Sự hoàn thiện về cơ chế thực thi trong luật nhân quyền quốc tế thể hiện ở xu hướng tài
phán hóa.
Đối với nhiều văn kiện, hình thức và hoạt động của cơ quan tài phán thường được nêu ra
trong các nghị định thư đi kèm, cấu thành một bộ phận quan trọng không thể thiếu của mỗi cơ
chế nhân quyền ở tầm khu vực và trên thế giới. Đây trở thành một xu thế chung cho sự phát
triển, đảm bảo việc thực thi nhân quyền được chặt chẽ và hiệu quả hơn. Hiệu quả của các cơ chế
tài phán này không chỉ ở tác dụng giám sát, điều tra và xét xử, mà hiệu quả trước hết là ngăn
ngừa và răn đe những hành vi vi phạm nhân quyền ởcác quốc gia trên thế giới.
13 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2407 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Xu hướng thực tế không áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong công ước về nhân quyền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
Xu hướng thực tế không áp dụng nguyên tắc có
đi có lại trong công ước về nhân quyền
1
I. Đặc điểm của các quy phạm về nhân quyền
Các quy phạm về nhân quyền chủ yếu điều chỉnh quan hệ giữa cá nhân và chính phủ. Cụ thể các
quy phạm này quy định nghĩa vụ quốc tế của các quốc gia phải tôn trọng và bảo đảm các nhân
quyền của mọi cá nhân trên lãnh thổ hoặc trong phạm vi thẩm quyền của các quốc gia đó.
Nhân quyền bao gồm các quy phạm hình thành một tiêu chuẩn tối thiểu hơn là đưa ra các yêu
cầu tốt nhất. Điều này được hiểu là các quy phạm nhân quyền đưa ra chỉ đưa ra các tiêu chuẩn tối
thiểu mà bất kỳ con người nào cũng được hưởng chứ không đưa ra những tiêu chuẩn đảm bảo
cho con người một cuộc sống tốt nhất về mọi mặt.
Các quy phạm về nhân quyền hình thành nên một nghành luật quan trọng của luật quốc tế ràng
buộc các quốc gia và bảo vệ tất cả mọi người. Một số quy phạm nhân quyền là các quy phạm jus
cogen như các quy phạm chống tra tấn, diệt chủng, buôn bán nô lệ, cướp biển.1 Một số khác thì
được quy định trong các công ước như Điều 4 Công ước về quyền chính trị dân sự (ICCPR) quy
định quyền được sống, tự do tư tưởng, ý chí và tôn giáo, quyền được công nhận trước pháp
luật,… như những quyền không thể bị vi phạm, tước bỏ.
Các quy phạm về nhân quyền không hoàn toàn tuyệt đối về mức độ áp dụng. Bên cạnh các quyền
được áp dụng một cách tuyệt đối tại tất cả các quốc gia còn có các quyền mà mức độ áp dụng
khác nhau tùy điều kiện của từng quốc gia. Ví dụ Điều 2(3) Công ước về Quyền kinh tế, xã hội
văn hóa cho phép các quốc gia đang phát triển quyết định phạm vi bảo đảm các quyền kinh tế
quy định trong Công ước.
Các quy phạm về nhân quyền được bảo đảm thực thi chủ yếu dựa vào ý chí của quốc gia do thiếu
cơ chế thực thi hiệu quả cũng như do tính tương đối trong áp dụng các quy phạm. Hiện nay học
thuyết ngoại lệ (exceptionalism) được nhiều nước viện dẫn để biện minh cho những hành động
của mình. Ví dụ như việc Taliban tử hình một phụ nữ vì tội ngoại tình bằng cách ném đá giữa
một sân vận động tháng 5/2000 hay việc một số bang của Mỹ vẫn duy trì hình thức tử hình bằng
ghế điện. Những hành động này được xem là sự vi phạm nhân quyền, cụ thể Điều 7 ICCPR quy
định rằng không người nào bị tra tấn hay chịu sự trừng phạt, đối xử tàn nhẫn, dã man.
1 Yearbook of ILC, 1966, Vol. II, p. 248
2
II. Vấn đề giải thích luật quốc tế về nhân quyền
Các điều ước quốc tế về nhân quyền được giải thích theo các nguyên tắc được quy định trong
điều 31, 32, 33 Công ước Viên 1969 như các điều ước thông thường khác. Tuy nhiên, vì những
đặc điểm riêng của các điều ước này, nên việc giải thích các điều ước quốc tế về nhân quyền
cũng có những đặc điểm riêng.
