Ngày nay, trong thế giới luôn luôn có biến động không ngừng, xu thế hội nhập,
toàn cầu hoá đang nổi lên chiếm vị trí chủ đạo khuynh hướng phát triển của thế giới
trong thời gian tới. Mỗi quốc gia đều hiểu rằng không thể đứng ngoài xu thế phát triển
chung của thế giới hội nhập mở cửa đồng nghĩa hoà nhập trong xu thế đi lên của xã
hội loài người; đóng cửa, biệt lập cũng đồng nghĩa với bảo thủ, tự giảm khả năng phát
triển. Và trong quá trình hội nhập các quốc gia phải có biện pháp cụ thể để tận dụng ở
mức tốt nhất những cơ hội để phát triển. Việt Nam cũng không thể đứng ngoài mục
đích này. Nhưng với một tiềm lực kinh tế còn hạn chế, Việt Nam đứng trước những
thử thách, khó khăn to lớn.
35 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2909 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển dưới con mắt triết học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mối liên kết chặt chẽ hơn nhiều. Các nước đang phát triển có cơ hội hội nhập
với thị trường tài chính toàn cầu. Nhờ vậy mà loại bỏ việc kiểm soát đối với đồng vốn
chảy vào, đồng thời cũng bãi bỏ dần những hạn chế trong thanh toán và giao dịch
thông qua tài khoản. Hiện nay, nhiều nước đã chấp nhận thả nổi đồng tiền, đã làm cho
đồng vốn đổ vào các nước này tăng nhanh.
Mặt khác, hội nhập kinh tế trong thời gian qua có tác động tích cực đến việc ổn
định kinh tế vĩ mô. Nhiều quốc gia đang phát triển đã mở cửa thị trường thu hút vốn,
một mặt thúc đẩy công nghiệp hoá, một mặt tăng tích luỹ từ đó cải thiện mức thâm hụt
ngân sách. Chính sự ổn định kinh tế vĩ mô này đã tạo niềm tin cho các chương trình
phát triển hỗ trợ cho những quốc gia thành công trong cải cách kinh tế và mở cửa.
Ngoài ra, hội nhập kinh tế tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao mức
thu nhập tương đối của các tầng lớp dân cư.
Chính những mặt thuận lợi này mà hội nhập kinh tế quốc tế có sức mạnh to
lớn. Nó kéo tất cả các quốc gia dù lớn, dù nhỏ, dù giàu hay nghèo đều bị cuốn vào.
Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là chủ nghĩa tư bản hiện đại với ưu thế về vốn và công
nghệ đang ráo riết thực hiện ý đồ chiến lược biến quá trình toàn cầu hoá nói chung và
toàn cầu hoá kinh tế nói riêng thành quá trình tự do hoá kinh tế và áp đặt chính trị theo
quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Bởi vậy, tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển,
đều phải tìm kiếm các đối sách để thích ứng với quá trình toàn cầu hoá đa bình diện và
đầy nghịch lý.
Sau hàng thế kỷ đấu tranh kiên cường, anh dũng, các dân tộc thuộc địa và phụ
thuộc đã thoát khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành được độc lập dân
tộc và chủ quyền. Mặc dù vậy, bức tranh kinh tế – xã hội của các nước chậm phát triển
và đang phát triển vẫn đang ngày càng có nhiều biểu hiện đáng lo ngại về sự tụt hậu so
với trình độ của các nước phát triển. Khoảng cách ấy không những không được khắc
phục, rút ngắn mà còn thực sự trở thành nguy cơ chia cắt thế giới làm hai nửa khác
biệt: vài chục quốc gia tiên tiến đã vượt hơn 100 quốc gia thuộc “thế giới thứ ba” hàng
vài thập niên phát triển hoặc gấp trăm lần chênh lệch về thu nhập bình quân GDP tính
theo đầu người.
Các nước này tuy đã giành được độc lập, đó là một thành quả vô cùng quan
trọng, song các nước này hầu hết lại là các nước nghèo, còn lạc hậu. Cho nên, họ vẫn
bị phụ thuộc vào hệ thống kinh tế của chủ nghĩa tư bản : từ khai thác – sử dụng tài
nguyên, quy trình sản xuất, vốn, kỹ thuật – công nghệ đến thị trường tiêu thụ cũng như
phân công lao động quốc tế… Các nước đang phát triển đang phải đối diện trước thách
thức của nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế. Bởi một cơ cấu kinh tế còn nhiều bất
hợp lý, trong đó tỷ trọng công nghiệp nhỏ bé trong tổng giá trị thu nhập quốc dân,
cộng thêm với trình độ thấp kém về năng suất lao động, cho nên tốc độ phát triển kinh
tế của đa số các nước đang phát triển thấp và bấp bênh. Trong thập niên 60, các nước
đang phát triển đạt mức tăng trưởng 5,7%, thập niên 70 đạt 5,3% thì đến thập niên 80
là 2% và những năm vừa qua của thập niên 90 tuy tình hình có được cải thiện, song
cũng chỉ đạt mức trên 4% trong khi tỉ lệ tăng dân số vẫn còn ở mức trên 2%/năm.
Không những thế vấn đề nợ nước ngoài cũng trở thành gánh nặng đối với các
nước đang phát triển. Số liệu thống kê của Liên hợp quốc cho thấy, nợ nước ngoài của
các nước này đã tăng hơn 300 lần trong 4 thập niên qua : từ 6 tỉ năm 1995 lên trên
2000 tỉ đầu năm 2000. Trong đó, có những nước mà tổng số nợ đã vượt xa so với tổng
thu nhập quốc dân. Những bi kịch về nợ nước ngoài của các nước đang phát triển
không chỉ được biểu hiện ở tổng số nợ khổng lồ mà còn là tình trạng nhiều nước
không có khả năng thanh toán dù chỉ là lãi suất hằng năm, trong khi dó tốc độ của các
khoản vay vẫn gia tăng và không hề có dấu hiệu giảm bớt.
Cùng với nợ nần là tình trạng bất bình đẳng trong trao đổi mậu dịch – thương
mại giữa các nước đang phát triển và phát triển. Chỉ tính riêng qua trao đổi không
ngang giá, các nước phát triển mỗi năm thu về món lợi hàng chục tỉ USD.
Mặt khác, vẫn tiếp tục diễn ra sự phân biệt đối xử với hàng hóa – sản phẩm của
các nước đang phát triển khi thâm nhập thị trường các nước phát triển. Qua con đường
đầu tư, chuyển giao kỹ thuật – công nghệ, các cường quốc tư bản không chỉ thu lợi do
bán các thiết bị công nghệ lạc hậu và gây ô nhiễm mà còn khống chế nhiều huyết mạch
kinh tế quan trọng của các nước đang phát triển. Còn các nước đang phát triển, do áp
lực bức bách của nhu cầu cải thiện đời sống kinh tế, đã dễ dàng chấp nhận “chào đón”
bất kỳ sự cải tiến kỹ thuật – công nghệ nào, bất kỳ nguồn vốn tư bản nào. Sự đơn giản
dễ dãi này, mặc dù trước mắt có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, song rất có thể phải
trả giá đắt bởi các hậu quả kinh tế xã hội khó lường. Do vậy, lựa chọn kỹ thuật – công
nghệ, cơ cấu kinh tế, mô hình kinh tế – xã hội đang đặt ra những tiêu chuẩn phức tạp
hơn để có thể tận dụng mọi cơ hội phát triển cho cả ngày mai, không chỉ vì những cái
lợi tức thời trước mắt.
