rã. Xu hướng độc lập với Mỹ trong thế giới phương Tây tăng lên. Mỹ tiến hành điều chỉnh chiến lược, giảm cam kết ở bên ngoài thúc đẩy hòa hoãn với các đối thủ chính, tập trung ưu tiên giải quyết các vấn đề trong nước củng cố địa vị trong hệ thống Tư bản chủ nghĩa Mẫu thuẫn Xô – Trung ngày càng trở nên gay gắt. Tình hình này có ảnh hưởng lớn đến quá trình hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam, nhất là bởi vị Xô và Trung đều là hai người anh cả của phe Xã hội chủ nghĩa.Trung Quốc triển khai chương trình cải cách, mở của kinh tế, thực hiện mục tiêu pahát triển kinh tế, đẩy mạnh quan hệ với Mỹ, Nhật và các nước Tây Âu khác, đồng thời chú trọng cải thiện quan hệ với các nước ở Đông Nam Á Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr. 282 . Từ sau thắng lợi của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và Campuchia, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới có đà phát triển mới sôi động và rộng khắp. Tình hình kinh tế, xã hội và quan hệ giữa các nước trong hệ thống XHCN đã xuất hiện những dấu hiệu không thuận lợi. 2. Bối cảnh trong nước. Sau khi giành thắng lợi thống nhất Tổ Quốc, Việt Nam bước vào thời kỳ mới, bảo vệ độc lập chủ quyền và xây dựng lại đất nước. Thắng lợi mùa Xuân 1975 đánh dấu kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam: hòa bình, độc lâp, thống nhất, cả nước đi vào xây dựng trong hòa bình, quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chiến thắng đế quốc Mỹ đã nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, ngay sau thắng lợi lịch sử thì Việt Nam lại phải đối mặt với sự cấm vận về mọi mặt của chính quyền Mỹ. Vì vậy hoàn cảnh trong nước giai đoạn 1975- 1985 này có nhiều khó khăn về mọi mặt: kinh tế, chính trị, xã hội. Kinh tế sa sút, lạm phát tăng nhanh, bội chi ngân sách Nhà nước ngày càng tăng; sản xuất trì trệ, năng suất hiệu quả kinh tế giảm sút. Ngoại thương đình trệ và nhà nước ta mới đặt quan hệ ngoại giao với chưa nhiều nước . Thêm vào đó là quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực, đặc biệt là các nước có chung biên giới xuất hiện nhiều phức tạp, các thế lực thù địch trong và ngoài nước phố hợp chống đối Việt Nam. Trong những điều kiện quốc tế và khu vực như vậy, Việt nam cùng một lúc thực hiện công cuộc cải tạo xây dựng lại đất nước, mở rộng quan hệ với các nước mà một nhiệm vụ hết sức quan trong trong giai đọan này chính là công cuộc đấu tranh chống bao vây cô lập của chính quyền Mỹ. 4. Chính sách của Việt Nam phục vụ cuộc đấu tranh chống bao vây cô lập những năm 1975-1985: 4.1 Triển khai chính sách: 4.1.1 Những nỗ lực đầu tiên 1975 -1978 Ngay sau đại thắng mùa xuân, vào tháng 6 năm 1975, thủ tướng nước ta lúc đó là Phạm Văn Đồng đã đề nghị Mỹ xúc tiến bình thường hóa với điều kiện Mỹ bồi thường chiến tranh Việt Nam và có trách nhiệm hàn gắn và xây dựng lại Việt Nam Chính sách ngoại giao Việt Nam, tập II (1975-2006), HVQHQT, Hà Nội 2007, tr.357 . Năm 1977 là năm mà nỗ lực bình thường hóa quan hệ hai nước đạt được những bước đi hết sức đáng ghi nhận đến từ cả hai phía. Từ ngày 16 đến ngày 19 tháng 3 năm 1977 phái