1. Các điều ước về nhân quyền được giải thích theo quy tắc chung về giải thích điều ước
Điều 31 – Công ước Viên 1969
(1) Điều ước phải được giải thích với thiện chí phù hợp với nghĩa thông thường theo ngữ cảnh
của những thuật ngữ được sử dụng trong điều ước, đồng thời theo tinh thần của đối tượng và
mục đích của điều ước.
(2) Ngữ cảnh để giải thích một điều ước, ngoài chính văn bản, trong đó có cả Lời nói đầu và các
Phụ lục, còn bao gồm;
[a] Thỏa thuận có liên quan đến điều ước đạt được giữa tất cả các thành viên trong dịp ký kết
điều ước;
[b] Một văn kiện do một hoặc nhiều thành viên đưa ra khi ký kết điều ước và được các thành
viên khác chấp nhận là một văn kiện có liên quan đến điều ước.
(3) Cùng với ngữ cảnh, giải thích điều ước phải tính đến:
[a] Thỏa thuận sau này giữa các thành viên về việc giải thích điều ước hoặc về việc thi hành các
quy điịnh của điều ước;
[b] Thực tiễn sau này trong việc thực hiện điều ước thể hiện thỏa thuận giữa các thành viên về
việc giải thích điều ước;
[c] Quy tắc liên quan của luật pháp quốc tế được áp dụng trong quan hệ giữa các thành viên;
(4) Một thuật ngữ sẽ được hiểu theo một nghĩa đặc biệt nếu xác định được rằng các thành viên có
ý định như vậy.
2. Đặc điểm riêng về giải thích luật nhân quyền
Một đặc điểm phân biệt điều ước quốc tế về nhân quyền với các điều ước quốc tế thông thường
khác đó là nghĩa vụ của các quốc gia là thành viên của điều ước. Điều ước quốc tế về nhân quyền
3
là thỏa thuận giữa các quốc gia chấp nhận những quyền cụ thể đối với các cá nhân mà bản thân
họ không phải là thành viên của điều ước quốc tế. Trong ý kiến tư vấn của mình năm 1982, Tòa
Liên Mĩ đã giải thích và làm rõ điều này như sau:
“Modern human rights treaties in general, and the American Convention in particular, are not
multilateral treaties of the traditional type concluded to accomplish the reciprocal exchange of
rights for the mutual benefit of the contracting States. Their object and purpose is the protection
of the basic rights of individual human beings irrespective of their nationality, both against the
State of their nationality and all other contracting states. In concluding these human rights
treaties, the States can be deemed to submit themselves to a legal order within which they, for
the common good, assume various obligations, not in relation to other states, but towards all
individuals within their jurisdiction [...].”
Và Ủy ban nhân quyền Châu Âu đã áp dụng điều này trong vụ việc giữa Australia và Italy:
[T]he obligations undertaken by the High Contracting Parties in the European Convention are
essentially of an objective character, being designed rather to protect the fundamental rights of
individual human beings from infringements by any of the High Contracting Parties than to
create subjective and reciprocal rights for the High Contracting Parties themselves.
Có thể nói sự tồn tại của các điều ước quốc tế về nhân quyền là để bảo vệ các quyền của các cá
nhân. Vì vậy, mục đích cũng như đối tượng của các điều ước này đóng vai trò quan trọng trong
việc giải thích điều ước quốc tế về nhân quyền. Có ba nguyên tắc cần phải được xem xét khi giải
thích điều ước quốc tế về nhân quyền.
Thứ nhất, vì mục đích chính của các điều ước này là để bảo vệ các quyền của cá nhân nên việc
giải thích các điều ước phải đảm bảo việc bảo vệ này là có hiệu quả nhất. Tòa Liên Mỹ đã ghi
nhận điều này như sau:
[t]he object and purpose of the American Convention is the effective protection of human rights.
The Convention must, therefore, be interpreted so as to give it its full meaning and to enable the
system for the protection of human rights entrusted to the Commission and the Court to attain its
‘appropriate effects’.
4
Nguyên tắc này cũng được áp dụng trong các tiền lệ án của Tòa Nhân quyền Châu âu và được
ghi nhận như sau:
In interpreting the Convention, regard must be had to its special character as a treaty for the
collective enforcement of human rights and fundamental freedoms [...]. [T]hus the object and
purpose of the Convention as an instrument for the protection of individual human beings
require that its provisions be interpreted and applied so as to make its safeguards practical and
effective (Golder v. The United Kingdom)
Thứ hai, việc giải thích phải xem xét đến xu hướng phát triển của Luật và xã hội. Sự cần thiết
của việc xem xét đến những thay đổi diễn ra trong xã hội và trong Luật luôn được Tòa Nhân
quyền Châu Âu nhấn mạnh, ví dụ cụ thể như trong vụ Loizidou v. Turkey
That the Convention is a living instrument which must be interpreted in the light of present day
conditions is firmly rooted in the Court’s case-law [...]. It follows that these provisions cannot be
interpreted solely in accordance with the intentions of their authors as expressed more than forty
years ago.
Tòa Liên Mỹ cúng áp dụng nguyên tắc này trong việc giải thích các điều ước quốc tế về nhân
quyền trong ý kiến tư vấn về giải thích “The American Declaration of the Rights and Duties of
Man”:
It is appropriate to look to the Inter-American system of today in the light of the evolution it has
undergone since the adoption of the Declaration, rather than to examine the normative value
and significance which that instrument was believed to have had in 1948. (Advisory Opinion
OC-10/89 July 14, 1989,).
Thứ ba, việc giải thích phải tuân theo nguyên tắc “Autonomous Interpretation”(nguyên tắc độc
lập). Nguyên tắc này được Tòa Nhân quyền Châu Âu trong vụ Engel v. The Netherlands
If the Contracting States were able at their discretion to classify an offence as disciplinary
instead of criminal, or to prosecute the author of a “mixed” offence on the disciplinary rather
than on the criminal plane, the operation of the fundamental clauses of Articles 6 and 7 [articles
5
providing minimum rights to those who are charged of a criminal offence] would be
subordinated to their sovereign will. Latitude extending thus far might lead to results
incompatible with the purpose and object of the Convention.
III. Xu hướng thực tế không áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong công ước về nhân
quyền
Điều ước quốc tế về nhân quyền xuất phát từ việc Điều ước về nhân quyền không giống với
những điều ước khác vốn có những nghĩa vụ có đi có lại giữa các quốc gia trong mối quan hệ
điều ước. Theo đó, các quốc gia không có lợi ích tự thân đối với việc các nước khác thực thi các
nghĩa vụ của mình ghi trong các điều ước này và cũng không có động lực để phản đối bảo lưu,
dù bảo lưu đó có được phép hay không được phép.
Các cơ quan nhân quyền quốc tế đã xác định rõ các nghĩa vụ pháp lý mà các quốc gia đảm nhận
khi các quốc gia phê chuẩn các điều ước quốc tế về nhân quyền. Nghĩa vụ của các quốc gia theo
những điều ước quốc tế về nhân quyền không mang tính chất có đi có lại giữa các quốc gia
(nghĩa là các quốc gia thành viên này phải có nghĩa vụ đối với các quốc gia thành viên khác).
Theo các điều ước quốc tế này, quốc gia có nghĩa vụ, trong khi các cá nhân và nhóm cá nhân có
quyền, do đó, những nghĩa vụ của quốc gia thường không được bản thân các quốc gia giám sát
chặt chẽ.
Do đó, khi có những tranh cãi về các điều ước quốc tế về nhân quyền thì bản thân các cơ quan
giám sát cần phải đảm bảo các quốc gia tuân thủ những nghĩa vụ của mình. Thông thường các cơ
quan này sẽ giải thích nghĩ vụ quốc gia theo các điều ước quốc tế về nhân quyền với nghĩa rộng.
Ví dụ về Tác động của bảo lưu đối với việc làm cho Công ước Châu Mỹ có hiệu lực (Điều 74 và
điều 75) 67 IRL (1982), Tòa án Liên Mỹ về Nhân quyền: Tòa án Liên Mỹ được đề nghị đưa ra ý
kiến tư vấn về vấn đề “Một quốc gia được xem là thành viên của Công ước châu Mỹ về nhân
quyền từ khi nào nếu nước này đưa ra bảo lưu khi phê chuẩn hoặc gia nhập Công ước: tính từ
ngày nộp lưu chiểu văn kiện phê chuẩn hoặc văn kiện gia nhập hay kể từ khi chấm dứt thời hạn
quy định tại điều 20 của Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế.
