Trên tinh thần nỗ lực giải quyết các vấn đề trọng tâm của đề
tài, chúng tôi nhận thấy vẫn còn rất nhiều vấn đề đặt ra, nếu có điều
kiện nghiên cứu trong tương lai, đây sẽ là những gợi mở thú vị:
- Bản chất là một lí thuyết khởi nguồn từ phong trào hoạt
động môi trường, phê bình sinh thái bị cho là yếu về lí luận, nhiều
khi bỏ qua lí luận. Do đó, xây dựng hệ thống lí luận phê bình sinh
thái vững chắc đang là mục tiêu hướng đến của các nhà nghiên cứu.
Đây là hướng nghiên cứu mở ra triển vọng để xác định cụ thể đối
tượng nghiên cứu phê bình sinh thái, phương pháp thực hành khả
dụng, tránh tình trạng “vay mượn” và “lạm dụng” quá nhiều các lí
thuyết khác, mất đi giá trị độc tôn của phê bình sinh thái. Thực tế,
phê bình sinh thái chú trọng nhiều đến cảm hứng phê phán, điều này
khó mang lại sự trưởng thành về phương diện lí luận. Nếu dẫn nhập
tinh thần triết học sinh thái phương Đông cổ đại, phê bình sinh thái sẽ
bồi đắp và củng cố một số vướng mắc từ trong bản chất
30 trang |
Chia sẻ: ngoctoan84 | Lượt xem: 1347 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 – 2014 từ góc nhìn phê bình sinh thái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hất liên ngành của
phê bình sinh thái đã thu hút nhiều quan tâm, chú ý của các chuyên
gia văn học, văn hóa, sinh học, lịch sử, địa lí, vật lí Từ những năm
1970 đến nay, phê bình sinh thái từ phong trào nhỏ lẻ, tản mác đã trở
thành một hướng nghiên cứu phổ biến, sôi nổi toàn cầu.
1.3.2. Hướng nghiên cứu đề tài
Thứ nhất, giới thiệu được ngành sinh thái học nhân văn hiện
nay đang trở thành một khoa học toàn cầu, kết hợp thành tựu của
khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn để xử lý những vấn đề mà
Trái đất, môi trường đặt ra trước con người. Thứ hai, việc tiếp cận
phê bình sinh thái sẽ phát hiện ra những bước chuyển mình của tiểu
thuyết Việt Nam trong bối cảnh Đổi mới, tiếp thu tinh hoa nhân loại.
Thứ ba, khảo cứu những tiểu thuyết từ Đổi mới đến nay, chúng tôi
tiến hành định giá các chuẩn tắc đạo đức sinh thái được biểu hiện cụ
thể qua hệ thống nhân vật. Mỗi hành động, ứng xử của nhân vật sẽ là
nấc thang để phân chia phạm trù đạo đức. Thứ tư, dựa vào tính chất
liên ngành và những hiệu ứng mà phê bình sinh thái mang lại, chúng
5
tôi đi sâu vào thế giới tinh thần qua quyền lực của diễn ngôn và các
phạm trù văn hóa, liên văn bản.
CHƯƠNG 2. MỘT CÁI NHÌN HẬU/ GIẢI CẤU TRÚC
VỀ PHÊ BÌNH SINH THÁI TRONG TIỂU THUYẾT
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 – 2014
2.1. Phê bình sinh thái và đặc tính hậu/ giải cấu trúc
2.1.1. Về khái niệm và cội nguồn của phê bình sinh thái
2.1.1.1. Khái niệm
Tính chất mở, đa chiều và liên ngành đã mang đến nhiều khái
niệm cho phê bình sinh thái. Điều này không tạo nên những mâu
thuẫn, đối lập và tranh cãi giữa các học giả. Ngược lại, nó phát ra một
hiệu ứng khả nghiệm, lan tỏa và thu hút nhiều ý kiến đóng góp hơn
nữa nhằm hoàn thiện lí thuyết, đồng thời cũng khẳng định từ trường
hấp dẫn của phê bình sinh thái đối với thế giới hiện nay. Và dù có
nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng tất cả các học giả đều đồng
nhất phê bình sinh thái là một lí thuyết có những đặc trưng tư tưởng
và nguyên tắc mĩ học rõ ràng, đó là lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái
làm tôn chỉ, phán xét nguồn gốc văn hóa tư tưởng của nguy cơ sinh
thái và thẩm định văn bản từ góc độ nghệ thuật sinh thái. Đây cũng
chính là quan điểm của chúng tôi trong luận án.
2.1.1.2. Cội nguồn triết học của phê bình sinh thái
Những tư tưởng triết học của các trường phái luân lí học môi
trường phương Tây nửa đầu thế kỉ XX có thể coi là nền tảng cơ bản
cho sự ra đời của phê bình sinh thái, trong đó quan trọng nhất là luân lí
“kính trọng sinh mệnh” của Schweitzer và “luân lí địa cầu” của
Leopold. Aldo Leopold được coi là người đầu tiên đề xướng sự bảo vệ
sinh thái của phương Tây cận đại. Bên cạnh đó, quay về với tư tưởng
văn hóa phương Đông cổ đại cũng là một khuynh hướng quan trọng
của phê bình sinh thái hiện nay. Tính chỉnh thể trong trật tự, tính
hướng nội trong quy tắc của phương Đông có thể điều chỉnh tư tưởng
cá nhân và chủ nghĩa bá quyền mang tính hiện đại phương Tây, giúp
cho nhân loại tìm ra con đường tinh anh nhất giữa các nền văn hóa.
Sự hòa kết Đông Tây, tư tưởng luân lí sinh thái phương
Tây nửa đầu thế kỉ XX và tư tưởng sinh thái của tam giáo phương
6
Đông là nền tảng vững chắc của phê bình sinh thái. Bổ sung
những ưu điểm và khắc phục nhược điểm giữa hai nguồn tư tưởng
này, phê bình sinh thái sẽ có cội nguồn triết học cùng cơ sở lí luận
thuyết phục và hoàn thiện hơn.