đoàn Mỹ do Leonard Woodcock – đặc phái viên của Tổng thống Carter dẫn đầu đã tới Việt Nam thương lượng vấn đề bình thường hóa quan hệ hai nước . Còn Mỹ thì không còn phủ quyết việc Việt Nam đệ đơn gia nhập Liên Hiệp Quôc. Mỹ đề nghị nhanh chóng thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, sau đó Mỹ sẽ dỡ bỏ kiểm soát xuất khẩu và tài sản đối với Việt Nam. Nếu như quan điểm trước đây của Việt Nam có phần cứng nhắc, được thể hiện trong bài phát biểu của Thứ trưởng Ngoại giao Phan Hiền ngày 26-3-1976: “Việc Hoa Kỳ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam là một nghĩa vụ không thể chối cãi, xét về mặt pháp lý của Hiệp định Paris về Việt Nam, về mặt pháp lý quốc tế cũng như đạo lý và lương tri của con người” Chính sách ngoại giao Việt Nam, tập II (1975-2006), HVQHQT, Hà Nội 2007, tr.358 . Tuy nhiên Phía Việt Nam cũng đã điều chỉnh lập trường đàm phán theo hướng linh hoạt hơn nhằm thể hiện thiện chí bình thường hóa như việc đồng ý cung cấp thông tin và hợp tác với Mỹ về vấn đề MIA( tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam). 4.1.2 Giai đoạn chông gai 1978 -1985 Giai đoạn 1978 – 1985 lại là giai đoạn khó khăn vì những biến đổi của tình hình thế giới và khu vực làm trì hoãn quá trình bình thường hóa quan hệ hai nước. Việt Nam lúc này đã chủ động rút bỏ điều kiện đòi Mỹ bồi thường chiến tranh và đóng góp xây dựng nước Việt Nam hậu chiến nhưng Mỹ từ chối đàm phán do những tính toán chiến lược mới của Mỹ. Quan hệ Xô – Trung căng thẳng, Liên Xô gia tăng ảnh hưởng ở thế giới thứ ba, Việt Nam đưa quân tình nguyện vào Campuchia, quan hệ Việt - Trung xấu đi tạo động lực khiến Mỹ xích lại gần Trung Quốc. Cuộc tranh cãi trong nội bộ chính quyền Mỹ về vấn đề binh thường hóa quan hệ với Việt Nam và Trung Quốc đem chiến thắng cho phe thân Trung Quốc của Cố vấn anh ninh Brzezinski – người vốn chủ trương bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Kết quả là việc bình thường hóa quan hệ Trung – Mỹ được ưu tiên tiến hành trước Việt Nam. Chính sách ngoại giao Việt Nam, tập II (1975-2006), HVQHQT, Hà Nội 2007 Còn vấn đề Campuchia lại bị biến thành một vấn đề quốc tế lớn và Mỹ coi việc yêu cầu Việt Nam rút quân khỏi Campuchia trở thành điều kiện tiên quyết cho việc nối lại đàm phán với Việt Nam9 . Cơ hội đàm phán bình thường hóa quan hệ hai nước trong giai đoạn này không còn nữa. 5. Đánh giá chính sách đối ngoại Việt Nam với Mỹ thời kỳ trước 1986 Do ta vẫn cho Mỹ là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm đang lăm le thi hành “ kế hoạch hậu chiến” chống ta và không quan tâm lắm đến việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ, đòi bình thường hóa có điều kiện là Mỹ phải thi hành điều 21 của hiệp định Paris về Việt nam, thực chất là đòi Mỹ bồi thường chiến tranh, một điều mà một siêu cương không thể nào chấp nhận được. Vì vậy ta đã bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ năm 1977. Tháng 10/1978 khi ta rút bỏ điều kiện thi hành điều 21, hai nước thỏa thuận về nguyên tắc và chuẩn bị thiết lập quan hệ thì nhân tố Trung Quốc nhảy vào: Mỹ thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc và hoãn thiết lập quan hệ ngoại giao với ta. Quá trình bình thường hóa quan hệ hai nước bị đẩy lùi gần 20 năm cho đến ngày nay. 6 Bài học kinh nghiệm: Sự sơ cứng , thù hằn với Mỹ khi cơ hội nối lại quan hệ sau khi Carter lên cầm quyền đã chủ động đề nghị hai bên bình thường hóa quan hệ vô điều kiện không được tận dụng. Do thiếu thông tin và hiểu biết về tình hình chính trị nội bộ Mỹ, ta đã không đánh giá được hết ảnh hưởng của Quốc hội Mỹ đối với chính sách đối ngoại của Mỹ vào một thời điểm nhạy cảm ở nước Mỹ nên không điều chỉnh kịp thời lập trường đàm phán để nắm bắt cơ hội ngắn ngủi và mong manh đó, tiến tới bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Trong một thời gian, ta đã tin rằng nước Mỹ sẽ thực hiện trách nhiệm đạo lý đối với nhân dân Việt Nam đặc biệt trong bối cảnh có lời hứa của Nixon. Trên thực tế, một lời hứa bí mật bởi một vị tổng thống tai tiếng như Nixon không có giá trị gì. Vấn đề Campuchia trở thành một con bài trong “trò chơi quyền lực” giữa các nước lớn. Thái độ duy ý chí, quá coi trọng ý thức hệ không coi trọng lợi ích cốt lõi của dân tộc của lãnh đạo Việt Nam. III Chính sách đối ngoại Việt Nam với Mỹ (1986-1995): 1. Tình hình thế giới: Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến đầu thập kỷ 90, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới được hình thành từ sau chiến tranh thế giới thứ hai trên cơ sở hai khối độc lập do Liên Xô và Hoa kỳ đứng đầu (trật tự thế giới hai cực) tan rã, mở ra hình thành một trật tự thế giới mới. Trong thời kỳ này, những cuộc chiến tranh cục bộ xung đột, tranh chấp vẫn còn, nhưng xu thế của thế giới là hòa bình hợp tác và phát triển. Thế giới phát triển nhanh chóng theo hướng đa cực, tuy vậy cục diện đa cực chưa hẳn đã hình thành mà đang trải qua thời kỳ quá độ từ Trật tự cũ để tiến tới một Trật tự mới. Thế giới hiện đang trong tình hình "một siêu cường, nhiều cường quốc", đó là các nước Mỹ, Tây Âu (EU) Nhật Bản, Nga và Trung Quốc. Sự tan rã của Liên Xô đã tạo ra cho Mỹ một lợi thế tạm thời, là cực duy nhất còn lại, Mỹ ra sức củng cố vị trí siêu cường, mưu đồ giữ vai trò chi phối bá chủ thế giới. Hòa bình thế giới được củng cố, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi rõ rệt, nhưng hòa bình ở nhiều khu vực bị đe dọa, thậm chí ở nhiều nơi xung đột quân sự, nội chiến diễn ra ác liệt. Đó là các mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ... vốn bị che đậy dưới thời chiến tranh lạnh nay bộc lộ thành xung đột gay gắt. Phần lớn những mâu thuẫn, tranh chấp này đều có căn nguyên lịch sử, nên việc giải quyết không thể nhanh chóng và dễ dàng. Từ thập kỷ 90, tình hình khu vực có những chuyển biến mới: Trước hết, trong khu vực vẫn tồn tại những bất ổn, như vấn đề hạt nhân, vấn đề tranh chấp lãnh hải thuộc vùng biển Đông và việc các nước tăng cường vũ trang, nhưng Châu Á – Thái Bình Dương vẫn được đánh giá là khu vực ổn định; hai là, Châu Á – Thái Bình Dương có tiềm lực lớn và năng động về phát triển kinh tế. Xu thế hòa bình và hợp tác trong khu vực phát triển mạnh. 2. Tình hình trong nước: Tại Việt Nam sự bao