Đó là những vấn đề trên con đường hợp tác giữa các nước đang phát triển và
các nước phát triển, vậy còn hợp tác giữa các nước đang phát triển với nhau thì sao?
Con đường này cũng gặp nhiều trở ngại bởi lẽ các nước này đều có sự tương đồng về
trình độ phát triển cũng như các lợi thế về nguồn tài nguyên, nhân lực và thị
trường…trong khi tất cả đều thiếu vốn, kỹ thuật – công nghệ và tri thức quản lý hiện
đại. Hơn nữa, những lợi thế nêu trên dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học –
công nghệ và toàn cầu hoá hiện nay không còn có vai trò, ý nghĩa nổi bật như các thập
niên trước đây. Điều đó cho thấy, các nước đang phát triển cần thiết phải có cách tiếp
cận mới trong hợp tác cùng nhau. Chỉ có như vậy, khuôn khổ và cơ chế hợp tác mới
thực sự trở nên hữu ích và thiết thực đối với các nước đang phát triển. Đồng thời, nó
đóng góp và việc phối hợp các nỗ lực chung của các nước đang phát triển nhằm từng
bước khắc phục và hạn chế những hậu quả tiêu cực của toàn cầu hoá cũng như trong
quá trình xúc tiến quan hệ với các nước phát triển.
Hội nhập kinh tế là một vấn đề cấp bách và mang tính thời đại, nhưng đó cũng
là một bài toán hóc búa, đang thách đố các quốc gia, dân tộc đang phát triển, thôi thúc
họ tìm lời giải tối ưu. Giữ vững độc lập dân tộc, phát huy nội lực và kết hợp với chủ
động mở rộng hội nhập quốc tế, trở thành một trong những điều kiện tiên quyết – chìa
khoá hữu hiệu để giải mã bài toán này trong kỷ nguyên toàn cầu hoá hiện nay.
3. Sự hình thành tất yếu của chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta
Thật ra, chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất nước
không phải là một điều gì hoàn toàn mới đối với Đảng và Nhà nước ta. Nó là sự kế
thừa, phát triển và vận động sáng tạo vào hoàn cảnh hiện nay của đất nước, những luận
điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
vừa mới ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong bài trả lời phỏng vấn của
các nhà báo ngày 23 tháng 10 năm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “chúng ta hoan
nghênh những người Pháp muốn đem tư bản vào xứ ta khai thác những nguồn nguyên
liệu chưa có ai khai thác…Chúng ta sẽ mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như
Mỹ, Nga hay Tàu, đến đây giúp việc cho chúng ta trong công cuộc kiến thiết quốc gia”
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, T4, NXB Chính trị quốc gia, HN 1995, tr74)
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ giữa những năm 70 của thế kỷ trước,
nước ta đã gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), tích cực tham gia Phong trào
không liên kết, Liên hợp quốc mà một trong những nội dung cơ bản là đấu tranh cho
một trật tự kinh tế thế giới công bằng. Bên cạnh mối quan hệ với các nước trong cộng
đồng XHCN, nước ta đã ra sức thúc đẩy quan hệ hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các
nước tư bản chủ nghĩa mặc dầu lúc đó các thế lực thù địch thực hiện chính sách bao
vây về kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ta.
Trong thời kì đổi mới, chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh
tế quốc tế càng được thể hiện rõ nét và được thực hiện tích cực hơn. Đại hội lần thứ VI
của Đảng họp tháng 12 – 1986 đã chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nhằm đưa
nước tar a khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế – xã hội. Việc triển khai Nghị Quyết Đại
hội lại diễn ra trong bối cảnh tình hình Liên Xô, Đông Âu xấu đi nhanh chóng và tới
đầu những năm 90 thì chế độ XHCN đã bị xoá bỏ tại các nước này, Liên bang Xô Viết
tan rã, Hội đồng tương trợ kinh tế giải thể. Để phục vụ cho việc thực hiện đường lối
đổi mới, Đại hội và các hội nghị Trung ương tiếp theo, nhất là các Nghị quyết
13/5/1988 của bộ chính trị, Nghị quyết của Hội nghị Trung ương VIII tháng 3/1990, đã
phân tích sâu sắc tình hình thế giới, đề ra các chủ trương và giải pháp ứng phó với
những tiêu cực của tình hình với nội dung chủ yếu là đẩy lùi chính sách bao vây kinh
tế, cô lập về chính trị đối với nước ta, mở rộng quan hệ quốc tế. Cũng theo tinh thần
đó, năm 1987 nước ta đã thông qua Luật đầu tư với nước ngoài với những quy định
khá thông thoáng.
Đại hội lần thứ VII họp vào tháng 6/1991 mở ra bước đột phá mới: thông qua
Cương lĩnh của Đảng và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 10 năm,
đồng thời đưa ra những đường lối đối ngoại mở rộng với khẩu hiệu: “Với chính sách
đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập phát triển”. Hội nghị
Trung ương lần thứ 3 khoá VII đã ra Nghị quyết về chính sách đối ngoại, trong đó nêu
ra tư tưởng chỉ đạo là “giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và CNXH, đồng thời
phải rất sáng tạo. Năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ
thể của nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng
đối tượng nước ta có quan hệ”. Đồng thời nghị quyết cũng nêu ra bốn phương châm:
bảo đảm lợi ích dân tộc, trong đó kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy
mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ đối ngoại; nắm vững hai mặt hợp tác và
đấu tranh trong quan hệ quốc tế; ưu tiên hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ
với tất cả các nước.
Đại hội lần thứ VIII họp tháng 6/1996 đã khẳng định chủ trương “xây dựng một
nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Hội nghị
Trung ương 4 khoá VIII nêu nhiệm vụ “tích cực chủ động thâm nhập và mở rộng thị
trường quốc tế”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương
mại với Mỹ”, “gia nhập APEC và WTO, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện
cam kết trong khuôn khổ AFTA”.
4. Nhận định về những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trên con đường hội
nhập kinh tế quốc tế.