2.1.2. Đặc tính hậu/ giải cấu trúc của phê bình sinh thái
Chứng minh rõ đặc tính hậu/ giải cấu trúc của phê bình sinh
thái được thể hiện như thế nào, trong một bài nghiên cứu của mình,
Michael Verderame, ông đã cho rằng, thời kì này các học giả chú
trọng nhiều hơn đến giải cấu trúc trong phê bình sinh thái, với các
đặc điểm: giải cấu trúc sự đối lập có tính kế thừa của “tự nhiên” và
“nhân loại” mà trước đây điều này là vinh dự nhưng sau này là một
sự xem thường; khám phá các khía cạnh vật chất, kinh tế, xã hội và
những tác động của quá trình môi trường; kiểm tra “phương diện môi
trường” như một thuộc tính quan trọng của tất cả các văn bản hơn là
một lĩnh vực của một thể loại bị giới hạn eo hẹp trong “lối viết tự
nhiên”; đồng thời mở rộng tầm nhìn của nó vượt ra ngoài cảnh quan
hoang dã và nông thôn bao gồm các thành phố, vùng ngoại ô và phần
còn lại của môi trường xây dựng. Ông nhấn mạnh “một phê bình sinh
thái mới tốt nhất nên được xuất phát từ các bậc tiền bối” và “các nhà
phê bình sinh thái văn học cần tham gia vào các dòng chảy phê bình
tân lịch sử và chủ nghĩa hậu cấu trúc một cách trọn vẹn và cởi mở
hơn”, trong đó giải cấu trúc là một xu hướng thích hợp để giúp phê
bình sinh thái “trở nên dễ tiếp nhận hơn” bằng cách trút bỏ vị trí bên
lề (nằm ngoài phê bình văn học hiện đại chính thống) và “mang đến
một không gian thích hợp hơn trong các cuộc đối thoại về tri thức”.
Nhưng các lí thuyết như “tác giả chết” R.Barthes, “nguyên lí
đối thoại” của M.Bakhtin, “chủ thể biến mất liên chủ thể” của
M.Foucault, chủ yếu là diễn giải ở cấp độ văn bản, ngôn ngữ. Vì thế,
vận dụng vào phê bình sinh thái sẽ có độ lệch nhất định, đôi chỗ dễ rơi
vào biện luận. Do đó, chúng tôi xác định từ đầu, chủ đích của phê bình
sinh thái không chú trọng mạnh vào hình thức nghệ thuật (như ngôn từ
trau chuốt, cốt truyện li kì hay xây dựng nhân vật hấp dẫn) mà cốt yếu đi
sâu vào nội dung, trong đó định giá đạo đức và tinh thần sinh thái là vấn
đề cốt lõi. Bên cạnh đó, với đặc trưng và hệ thống lí luận như trên, phê
7
bình sinh thái đã thể hiện rõ cảm quan hậu hiện đại. Vì thế hậu/ giải
cấu trúc trong phê bình sinh thái còn gợi mở cho chúng ta một vấn đề
khác liên quan đến liên văn bản và văn học so sánh, cũng như các hệ
hình lí thuyết khác. Do vậy, hậu/ giải cấu trúc không phải là phương
pháp duy nhất để tìm kiếm ý thức sinh thái trong tiểu thuyết Việt Nam
giai đoạn 1986 đến nay, nhưng là cánh cửa gợi mở nhiều tham chiếu
thú vị.
2.2. Những phương diện hậu/ giải cấu trúc của phê bình sinh thái
trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau Đổi mới
2.2.1. Phi trung tâm – dạng thức tồn tại của văn hóa hậu hiện đại
Nằm trong dòng chảy hậu hiện đại, các nhà văn sinh thái rời bỏ
niềm tin vào tương lai bền vững, tươi đẹp, quay về ý thức rõ hơn hiện
thực với nhiều hiểm nguy đang rình rập, con người đối mặt trước một
thời đại “không số phận”, không đoán định. Nhưng nếu hậu hiện đại tạo
ra cái nhìn hỗn mang trước những giao điểm, ngã rẽ, thì phê bình sinh
thái lại tạo ra cái nhìn tụ điểm. Điều này tưởng như mâu thuẫn, nghịch lí
với “phi trung tâm” của hậu/ giải cấu trúc. Nhưng kì thực, đó lại là nét
riêng biệt của tính chất phi trung tâm phê bình sinh thái. Tụ điểm của
phê bình sinh thái thể hiện ở chỗ, khi xóa bỏ cái nhìn trung tâm, các nhà
văn có cơ hội quan tâm nhiều hơn trong văn bản những đối tượng yếu
thế, thua thiệt, có nguy cơ tổn hại và chìm khuất. Bước ngoặt này giúp
cho các nhà phê bình sinh thái dịch chuyển trung tâm qua những đối
tượng mang tính chất thực tế hơn: “trái đất trung tâm”, “sinh vật trung
tâm”, “sinh thái trung tâm”. Tùy theo từng hoàn cảnh, tình thế cụ thể, tụ
điểm được kết nối và trở thành trung tâm, chẳng hạn, trong Ruồi là ruồi
(Đỗ Phấn), khi người dân tiến hành cuộc tàn sát quy mô lớn nhất từ
trước đến nay để tiêu diệt tận gốc loài ruồi và môi trường dành cho
chúng, ống kính nhà văn hướng nhiều ưu ái đến ruồi. Dù muốn hay
không muốn, nhân loại phải thừa nhận “chúng là một phần trong cuộc
sống trên hành tinh xanh của chúng ta”, và “những mối nguy hiểm do
chúng mang lại không hẳn đã áp đảo lợi ích của chúng”. Cuộc sống của
người đều xoay quanh bên ruồi, nên mục đích của nhà văn khi đề cao
ruồi chính là “hướng đến một trái đất cân bằng sinh thái. Mọi cỏ cây và
sinh vật sống trên hành tinh này đều phải được tôn trọng”.
8
2.2.2. Cái chết của chủ thể - tính liên chủ thể
Cái chết của chủ thể dưới góc độ sinh thái không đơn giản
chỉ là phủ định hoàn toàn vai trò và vị thế của con người, mà sâu xa
hơn, nhà văn mong muốn kìm hãm những dục vọng bạo liệt của con
người cùng những suy nghĩ và hành động phi lí của chính họ đối với tự
nhiên. Chính vì vậy, đi cùng với việc phản chủ thể, cái chết của chủ thể
trong sáng tác phê bình sinh thái còn là sự thể hiện tính liên chủ thể.
