Tiểu luận Xung đột về vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiền

Bài tiểu luận đã đi qua những sự kiện mang tính chu kỳ - luẩn quẩn của xung đột hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, cuộc xung đột mà nguyên nhân chính là mâu thuẫn giữa ý đồ giữ vững an ninh, duy trì và tăng cường vai trò lãnh đạo, chi phối của siêu cường Mỹ tại khu vực với chính sách cứng rắn của Triều Tiên trong việc phát triển hạt nhân để đảm bảo an ninh cho đất nước. Với tính chu kỳ của nó, dù hiện nay đang có những va chạm giữa các bên trong xung đột, một cuộc chiến tranh toàn diện với sự tham gia của vũ khí hạt nhân sẽ khó xảy ra, dù rằng tìm một giải pháp toàn diện cho vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên trong thời điểm hiện nay còn rất nan giải. Một giải pháp như vậy đòi hỏi sự thay đổi quan điểm của không những Triều Tiên, Mỹ mà còn của cộng đồng quốc tế, trong đó quan trọng nhất phải kể đến Trung Quốc, đồng minh duy nhất và được xem là có thể ảnh hưởng đến quyết sách của Triều Tiên.

docx17 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4275 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Xung đột về vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO TIỂU LUẬN MÔN: XUNG ĐỘT AN NINH QUỐC TẾ Đề tài: XUNG ĐỘT VỀ VẤN ĐỀ HẠT NHÂN TRÊN BÁN ĐẢO TRIỀU TIỀN Giảng viên : T.S Đỗ Sơn Hải Nhóm thực hiện : Nguyễn Thị Thúy An Lại Thị Hạnh Nguyễn Hoàng Long Phạm Hữu Phước Lê Ngọc Thúy Lớp : CT37A HÀ NỘI - 2013 DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 10 Nguyễn Thị Thúy An – CT37A Lại Thị Hạnh – CT37A Nguyễn Hoàng Long – CT37A Phạm Hữu Phước – CT37A Lê Ngọc Thúy – CT37A MỤC LỤC MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Ngay từ những năm 50 của thế kỉ XX, vấn đề Triều Tiên đã nổi lên như là một điểm nóng tại khu vực châu Á Thái Bình Dương cũng như trên thế giới. Hiệp định được kí kết tại Bàn Môn Điếm năm 1953 chỉ tạo ra thế ngừng chiến mà không giải quyết tận gốc xung đột giữa hai miền Nam và Bắc Triều Tiên. Sự chia rẽ giữa Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên và Hàn Quốc đã tồn tại từ đó đến nay như một di sản của chiến tranh lạnh. Vào cuối thế kỉ XX cho đến những ngày gần đây, vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên tiếp tục khiến cộng đồng thế giới và khu vực cảm thấy hết sức căng thẳng. Trong thời điểm hiện nay, đây là vấn đề thu hút nhiều sự chú ý hơn cả và bài viết của nhóm nghiên cứu sẽ chỉ tập trung vào vấn đề hạt nhân thay vì tập trung cả vào vấn đề hòa bình, thống nhất hai miền Nam Bắc. Điểm nóng trên không chỉ ảnh hưởng tới an ninh của các nước láng giềng liền kề của Nam và Bắc Triều Tiên mà còn ảnh hưởng tới an ninh của khu vực và toàn thế giới. Do tính quan trọng của vấn đề và sự quan tâm của nhóm nghiên cứu, nhóm quyết định chọn đề tài “XUNG ĐỘT VỀ HẠT NHÂN TRÊN BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN”. Phạm vi nghiên cứu Về chủ thể, xung quanh vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, có rất nhiều bên có liên quan. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu chỉ tập trung vào hai chủ thể chính của xung đột, đó là Mỹ và Bắc Triều Tiên. Về thời gian, nhóm chọn mốc nghiên cứu từ ngày 12/3/1993 cho đến nay. Năm 1993, Bắc Triều Tiên tuyên bố rút khỏi hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân NPT và bắt đầu dự trữ plutonium, thời điểm đẩy xung đột leo thang mạnh mẽ. Mục tiêu nghiên cứu Bài viết nhằm trả lời cho câu hỏi nghiên cứu: mâu thuẫn chủ chốt duy trì xung đột về vấn đề hạt nhân giữa Bắc Triều Tiên và Mỹ là gì? Trên cơ sở tìm ra được nguyên nhân gây ra xung đột, nhóm đề xuất phương hướng giải quyết. Phương pháp nghiên cứu Bài tiểu luận có sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau như: phương pháp tổng hợp và phân tích thông tin dựa trên cơ sở tham khảo các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu; phương pháp so sánh. Nội dung nghiên cứu Mục I: Quá trình phát triển của xung đột Phần này tái hiện lại toàn bộ quá trình phát triển của xung đột thông qua các mốc thời gian, đánh dấu thời điểm xung đột bắt đầu, xung đột leo thang, giải quyết xung đột, rồi xung đột lại leo thang. Mục II: Đặc điểm của xung đột. Ở nội dung này, nhóm nghiên cứu muốn khẳng định tính quanh quẩn và bế tắc của quá trình giải quyết xung đột. Mục III: Nguyên nhân của xung đột. Phần này phân tích các nguyên nhân chính khiến xung đột không thể đi đến hồi kết. Nguyên nhân quan trọng nhất là mâu thuẫn lợi ích giữa Mỹ và Bắc Triều Tiên. Mục IV: Tác động. Tác động của xung đột hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên được nhóm nghiên cứu xem xét đến ba đối tượng: đối với Triều Tiên, với Mỹ và với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Mục V: Triển vọng và đề xuất giải pháp. Phần này đưa ra tương lai của xung đột trong một vài năm tới. Cùng với đó, nhóm cũng đề xuất một vài giải pháp đến các chủ thể có liên quan nhằm giải quyết xung đột Do kiến thức còn hạn chế, bài tiểu luận chắc hẳn còn nhiều sai sót, người viết rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của thầy để bài viết hoàn thiện hơn. Quá trình phát triển của xung đột Sự kiện đánh dấu giai đoạn tiền xung đột của xung đột hạt nhân giữa Mỹ và Bắc Triều Tiên là việc Bắc Triều Tiên tuyên bố rút khỏi Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) vào ngày 12/3/1993. Tiếp đó là một loạt các hoạt động khiêu khích liên quan đến việc thử tên lửa tầm trung lần đầu tiên vào 5/1993, tên lử được cho là có khả năng mang theo vũ khí hóa học, thậm chí vũ khí hạt nhân cỡ nhỏ. 2/1994, Bắc Triều Tiên không cho phép thanh sát viên IAEA lấy mẫu xét nghiệm phóng xạ.6/1994, Bắc Triều Tiên rút khỏi IAEA và đe dọa tái khởi động kho dự trữ nhiên liệu hạt nhân để chế tạo bom. Đáp lại những động thái khiêu khích của Bắc Triều Tiên, 5/1994, Mỹ áp dụng các lệnh trừng phạt về kinh tế - một biện pháp