Tuy nhiên, Tòa án cũng nhấn mạnh rằng các điều ước quốc tế về nhân quyền hiện đại nói chung
và Công ước châu Mỹ nói riêng không phải là những điều ước đa phương theo nghĩ truyền thống
được kí kết nhằm đạt được sự trao đổi quyền trên cơ sở có đi có lại nhằm mang lại lợi ích cho
6
các quốc gia thành viên. Mục đích cơ bản của những điều ước quốc tế về Nhân quyền là nhằm
bảo vệ những quyền cơ bản của cá nhân với bất kỳ quốc tịch nào trong quan hệ với quốc gia mà
cá nhân đó mang quốc tịch cũng như các quốc gia kí kết khác. Khi đã kí kết những điều ước
quốc tế này, các quốc gia có thể xem là đã chấp nhận tuân theo một trật tự pháp lý mà trong đó
các quốc gia đảm nhận những nghĩa vụ khác nhau vì lợi ích chung, không phải trong quan hệ với
các quốc gia khác, mà trong quan hệ với các cá nhân trong thẩm quyền tài phán của mình.
Hơn nữa, không giống như các điều ước quốc tế về nhân quyền khác như Công ước Châu Âu,
Công ước Châu Mỹ về nhân quyền trao cho các cá nhân quyền được gửi đơn lên Ủy ban kiện bất
kì quốc gia nào kể từ sau khi quốc gia đó phê chuẩn Công ước (Điều 44). Ngược lại, trước khi
một quốc gia bắt đầu quá trình khởi kiện một quốc gia khác thì cả hai phải chấp nhận thẩm
quyền tài phán của Ủy ban trong việc xem xét mối quan hệ giữa các quốc gia (Điều 45). Cơ chế
này cho thấy Công ước đề cao tính quan trọng của những cam kết của các quốc gia thành viên
đối với các cá nhân và những cam kết này có thể được thực thi ngay mà không cần có sự can
thiệp của một quốc gia nào khác.
Vì vậy, Công ước nhằm mục đích bảo vệ quyền cơ bản của các cá nhân, bất kể mang quốc tịch
nào, trong quan hệ với các quốc gia mà cá nhân mang quốc tịch hay với bất kỳ quốc gia nào khác
thì trên thực tế Công ước phải được nhìn nhận là một văn kiện hoặc khuôn khổ pháp lý đa
phương tạo điều kiện để các quốc gia đưa ra những cam kết đơn phương có tính ràng buộc sẽ
không vi phạm nhân quyền của các cá nhân trong thẩm quyền tài phán của mình.
Quan điểm của tòa như sau: với số phiếu nhất trí, Tòa án cho rằng Công ước này bắt đầu có hiệu
lực đối với các quốc gia đã phê chuẩn Công ước hoặc gia nhập Công ước, dù có bảo lưu hay
không, kể từ ngày nộp lưu chiểu văn kiện phê chuẩn hoặc văn kiện gia nhập Công ước.
IV. Vấn đề bảo lưu trong các điều ước vầ nhân quyền
1. Khái niệm, mục đích, thời gian đưa ra bảo lưu
Bảo lưu là một hành động đơn phương bất kể cách viết hoặc tên gọi nào của môt quốc gia đưa ra,
khi kí kết, phê chuẩn hay phê duyệt điều ước với mục đích loại bỏ hoặc thay đổi một phần hiệu
lực pháp lí của một vài qui định của điều ước trong việc áp dụng chúng đối với quốc gia đó. (
Điều 2.1.d Công ước Viên 1969- VCLT 1969). Cần phân biệt bảo lưu với một tuyên bố giải thích
thông thường.