Trong tiểu thuyết Việt Nam sau Đổi mới, tính chủ thể tự trị, tính
độc sáng của cá nhân theo đây chỉ còn là một huyễn tưởng khi ý nghĩa
tương giao nhân loại – tự nhiên được xác định thông qua những hình ảnh
cụ thể mang tính ẩn dụ cao. Sự tương trợ sinh tồn của tập thể Liên hiệp
quốc doanh đánh cá và biển (Biển và chim bói cá); sự hòa nhập giữa Ân
và sông (Sông); kiếp sống kí sinh giữa ruồi và người (Ruồi là ruồi); tính
hài hòa nhân ái giữa bồ câu và già SuDa (Những bầy mèo vô sinh);
những hi sinh, tận tụy, trung thành của một chú chó luôn hết mình vì chủ
và người chủ cũng chân thành đối đãi thật tâm với nó (Chó Bi, đời lưu
lạc), là những thành công trong việc xóa mờ ranh giới giữa chủ thể/
khách thể, nhân loại/ phi nhân qua hai hình tượng song trùng: người/ cá,
người/ sông, người/ ruồi, người/ mèo, người/ chó.
2.2.3. Tính đối thoại – phương thức kết nối với thế giới tự nhiên
Đối thoại thực chất là thể hiện sự đối lập về lập trường tư
tưởng của các nhân vật, làm nên đặc điểm đa thanh, phức điệu cho
tiểu thuyết. Tất nhiên, tính chất đối thoại với tự nhiên trong các tiểu
thuyết sinh thái hoàn toàn khác với đối thoại trong các truyện viết về
loài vật. Nghĩa là nhà văn không tạo ra những lượt vấn đáp/chuyện
trò giữa nhân loại và thế giới phi nhân loại, cũng không theo phương
thức đồng thoại. Sự thấu cảm và kết nối ở đây được thực hiện chủ
yếu thông qua độc thoại, suy tưởng, tự vấn của con người và cả tự
nhiên. Trên nguyên tắc đảm bảo cân bằng giữa lập trường nhân vật
và lập trường tác giả, chủ thể (có thể là con người, hoặc tự nhiên) bộc
lộ hành trình tự nhận thức của mình. Bằng sự trải nghiệm của chủ
thể, nhân vật phát biểu, phán xét những hành động, vấn đề liên quan
đời sống như đạo đức, xã hội, chính trị, văn hóa
9
CHƯƠNG 3. ĐỊNH GIÁ CHUẨN TẮC ĐẠO ĐỨC
SINH THÁI TỪ HỆ THỐNG NHÂN VẬT
3.1. Kiểu nhân vật xâm phạm tự nhiên – khát vọng bành trướng
3.1.1. Tư tưởng nhân loại trung tâm và sai lạc hành vi
3.1.1.1. Niềm khoái cảm khi được thống trị tự nhiên
Sở dĩ con người có thể bất chấp mọi hậu quả nhằm chinh phục
được tự nhiên là bởi họ tìm thấy trong đó một niềm khoái cảm của kẻ
chiến thắng, một cảm giác tự tin khi được làm trung tâm, bá chủ. Tiểu
thuyết Gần như là sống của Đỗ Phấn có kể về chi tiết những dân chơi
Hà Nội đua nhau “tha” những thứ ở rừng về trưng bày trong không gian
chật chội của phố thị, trong đó có nhiều loài chim quý. Tuy nhiên, dân
chơi chim cảnh Hà thành không mấy ai nhòm ngó loài chim Quế Lâm
ngũ sắc, “dù bộ mã con chim vô cùng bắt mắt”, “tiếng hót của nó quá
ồn ào liến thoắng như thổi còi làm tăng thêm nhịp độ gấp ruổi vội vã
phố phường”. Nuôi chim cảnh, nhưng không phải để ngắm, cũng không
phải thưởng thức tiếng hót, rút cuộc những dân chơi thành thị muốn gì?
Họ nhốt chim trong lồng, treo giữa nhà như một thứ “trang sức”. Muốn
nhìn thấy chúng nằm trong những chiếc hộp, cũng giống như họ đang
“ở trong những cái hộp như thế của thành phố”. Chính quá trình vật
lộn và giành được chiến thắng với tự nhiên, con người đạt những cảm
giác mới, đánh thức bản năng của chính mình ẩn nấp trong chuỗi
ngày u ám, tẻ nhạt.
3.1.1.2. Đến những sai lạc trong hành vi
Đắm chìm trong tư tưởng thống trị thế giới, con người không
nhận thức sáng suốt hoàn cảnh thực tế và những hành động chính
đáng cần làm. Người cha (Trăm năm còn lại) vì mãi theo tiếng gọi
của vàng và tham vọng bá chủ, nên đã quên chăm sóc, vun vén cho tổ
ấm của mình. Một thời gian sống trong rừng sâu với sự thù hằn và
đối chọi, rẫy khai hóa đã hơn hai mươi năm nên đất mầu xói mòn
cuốn theo suối rồi đổ cả vào dòng Dabkla.
Mất đi khả năng thấu hiểu tự nhiên và chối từ giao cảm với
muôn loài, con người dễ đẩy mình vào con đường tha hóa, độc tài, máu
lạnh. Trong Thoạt kì thủy (Nguyễn Bình Phương), Tính là kiểu con
người có hội chứng tâm thần đặc biệt, với sở thích quái dị: khoái cảm
10
khi được trải nghiệm cảnh sát sinh. Không làm chủ được hành động
của mình, Tính đã để vô thức điều khiển trong niềm khoái lạc, dã tâm
châm lửa thiêu cháy bố mẹ Hiền không chút dao động, cầm dao giết
ông Khoa rồi tự kết liễu mình. Nếu con người không ý thức được sự
đau đớn của sinh vật khi bị chính mình giết hại, thì cũng sẽ không nhận
thức được hành động đã làm với chính đồng loại.
Nhìn các nhân vật trong Trăm năm còn lại, Săn cá thần,
Thoạt kì thủy theo quan điểm Phật giáo sẽ thấy, sự hủy hoại môi sinh,
ô nhiễm môi trường là hậu quả đỉnh cao của tư duy hữu ngã, con
đường hưởng thụ lạc thú của con người. Vì thế, nguyên nhân chính của
cuộc khủng hoảng môi sinh nghiêm trọng là do vô minh và tham ái.