vây, chống phá của các thế lực thù địch đối với Việt Nam từ nữa cuối thập kỷ 70 tạo nên tình trạng căng thẳng, mất ổn định trong khu vực và gây khó khăn, cản trở cho sự phát triển của các mạng Việt Nam, là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng ở nước ta. Vì vậy, vấn đề giải tỏa tình trạng đối đầu, thù địch, phá thế bị bao vây, cấm vận, tiến tới bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, tạo môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung xây dựng kinh tế là nhu cầu cần thiết và cấp bách đối với nước ta. Ở trong nước, do hậu quả nặng nề của chiến tranh và các khuyết điểm chủ quan khác, nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng, Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới là một trong những thách thức lớn đối với cách mạng Việt Nam. Vì vậy, nhu cầu chống tụt hậu về kinh tế đặt ra gay gắt để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa nước ta với các quốc gia khác, ngoài việc phát huy tối đa các nguồn lực trong nước; còn phải tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, trong đó hợp tác kinh tế với các nước và tham gia vào cơ chế hợp tác đa phương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng 3 Triển khai chính sách: Đại hội VII Đảng ta đã nêu ra chủ trương” Thúc đẩy quá trình bình thường hóa với Hoa Kỳ”. Ta tập trung giải quyết 2 vấn đề Mỹ quan tâm: vấn đề Campuchia và vấn đề MIA. 3.1 Vấn đề Campuchia: Với chủ trương rút ra khỏi vấn đề Campuchia của ta và sự kết thúc của chiến tranh lạnh, vấn đề Campuchia nhanh chóng được giải tỏa trong quan hệ Viêt-Mỹ. Ta rút hết quân tình nguyện khỏi Campuchia ngày 26/9/1989, Vđã ký hiệp định Paris về Campuchia và hoàn toàn tôn trọng hiệp định. Mỹ đã đánh giá cao thái độ xây dựng và hợp tác của Việt Nam trong vấn đề này. Vấn đề Campuchia được kết thúc sau cuộc tổng tuyển cử ở Campuchia được tiến hành và việc thành lập chính phủ 9/1993. Thậm chí ngày 22/3/1993 Ngoại trưởng Mỹ W.Chrisoper nói rằng:” Mỹ sẵn sang tiến về phía trước ngay khi có sự tiến triển trong vấn đề MIA, đó là vấn đề duy nhất ngăn cản chúng ta bỏ cấm vận”( Việt Nam joins the world p.97) 3.2 Vấn đề MIA: Vấn đề này rất quan trọng với chính quyền Mỹ và là vấn đề gây cản trở lớn nhất trong quan hệ Viêt-Mỹ rất khó giải quyết vì chiến tranh đã lâu và địa hình thay đổi. Từ ngày 14/11/19856/1995 Việt Nam và Mỹ đã tiến hành 36 đợt khai quật hỗn hợp để tìm kiếm MIA. Ngày 1/8/1987 đặc phái viên John Vessen phát biểu: Hai bên thỏa thuận đáp ứng vấn đề nhân đạo mà 2 bên quan tâm và không gắn với vấn đề chính trị lớn hơn như bình thường hóa, viện trợ kinh tế. Ngày 9/4/1991 Mỹ đưa ra bản lộ trình gắn việc bình thường hóa quan hệ với tiến trình giải quyết vấn đề MIA và Campuchia. Việt Nam tích cực đáp ứng các đề nghị của Mỹ cho đi tới bất cứ nới nào gặp bất cứ ai để hỏi về vấn đề POW/MIA, Tháng 10/1992 Việt Nam cho phép Mỹ nghiên cứu tài liệu lưu trữ của Bộ quốc phòng về số phận MIA. Thang 1/1993 bản báo cáo cuối cùng cuả ủy ban POW/MIA của thượng viện Mỹ khẳng định không có bằng chắng có tù binh Mỹ còn sống bị giam giữ tại Việt Nam. Ngày 11/5/1995 Tổng