4.1. Những cơ hội mà Việt Nam có được khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình “mở cửa” nền kinh tế, đưa các doanh
nghiệp trong nước tham gia tích cực vào cạnh tranh, quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế
chúng ta có cơ hội tích luỹ được những tiền đề, những điều kiện cho một trình độ phát
triển mới. Trước hết chúng ta có cơ hội thu hút vốn, khoa học, kỹ thuật công nghệ hiện
đại, kinh nghiệm quản lý kinh tế từ bên ngoài và mở rộng thị trường để đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Tiếp đó hội nhập kinh tế tạo khả năng mở rộng thị trường ra nước ngoài trên cơ sở các
hiệp định thương mại đã ký kết với các nước, trong khu vực và toàn cầu. Tạo cơ hội
giao lưu các nguồn lực của nước ta với các nước, bởi chúng ta có nguồn nhân lực dồi
dào, nhưng nếu không hội nhập thì việc sử dụng trong nước sẽ bị lãng phí, kém hiệu
quả. Thông qua hội nhập ta có thể xuất khẩu lao động qua hợp đồng gia công hàng
xuất khẩu. Đồng thời tạo cơ hội để nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, các công nghệ
mới, các phát minh sáng chế mà ta chưa có. Mặt khác, mở cửa và hội nhập quốc tế sẽ
giúp chúng ta đẩy mạnh hơn nữa quá trình cải cách, đổi mới xã hội, nhất là những cải
cách về phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, về thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, điều chỉnh cơ cấu sản xuất trong nước, tăng sức cạnh
tranh cho nền kinh tế để tham gia ngày càng nhiều hơn vào phân công lao động quốc
tế và mở rộng quá trình dân chủ hoá xã hội. Với một nền kinh tế yếu kém, nếu không
tranh thủ được những cơ hội do toàn cầu hoá mang lại – dù là toàn cầu hoá đang do
chủ nghĩa tư bản chi phối – thì chúng ta không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội được.
Chỉ riêng vấn đề “học hỏi” chủ nghĩa tư bản chứ chưa nói đến tranh thủ những nguồn
lực, phương tiện vật chất cần thiết, đã là một tất yếu khách quan, một yêu cầu bắt buộc
đối với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước chậm phát triển và đang phát triển
nói chung và ở nước ta nói riêng. Bởi vì như Lênin đã nói : “chúng ta không hình dung
một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở những bài
học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản thu được” ( V.I Lênin, Toàn tập, NXB
Tiến bộ, M, 1977, tr334).
4.2. Những thách thức mà chúng ta gặp phải trên con đường hội nhập
Tuy nhiên, toàn cầu hoá là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh vô cùng
phức tạp. Nó không chỉ đem đến cho chúng ta những cơ hội thuận lợi mà còn có cả
những thách thức và khó khăn mới nảy sinh.
Thách thức lớn nhất với nước ta là tình trạng thấp kém của nền kinh tế, khoảng
cách về trình độ phát triển giữa ta với các nước trong khu vực và trên thế giới còn rất
xa. Học thuyết tự do mới về toàn cầu hóa đòi hỏi các quốc gia phải mở toang cửa nền
kinh tế đất nước, phải thực hiện triệt để tự do hoá thị trường bên trong và bên ngoài,
phải thả nổi tiền tệ, phải tư nhân hoá, phải giảm mạnh vai trò kiểm soát của Nhà nước
theo hướng: “Nhà nước tối thiểu, thị trường tối đa”. Vì vậy các doanh nghiệp trong
nước phải chấp nhận tư cách thành viên cạnh tranh ngang bằng các nước khác. Mà xu
hướng tự do hoá thương mại quốc tế càng phát triển thì cạnh tranh quốc tế ngày càng
khốc liệt. Điểm đặc biệt là ta phải cạnh tranh ngay từ đầu, trên tất cả các mặt trận, với
những thế lực mạnh hơn nhiều về thực lực và trình độ. Tại diễn đàn Kỳ họp thứ 6,
Quốc hội khoá XI, Thủ tướng Phan Văn Khải cũng nhiều lần nhấn mạnh : “Sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp Việt Nam và nền kinh tế thua kém nhiều nước xung quanh
là điều bất lợi lớn nhất khi hội nhập kinh tế quốc tế” Hội nhập kinh tế quốc tế, chúng
ta đứng trước yêu cầu phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đầu tư theo chiều sâu để nền
kinh tế đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, chúng ta đứng trước
khó khăn rất lớn trong việc điều chỉnh hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách làm sao
vừa bảo đảm cho đổi mới thành công, nền kinh tế phát triển bền vững; vừa phù hợp
với cam kết quốc tế; lại có khả năng khắc phục những tiêu cực, rủi ro do hội nhập đem
lại. Nhìn chung, nếu không vượt qua được những thách thức này, chúng ta không thể
có chủ nghĩa xã hội trong thực tế. Mặt khác, toàn cầu hoá đang bị chủ nghĩa tư bản chi
phối trên các lĩnh vực : thị trường, khoa học – công nghệ và vốn. Các nước tư bản
đang mưu toan ding những lợi thế này để gây sức ép đối với chúng ta. Thực tế này đe
doạ tấn công vào chủ quyền quốc gia, là xói mòn các giá trị văn hoá truyền thống của
dân tộc, đe doạ sự ổn định về kinh tế và xã hội của đất nước. Hơn bao giờ hết, chúng ta
cần tỉnh táo trong từng bước hội nhập, cần phân tích tính hai mặt của toàn cầu hoá để
nhận thức được những mặt, những xu hướng, những tác động, những quy luật vận
động của nó. Trên cơ sở đó chủ động tìm ra con đường, cách thức biện pháp phù hợp
trong từng bước hội nhập để tiếp tục con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa trong bối cảnh mới.
5. Những quan điểm chỉ đạo trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta :
Từ những điều nói trên, chúng ta có thể khái quát và nhấn mạnh một số quan
điểm chủ yếu cần quán triệt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta như
sau :
Thứ nhất chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định
hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc, bảo vệ môi trường” (Trích Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
– trang 120)
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; trong quá trình
hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực các thành phần kinh tế của toàn xã
hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Thứ ba, hội nhập kinh tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh,
vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh
hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp,
thời điểm cụ thể; đồng thời vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải
chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng.
Thứ tư, cần nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế
hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp
ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia; tranh thủ những
ưu đãi giành cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ
kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường.
Cuối cùng, cần kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu
giữ vững ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng; thông qua hội nhập để tăng cường
sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh
giác với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ “diễn biến hoà bình”
với nước ta.
Phần 2
Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
I. Các bước đi của ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Năm 1993, chúng ta khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc
tế như IMF, WB, ADB. IMF, WB đã hỗ trợ cho ta thông qua Chương trình tín dụng
trung han; Chương trình điều chỉnh cơ cấu (SAC) của WB và chương trình điều chỉnh
cơ cấu mở rộng (ESAF) của IMF. Nội dung đàm phán với các tổ chức này gắn bó mật
thiết với những yêu cầu của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong quan hệ với
các tổ chức này, chúng ta chỉ chấp nhận sự hỗ trợ tài chính nếu yêu cầu của họ không
trái với đường lối chính sách của ta; có năm điều kiện họ đưa ra vi phạm chủ quyền và
lợi ích của ta nên ta không nhận.