Còn theo quan điểm của Lão Tử trong Đạo đức kinh thì, “Trí tuệ
xuất, hữu đại ngụy” (Trí tuệ sinh ra, có vô vàn điều giả dối). Cho nên,
càng biết nhiều, con người càng ham muốn nhiều, khả năng đòi hỏi
thỏa mãn dục vọng cao. Không có trí tuệ nào của con người có thể
sánh kịp với “trí tuệ của tự nhiên”. Khi các nhân vật bất tuân tự
nhiên, làm trái đạo lí, tất yếu sẽ gánh những hậu quả khó lường. Như
vậy, phê bình sinh thái phản đối tư tưởng nhân loại trung tâm không
chỉ đơn thuần là phản đối nhận thức lệch lạc của con người đối với tự
nhiên, ẩn chứa trong đó còn là sự phê phán thái độ vô cảm, tha hóa
đạo đức, lệch lạc lối sống. Cho nên, giải trừ quan niệm “nhân loại
trung tâm” cũng là cách giải trừ “tà khí” trong con người.
3.1.2. Sự mơ hồ sinh thái – những ngộ nhận trong quy luật sinh tồn
3.1.2.1. Ngộ nhận tự nhiên là vô tận trong thời đại công nghiệp hóa –
hiện đại hóa
Đầu tiên là những ngộ nhận của con người trong giai đoạn
chiến tranh. Khu rừng Yên Ngựa trong tiểu thuyết Thập giá giữa
rừng sâu của Nguyễn Khắc Phê là minh chứng cho những vết tích và
mất mát của một thời máu lửa. Để phục vụ cuộc đối đầu với kẻ thù,
người ta “đua nhau đi chặt gỗ làm hầm, cây càng to, càng chắc càng
có nhiều thành tích”. Cánh rừng là nơi nương náu cho bộ đội, là
nguồn vũ khí đơn sơ mà hữu dụng trong chiến đấu và cũng là nơi
hứng chịu không biết bao nhiêu trận càn quét của giặc.
11
Người Việt thường tự hào về non sông gấm vóc hùng vĩ và
“rừng vàng, biển bạc”, nhưng rừng ngày một tàn lụi, và biển cũng đến
lúc cạn nguồn. Thuyền trưởng Lê Mây (Biển và chim bói cá – Bùi Ngọc
Tấn) luôn ao ước khi kháng chiến thắng lợi sẽ được lên tàu đi đánh cá
ngoài biển khơi. Anh tâm niệm phục vụ đất nước bằng cách “khai thác
biển vàng biển bạc, xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh, sánh vai
cùng các nước khắp năm châu bốn biển”. Nhưng biển ngày càng bị con
người xâu xé, khai thác đến cạn kiệt. Kết cục tàn lụi của Quốc doanh
đánh cá là điều dễ dàng đoán định, khi chúng ta không ý thức được khai
thác đi liền với gìn giữ, đánh bắt cùng cần phải bảo vệ tài nguyên; mặc
sức vơ vét tận cùng, biển sẽ nổi giận qua những đợt giông bão, sóng
thần, thủy triều đỏ, và cá tôm cũng sẽ vơi dần.
3.1.2.2. Thái độ thờ ơ trước cuộc khủng hoảng môi trường
Nguyễn Khắc Phê đã lí giải cuộc chiến đấu bảo vệ rừng
trong Thập giá giữa rừng sâu sở dĩ không cân sức và có một kết cục
bất hợp lí cũng vì lòng tham và sự vô cảm của rất nhiều người. Bá
mang chức danh là hạt trưởng Hạt kiểm lâm nhưng chính y lại đi bán
rừng và quên đi nhiệm vụ chính của mình là phải bảo vệ rừng. Với
tâm lí thờ ơ và hám lợi, Bá bị đồng tiền của lâm tặc điều khiển và
trượt dài trên con đường tha hóa. Ngay cả những người dân làng Sim,
họ cũng hết sức buông xuôi, vì “đã quen coi mọi thứ trong rừng núi
là của trời đất, như cát dưới lòng sông, như nước mưa, như nắng,
chẳng của riêng ai và dùng nhiều hay ít chẳng làm hại ai”. Nên có bi
quan không khi Nguyễn Khắc Phê tự đặt một câu hỏi nhói lòng:
“Chẳng lẽ con người càng văn minh, càng ngu ngốc, vô đạo sao?”.
Khai thác những trạng huống phản diện, tiêu cực trong cách
hành xử với tự nhiên của con người từ sau Đổi mới, các nhà văn không
cố tình làm mất đi những giá trị người, chỉ là để thấy một thực tế đã và
đang diễn ra trước những tương tác, va chạm của thế giới người và thế
giới bên-ngoài-con-người. Trong sự va chạm, tương tác ấy, nhiều tổn
thất, nguy hại đã xảy đến với tự nhiên, mà một phần nguyên nhân
chính là do sự “ngây thơ”, bàng quan, quan liêu, tư lợi của con người.
Vấn đề mơ hồ sinh thái sẽ còn tiếp diễn nếu chúng ta không thức tỉnh
và thay đổi nhận thức toàn bộ cộng đồng. Charles Wells đã nói:
12
“Chúng ta chỉ có thể thay đổi thế giới bằng cách thay đổi con người”.
Tiếng nói tôn trọng sinh mệnh và bảo vệ tự nhiên của từng cá nhân
riêng lẻ sẽ chìm dần trong bất lực và yếu đuối. Sự kết nối và san sẻ của
tất cả mọi người là điều cần thiết.
3.2. Kiểu nhân vật nạn nhân sinh thái – hậu quả của văn minh
3.2.1. Nông dân, người nghèo và sự gợi mở sinh thái giai cấp
Quan sát, một vòng luẩn quẩn có tính quy luật trong đời sống
của nông dân và người nghèo được diễn ra, lặp lại trong tiểu thuyết từ
sau Đổi mới: Đói khổ Bóc lột tự nhiên Thoát khỏi đói khổ Tha
hóa, sa ngã Đói khổ. Chúng tôi gọi mô hình này là Chu trình Sinh thái
đói nghèo. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến cuộc sống khốn cùng của
nhân dân, như dịch bệnh, dân số đông, trình độ dân trí thấp, những bất cập
trong chính sách quản lí của nhà nước, thiên tai, Trong số đó, chúng tôi
muốn nhấn mạnh đến những hậu quả do sự tác động của con người đối
với thiên nhiên khiến cho người dân khó thoát khỏi cảnh đói nghèo.