thống Mỹ Bin Cliton tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.Tuyên bố của tổng thống Mỹ bin Cliton nêu rõ:” chỉ còn lại 55 trường hợp tin tức trái ngược nhau, trong lich sử chiến tranh chưa bao giờ có một nỗ lực lớn lao như vậy” 4. Thành tựu đạt được và hạn chế: 4.1 Thành tựu đạt được: 11\7\1995 Tổng thống Cliton đã tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam như vậy chúng ta đã phá vỡ được thế bao vây cấm vận, thế cô lập trên trường quốc tế, đó là bước khởi đầu giúp ta thúc dẩy kinh tế, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tê. 4.2 Hạn chế: Chúng ta vẫn thiếu tinh thần chủ động, đã có sự hợp tác nhưng thiếu chiều sâu, chưa xac định được và khai thácv tốt mối quan hệ lợ ích đan xen, phụ thuộc lẫn nhau. - tư tưởng duy ý chí vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ của chúng ta - Một điểm nữa là mặc dù Mỹ đã tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam nhưng quan hệ 2 nước vẫn chưa thực sự bình thường, một số biện pháp cấm vận kinh tế với Việt Nam vẫn chưa được loại bỏ. Giáo sư Brown nhận xét: Tất nhiên Hoa Kỳ chưa bao giờ có quan hệ thông thương với Việt Nam, miền bắc cũng như miền nam hoặc với nhân dân Viêt Nam” Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến đầu thập kỷ 90, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới được hình thành từ sau chiến tranh thế giới thứ hai trên cơ sở hai khối độc lập do Liên Xô và Hoa kỳ đứng đầu (trật tự thế giới hai cực) tan rã, mở ra hình thành một trật tự thế giới mới. Trong thời kỳ này, những cuộc chiến tranh cục bộ xung đột, tranh chấp vẫn còn, nhưng xu thế của thế giới là hòa bình hợp tác và phát triển. Thế giới phát triển nhanh chóng theo hướng đa cực, tuy vậy cục diện đa cực chưa hẳn đã hình thành mà đang trải qua thời kỳ quá độ từ Trật tự cũ để tiến tới một Trật tự mới. Thế giới hiện đang trong tình hình "một siêu cường, nhiều cường quốc", đó là các nước Mỹ, Tây Âu (EU) Nhật Bản, Nga và Trung Quốc. Sự tan rã của Liên Xô đã tạo ra cho Mỹ một lợi thế tạm thời, là cực duy nhất còn lại, Mỹ ra sức củng cố vị trí siêu cường, mưu đồ giữ vai trò chi phối bá chủ thế giới. Hòa bình thế giới được củng cố, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi rõ rệt, nhưng hòa bình ở nhiều khu vực bị đe dọa, thậm chí ở nhiều nơi xung đột quân sự, nội chiến diễn ra ác liệt. Đó là các mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ... vốn bị che đậy dưới thời chiến tranh lạnh nay bộc lộ thành xung đột gay gắt. Phần lớn những mâu thuẫn, tranh chấp này đều có căn nguyên lịch sử, nên việc giải quyết không thể nhanh chóng và dễ dàng. Từ thập kỷ 90, tình hình khu vực có những chuyển biến mới: Trước hết, trong khu vực vẫn tồn tại những bất ổn, như vấn đề hạt nhân, vấn đề tranh chấp lãnh hải thuộc vùng biển Đông và việc các nước tăng cường vũ trang, nhưng Châu Á – Thái Bình Dương vẫn được đánh giá là khu vực ổn định; hai là, Châu Á – Thái Bình Dương có tiềm lực lớn và năng động về phát triển kinh tế. Xu thế hòa bình và hợp tác trong khu vực 5.Khái quát quan hệ Việt – Mỹ giai đoạn 1986-1995 : Đại hội đảng khóa VI, tuyên