7
2. Vai trò của bảo lưu đối với các điều ước quốc tế nói chung và đối với điều ước quốc tế về
nhân quyền nói riêng
Trước những năm 30 của thế kỉ 20, bảo lưu chỉ được đưa ra và chấp nhận khi điều ước quốc tế
đó cho phép bảo lưu và phải có sự đồng ý của tất cả các quốc gia thành viên công ước vì các
quốc gia đề cao mức độ cam kết cao của điều ước quốc tế mà xem nhẹ số lượng các quốc gia
thành viên. Chỉ cần một quốc gia phản đối thì bảo lưu sẽ bị vô hiệu và quốc gia đưa ra bảo lưu
cũng không thể là thành viên của điều ước quốc tế đó.Tuy nhiên, sau chiến tranh thế giới thứ 2,
nhu cầu bảo vệ quyền con người cũng như lo sợ sức tàn phá và hậu quả của chiến tranh ngày một
trở nên bức thiết. Lúc này thế giới đặc biệt quan tâm tới các tội ác về diệt chủng,đặc biệt là nạn
diệt chủng ở Rwanda, hay các tội ác chiến tranh,tội ác chống lại loài người khác ở Yugoslavia,
mong muốn cùng bắt tay nỗ lực ngăn ngừa và trừng phạt những tội ác đó, tránh nguy cơ chúng
có thể xảy ra một lần nữa. Công ước quốc tế nhằm ngăn ngừa và trừng phạt tội diệt chủng ra đời
là bước mở đầu cho những nỗ lực đó và mong muốn của các quốc gia là phải lôi kéo, thu hút
được một số lượng lớn các quốc gia cùng tham gia công ước này để làm sao cho công ước này
được chấp nhận không chỉ trong một số giới hạn các nước thành viên mà còn ở qui mô toàn cầu,
tạo điều kiện cho sự hình thành các qui phạm mới của luật quốc tế. Tuy nhiên, giống như các
điều ước quốc tế đa phương khác, quá khó để đi tới một khuôn khổ pháp lí chung cho tất cả các
quốc gia ( do sự khác biệt về lợi ích, thể chế kinh tế chính trị văn hoác xã hội…) trong khi đó,
các qui định bảo lưu truyển thống lại quá hạn hẹp dẫn đến sự giằng co giữa việc chấp nhận giữ
nguyên hiện trạng cũ ( số lượng giới hạn các nước thành viên) và phải thay đổi các qui định về
vấn đề bảo lưu. Cuối cùng, các quốc gia quyết định xin ý kiến tham vấn của ICJ.
Ý kiến tư vấn của ICJ về vấn đề bảo lưu trong công ước ngăn ngừa và trừng phạt nạn diệt chủng
1948 như sau: Công ước về ngăn ngừa và trừng phạt tội diệt chủng 1948 không hề có điều khoản
qui định về bảo lưu nhưng 15 nước khi tham gia kí kết phê chuẩn điều ước lại đưa ra kèm bảo
lưu đối với một số qui định trong điều ước đó. ICJ trong ý kiên tư vấn về vấn đè trên đã khẳng
định một điều khá trái với những qui định trước đó về bảo lưu rằng một quốc gia vẫn có thể là
thành viên của một công ước nếu có ít nhất 1 quốc gia khác chấp thuận bảo lưu. Quốc gia sẽ
không thể là thành viên của điều ước nếu bảo lưu trái với đối tượng mục đích của điều ước quốc
tế đó.
8
Như vậy, những qui định truyền thống về bảo lưu đã bị thay đổi. Bảo lưu chỉ bị cấm khi công
ước qui định rõ là không cho phép bảo lưu hoặc điều khoản mà quốc gia muốn bảo lưu rơi vào
những điều khoản bị cấm bảo lưu hoặc việc bảo lưu không phù hợp với mục đích và nguyên tắc
của công ước.