Nhưng điều quan trọng của sinh thái giai cấp là “sự áp bức
của con người đối với tự nhiên bao giờ cũng đi kèm với sự áp bức
của con người đối với con người trong xã hội”. Bởi trong quá trình
chiếm đoạt tự nhiên, những người làm chủ, có tiền, có quyền luôn
được hưởng lợi nhiều nhất. Đối với người nghèo, người làm thuê, họ
thường chịu thua thiệt và hẩm hiu. Sùng Chúa Đà trong Chúa Đất
(Đỗ Bích Thúy) là kẻ “vừa giàu có, vừa độc ác”. Hắn đã dùng sức
mạnh quyền lực của mình để bắt dân làng trồng cây thuốc phiện thay
vì trồng cây lương thực.Bởi sau mỗi vụ anh túc, Chúa đất lại thu về
rất nhiều bạc trắng. Nhưng “bạc trắng vào nhà chúa đất một trăm
đồng thì chưa chắc vào nhà người trồng anh túc được một đồng”.
Nên cả một vùng núi, nông dân đói khổ, lầm than. Biển và chim bói
cá của Bùi Ngọc Tấn lại phản ánh trong cuộc mưu sinh khó nhọc,
người nghèo luôn phải nỗ lực hết mình lao động, khai thác nhiên
nhiên bằng máu, nước mắt, mồ hôi. Nhưng kết quả họ thu về đều
phải san sẻ cho người quyền thế hơn.
Qua quá trình miêu tả cuộc chiến đấu, sinh tồn của con người
trước thiên nhiên, các tiểu thuyết gia Việt Nam bắt đầu chú ý đến mối
tương quan trong sự phân cấp giữa nông dân/ địa chủ, người giàu/
13
người nghèo. Bất bình và phản đối những hành động xâm phạm
nghiêm trọng đến tự nhiên, nhiều nhà văn chủ trương bình đẳng môi
sinh và giai cấp, thay đổi cách ứng xử giữa con người – con người sẽ
góp phần nhỏ trong việc thay đổi cách ứng xử với thế giới thiên
nhiên. Màu rừng ruộng (Đỗ Tiến Thụy), Gần như là sống (Đỗ Phấn),
Biển và chim bói cá (Bùi Ngọc Tấn), Sông (Nguyễn Ngọc Tư), Chúa
đất (Đỗ Bích Thúy), Thiên đường ảo vọng (Nguyễn Trí) là những
tiểu thuyết đã thể hiện tinh thần như thế.
3.2.2. Thị dân, trí thức và làn sóng sinh thái đô thị
Hướng đến một đời sống tinh thần an nhiên, với người thành
phố là điều quá khó khăn. Họ tự phản biện lại sự lựa chọn cuộc sống
của chính mình: “chẳng hiểu đô thị có những gì mà giàu sức quyến rũ
đến thế?”. Vì khi làm dân phố nghĩa là tự nhốt mình vào những căn
hộ tập thể chật chội, đông đúc trong các tòa nhà quanh năm không
thấy ánh mặt trời, là chen chúc mệt nhoài trên những con đường mù
bụi luôn tắc vào giờ cao điểm, là hiếm hoi thưởng thức những món
ăn đậm tình quê; và chỉ mỗi thuận lợi là “ra đường chẳng phải chào
hỏi nhau như ở làng”. Xuyên suốt tiểu thuyết Nhắm mắt nhìn trời
(Nguyễn Xuân Thủy) là quá trình Nguyễn trăn trở, cố gắng gìn giữ
phẩm giá của một công chức quèn. Sống giữa những đổ vỡ, lạc lối của
nhiều số phận trong vòng xoáy đồng tiền, Nguyễn mang bi kịch của
một nhà văn có lương tâm, không thể làm ngơ trước mọi vấn nạn xã
hội. Tách biệt khỏi các điều kiện tự nhiên và đối mặt với khói bụi
thành phố, với không gian thiếu cây xanh, Nguyễn nhận ra, “con người
nhỏ bé cứ bị chìm xuống mãi dưới đáy những huyệt mộ, như những
con bọ gậy loe ngoe thống khổ và bất lực bơi trong thứ nước lờ nhờ
cống rãnh. Nghẹt thở”.
3.2.3. Nữ giới và những thấu chạm sinh thái nữ quyền
Nếu tự nhiên được xem là nguồn sống nuôi dưỡng cho sự tồn
sinh của con người, thì phụ nữ lại mang thiên chức “sản sinh”, “chăm
sóc”. Vai trò của nữ giới thể hiện ở hành động bảo bọc, chở che, nâng
đỡ mọi sinh linh, chứ không chỉ riêng mình con người. Trong Trăm
năm còn lại (Trần Duy Phiên), khi xây dựng nhân vật người chồng
đầy lòng tham, bản năng và thú tính, nhà văn lại để cho hình ảnh một
14
người đàn bà suốt đời lầm lũi cạnh ông – một bà mẹ giàu đảm đang,
biết vun vén, lo toan, sống có phép tắc, trật tự. Trong mắt lũ con,
vàng – vật chất đã làm “mờ mắt” hết thảy. Bà chết trong hoang liêu
và hờ hững. Thậm chí, vì nghi kị nhau, Chò, Sấu và Đế đã đào mộ
mẹ sục sạo tìm vàng, nhưng dưới đáy huyệt sâu tăm tối, đất, đá và hài
cốt lẫn lộn chỉ thấy mỗi “vũng nước đỏ ngầu gần như máu”. Chút
nhân tính chẳng còn gì khi chúng không hề nghĩ đến việc dọn dẹp
khu mộ của mẹ lại như cũ. Phúc phận đời bà dường như không có.
Như vậy, trong bước đường tha hóa của phụ nữ có một phần
nguyên nhân đến từ những thua thiệt sẻ chia với tự nhiên, và cũng có
một phần đến từ những đói nghèo vì thiên tai, thảm họa thiên nhiên.