mà Bình Nhưỡng cho rằng sẽ coi đó là hành vi khiêu khích chiến tranh. Ngoài ra, chính quyền của ông Clinton đã cho triển khai các máy bay ném bom Stealth và tăng cường hiện diện quân sự ở Hàn Quốc nhằm ngăn chặn một cuộc tấn công phủ đầu từ Bắc Triều Tiên. Việc Bắc Triều Tiên theo đuổi chương trình hạt nhân nhằm sản xuất vũ khí trong thập kỉ 80-90 đã dẫn đến sự đối đầu leo thang với chính quyền Clinton năm 1994, thậm chí, theo một số quan chức Mỹ họ tin rằng xung đột gần chuyển sang chiến tranh. Sự kiện này đánh dấu xung đột giữa 2 nước chuyển sang giai đoạn xung đột. Trong bối cảnh đó, cựu tổng thống Mỹ Jim Carter, theo cách riêng của mình, đã đến Bình Nhưỡng và gặp gỡ nhà lãnh đạo Kim Nhật Thành, nhằm xoa dịu căng thẳng, xung đột leo thang, góp phần quan trọng dẫn đến việc hai nước kí kết Hiệp định khung 1994 (10/1994). Theo đó, Bắc Triều Tiên đồng ý đóng cửa tổ hợp ở Yongbyon và cho phép thanh sát viên quốc tế kiểm tra hai khu vực quân sự bí mật. Đổi lại, Mỹ và đồng minh cam kết cung cấp nhiên liệu, dầu lửa cho Bắc Triều Tiên. Hiệp định 1994 được xem là biện pháp giải quyết xung đột đầu tiên giữa Mỹ và Bắc Triều Tiên, đồng thời chuyển xung đột từ tình trạng đối đầu sang đối thoại. Ngày 31/8/1998, Bắc Triều Tiên đã phóng thành công tên lửa bay qua Nhật Bản và xuống biển Thái Bình Dương, tên lửa được tin là có khả năng vươn tới các căn cứ quân sự của Mỹ đóng tại Okinawa và Misawa ở Nhật. Chương trình tên lửa của Bắc Triều Tiên dấy lên mối lo ngại về khả năng mang theo vũ khí nguyên tử. Đây được xem là động thái mang mục đích chính trị và khơi mào cho những xung đột leo thang tiếp sau. Tháng 1/2001, trong diễn văn đầu tiên tại Nhà Trắng, tổng thống Bush đã gọi ba nước Iran, Iraq, Bắc Triều Tiên thuộc “trục ma quỷ” với cáo buộc các nước này sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt. Đáp lại, 10/2002, Bắc Triều Tiên chính thức thừa nhận họ đã thực hiện chương trình phát triển vũ khí hạt nhân được vài năm và tuyên bố rút khỏi Hiệp định khung 1994 với Mỹ. Sự kiện này đánh dấu cuộc xung đột lại chính thức chuyển sang giai đoạn đối đầu sau gần bốn năm kể từ hiệp định khung 1994 được kí kết. Tiếp đó, Bắc Triều Tiên đã tái khởi động lò phản ứng plutonium ở tổ hợp hạt nhân Yongbyon. Phản ứng của chính quyền Bush lúc này không quá chú trọng đến vấn đề hạt nhân ở Bắc Triều Tiên khi đang tập trung tìm kiếm sự ủng hộ cho cuộc xâm lược Irắc. Đến 8/2003, một cơ chế giải quyết xung đột mới ra đời “Vòng đàm phán 6 bên”. Theo đó, Bắc Triều Tiên đạt được những viện trợ về kinh tế, dầu lửa, đổi lại là cam kết xóa bỏ chương trình hạt nhân của mình. Cơ chế này đánh dấu bước chuyển từ xung đột sang giải quyết xung đột bằng đối thoại. Tháng 7/2006, Bắc Triều Tiên phóng tên lửa xuyên lục địa Taepodong 2 qua biển Nhật Bản, tên lửa được dự tính vươn tới Alaska và bở biển phía Tây của Mỹ nhưng đã sớm nổ giữa biển. Nhà Trắng cho rằng hành động thể hiện sự phản lại ý chí muốn