3. Hậu quả của bảo lưu vô hiệu trong các công ước về nhân quyền
Công ước Viên 1969 về luật điều ước có dành một số qui định về bảo lưu trong điều 19 và 20
nhưng lại không hề chỉ ra hậu quả của việc bảo lưu bị từ chối đối với tư cách thành viên của
quốc gia bảo lưu.2
Trên thực tế đang tồn tại 2 quan điểm trái chiều nhau xung quanh vấn đề này:
Quan điểm thứ nhất được xem là tập quán quốc tế, tìm thấy trog ý kiến tư vấn của ICJ về vấn đề
bảo lưu trong Công ước về ngăn ngừa và trừng phạt nạn diệt chủng,3 theo đó, việc bảo lưu bị từ
chối ảnh hưởng tới nguyện vọng của quốc gia muốn trở thành thành viên của công ước, đại diện
là Anh, Pháp, Mỹ.4
Quan điểm thứ hai cho rằng, việc bảo lưu bị từ chối không ảnh hưởng tới nguyện vọng của quốc
gia muốn trở thành thành viên của công ước. Quan điểm này được tòa án nhân quyền châu âu
đưa ra trong vụ Belilos vs Switzerland EctHR 1988,5 khi đưa ra phán quyết rằng bảo lưu của
Switzerland là không có giá trị vì nó đi ngược lại mục đích chung của công ước Nhân quyền
Châu Âu, tuy nhiên Switzerland vẫn tự coi và được coi là thành viên của công ước đó. Ủy ban
nhân quyền của Liên hợp quốc cũng chia sẻ quan điểm này khi xem xét vấn đề bảo lưu trong
ICCPR. Đáng chú ý hơn cả là, ủy ban còn cho rằng những qui định về bảo lưu trong VCLT 1969
không phù hợp để áp dụng đối với ICCPR vì đa số các điều khoản trong ICCPR là tập quán quốc
tế, do đó, những điều khoản về việc phản đối bảo lưu của các quốc gia thành viên quy định trong
VCLT 1969 không áp dụng được trong trường hợp này. Hơn nữa, chỉ dựa vào việc quốc gia
2 Vienna Convention on the Law of treaty 1969
3 Reservation to the Genocide Convention Case ICJ Rep 1951
4 Stephen Hall, Public international Law,p93
5 Case Belilos vs Switzerland EctHR 1988 Series A no 132
9
không có phản đối trực tiếp không thể chắc chắn rằng bảo lưu đó là phù hợp với mục đích đối
tượng của công ước.6
V. Điều khoản bắt buộc trong các điều ước quốc tế về nhân quyền
1. Khái niệm Điều khoản bắt buộc và điều khoản không bắt buộc
Quốc gia có nghĩa vụ thực hiện đúng các nghĩa vụ quốc tế mà mình đã chấp nhận rằng buộc. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, Luật quốc tế trao cho quốc gia quyền được hành động
trái với những nghĩa vụ đó nếu như thấy việc thực hiện các nghĩa vụ đó có thể gây tổn hại
nghiêm trọng tới lợi ích quốc gia.
Các nghĩa vụ quốc tế có thể được chia làm 2 loại, nghĩa vụ bắt buộc ( không được quyền vi phạm
trong mọi trường hợp) và nghĩa vụ không bắt buộc ( không nên hiểu là nghĩa vụ này không cần
thực hiện mà nên hiểu là trong một số trường hợp đặc biệt, quốc gia có thể vi phạm chúng). Nói
cách khác, sự khác nhau căn bản giữa 2 loại nghĩa vụ này ở chỗ một loại có thể vi phạm trong
điều kiện nhât định (derogable) ví dụ điều 4.1 ICCPR, điều 15 ECHR. một loại không được phép
vi phạm trong bất cứ trường hợp nào ( non-derogable), ví dụ điều 4.2 ICCPR, điều 15 CEHR.
Điều khoản không bắt buộc thường bao gồmnhững quyền hết sức căn bản như quyền được sống,
quyền được đối xử như một con người, quyền có quốc tịch
2. Tình trạng khẩn cấp và điều khoản không bắt buộc
Một số điều ước quốc tế chỉ rõ điều khoản nào đươc quyền vi phạm, điều khoản nào không được
vi phạm. Bên cạnh đó, các điều ước quốc tế thường qui định rõ trong trường hợp nào, nói cách
khác, cần thỏa mãn những điều kiện gì mới có thể sử dụng “tình trạng khẩn cấp”.
Theo điều 4.1.ICCPR, tình trạng khẩn cấp chỉ có thể được viện dẫn như một lí do để không thực
hiện một hoặc một số nghĩa vụ quốc tế nào đó khi đáp ứng được 3 yêu cầu:7
Thứ nhất, tính cấp bách, khẩn cấp ( vấn đề sống còn của đát nước có nguy cơ bị đe dọa).
Thứ hai, không được trái với các nghĩa vụ quốc tế khác.
6 UN Human rights committee, General comment No 24 on reservation made to ICCPR
7 UN Document A/2929 , chapter V, section 42
10
Thứ ba, sự phân biệt đối xử( nếu có) không dựa trên tiêu chí duy nhất là chủng tộc, màu da, ngôn
ngữ, tôn giáo, nguồn gốc xã hội.