Nàng Nhình (Thân xác, A Sáng) quyết định từ giã mối tình đầu với A
Sàng và bản làng Pác Thay tươi đẹp để sống giữa chốn phồn hoa đô
hội, không phải vì tình yêu trong cô chưa đủ lớn. Sự tàn tạ, thiếu thốn
của thiên nhiên và cảnh vật cũng trở thành vật cản đẩy cô xa hơn và
xích gần về phố thị. Nhình sợ “những ngôi nhà nghiến, đen sẫm, đầy
mùi phân trâu”. Và trong kí ức cô, những mùa giáp hạt xa xưa, cả bản
“thoi thóp, đói cồn cào. Mé nó, ngoại nó cả ngày lên rừng cũng chỉ lôi
về vài củ pao pinh ăn cho khỏi phải chết”. Nếu an phận đành lòng ở
lại, Nhình sẽ nhanh chóng trở thành một bà già, “thân hình vừa nảy nở,
bầu vú mới cựa mình đã bị đàn ông cướp mất”, “suốt ngày cặm cụi bên
bếp lửa, buồn bã, cam chịu như bất cứ mụ đàn bà ở cái bản Pác
Thay kia”, sẽ “sinh ra những đứa con đen nhẻm, cởi truồng chạy nhông
nhông trên con đường đầy bùn đất trộn với phân” và đêm đêm sẽ chết
dần chết mòn trong tiếng ru con ời ời não nuột.
3.3. Kiểu nhân vật thức tỉnh – ý niệm về sự hợp nhất
3.3.1. Sám hối, trăn trở – niềm kính sợ sinh mệnh
Nhà văn bằng trách nhiệm của mình góp phần truy tìm những
căn nguyên dẫn đến thảm họa môi trường, ngụp lặn vào khoảng mơ hồ
vô thức để cắt nghĩa những động cơ bí ẩn vận hành cỗ máy hành vi con
người. Từ đó tạo ra một tấm gương soi chiếu con người từ “bên trong”.
Nhưng để có cái nhìn toàn diện bên trong, bên cạnh lối trần thuật xưng
tôi ở ngôi thứ nhất, nhà văn còn phải xây dựng không gian nghệ thuật
với ẩn số những ý đồ. Các hình thức tiểu thuyết tự thú, sám hối phát
15
triển trên cơ sở này. Đưa nhân vật vào bối cảnh đắc địa trở thành một
dụng ý nghệ thuật hiệu quả để nhà văn tỏ tường niềm kính sợ tự nhiên.
Cảm nhận về những gì thiên nhiên bị mất mát, dày vò, xâu xé
dưới bàn tay nhân loại, các nhà văn không còn tán tụng tất cả những gì
nhân loại phát minh, sáng tạo. Dám nhìn con người như - nó - vốn - có
với những khả năng và hạn chế của chính nó, tiểu thuyết Việt Nam
thời kì đổi mới đã đưa ra ánh sáng những vùng tối trong con người, hạ
thấp con người, không thần bí hóa cũng không duy lí hóa. Các cây bút
Trần Duy Phiên, Đỗ Phấn, Nguyễn Khắc Phê, Đặng Thiều Quang,
Nguyễn Xuân Thủy đã khước từ xây dựng những tính cách kì vĩ,
hoàn hảo và đơn chiều của lối viết trước đó, đi sâu giải mã những
chiều kích mới của con người. Đó là khát vọng được truy tìm bản
nguyên đích thực. Nó cho thấy, con người không chỉ là một thực thể xã
hội, mà còn là một thực thể sinh học – xã hội.
3.3.2. Bảo vệ tự nhiên – nỗ lực tái thiết Trái đất
Thường thấy, với kiểu nhân vật đứng lên bảo vệ tự nhiên, họ
đều có điểm chung là mang một trái tim mê đắm thiên nhiên, thiết tha
thương yêu muôn loài. Bằng tất cả tình cảm chân thành, họ xem tự
nhiên như một phần thân thể, là điểm tựa tinh thần. Nên khi tự nhiên
bị xâm hại, cưỡng đoạt, họ tìm mọi cách để cứu lấy tự nhiên từ tận
cùng nỗ lực và xót xa. Lớn lên bên dòng Săm Tang, A Sàng (Thân
xác – A Sáng) bị vẻ đẹp của núi rừng cuốn lôi, níu giữ bước chân về
thành phố lập nghiệp. Cái mật lớn của loài gấu trong anh tiết ra đắng
ngắt, ngăn cản anh đừng về nơi đó: “địa ngục đấy”, anh bằng lòng ở
lại làm một “nông dân chính hiệu, cả ngày chỉ quanh quẩn bên đồi
dẻ”. Cả cánh rừng anh trồng luôn rợp một màu hồng, rập rờn ong
bướm bay lượn. Anh xem chúng như một sinh thể thực sự, anh thấy
“cuộc sống của cây cối cũng như con người: có trái tim, có nhịp đập,
có tình yêu”, và “cái giống hạt dẻ này nếu không nâng niu từng nụ
hoa, chúng giận dỗi không ngủ với nhau, rụng xuống đất đố ra hoa”.
Trước những mất mát, hi sinh của các nhân vật dám đứng lên
đấu tranh để cứu lấy hệ sinh thái, như Đức (Thập giá giữa rừng sâu),
A Sàng (Thân xác), các nhà văn đã tạo nên một kết thúc bằng bi kịch
của cái thiện. Không lãng mạn hóa hiện thực, không theo triết lí dân
16
gian “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”, nhân vật sống ác vẫn tiếp tục
tàn phá môi trường, cỏ cây, đất đai, muôn thú. Điều này gióng lên hồi
chuông cảnh tỉnh nhằm khơi dậy ý thức trách nhiệm của con người
với tự nhiên. Đâu đó trong cuộc sống thường nhật, vẫn còn những
người lặng thầm quên đi sinh mạng để cứu lấy Trái đất. Ít nhiều trong
chúng ta không tự cảm thấy nhói lòng và hổ thẹn? Những tấm gương
sáng, những nghĩa cử cao đẹp với thiên nhiên sẽ đánh thức lương tri
của cộng đồng độc giả.
3.3.3. Hướng đến lối sống điền viên – cuộc hành hương về với tự
nhiên
Dễ thấy rằng, nhiều tiểu thuyết Việt Nam sau Đổi mới đã tập
trung vào các trạng huống hiện hữu cá biệt của con người trong đời sống
để làm nên một khuynh hướng nhân vật “về nguồn” với khát vọng hoàn
lương. Khi quay về với thiên nhiên, nằm giữa lòng thiên nhiên, nhân
loại nhận diện vị thế của mình giữa vũ trụ, sống có trách nhiệm và
tôn trọng các sinh mệnh khác hơn?! Đăng (Săn cá thần) sau khi
chứng kiến cuộc sống nhàn cư, thanh tịnh của cha con ông Văn, anh
muốn tách rời đoàn người “rửng mỡ, rồ dại và đồng bóng” đi cùng để
thoát khỏi những nỗi sợ hãi và tồi tệ phải hứng chịu trong cuộc vật
lộn với cá thần và “muốn được ở lại căn nhà đơn sơ bên suối đó của
cha con họ”.