quay lại vòng đàm phán của Bắc Triều Tiên và quyết định tiếp tục các biện pháp cần thiết để tự vệ và bảo vệ đồng minh. Xung đột tiếp tục được khơi mào với vụ thử hạt nhân đầu tiên của Bắc Triều vào 10/2006, vụ thử khiến Bình Nhưỡng tiếp tục nhận các trừng phạt kinh tế mới. Tháng 12/2008, vòng đàm phán sáu bên chính thức thất bại, phía Bắc tuyên bố sẽ không có đối thoại gì nữa và cam kết tăng cường chương trình hạt nhân, làm giàu uranium.(giai đoạn tổng thống Bush rời Nhà Trắng – 20/1/2009 Obama trở thành tổng thống Mỹ.) Sự kiện đánh dấu xung đột bắt đầu leo thang. Tháng 4/2009, Bắc Triều Tiên lại tiếp tục nhận loạt nghị quyết trừng phạt từ Liên Hiệp Quốc sau hành động bắn tên lửa vào vũ trụ - Mỹ xem đó là nỗ lực chứng minh khả năng tên lửa mang đầu đạn hạt nhân tầm xa của Bắc Triều Tiên. 5/2009, Bắc Triều Tiên tuyên bố thử thành công hạt nhân lần 2 đồng thời tiếp tục phóng tên lửa tiến gần bờ biển Nhật Bản và tuyên bố “sẵn sàng cho một cuộc chiến với Mỹ”. Đáp lại là việc Liên hiệp quốc tăng cường các lệnh trừng phạt, cấm vận, cô lập Bình Nhưỡng. Xung đột tiếp diễn đến 19/12/2011, lãnh đạo Kim Jong Il qua đời, con trai ông Kim Jong Un trở thành lãnh đạo tối cao Bắc Triều Tiên. Tháng 2/2012, lãnh đạo mới của Bắc Triều Tiên đã đồng ý dừng các vụ thử nghiệm vũ khí hạt nhân và làm giàu uranium, cho phép thanh tra quốc tế giám sát các hoạt động này để đổi lại cam kết viện trợ lương thực của Mỹ. Xung đột bước sang giai đoạn hòa dịu. Sau sự ra đi của nhà lãnh đạo Kim Jong Il, nhà lãnh đạo trẻ Kim Jong Un cũng đang sử dụng con bài hạt nhân như một cách đẩy xung đột leo thang trở lại, đặc biệt thời điểm tháng 12/2012 đến nay. Ngày 23-1-2013, Hội đồng Bảo an LHQ đã lên án vụ phóng sử dụng công nghệ tên lửa đạn đạo của Triều Tiên vào ngày 12-12-2012.Sau đó ngày 12-2, Triều Tiên tiến hành thử hạt nhân lần ba. Hội đồng Bảo an LHQ tiếp tục ra Nghị quyết 2094 gia tăng trừng phạt Triều Tiên. Triều Tiên liên tục đưa ra tuyên bố đe dọa trả đũa.Vài giờ trước khi Hội đồng Bảo an LHQ thông qua Nghị quyết 2094, Triều Tiên đe dọa tấn công hạt nhân phủ đầu đối với Mỹ. Ngày 8-3: Triều Tiên tuyên bố hủy bỏ hiệp định đình chiến năm 1953 và cắt đường dây nóng với Hàn Quốc. Ngày 11-3: Hàn Quốc và Mỹ tập trận thường niên. Hôm sau, ông Kim Jong-un chỉ thị lấy đảo Baengnyeong làm mục tiêu đầu tiên. Ngày 20-3: Bộ Quốc phòng Mỹ thông báo đã điều động một pháo đài bay B-52 đến Hàn Quốc tập trận. Hôm sau, Triều Tiên tuyên bố sẵn sàng tấn công căn cứ Mỹ ở Nhật và đảo Guam. Ngày 26-3: Quân đội Triều Tiên nhận chỉ thị sẵn sàng chiến đấu. Ngày 30-3: Triều Tiên tuyên bố đặt đất nước trong tình trạng chiến tranh với Hàn Quốc. Ngày 7-4: Trung Quốc cảnh báo giới hạn các hành động của các bên liên quan đến cuộc xung đột, đặc biệt là Triều Tiên, ông Tập Cận Bình đã nói: “không ai có quyền được đẩy khu vực và thậm chí cả thế giới vào tình trạng hỗn loạn vì mục đích ích kỉ của bản thân”. Đến nay, mặc dù đã