Ngày 25/7/1995, nước ta đã chính thức gia nhập ASEAN, đồng thời tham gia
khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Từ ngày 1/1/1996, chúng ta bắt đầu thực
hiện nghĩa vụ và các cam kết trong chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
(CEFT) của AFTA. Cụ thể, khi tham gia vào AFTA, Việt Nam có nghĩa vụ giảm thuế
suất xuống còn 0 – 5 % vào năm 2006 và sau đó tiếp tục giảm thuế xuống 0% vào
năm 2015. Bên cạnh đó Việt Nam phải thực hiện lộ trình loại bỏ các hạn chế về định
lượng và hàng rào phi thuế quan khác; xây dựng một danh mục biểu thuế quan chung
ASEAN; xây dựng hệ thống luồng xanh hải quan theo GATT/WTO và xây dựng hệ
thống luồng xanh hải quan nhằm tạo điều kiện thúc đẩy thương mại. Ngoài ra chúng ta
còn tham gia đàm phán hiệp định thương mại dịch vụ, tham gia chương trình hợp tác
công nghiệp (AICO) và khu vực đầu tư ASEAN (AIA) cũng như các chương trình hợp
tác trong công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải…của ASEAN.
Tháng 3/1996 nước ta tham gia diễn đàn hợp tác á - âu (ASEM) với tư cách là
thành viên sáng lập. Nội dung chủ yếu tập trung vào thuân lợi hoá thương mại, đầu tư
và hợp tác giữa các nhà doanh nghiệp á - âu. Cam kết về tự do hoá thương mại đầu tư
chưa được đặt ra.
Ngày 15/6/1996, Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế
Châu á - thái Bình Dương (APEC). Tháng 11/1998 đã được công nhận là thành viên
chính thức của tổ chức này. APEC quyết định thực hiện hội nhập đầy đủ vào năm
2010 đối với thành viên là các nước phát triển và vào năm 2020 đối với các nước đang
phát triển (trong đó có Việt Nam).
Tháng 12/1994, ta gửi đơn xin gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Mười năm kể từ khi nộp đơn gia nhập tổ chức này, Viêt Nam đã đạt được những bước
tiến nhất định. Và mới đây, chúng ta vừa mới kết thúc phiên đàm phán đa phương thứ
10 tại Geneva (Thuỵ Sĩ). Tại phiên họp này chúng ta đã nhận được sự ủng hộ rất lớn
của các nước thành viên, đặc biệt là Trung Quốc. Việt Nam hiện đang ở ngưỡng cửa
chính thức bước vào ngôi nhà chung của đại gia đình 148 thành viên của Tổ chức
thương mại lớn nhất hành tinh này. Theo các chuyên gia nước ngoài để gia nhập WTO
vào cuối năm nay tại Hội nghị các Bộ trưởng WTO ở Hồng Kông chúng ta phải cơ bản
kết thúc đàm phán song phương và đa phương vào quãng tháng 6 – 7 trong đó có
những đối tác rất lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản. Tuy nhiên, việc này thực hiện
còn gặp nhiều khó khăn bởi vẫn còn nhiều đối tác nước ngoài muốn gây sức ép cho ta.
Thế nên, đến giờ, thời hạn để ta gia nhập WTO vẫn là một câu hỏi lớn.
II. Các kết quả bước đầu đạt được của nước ta trong tiến trình hội nhập
Trước tình hình kinh tế thế giới đang phát triển một cách mạnh mẽ, xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế tất yếu của quan hệ kinh tế thế giới hiện đại.
Việt Nam không thể tránh khỏi tầm ảnh hưởng của xu thế tất yếu này và cũng không
muốn bị tụt lùi hơn nữa. Kết quả là sự thay đổi cơ chế, buộc Việt Nam phải bắt nhịp
với sự phát triển của thế giới. Một hệ thống chính trị đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa nhưng hoạt động kinh tế thị trường với chính sách hợp lí, mềm dẻo, mở cửa để
hội nhập, các hoạt động đối ngoại mở rộng, đa phương, song phương từng bước tham
gia vào các diễn đàn kinh tế lớn, mở rộng quan hệ ngoại giao, từ đó thiết lập các mối
quan hệ hàng hoá thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế.
Nhờ đó mà chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định mà trước hết là
chúng ta đã đẩy lùi được chính sách bao vây cô lập, cấm vận của các thế lực thù địch,
tạo dựng được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế đất nước trên chính trường và thương trường thế giới.
Nước ta đã khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do Liên Xô và hệ
thống xã hội chủ nghĩa bị tan rã và cuộc khủng hoảng khu vực gây nên, đồng thời mở
rộng thị trường xuất nhập khẩu.
Trong gần 20 năm đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu kinh tế
rõ rệt, một nền kinh tế thị trường đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã dần được
hình thành và tiến từng bước tăng trưởng và phát triển.
Trong những năm qua nền kinh tế nước ta tăng trưởng khá nhanh và toàn
diện, năm sau cao hơn năm trước.
Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004
Tăng GDP 4,8% 6,8% 6,8% 7,0% 7,2% 7,7%
Bảng thể hiện tỉ lệ tăng trưởng kinh tế qua các năm. Như vậy là vào năm 2004,
Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng cao của khu vực, tăng khá cao với thời gian trước đó
và cũng là mức cao nhất so với 6 năm trước đó. Đặc biệt là so với năm 1990 về giá trị
GDP lớn gấp trên 2,74 lần, về công nghiệp gấp gần 6,5 lần, về xuất khẩu gấp gần 10,8
lần. Thu nhập bình quân đầu người cũng nhờ thế mà tăng lên đáng kể, nếu năm…….
là 100USD/năm thì đến năm 2004 đã đạt 400USD/người/năm. Kết quả nói trên có
được là do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là do việc chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế mang lại. Trong những năm qua cơ cấu ngành kinh tế đã
chuyển dịch theo hướng: tỷ trọng của khu vực nông lâm nghiệp – thuỷ sản đã giảm từ
38,74% năm xuống còn 21,76% năm 2004, tức là giảm trên 1,1% /năm. Trong khi đó
tỉ trọng của khu vực công nghiệp xây dựng đã tăng nhanh từ 22,67% năm 1990 lên
40,09% năm 2004, tức là tăng gần 1,2%/ năm. Tỉ trọng dịch vụ đạt đỉnh cao nhất vào
năm 1999(44,06%) nhưng đã giảm 8 năm liền: năm 2003 chỉ còn 38%, năm 2004 đã
tăng lên 38,15% - đã có dấu hiệu chặn được sút giảm tỉ trọng dịch vụ trong GDP.
Bên cạnh đó, chúng ta từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền
kinh tế vào môi trường cạnh tranh, nhờ đó tạo được tư duy làm ăn mới, thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều doanh nghiệp đã nỗ lực đổi mới công nghệ, đổi mới
quản lý, nâng cao năng suất và chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh tranh và
phát triển, và thực tế sức cạnh tranh của họ cũng được nâng lên đáng kể. Một tư duy
mới, một nếp làm ăn mới, lấy hiệu quả sản xuất và kinh doanh làm thước đo, một đội
ngũ các doanh nghiệp năng động sáng tạo có kiến thức quản lý đang hình thành.