VI. Phát triển và hoàn thiện liên tục về nội dung các quyền và cơ chế thực thi
1. Về nội dung
Có thể nói, trước 1945, luật nhân quyền quốc tế có những bước phát triển hết sức hạn
chế. Chỉ với sự ra đời của Liên Hợp Quốc năm 1945 luật quốc tế về nhân quyền mới có những
phát triển và hoàn thiện thực sự, trước hết là về nội dung các quyền.
Trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc, vấn đề bảo vệ nhân quyền rất được chú trọng. Điều 1
HC LHQ quy định rằng, một trong những mục tiêu của Liên Hợp Quốc là “thực hiện hợp tác
quốc tế trong […] việc thúc đẩy và khuyến khích tôn trọng các nhân quyền và tự do căn bản cho
tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn giáo.”
Với mục tiêu đó, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền do Uỷ ban nhân quyền Liên Hợp
Quốc soạn thảo đã ra đời năm 1948. Mặc dù còn những hạn chế bởi điều kiện lịch sử ra đời và
những khác biệt về quan điểm chính trị giữa các thành viên trong Ban soạn thảo, song có thể nói
những tư tưởng trong UDHR về quyền con người vẫn được cộng đồng quốc tế đánh giá cao như
những chuẩn mực về nhân quyền đến nay vẫn đang chi phối đời sống nhân loại. Mặc dù xét về
hình thức văn bản, UDHR không phải là một văn kiện pháp lý, song nó lại có ý nghĩa pháp lý vô
cùng to lớn bởi nói đã cung cấp một khuôn khổ những chuẩn mực pháp lý cơ bản cho các văn
kiện khác. UDHR là nguồn được viện dẫn phổ biến của rất nhiều văn kiện pháp lý về nhân quyền
cả ở mức độ quốc tế lẫn quốc gia.
Ngay sau sự ra đời của UDHR là sự ra đời Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính
trị (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế xã hội văn hóa (ICESCR).
Hai công ước này đánh dấu một sự phát triển về nội dung của các quy phạm về nhân
quyền. Nếu như trước kia, nhân quyền chỉ bao hàm các quyền và tự do cá nhân, quyền của các
nhóm xã hội thì đến thời điểm này, với sự ra đời của Công ước ICCPR, nhân quyền còn bao hàm
cả quyền của dân tộc, với tư cách là quyền tập thể của con người. Quyền dân tộc tự quyết ra đời
là thành quả lớn lao của sự phát triển của lịch sử nhân loại từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Thêm vào đó, có một số lượng lớn các điều ước quốc tế về nhân quyền và các văn kiện
khác đã ra đời trong khuôn khổ LHQ nhằm bảo vệ một quyền cụ thể hoặc một loạt quyền liên
quan đến một vấn đề cụ thể. Ví dụ Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử
với phụ nữ năm 1979, Công ước quyền trẻ em năm 1989 và Tuyên bố về quyền phát triển năm
11
1986. Tuyên bố về quyền của người bản địa năm 1994 đã được soạn thảo nhưng vẫn đang được
các quốc gia xem xét. Đến thời điểm hiện tại đã có 143 nước bỏ phiếu tán thành Tuyên bố này.
Với những điểm trình bày như trên, có thể nói các quy phạm quốc tế về nhân quyền đã có
những sự phát triển liên tục về nội dung. Từ một Tuyên ngôn nhân quyền với những tư tưởng
bao quát về đạo lý, chính trị và pháp lý, phạm vi các quy phạm quốc tế về nhân quyền đã mở
rộng lên thành một hệ thống các điều ước quốc tế về nhân quyền. Hệ thống này là cơ sở pháp lý
để quyền con người được thực thi một cách toàn diện và hiệu quả hơn trên phạm vi toàn thế giới.