có những dấu hiệu hạ nhiệt xung đột từ phía Triều Tiên (18/4, Bắc Triều Tiên đặt yêu cầu dỡ bỏ cấm vận của Liên Hiệp Quốc và yêu cầu chấm dứt tập trận chung Mỹ - Hàn Quốc làm điều kiện quay lại đối thoại) và các nỗ lực ngoại giao của ngoại trưởng Mỹ John Kerry trong các chuyến thăm các nước Đông Bắc Á, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc để tìm kiếm giải pháp cho cuộc xung đột nhưng xung đột vẫn đang ở tình trạng bế tắc, chưa tìm được hướng giải quyết mới được cả hai bên chấp nhận Timeline of North Korea’s nuclear program . Đặc điểm của xung đột Qua quá trình tìm hiểu xung đột, đặc điểm đầu tiên nổi bật đó chính là tính “quanh quẩn”, chuyển hóa giữa giai đoạn xung đột và giải quyết xung đột. Nhưng thực chất xung đột hạt nhân diễn ra xuyên suốt trong quan hệ Mỹ và Bắc Triều Tiên. Về đặc điểm hình thức xung đột, hình thức chủ yếu của Bắc Triều là khẩu chiến kết hợp với dùng tên lửa, hạt nhân làm phương tiện đe dọa; trong khi Mỹ sử dụng các cuộc tập trận quân sự với đồng minh, triển khai lực lượng quân sự, hệ thống tên lửa, áp dụng các lệnh trừng phạt kinh tế, lương thực, nhiên liệu, gây ảnh hưởng đến các nghị quyết của Hội đồng bảo an nhằm cô lập Bắc Triều. Đối với định hướng giải quyết xung đột, thực tế đã chứng minh hai nước có điểm chung duy nhất là đẩy xung đột lên cao nhất có thể (nhưng trong giới hạn không có chiến tranh) rồi mới có động thái kêu gọi đối thoại, đàm phán. Nhưng sau đó, chuyện đâu là vào đấy, Bắc Triều vẫn tiếp tục dùng con bài hạt nhân. Đàm phán sáu bên – cơ chế giải quyết xung đột được kì vọng nhất cũng đã thất bại, cho thấy hai bên không có ý muốn giải quyết triệt để xung đột này. Nguyên nhân xung đột Sau khi phân tích, nhóm nghiên cứu cho rằng, khủng hoảng trên bán đảo Triều Tiên là do: 3.1. Nguồn gốc lịch sử trong chiến tranh lạnh Xuất phát từ tình trạng thực tế - tình trạng chiến tranh vẫn được duy trì sau Hiệp định đình chiến 1953 giữa Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc. Bắc Triều Tiên lo ngại Hàn Quốc, dưới sự hỗ trợ của Mỹ, có thể phát động chiến tranh bất kì lúc nào. Vì vậy, Bắc Triều chọn chương trình hạt nhân, tập trung vào tiềm lực quân sự như một phương tiện để đảm bảo an ninh của mình, nhưng Mỹ lại coi đó là sự vi phạm luật pháp quốc tế cần lên án và loại bỏ. 3.2. Mâu thuẫn lợi ích giữa Mỹ và Bắc Triều Tiên Về phía Mỹ, chương trình hạt nhân của Bắc Triều Tiên đe dọa đến an ninh của căn cứ quân sự của Mỹ, đồng minh tại Châu Á Thái Bình Dương bao gồm : Hàn Quốc, Nhật Bản, Guam và Hawaii. Hơn nữa, Mỹ không muốn tạo ra tiền lệ khi công nhận một quốc gia khác ngoài các nước thuộc câu lạc bộ hạt nhân có hạt nhân trở thành cường quốc hạt nhân. Về phía Bắc Triều Tiên, quốc gia này luôn muốn sử dụng ưu thế hạt nhân nhằm mục tiêu đảm bảo an ninh và phát triển của đất nước. Đối với Bắc Triều, “không có vũ khí hạt nhân có nghĩa là không có an ninh” hay “vũ khí hạt nhân là sinh mạng của quốc gia” 3.3. Mâu