Hành trình nhận thức của con người từ vị thế xâm phạm tự
nhiên sang trạng thái sám hối và hòa nhập với tự nhiên là một hành
trình đấu tranh giữa cái Thiện và cái Ác, giữa Dục vọng và Lương tâm,
giữa Vô thức và Ý thức. Cũng lẽ đó, nhân vật thuộc những tiểu thuyết
dạng này thường được miêu tả phức tạp về tâm lí. Tác giả đi sâu vào
thế giới nội tâm của nhân vật bằng độc thoại, chất vấn, suy nghiệm
không dứt. Để khẳng định được sự hiện tồn của chính mình, hoàn thiện
bản thân, đòi hỏi một quá trình diễn ra nhọc nhằn, vừa gắn với những
diễn biến nội tâm, vừa gắn với thực tế đời sống. Vì hiện thực như thế
nào sẽ phản ánh qua tính cách, suy nghĩ, hành động như thế ấy.
17
CHƯƠNG 4. PHỤC HƯNG TINH THẦN SINH THÁI
TỪ QUYỀN LỰC VĂN HÓA
4.1. Quyền lực của diễn ngôn – những khai mở nhãn quan văn
minh đương đại
4.1.1. Định hình diễn ngôn lãng mạn tự nhiên trong tầm nhận thức
mới
4.1.1.1. Diễn trình vẻ đẹp tự nhiên trong hoài niệm
Sự trở lại diễn ngôn lãng mạn trong tiểu thuyết không phải là
ngẫu nhiên, mà là sự chủ ý của nhà văn để nhấn mạnh rằng, chúng ta
đã và đang có một tuyệt phẩm thiên nhiên như thế, nhưng rồi chúng ta
sẽ giữ gìn nó được bao lâu?! Người hiện đại nhấn nhá những cảnh sắc
của “ngày cũ” qua việc phục hồi trong văn chương dấu ấn một thời.
Bằng giọng văn nhẹ nhàng, Nguyễn Ngọc Tư đã thủ thỉ đưa người đọc
đến với một phiên chợ đặc biệt mà có lẽ chẳng còn tồn tại – chợ khói
(Sông). Vì vậy mà những vẻ đẹp thiên nhiên được nhà văn miêu tả ở
trên đã chứng minh người Việt dường như không thể rời bỏ cội rễ
nông nghiệp. Dù cuộc sống có văn minh, đầy đủ đến đâu, trong tâm
thức mỗi người vẫn nhung nhớ không nguôi về một vùng quê mình
từng có. Bởi thế, nhiều tiểu thuyết đã viết về thế giới tự nhiên như
một chốn nương náu, trú ngụ của cõi lòng bằng một tình yêu tha thiết
với quê hương, đất nước.
4.1.1.2. Lược đồ thân phận của muôn loài từ vị trí bên lề
Sự chuyển dịch vị trí bên lề của cái Khác đã mang đến điểm
nhìn mới trong tiểu thuyết. Từ sau Đổi mới, nhiều nhà văn lần nữa đặt
lại vấn đề vị thế của thế giới thiên nhiên, sinh loài trong bối cảnh phát
triển đô thị, dĩ nhiên ở mức độ nhận thức sâu sắc và có tính khách quan
hơn so với trước đó. Xóa đi dấu vết bản lề của tự nhiên không phải là
điều diễn ra chớp nhoáng, tức khắc trong tiểu thuyết Việt Nam đương
đại. Đó là lược đồ với quá trình khúc khuỷu, quanh co từ thái độ đồng
cảm, thấu hiểu đến thái độ giác ngộ, sẻ chia tiếng nói cùng tự nhiên. Có
thể thấy, những dòng văn đẹp về thôn quê trong Nhắm mắt nhìn trời
(Nguyễn Xuân Thủy) được viết nên không phải qua hơi thở sống động
của thực tế mà bằng phản ứng bất mãn của muôn loài. Với cái nhìn bình
đẳng, nhà văn đã nói hộ “tiếng lòng” của thế giới phi nhân loại.Trong
18
cuộc chiến đấu sinh tồn để hướng đến “văn minh tân tiến”, thiên nhiên
có lẽ là những nạn nhân thiệt thòi, bất lực nhất. Văn bản đã cho thấy,
cánh đồng xưa như một “khu vườn cổ tích”, giờ chẳng còn “thẳng cánh
cò bay”, thay vào đó là trắng vật vờ những xác bao ni lông như những
linh hồn cò trắng. “Rặng xoan dài mấy cây số dọc cánh đồng ngày nhỏ
đã trở thành biểu tượng của thôn Đào” bây giờ xơ xác, “từng bãi rác lộ
thiên chất đống hai bên đường bốc mùi xú uế”. Làng quê đang bị bức tử
trong những kế hoạch xây dựng, lấn chiếm của thành phố.
Trong tâm thế thấu nhận và hiểu rõ những mất mát của hệ sinh
thái, các nhà văn đã thể hiện tinh thần chung là hướng tới đồng cảm
với muôn loài. Những diễn ngôn như vậy, một cách tự nhiên sẽ đi đến
những quan niệm tích cực cho cộng đồng: sẻ chia và yêu thương tự
nhiên như chính bản mệnh của mình. Đó sẽ là phẩm tính đẹp đẽ và
đáng trân quý của nhân loại.
4.1.2. Kiến tạo diễn ngôn sinh thái hiện đại – tưởng tượng khác về
môi trường
4.1.2.1. Lối viết song hành – nỗ lực vượt qua tính nhị nguyên nhân
loại/tự nhiên
Khảo sát tiểu thuyết Việt Nam sau Đổi mới đến nay, như một
sự trùng hợp, hoặc có thể đây là phương thức đắc địa, lối viết song
hành nhân loại/phi nhân, chủ thể/ khách thể, con người/ tự nhiên
được rất nhiều nhà văn vận dụng và tạo nên dấu ấn nghệ thuật cao. Ở
tiểu thuyết Sông (Nguyễn Ngọc Tư), bóng dáng dòng sông luôn chảy
đồng hành trên mọi nẻo đường cùng các nhân vật Ân, Xu, Bối; đi tìm
ngọn nguồn sông Di cũng là đi tìm bản thể con người. Những bầy
mèo vô sinh (Mạc Can) tạo thành một mê lộ hỗn độn giữa người và
bồ câu, bồ câu sống trong nhà của ông già SuDa, ngôi nhà ông SuDa
lại được thiết kế như một chiếc chuồng bồ câu, và cũng khó phân
định người đang nói tiếng bồ câu hay bồ câu nói được tiếng người.