Hơn nữa chúng ta cũng đang từng bước tiếp thu khoa học công nghệ, kỹ năng
quản lý, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh. Hội nhập kinh
tế quốc tế đã tạo cơ hội để nước ta tiếp cận với những thành quả của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Nhiều công nghệ hiện
đại, dây chuyền sản xuất tiên tiến được sử dụng đã tạo nên bước phát triển mới trong
các ngành sản xuất. Cùng với đó thông qua các dự án liên doanh hợp tác với nước
ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản lý sản
xuất hiện đại.
Đồng thời, các lĩnh vực xã hội như giải quyết việc làm, nâng cao đời
sống của đông đảo quần chúng nhân dân, phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế,
thể dục thể thao, xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh tế – xã hội cho các vùng sâu, vùng xa,
dân tộc thiểu số đã được quan tâm phát triển để từng bước đồng bộ với phát triển kinh
tế. Cụ thể: mỗi năm có hơn 1,2 triệu lao động mới có việc làm. Tỉ lệ hộ nghèo từ trên
30% giảm xuống còn 10%. Người có công với cách mạng, với đất nước được quan
tâm, chăm sóc. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm từ 2,3% giảm xuống 1,4%. Tuổi
thọ bình quân từ 65,2 tuổi lên 68,3 tuổi. Đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
chúng ta đã đạt được thành tựu to lớn. Nếu thời Pháp thuộc tỉ lệ dân số đi học mới chỉ
đạt 2%, tiểu học là 0,4%, số người học đại học không quá 1000 người, 95% dân số mù
chữ. Thì gần 50 năm sau, năm 1999, chúng ta có 16.508.452 học sinh, số sinh viên là
401.666 người. Đặc biệt là năm 2000 Việt Nam đã hoàn thành giáo dục phổ cập bậc
tiểu học. Có được kết quả trên là do nhiều nguyên nhân. Trong đó một trong những
nguyên nhân có vai trò quyết định đó là việc tăng ngân sách trong lĩnh vực giáo dục
trong cơ cấu chi tiêu của chính phủ. Năm 1997, tỉ lệ ngân sách chi cho giáo dục chiếm
11,6% tống số chi ngân sách, năm 1998 là 11,86%, năm 1999 là 12,4%. Nhờ thế năng
lực nghiên cứu khoa học được tăng cường, ứng dụng nhiều công nghệ tiên tiến. Các
hoạt động văn hoá thông tin phát triển rộng rãi và nâng cao chất lượng, góp phần tích
cực động viên toàn dân tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao kiến thức và
chất lượng cuộc sống. Phong trào thể dục, thể thao rèn luyện sức khỏe phát triển, thành
tích thi đấu thể thao trong nước và quốc tế được nâng lên.
Việc xây dựng luật pháp và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN)
tiếp tục được chăm lo, dân chủ xã hội được mở rộng. Công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củng cố. Nhiều Nghị quyết Trung ương
đã đề ra những chủ trương, giải pháp củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán
bộ, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn
thiện, nền hành chính được cải cách một bước. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân
dân tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động. Quyền làm chủ của nhân dân
trên các lĩnh vực được phát huy, một số chính sách và quy chế đảm bảo quyền dân chủ
của nhân dân, trước hết ở cơ sở, bước đầu được thực hiện, lòng tin của nhân dân được
củng cố.
Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế được
tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt. Nước ta đã tăng cường quan hệ hữu nghị,
hợp tác nhiều mặt với các nước XHCN, các nước láng giềng, và các nước bạn truyền
thống… Nhà nước đã thi hành một loạt các biện pháp để thúc đẩy tiến trình mở cửa và
hội nhập kinh tế quốc tế. Tháng 12 – 1987, nước ta thông qua luật đầu tư nước ngoài ở
Việt Nam. Năm 1989, Việt Nam đã mở các cuộc đàm phán để nối lại quan hệ ngoại
giao với Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới, và đến tháng 10 – 1993 đã bình
thường hoá quan hệ tín dụng với hai tổ chức tài chính, tiền tệ lớn nhất thế giới này.
Tháng 7 – 1995, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và từ ngày 1 – 1 – 1996 bắt
đầu thực hiện cam kết trong khuôn khổ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN, tức là
AFTA. Cũng tháng 7 – 1995, Việt Nam đã kí kết hiệp định khung về hợp tác kinh tế,
khoa học, kĩ thuật và một số lĩnh vực khác với Cộng đồng Châu Âu, đồng thời bình
thường hoá quan hệ với Mĩ. Tháng 3 – 1996, Việt Nam tham gia với tư cách thành
viên sáng lập ASEM. Tháng 11 – 1998, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức
của APEC. Tháng 7 – 2000, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã được ký
kết. Trước đó, từ cuối năm 1994, Nhà nước đã gửi đơn xin gia nhập Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) và hiện đang trong quá trình đàm phán để được kết nạp vào tổ
chức này. Ngoài ra, Việt Nam còn sẵn sàng mở rộng các cảng, cảnh quốc tế. Chính vì
vậy, hiện nay nước ta đã có quan hệ thương mại với hơn 140 nước, quan hệ đầu tư với
gần 70 nước và vùng lãnh thổ, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, uy
tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được mở rộng.
Tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định quốc phòng và an ninh được tăng
cường. Các lực lượng vũ trang nhân dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc gia. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng
toàn dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển đảo được phát huy. Tổ
chức quân đội và công an được điều chỉnh theo yêu cầu mới. Việc kết hợp quốc phòng
và an ninh với phát triển kinh tế và công tác đối ngoại có tiến bộ. Vì vậy đã tạo môi
trường thuận lợi, an toàn cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Như vậy, chúng ta đã kết hợp khá tốt nội lực với ngoại lực, hình thành sức
mạnh tổng hợp góp phần đưa đến những thành tựu kinh tế to lớn và nhờ đó giúp chúng
ta tiếp tục giữ vững, củng cố độc lập tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa, an ninh
quốc gia, bản sắc văn hoá dân tộc. Thực hiện hội nhập thời gian qua cho thấy : Đảng ta
và Nhà nước ta có đủ bản lĩnh khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, khai thác các
lợi thế trên thị trường thế giới, bảo đảm sự phát triển của đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
III. Những yếu kém và hạn chế còn tồn tại cần giải quyết trong thời gian tới
Tuy nhiên, những thành tựu và tiến bộ đã đạt được chưa đủ để vượt qua tình
trạng nước kém phát triển, chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Trình độ phát
triển kinh tế của nước ta còn thấp xa so với mức trung bình của thế giới và kém nhiều
nước xung quanh. Thực trạng kinh tế – xã hội vẫn còn những mặt yếu kém, bất cập,
chủ yếu là:
Kinh tế tuy tăng khá nhưng vẫn chưa đạt nhịp độ tăng trưởng Đại hội 9 đề ra và
vẫn chưa đạt mức tăng trưởng cao như những năm giữa thập niên 90.
Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 2002 2003 2004
Tăng GDP 8,7% 8,1% 8,8% 9,5% 9,3% 8,8% 7,0% 7,2% 7,7%
Chỉ tiêu do Đại hội Đảng IX đề ra là đưa GDP năm 2005 gấp 2 lần so với năm
1995. Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm thời kì 5 năm 2001 – 2005 là
7,5%. Trong khi đó, năm 1995 có mức tăng trưởng GDP là 9,5% như vậy để đạt được
chỉ tiêu của Đại hội IX thì năm 2005 phải đạt 19%, là một điều rất khó thực hiện đối
với nước ta lúc này. Nền kinh tế kém hiệu qủa và sức cạnh tranh yếu. Tích luỹ nội bộ
và sức mua trong nước còn thấp. Nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước để phát
triển kinh tế chưa được phát huy và sử dụng tốt. Thất thoát trong quản lý kinh tế còn
rất nghiêm trọng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, gắn sản xuất với thị trường, cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lí. Vì vậy chưa
tận dụng được lợi thế về ổn định chính trị – xã hội để thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu
tư nước ngoài.
Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm được giải quyết. Tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị
và thiếu việc làm ở nông thôn còn ở mức cao (6,4%) và đang là một trong những vấn
đề nổi cộm nhất của xã hội. Chất lượng giáo dục và đào tạo thấp so với yêu cầu. Trong
giáo dục có những hiện tượng tiêu cực đáng lo ngại. Đào tạo chưa gắn với sử dụng,
gây lãng phí. Giáo dục và đào tạo ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn.
Các hoạt động khoa học và công nghệ chưa đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Môi trường đô thị, nơi công
nghiệp tập trung và một số vùng nông thôn bị ô nhiễm ngày càng nặng. Mức sống
nhân dân, nhất là nông dân ở một số quá thấp. Các tệ nạn xã hội, nhất là nạn ma tuý và
mại dâm lan rộng. Cùng với đó là tình trạng buông lỏng quản lý theo pháp luật. Rừng
và tài nguyên khác bị xâm hại nghiêm trọng. Nạn buôn lậu, làm hàng giả, gian lận
thương mại tác động xấu đến tình hình kinh tế – xã hội. Hệ thống tài chính – ngân
hàng còn yếu kém và thiếu lành mạnh. Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên là rất nghiêm
trọng. Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến.
Nhận thức của Đảng về một số các vấn đề quan trọng trong đường lối đổi mới
chưa thống nhất cao nên đổi mới chưa đủ mạnh mẽ, cương quyết. Trong cán bộ đảng
viên có những cách hiểu và cách làm không thống nhất về những vấn đề như: xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế
Nhà nước, đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước, cổ phần hoá doanh nghiệp
Nhà nước, chính sách về đất đai…Việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương,
chính sách của Đảng chưa tốt; kỉ luật, kỉ cương chưa nghiêm. Cải cách hành chính tiến
hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Công tác tư tưởng, công tác lí luận, công
tác tổ chức, cán bộ có nhiều yếu kém, bất cập.
Chưa làm rõ nội dung xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN,
chậm phát triển đồng bộ các loại thị trường. Có phần thiếu chủ động trong hội nhập
kinh tế quốc tế, chậm cải tiến tôt môi trường đầu tư để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Lại thêm tư tưởng bảo hộ còn nặng nề. Doanh nghiệp của ta còn yếu cả về sản xuất,
quản lí và khả năng cạnh tranh. Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo động
lực mạnh để phát triển. Đầu tư của Nhà nước còn thất thoát và lãng phí. Cơ chế, chính
sách về thị trường tài chính, tiền tệ chưa đồng bộ.
Chưa làm tốt công tác chuẩn bị khi công cuộc hội nhập quốc tế chuyển qua một
bước mới. Tuy chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế đã được khẳng định trong nhiều
Nghị quyết của Đảng và trên thực tế đã được thực hiện từng bước, nhưng nhận thức
hội nhập chưa đạt được sự nhất trí cao, ảnh hưởng tới quá trình đề xuất chính sách và
triển khai thực hiện. Hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá
đang phát triển mang lại cả thời cơ lẫn thách thức lớn, trong khi đó, nền kinh tế nước
ta còn yếu, tư tưởng bảo hộ còn nặng nề, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới
quản lý và cải tiến công nghệ diễn ra chậm chạp. Nếu không kịp thời khắc phục sẽ bị
thua thiệt, thậm chí còn bị tụt hậu xa hơn. Thiếu sót đáng kể là công tác nghiên cứu
triển khai chậm, chất lượng thấp. Cho đến nay, ở nước ta còn chưa hiểu thật sâu, chưa
nắm thật vững toàn bộ định chế của các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu, nhất là
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và nhiều văn kiện pháp lý khác mà nước ta cần
vận dụng khi gia nhập tổ chức này. Công tác hội nhập quốc tế mới cần tập trung triển
khai chủ yếu ở các cơ quan Trung ương; sự tham gia của các ngành, các cấp tuy có
được đặt ra nhưng còn yếu và chưa đồng bộ, do đó chưa tạo được sức mạnh cần thiết
trong quá trình hội nhập quốc tế.
Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế
quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết quốc tế. Thời gian qua
chúng ta vừa tiến hành hội nhập, vừa triển khai nghiên cứu những nội dung cam kết để
xác định chủ trương, phương hướng hành động nhưng thường bị động đối phó với
nhiều khuyến nghị do các đối tác nước ngoài nêu ra; không có đủ cơ sở để hướng dẫn
các doanh nghiệp xây dựng chương trình cải tiến quản lý, nâng cao khả năng cạnh
tranh, chủ động vươn ra thị trường khu vực và thế giới.
Luật pháp, chính sách quản lý kinh tế thương mại chưa hoàn chỉnh. Luật pháp,
chính sách là công cụ để đảm bảo hội nhập thành công, kinh tế phát triển. Các hoạt
động hợp tác kinh tế thương mại quốc tế đang diễn ra theo thể chế kinh tế thị trường,
theo xu thế thuận lợi hoá, tự do hoá, theo “luật chơi” của các thể chế kinh tế quốc tế và
khu vực. Nhưng hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách của ta chưa hoàn chỉnh,
không đồng bộ, gây nhiều khó khăn cho ta khi đáp ứng các cam kết của các tổ chức
kinh tế quốc tế. Việc hoàn chỉnh luật pháp và chính sách của ta phải phù hợp với thông
lệ quốc tế và những quy tắc của các tổ chức mà nước mình tham gia, vừa phù hợp với
đặc thù của nước ta, đặc biệt là bảo đảm được định hướng xã hội chủ nghĩa. Ta cũng
chưa nghiên cứu sâu để đề xuất những biện pháp chính sách cần thiết, những cách làm
khôn khéo, hợp lý nhằm tận dụng những ưu đãi mà quốc tế dành cho nước đang phát
triển và kém phát triển như quy chế tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia, chế độ hạn ngạch
thuế quan, quyền tự vệ, chống bán phá giá… bảo vệ lợi ích của ta.