thuẫn lập trường Nếu như Mỹ yêu cầu phi hạt nhân hóa trên bán đảo Triều Tiên và buộc Bắc Triều Tiên phải chấm dứt mọi hoạt động phát triển vũ khí hạt nhân thì Bắc Triều lại quyết phải được thừa nhận là cường quốc hạt nhân. 3.4. Nhân tố Trung Quốc Đây chính là mục tiêu thực sự mà Mỹ hướng tới. Bề ngoài, Mỹ một mặt chống đối chương trình vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên nhưng thực sự lại coi điều này là một cái cớ để lắp đặt các hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo ở châu Á mà bất kì hệ thống phòng thủ rên lửa đạn đạo nào nhằm vào Bắc Triều cũng nhằm vào Trung Quốc do vị trí địa lý. Mỹ tăng cường hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo nằm trong khuôn khổ mở rộng “trục đến châu Á”, của chính quyền tổng thống Obama liên quan đến nỗ lực ngoại giao toàn diện khắp khu vực để làm suy yếu ảnh hưởng của Trung Quốc và củng cố một hệ thống các liên minh quân sự nhằm bao vây Trung Quốc. Mỹ, với lý do bảo vệ đồng minh tại khu vực, có mặt quân sự ở phía Nam Trung Quốc tạo nên vành đai an ninh đối mặt với “Vùng trung tâm” mới của Trung Quốc Mỹ lợi dụng vấn đề hạt nhân Bắc Triều Tiên để đạt được mục tiêu trở lại châu Á – Thái Bình Dương, tài liệu tham khảo đặc biệt, Thông tấn xã Việt Nam, số 096 - TTX. . Việc này đóng vai trò không những kiềm chế mối đe dọa Bắc Triều Tiên mà còn tạo thế bao vây Trung Quốc, mục tiêu địa chính trị thực sự của Mỹ. Chính vì vậy, Mỹ xem việc bảo vệ đồng minh Hàn Quốc và Nhật Bản trước nguy cơ bị tấn công quân sự và chương trình hạt nhân của Bắc Triều Tiên là cái cớ để Mỹ duy trì xung đột (trong tầm kiểm soát) thực chất là để duy trì lực lượng quân sự ở châu Á – TBD. Tóm lại, để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu ban đầu, theo nhóm, nguyên nhân gây nên xung đột, đó chính là: Thứ nhất, ý muốn nhằm bảo đảm an ninh, duy trì ảnh hưởng của siêu cường Mỹ tại khu vực với sự hiện diện của một Trung Quốc đang lên và thách thức Mỹ. Thứ hai, chính sách sử dụng chương trình hạt nhân là phương tiện bảo vệ an ninh và phát triển của Bắc Triều Tiên. Tác động 4.1. Đối với Mỹ Đe dọa về an ninh là nguy cơ đầu tiên mà khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên có thể mang đến cho Mỹ. Nếu leo thang thành chiến tranh, nó sẽ đe dọa trực tiếp đến các căn cứ quân sự của Mỹ đóng ở Guam và các đồng minh ở khu vực này. Lúc đó Mỹ sẽ buộc phải tham gia vào một cuộc chiến không mong muốn trong bối cảnh Tổng thống Obama đang cắt giảm chi phí quân sự và tập trung vào phát triển kinh tế Nhưng, nếu Mỹ có một cách tiếp cận và phương pháp giải quyết ít cứng rắn hơn, làm cho xung đột kéo dài và Triều Tiên tiếp tục có thời gian để phát triển vũ khí hạt nhân thì sẽ tạo thêm tiền lệ xấu cho Iran và những nước muốn phát triển vũ khí hạt nhân của riêng mình. Việc Triều Tiên sở hữu và tiếp tục phát triển vũ khí hạt nhân cũng ảnh hưởng đến lợi thế của Mỹ, làm Mỹ mất dần đi khả năng sử dụng đe dọa