bố sự nghiệp đổi mới của Việt Nam 12/1986 và đặc biệt là nghị quyết 13 của Đảng 5/1988 đã về cơ bản làm thay đổi cách nhìn của Việt Nam trong quan hệ với Mỹ, cũng như tạo ra những dấu hiệu tích cực hơn, mở ra một thời kì mới trong quá trình bình thường hóa quan hệ của hai nước sau chiến tranh. Có thể thấy rằng, kể từ những cơ hội tiếp xúc đầu tiên để bình thường hóa quan hệ vào những năm 1977 -1978 cho tới năm 1986 quan hệ Việt Nam và Mỹ vẫn có rất nhiều sự khác biệt trong quan điểm của mỗi nước đưa ra. Nhưng kể từ 1986, phía ta đã chủ trương “ Chính phủ sẽ tiếp tục bàn bạc với Mỹ về vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và sẵn sang cải thiện quan hệ vì lợi ích hòa bình và ổn định tại khu vực Đông Nam Á”. Từ năm 1988, ta đã không còn coi Mỹ là kẻ thù lầu dài và chủ trương đẩy mạnh chính sách từng bước phá vỡ thế bao vây cấm vận của Mỹ và tiến tới bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Mỹ là nền kinh tế lớn nhất và phát triển nhất trên thế giới. Vì vậy Mỹ chiếm một vị trí quan trọng trong chiến lược đổi mới của Việt Nam nói chung và chính sách đối ngoại của Việt Nam nói riêng. Phía ta nhận thấy rằng, thực tế việc tình hình kinh tế khó khăn của Việt Nam là do những chính sách bao vây cấm vận của Mỹ. vì vậy việc kịp thời thay đổi tư duy đối ngoại và xúc tiến mạnh mẽ quá trình bình thường hóa quan hệ với Mỹ là một yêu cầu cấp thiết và cần thiết để phục vụ quá trình phát triển kinh tế. Hoa kỳ trưor thành một nguồn viện trợ lớn về cả vốn, khoa học kỹ thuật và thị trường cho công cuộc đổi mới toàn diện của Việt Nam. Về phía Mỹ, sau hơn 20 năm quan hệ hai nước căng thẳng, Mỹ cũng đã dần nhận thấy những lợi ích chiến lược mà họ có ở Việt Nam cung như trên Bán đảo Đông Dương. Với Mỹ Việt Nam nằm ở một vị trí chiến lược quan trọng, với dân số gần 80 triệu người lúc bấy giờ, thị trường Việt Nam trở thành một thị trường rộng lớn và là cơ hội làm ăn không thể bỏ qua đối với các doanh nghiệp Mỹ, và Việt Nam còn là một nước có tiềm năng về các nguồn tài nguyên phong phú, và nguồn nhân lực dồi dào. Nhất là sau chính sách mở cửa năm 1986, Việt Nam đã gia nhập vào hang ngũ những nền kinh tế năng động nhất khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Ngoài gia việc thúc đẩy bình thường hóa quan hệ với Việt Nam cũng sẽ giúp Mỹ có nhiều cơ hội để tìm kiếm quân nhân mất tích trong chiến tranh. Việt Nam còn nằm ở một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng và có thể trở thành một đối trọng tương đối ngăn cản sự bành trướng của Trung Quốc tại khu vực. Nên việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam đã trở thành một ưu tiên hang đầu trong chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời Bush(cha) và Clinton. Chúng ta thấy rằng, những lợi ích cơ bản về kinh tế, chính trị, và hàn gắn vết thương chiến tranh đã trở thành nguồn động lực quan trọng thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước trong giai đoạn này. Đến thời điểm 1989 – 1990, tồn tại lớn nhất ngăn cản việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước chỉ còn là vấn đề về Campuchia. Đến 18/7/1990, Mỹ đã chủ động giải quyết vấn đề này bằng việc ngoại trưởng Mỹ J.baker tuyên bố đối thoại với phía Việt Nam về việc rút quân đội nước ngoài khỏi Campuchia. Động thái tích cực này đã mở đường cho những cuộc đối thoại giữa hai nước để nhanh chóng giải quyết vấn đề Campuchia. Sau khi vấn đề Campuchia được hoàn toàn giải quyết. Mỹ đã chính thức đưa ra bản lộ trình gồm 4 bước về bình thường hóa quan hệ với Việt Nam(4/9/1991) đã cho thấy một bước quan trọng trong việc điều chỉnh chích sách với Việt Nam của Mỹ. Ngày 3/4/1994, Clinton tuyên bố bỏ cấm vận và mở cơ quan liên lạc tại Viêt Nam. Ngày 8/10/1994, Quốc hội Mỹ thong qua nghị quyết khuyến nghị hủy bỏ lệnh cấm viện trợ cho Việt Nam. Đây là những dấu mốc đặc biệt quan trọng đánh dấu những thay đổi căn bản trong cải thiện quan hệ của hai nước. Tính đến cuối năm 1994, quan hệ thương mại của Việt Nam và Mỹ đạt 100 triệu đô la, đầu tư của Mỹ vào Việt Nam đạt 225 triệu đô la. Là những thành công bước đầu trong thời kì mới. Để rồi không lâu sau đó, Ngày 11/7/1995 Tổng thống Clinton tuyên bố chính thức bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Thủ tướng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Võ Văn Kiệt tuyên bố “ Chính phủ và nhân dân Việt Nam hoan nghênh quyết định của Tổng thống Mỹ” hưởng ứng lời đề nghị trao đổi đại sứ >như vậy sau hơn 20 thập kỷ sau khi cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc, hai nước mới vượt qua được những trưor ngại nhiều mặt để bước đầu tiến tới hàn gắn quan hệ, phục vụ lợi ích quốc gia của cả hai dân tộc. 6.Bài học kinh nghiệm trong việc hoạch định CSĐN : Quá trình bình thường hóa quan hệ với Mỹ kéo dài hơn 20 năm sau chiến tranh, cả 2 phía đã phải vượt qua những chặng đường vô cùng khó khăn để đạt được những thành công. Nó cũng giúp Việt Nam rút ra được nhiều bài học lớn trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại, Nhất là đối với Mỹ. Chúng ta đã nhận thấy được những bài học về nội bộ và chính quyền Mỹ sau những nỗ lực bình thường hóa quan hệ không thành những năm 77– 78, Những chia rẽ mang tính đảng phái và những đấu tranh quyền lực trong quốc hội Mỹ. Cuộc chiến Việt Nam đã để lại một vết thương rất lớn trong long nước Mỹ, đó cũng là một gánh nặng lịch sử ngăn cản quá trình bình thường hóa quan hệ của hai nước và chắc chắn sẽ còn là nhân tố chi phối quan hệ của Việt Nam và Mỹ trong cả tương lai. Quá trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước cũng cho ta thấy một bài học rất lớn trong quan hệ giữa nước lớn và nước nhỏ. Mỹ luôn luôn nhìn nhận Việt Nam dưới lăng kính của một nước lớn, với các lợi ích chiến lược tại khu vực cũng như trên toàn cầu. Và là một điểm tựa trong chiến lược cán cân quyền lực của Mỹ tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương cũng như Đông Nam Á. Mỹ dung chính sách vừa can dự, vừa kiềm chế vào khu vực nhằm tạo ra một đối trọng với sự lớn mạnh của Trung quốc, đang đe dọa vị thế độc tôn của Mỹ. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận Ngoại Giao- VIỆC ĐỔI MỚI TƯ DUY ĐỐI NGOẠI ẢNH HƯỞNG NHƯ THẾ NÀO ĐẾN QUAN HỆ VIỆT – MỸ GIAI ĐOẠN 1986-1991.doc