Doanh nghiệp của ta còn yếu cả về sản xuất, quản lý và khả năng cạnh tranh.
Doanh nghiệp nước ta hầu hết quy mô nhỏ, yếu kém cả về hai mặt quản lý và công
nghệ, lại hình thành và hoạt động quá lâu trong cơ chế bao cấp. Chúng ta chưa tạo đủ
cơ chế, biện pháp có hiệu lực nhằm kích thích các doanh nghiệp gắn sự tồn tại và phát
triển của mình với việc cải tiến sản xuất kinh doanh với khả năng cạnh tranh trên
thương trường quốc tế.
Một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ công chức còn nhiều yếu kém, bất cập
về trình độ chuyên môn và năng lực điều hành công việc, chưa tương xứng với cương
vị và trách nhiệm được giao, một số không ít cán bộ thoái hoá về phẩm chất; chạy theo
sự cám dỗ vật chất, sống thực dụng, cửa quyền, hối lộ, sách nhiễu, tham nhũng,…ảnh
hưởng rất xấu tới uy tín của Đảng và Nhà nước, nhân dân chê trách, gây cản trở lớn
cho sự nghiệp phát triển đất nước. Đồng thời đội ngũ công nhân lành nghề và có thể
lực tốt còn ít. Tình trạng thừa thầy, thiếu thợ diễn ra rất phổ biến trong nhiều nganh
nghề. Do cách tổ chức và quản lí lao động đã dẫn đến thói “hư danh”; sưu tầm bằng
cấp, xin học hàm, chạy học vị,…Không những vậy trong cơ cấu độ tuổi của lao động,
số lao động trẻ (từ 15 đến 29 tuổi), lứa tuổi chủ lực của nguồn lao động và rất dễ dàng
tiếp cận với tiến bộ khoa học kĩ thuật của thế giới cũng đang diễn ra tình trạng: thiếu
đầu óc kinh doanh hiện đại, cung cách làm ăn lớn; tính toán nhìn xa trông rộng, táo
bạo nhạy cảm và năng động với cái mới, thích ứng mau lẹ để xoay chuyển tình thế khi
gặp khó khăn; miệt mài học tập, ngẫm nghĩ sâu sắc mọi vấn đề. Tất cả những nhược
điểm trên đây đã trở thành lực cản không cho phép chúng ta tiến nhanh.
IV. Các kiến nghị đề xuất trên phương diện triết học để hạn chế các nhược điểm và
phát huy những mặt tích cực của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta
Từ những điều nói trên, chúng ta cần quán triệt và thực hiện tốt một số vấn đề
cơ bản sau đây trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta:
Thứ nhất là phải thống nhất được nhận thức về nhu cầu tất yếu phải hội nhập
kinh tế, coi hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những nhiệm vụ then chốt trong hoạt
động kinh tế, nhằm phục vụ lợi ích chung của đất nước. Vấn đề thống về nhận thức có
ý nghĩa rất quan trọng, vì hội nhập kinh tế quốc tế với trọng tâm là mở cửa, thực hiện
tự do hoá thương mại sẽ làm xuất hiện nhiều mâu thuẫn cục bộ. Chẳng hạn, mâu thuẫn
giữa xu bảo hộ với xu hướng tự do hoá; nhiều doanh nghiệp còn yếu kém không đủ
sức cạnh tranh, ngại phải thay đổi cách làm cũ, vẫn muốn nhà nước tiếp tục bảo hộ;
mâu thuẫn giữa tăng nguồn thu ngân sách qua thuế nhập khẩu với việc giảm dần các
hàng rào thuế quan, phi thuế quan khi thực hiện tự do hoá sẽ làm giảm nguồn thu ngân
sách…Những mâu thuẫn đó làm cho qúa trình hội nhập kinh tê quốc tế vấp phải không
ít trở ngại khi đi vào các vấn đề cụ thể. Thế nên, chỉ khi nào nhận thức thông suốt thì
mới có đủ ý chí, bản lĩnh, quyết tâm và sức mạnh để thật sự đưa vấn đề hội nhập kinh
tế quốc tế vào cuộc sống, vào suy nghĩ, vào kế hoạch, chương trình hành động, chiến
lược phát triển của Nhà nước.
Thứ hai, cần có cơ sở vững vàng về chính trị, ổn định xã hội, phát huy nội lực,
phát triển kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của cả nền kinh tế, của từng ngành và từng
doanh nghiệp. Muốn vậy, chúng ta phải đánh giá lại tiềm lực kinh tế của đất nước
trong mọi lĩnh vực, ngành hàng; nghiên cứu lợi thế so sánh giữa nước ta với khu vực
và các nước khác…Từ đó xây dựng cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công
nghiệp hoá hiện đại hoá, mở cửa hội nhập; xây dựng chiến lược phát triển, mở rộng thị
trường trong và ngoài nước; xác định ngành mũi nhọn cần ưu tiên đầu tư phát
triển…Nhà nước cần tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; xây dựng hành lang pháp
lý vừa chặt chẽ lại vừa thông thoáng; xác định lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực
hiện các cam kết đã và sẽ ký kết tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh…
Thứ ba là chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới một cách có chọn
lọc. Nắm vững các văn kiện, thông lệ quốc tế. Không bỏ sót, bỏ lỡ cơ hội nhưng cũng
không nên quá nôn nóng, quan hệ hợp tác với nhiều quốc gia, tránh để bị lệ thuộc vào
một quốc gia, một thế lực nào đó. Sớm có chủ trương, chính sách và triển khai việc
chuyển đổi cơ cấucủa nền kinh tế theo định hướng xuất khẩu, nhằm tạo ra các mặt
hàng xuất khẩu đủ lớn về số lượng, đạt tiêu chuẩn về chất lượng, có sức cạnh tranh
cao. Đồng thời, nhằm tạo ra một đội ngũ doanh nghiệp có đủ quy mô và năng lực, tất
cả những yếu tố này cùng với môi trường pháp lý thông thoáng sẽ tạo thành một sức
mạnh tổng hợp nâng cao sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong quá
trình hội nhập.
Thứ tư là chúng ta cần tiếp cận, dần dần đi vào kinh tế tri thức. Nếu không có
tri thức, không phát triển nguồn trí lực đủ tầm sẽ rất khó chủ động trong hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực cũng như trong quan hệ chung với thế giới hiện đại. Bởi tri thức
hiện đóng vai trò số một trong các nguồn lực phát triển kinh tế. Kinh tế tri thức tạo ra
những cơ hội cho các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng vươn lên rút
ngắn khoảng cách với các nước phát triển.