hạt nhân với nước này. 4.2. Đối với Triều Tiên Đối với một đất nước đã chọn lựa con đường quân sự hóa để phát triển như Triều Tiên, vũ khí hạt nhân được xem là con át chủ bài không thế thiếu để kiềm chế Mỹ và Hàn Quốc. Điều này đã trở thành nhận thức chung của các nhà lãnh đạo Triều Tiên, chính vì thế Triều Tiên mới thể hiện rõ quyết tâm và nghị lực để nghiên cứu và chế tạo vũ khí hạt nhân. Tuy vậy quân sự hóa đất nước và tập trung vào phát triển vũ khí hạt nhân đã khiến đất nước này phát triển không cân bằng. Sức mạnh về quân sự của Triều Tiên vượt xa khả năng về kinh tế. Ước tính có khoảng 12 triệu người Triều Tiên ở mức đói3 John Hudson, 7 Things North Korea Is Really Good At, 2013, Foreign Policy. (dưới mức $1/1 ngày), ngoài ra nước này còn hay phải đói mặt với nạn đói và dịch bệnh. Năm 2008-2009 Mỹ đã viện trợ cho Triều Tiên đến 167.000 tấn4 Mark Manyin, Foreign Assistance to North Korea, Congressional Research Service, 2012 lương thực để giúp đỡ nước này giải quyết tình trạng thiếu lương thực. Trong quá trình giải quyết khủng hoảng hạt nhân trong quá khứ, Triều Tiên cũng bị chịu nhiều chỉ trích từ phía cộng đồng quốc tế vì đã trì hoãn không thực hiện các cam kết trước đó Xem thêm Nguyễn Ngọc Hùng, Triển vọng giải quyết vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, Tạp chí nghiên cứu Đông Bắc Á số 3, 2008 , đặc biệt là trong các cuộc đàm phán 6 bên. Điều này cũng khiến cho nước này mất lòng tin của cộng đồng quốc tế, và càng rơi vào thế cô lập trên mọi lĩnh vực. 4.3. Đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương Nguy cơ chiến tranh toàn diện và chiến tranh hạt nhân nổ ra trên bán đảo Triều Tiên ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định của khu vực kinh tế năng động chiếm đến 56% GDP toàn cầu. Do đó nó cản trở sự phát triển kinh tế trong thời đại toàn cầu hóa –với xu thế tăng cường phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước và ưu tiên phát triển kinh tế. Triển vọng và giải pháp đề xuất 5.1. Triển vọng Nhìn chung, trong tương lai gần, Mỹ và Bắc Triều Tiên sẽ vẫn tiếp tục xảy ra xung đột xung quanh vấn đề hạt nhân. Tuy nhiên, chiến tranh hạt nhân giữa hai quốc gia này là điều khó có thể xảy ra. Có thể nói, cục diện bán đảo Triều Tiên như một bàn cờ, Bắc Triều Tiên là một quân cờ, người chơi là Mỹ và Trung Quốc. Chính vì thế, cuộc chơi này đôi lúc đi xa đến đâu không phải do Triều Tiên quyết định, mà là do Trung Quốc và Mỹ. 5.2. Giải pháp đề xuất Tóm lại, tiến trình giải quyết vấn đề hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên thực sự là một bài toán hết sức khó khăn và phức tạp. Cần phải khẳng định rằng, xung đột sẽ không thể chấm dứt nếu Mỹ và Bắc Triều Tiên không thay đổi nhận thức về việc sử dụng vấn đề hạt nhân của Bắc Triều. Vậy để kiềm chế, giải quyết xung đột này, nhóm nghiên cứu xin mạnh dạn đề xuất các giải pháp dành cho các bên liên quan. Về phía Bắc Triều Tiên, quốc gia này cần linh