2. Vai trò của các nghị định thư trong luật quốc tế bảo vệ nhân quyền
Khi một văn kiện quốc tế về nhân quyền ra đời, những người soạn thảo thường không thể
đưa ra những quy định thật chặt chẽ và cụ thể mà ngược lại, các văn kiện quốc tế về nhân quyền,
dù dưới bất kỳ hình thức nào đều được soạn thảo theo hướng chung chung, bao gồm các điều
khoản cơ bản và ít tranh cãi, tránh đi vào chi tiết cụ thể. Những văn kiện được soạn thảo như vậy
rất có nhiều khả năng đạt được sự ủng hộ của các quốc gia có nhiều khác biệt về quan điểm. Tuy
nhiên, vấn đề đặt ra là những văn kiện được soạn thảo theo hướng như vậy sẽ khó mà đảm bảo
cho nhân quyền được thực thi một cách đầy đủ và toàn diện nhất.
Hình thức nghị định thư đi kèm công ước chính là giải pháp cho vấn đề trên. Nghị định
thư thường được đưa ra sau khi Công ước ra đời một thời gian, thường được gọi tên là Nghị định
thư không bắt buộc (Optional Protocol) hay Nghị định thư bổ sung (Additional Protocol). Các
quốc gia không kí nghị định thư đi kèm thì không bị ràng buộc bởi nghị định thư mà chỉ bị ràng
buộc bởi các quy định của công ước mà thôi. Hình thức này làm tăng mức độ cam kết của các
quốc gia ký nghị định thư, trong khi các quốc gia khác, vì một lý do nào đó nếu chưa muốn tham
gia nghị định thư thì vẫn có thể là thành viên công ước.
Ngoài ra, cũng như đối với các công ước quốc tế về các lĩnh vực khác, nghị định thư đi
kèm là sử bổ trợ cần thiết cho các công ước về nhân quyền về nội dung và thủ tục. Nó thường đề
ra các cơ chế giám sát và thực hiện, quy định quyền và nghĩa vụ của các cơ quan giam sát này,
đồng thời một số có thể bổ sung hay làm rõ nội dung cho công ước thông qua việc mở rộng hay
hạn chế bớt các quyền, hay ghi nhận thêm các quy định mới theo sự thay đổi của hoàn cảnh.
Như vậy, có thể nói, hình thức nghị định thư đi kèm là một bước tiến quan trọng, tiến
đến hoàn thiện cơ chế chung cho pháp luật quốc tế về nhân quyền.
12
3. Xu hướng tài phán hóa
Sự hoàn thiện về cơ chế thực thi trong luật nhân quyền quốc tế thể hiện ở xu hướng tài
phán hóa.
Đối với nhiều văn kiện, hình thức và hoạt động của cơ quan tài phán thường được nêu ra
trong các nghị định thư đi kèm, cấu thành một bộ phận quan trọng không thể thiếu của mỗi cơ
chế nhân quyền ở tầm khu vực và trên thế giới. Đây trở thành một xu thế chung cho sự phát
triển, đảm bảo việc thực thi nhân quyền được chặt chẽ và hiệu quả hơn. Hiệu quả của các cơ chế
tài phán này không chỉ ở tác dụng giám sát, điều tra và xét xử, mà hiệu quả trước hết là ngăn
ngừa và răn đe những hành vi vi phạm nhân quyền ở các quốc gia trên thế giới.
Xu thế tài phán hóa các quy định về nhân quyền ngày càng trở nên phổ biến ở các khu
vực. Bắt đầu dưới hình thức các Ủy Ban, tiến tới là các Tòa Nhân Quyền với một cơ chế hoạt
động chặt chẽ và nghiêm ngặt hơn. Điểm khác biệt cơ bản giữa Ủy Ban và Tòa án là trong khi
Ủy ban thường chỉ nhận báo cáo từ các quốc gia, các đơn khiếu kiện và giải quyết các vấn đề
dưới hình thức khuyến nghị đề xuất thì một Tòa Án Nhân Quyền có thể đưa ra các phán quyết có
tính cưỡng chế thi hành cao, đảm bảo việc tuân thủ của quốc gia vi phạm. Chính vì lẽ đó, các
khu vực đều đã tiến tới việc có các tòa nhân quyền (tòa nhân quyền châu Âu, châu Mỹ, châu
Phi), và trên phạm vi toàn cầu cũng đã hình thành các tòa án với nhiệm vụ và phạm vi hoạt động
lớn hơn một tòa nhân quyền thông thường, có xét xử các hành vi vi phạm nhân quyền (như Tòa
Hình Sự Thường Trực, Tòa án hình sự quốc tế Nam Tư cũ – ICTY hay Tòa án hình sự quốc tế
Rwanda – ICTR).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom_4_1634.pdf