Tiếp đó, ta cần thu nhập, cập nhật thông tin về tình hình kinh tế, tài chính,
thương mại thế giới, tìm hiểu kĩ thị trường thế giới, dự báo triển vọng, xu hướng biến
động và phát triển của nó. Cần nắm vững các văn kiện, thông lệ quốc tế, hệ thống pháp
luật, các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế, các cam kết quốc tế…để có thể chủ
động, tránh bị ép trong khi đàm phán, ký kết các cam kết; không bỏ sót, bỏ lỡ mà có
thể khai thác triệt để, tận dụng quyền lợi, những ưu tiên, ưu đãi dành cho chúng ta
trong quá trình hội nhập. Từ đó tìm được tiếng nói chung về một vấn đề, một lĩnh vực
nào đó để tranh thủ càng nhiều càng tốt sự ủng hộ, đồng tình, hợp tác của các đối tác
cùng chung lợi ích.
Thứ năm là xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực và
bản lĩnh vững vàng. Nhân tố con người là yếu tố quyết định nhất trong các khâu, các
hoạt động phục vụ cho hội nhập kinh tế quốc tế.
Cuối cùng, đó là việc giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, phát huy
được những giá trị ưu tú của dân tộc, đảm bảo cho sự phát triển hài hoà và lành mạnh
của đất nước. Đồng thời cũng cần chọn lọc tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân
loại để làm giàu thêm bản sắc văn hoá dân tộc, xem đó là nhân tố cực kì quan trọng
khơi dậy các tiềm năng sáng tạo, làm nên những giá trị vật chất và tinh thần mới.
Chúng ta kiên quyết phản đối sự tiếp nhận xô bồ mọi thứ gọi là “tân kì” của văn hoá
ngoại lai mà không phân biệt hay dở, tốt xấu, để đi đến chỗ mất gốc và lai căng về văn
hoá, gây hậu quả xấu về tư tưởng, đạo đức, lối sống.
LờI KếT
Ngày nay, trong thế giới luôn luôn có biến động không ngừng, xu thế hội nhập,
toàn cầu hoá đang nổi lên chiếm vị trí chủ đạo khuynh hướng phát triển của thế giới
trong thời gian tới. Mỗi quốc gia đều hiểu rằng không thể đứng ngoài xu thế phát triển
chung của thế giới hội nhập mở cửa đồng nghĩa hoà nhập trong xu thế đi lên của xã
hội loài người; đóng cửa, biệt lập cũng đồng nghĩa với bảo thủ, tự giảm khả năng phát
triển. Và trong quá trình hội nhập các quốc gia phải có biện pháp cụ thể để tận dụng ở
mức tốt nhất những cơ hội để phát triển. Việt Nam cũng không thể đứng ngoài mục
đích này. Nhưng với một tiềm lực kinh tế còn hạn chế, Việt Nam đứng trước những
thử thách, khó khăn to lớn. Trong đó nổi bật là nguy cơ tụt hậu khoảng cách phát triển
với các quốc gia tiên tiến ngày càng mở rộng hơn. Đây là hạn chế, khó khăn căn bản
bởi vì củng cố tiềm lực kinh tế càng mạnh sẽ có cơ hội trong việc giữ vị thế, tiếng nói
chủ động trong quá trình hội nhập và đặc biệt thương mại quốc tế. Tuy nhiên với thành
tựu đạt được qua thời gian gần 20 năm đổi mới cùng với chủ trương đúng đắn phát huy
nội lực trong phát triển kinh tế, nước ta sẽ vượt qua khó khăn để đạt mục tiêu tới năm
2020 trở thành quốc gia công nghiệp và xa hơn nữa, vươn lên sánh kịp với các quốc
gia trong khu vực và trên thế giới như Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Tài liệu tham khảo
Tác phẩm kinh điển của Mac – Anghen – Lênin
Các tác phẩm của các vị lãnh tụ Lênin, Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX
Báo nhân dân ngày 18 tháng 4 năm 2002
Báo nhân dân ngày 18 tháng 9 năm 2002
Báo nhân dân ngày 6 tháng 5 năm 2002
Đưa nghị quyết Đại hội IX của Đảng vào cuộc sống số 16 tháng8 - 2001
Đưa nghị quyết Đại hội IX của Đảng vào cuộc sống số 21 tháng11 - 2001
Đưa nghị quyết Đại hội IX của Đảng vào cuộc sống số 24 tháng 12 - 2001
Đưa nghị quyết Đại hội IX của Đảng vào cuộc sống số 33 tháng 11 – 2002
Tạp chí cộng sản số 2 năm 2001
Tạp chí cộng sản số 4 năm 2001
Tạp chí cộng sản số 12 tháng 6 năm 2001
Tạp chí cộng sản số 9 tháng 3 năm 2002
Tạp chí cộng sản số 17 tháng 6 năm 2002
Tạp chí cộng sản số 32 tháng 11 năm 2002
Tạp chí Công nghiệp Việt Nam số 3/2001
Tạp chí kinh tế – dự báo số 4/2001
Triết học số 2 (129) tháng 2 – 2002
Kinh tế phát triển số 44/2001
Tạp chí con số – sự kiện số 6/2002
Tạp chí pháp luật Việt Nam số 29 ngày 3 – 2 -2005
Báo sinh viên Việt Nam số 19 năm 2005
Mục lục
Lời mở đầu .......................................................................................................................... 1
Phần 1. Cơ sở của đề tài ....................................................................................................... 4
I. Cơ sở lý luận ............................................................................................................. 4
1. Lý luận triết học ................................................................................................................... 4
2. Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan của các nước trong giai đoạn
hiện nay ............................................................................................................................... 5
II. Cơ sở thực tế : ........................................................................................................... 8
1. Tình hình quốc tế và khu vực làm nảy sinh và phát triển quá trình hội nhập......................... 8
2. Hội nhập kinh tế với các nước đang phát triển ................................................................... 10
3. Sự hình thành tất yếu của chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta .......................... 14
4. Nhận định về những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trên con đường hội nhập
kinh tế quốc tế. .................................................................................................................. 16
4.1. Những cơ hội mà Việt Nam có được khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế .......... 16
4.2. Những thách thức mà chúng ta gặp phải trên con đường hội nhập ........................ 17
5. Những quan điểm chỉ đạo trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta .................... 19
Phần 2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu ......................................................................... 19
I. Các bước đi của ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế..................................... 20
II. Các kết quả bước đầu đạt được của nước ta trong tiến trình hội nhập ...................... 21
III. Những yếu kém và hạn chế còn tồn tại cần giải quyết trong thời gian tới ................ 25
IV. Các kiến nghị đề xuất trên phương diện triết học để hạn chế các nhược điểm và
phát huy những mặt tích cực của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta ................... 29
Lời kết ............................................................................................................................... 32
Tài liệu tham khảo ............................................................................................................. 33
Mục lục ............................................................................................................................. 34
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 45_4911.pdf