hoạt hơn, mềm mỏng hơn trong cách dùng từ, tránh dùng các từ gây kích động, tránh lạm dụng phương pháp khiêu khích hạt nhân quân sự với Mỹ và đồng minh nhằm xây dựng lòng tin và cải thiện hình ảnh của mình trong cộng đồng quốc tế. Sẽ tốt hơn nếu Bắc Triều diễn giải chương trình hạt nhân của mình theo hướng tích cực, và không mang hạt nhân để đe dọa tấn công Mỹ và đồng minh. Bởi Mỹ hiện đang là quốc gia mạnh nhất trên thế giới, chính vì vậy, một nước nhỏ như Bắc Triều Tiên nên tôn trọng danh dự của vị thế siêu cường Mỹ, thể hiện rõ thiện chí, mục tiêu phát triển kinh tế, kêu gọi đầu tư, thể hiện thiện chí mong muốn đối thoại bình đẳng với Mỹ. Về phía Liên Hiệp Quốc, thay vì lạm dụng các biện pháp trừng phạt, cấm vận kinh tế hay viện trợ nhân đạo, cô lập Triều Tiên, tổ chức này nên tăng cường sử dụng các kênh ngoại giao, đặc biệt là kênh 3, đồng thời chủ động kêu gọi các bên đối thoại để trao đổi quan điểm cũng như mong muốn của mình nhằm xây dựng lòng tin, từ đó kiềm chế và giải quyết xung đột. KẾT LUẬN Bài tiểu luận đã đi qua những sự kiện mang tính chu kỳ - luẩn quẩn của xung đột hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, cuộc xung đột mà nguyên nhân chính là mâu thuẫn giữa ý đồ giữ vững an ninh, duy trì và tăng cường vai trò lãnh đạo, chi phối của siêu cường Mỹ tại khu vực với chính sách cứng rắn của Triều Tiên trong việc phát triển hạt nhân để đảm bảo an ninh cho đất nước. Với tính chu kỳ của nó, dù hiện nay đang có những va chạm giữa các bên trong xung đột, một cuộc chiến tranh toàn diện với sự tham gia của vũ khí hạt nhân sẽ khó xảy ra, dù rằng tìm một giải pháp toàn diện cho vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên trong thời điểm hiện nay còn rất nan giải. Một giải pháp như vậy đòi hỏi sự thay đổi quan điểm của không những Triều Tiên, Mỹ mà còn của cộng đồng quốc tế, trong đó quan trọng nhất phải kể đến Trung Quốc, đồng minh duy nhất và được xem là có thể ảnh hưởng đến quyết sách của Triều Tiên. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt Mỹ lợi dụng vấn đề hạt nhân Bắc Triều Tiên để đạt được mục tiêu trở lại châu Á – Thái Bình Dương, tài liệu tham khảo đặc biệt, Thông tấn xã Việt Nam, số 096 - TTX. Nguyễn Ngọc Hùng, Triển vọng giải quyết vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, Tạp chí nghiên cứu Đông Bắc Á số 3, 2008 Phạm Qúy Long, CHDCND Triều Tiên trong thập niên đầu thế kỉ XXI, NXB Từ Điển Bách Khoa, Hà Nội, 2009. Mỹ lợi dụng vấn đề hạt nhân Bắc Triều Tiên để đạt được mục tiêu trở lại châu Á – Thái Bình Dương, tài liệu tham khảo đặc biệt, Thông tấn xã Việt Nam, số 096 - TTX. Tiếng Anh John Hudson, 7 Things North Korea Is Really Good At, 2013, Foreign Policy Mark Manyin, Foreign Assistance to North Korea, Congressional Research Service, 2012 Timeline of North Korea’s nuclear program

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docx_nhom_10_anqt_xung_dot_hat_nhan_tren_ban_dao_tt_1942.docx