Chó Bi, đời lưu lạc (Ma Văn Kháng) là thân phận lưu lạc của chú chó
Bi gặp gỡ với đời sống phiêu dạt của người cha, đề rồi tác giả nhìn
trong sự đối chiếu: “Bi thì quả là một bức họa ở mặt sống động. Còn
bố tôi thì thật là một bài thơ trầm hùng, dồi dào ẩn dụ”.
19
4.1.2.2. Lối viết mở - vẫy gọi những chân trời suy tư
Trong sứ mệnh bảo vệ Trái đất, diễn ngôn môi trường thường
gợi ý những cách hành xử đối với tự nhiên, buộc độc giả suy nghĩ, truy
vấn về sự cần thiết của việc thay đổi quan niệm nhân loại trung tâm lỗi
thời bằng thái độ “kính sợ sinh mệnh”, “tôn trọng tự nhiên”. Để hiện
thực hóa điều này, diễn ngôn tiểu thuyết cần thoát ra khuôn khổ truyền
thống, mở ra những chân trời suy tư. Tính ngẫm nghiệm khi kết thúc
văn bản đưa đến một cái nhìn tổng quan, liên đới nhiều khía cạnh,
phạm trù vượt ra ngoài giới hạn của văn học. Hẳn nhiên, nó cũng tạo ra
sự dịch chuyển của hệ giá trị trong tiến trình đổi mới văn hóa, văn học,
được hình thành từ sự thức nhận các vấn đề môi trường.
Gần đây, một số tiểu thuyết hầu như vắng bóng thiên nhiên,
cấu trúc nghệ thuật đóng gói trong một lớp diễn ngôn vô âm sắc, với
những biểu tượng xô lệch, xơ cứng. Tiêu biểu như Thành phố bị kết
án biến mất, Trần Trọng Vũ trình tấu trò chơi thị giác không chỉ ở
văn bản lạ (tiểu thuyết không dấu phẩy) mà còn ở cách tạo dựng
không gian hình ảnh đa chiều chỉ duy nhất một màu sắc là hơi nước
với ba nhân vật cùng tên X sống trong cùng một khu nhà tràn ngập kí
tự, khó phân định. Tiểu thuyết đã ngầm báo động, sẽ đến lúc nhân
loại chỉ có những dòng văn chương ngột ngạt bóc trần thế hệ “homo
spaciens” bất định trong những bức tường bê tông lạnh ngắt, mịt
mùng khói công nghiệp.
4.2. Quyền lực liên văn bản – tạo liên kết với tổng thể sống linh
thiêng trong vũ trụ
4.2.1. Sự biện chứng giữa văn chương và thực tế
4.2.1.1. Khả năng dự báo qua giấc mơ và giả thuyết
Khởi nguyên lại thế giới qua những giấc mơ và tiên báo, các
nhà văn cho thấy, khi mất đi vị trí độc tôn của mình, con người phải
“cúi xuống” và “làm hòa” với thiên nhiên để tồn tại, cũng giống như
bất kì sinh vật nào khác. Nếu con người tàn hại đến tự nhiên nghĩa là
đang tàn hại chính mình. Vì một lẽ, Trái đất đã trải qua hàng tỉ năm
biến cố với hàng triệt đợt phun trào núi lửa, nham thạch, động đất,
sóng thần để đạt được trạng thái cân bằng, ổn định. Nhưng ngày nay,
20
những hoạt động và lối sống của con người đã làm cho môi trường
xung quanh bị hủy hoại, không chỉ riêng Trái đất, hệ sinh quyển cũng
phải gánh chịu tổn thất nặng nề. Những dự báo có mối biện chứng chặt
với thực tế luôn là tầm ngắm để con người bước đi trên con đường rút
ngắn “ngày tận thế”.
4.2.1.2. Chỗ trú ẩn, phục trang như rào cản giao hoạt vũ trụ
Đã có nhiều tác phẩm đề cập đến vấn đề nhà ở và phục trang
như một phương tiện tạo cho con người cảm giác thắng thế tự nhiên. Với
thành phố, nhà cửa được xem là bộ mặt khẳng định sự hoa lệ, phồn
thịnh. Nhưng nhiều văn bản đã gợi dẫn, nhà cửa là nơi nhốt con người
trong cảm giác cô đơn. Họ chẳng thể làm gì trong ngôi nhà “siêu mỏng”
– một đặc sản thời tấc đất tấc vàng. Con người hơn loài vật nhờ điều gì?
Không phải là giọng nói, không phải là ý thức. Vì rõ ràng một kí sinh
như ruồi cũng có đối thoại và suy nghĩ. Ruồi và ruồi (Đã Phấn) đã diễn
giãi rất rõ ràng: đó là “chỗ trú ẩn. Những vật liệu đã từng gìn giữ sĩ
diện cho con người” [64, tr.32]. Có chăng là con người đầy đủ tiện
nghi hơn, kĩ thuật hiện đại hơn so với muôn loài khác.
Cùng với nhà cửa, phục trang cũng là một vật phẩm để tạo sự
tôn ti, thứ bậc cho con người. Và nếu mặt trái của nhà cửa là nhốt con
người vào những lồng không gian ngột ngạt, thì mặt trái của phục trang
là biến con người như những con rô-bốt đơn điệu, tẻ nhạt. Gió mùa đông
bắc về, những đứa trẻ trong Gần như là sống (Đỗ Phấn) đến trường co
ro với “bộ đồng phục lồng phồng vặn vẹo”. “Sau nhiều năm miệt mài
nghiên cứu thời trang học đường, ngành giáo dục đã thiết kế ra những bộ
đồng phục duy nhất một tiêu chuẩn. Đảm bảo không đứa nào mặc vừa”
[63, tr.327]. Người lớn thì chạy đua trong những mốt thời trang khó
hiểu. “Quần áo toàn một màu rêu nhàu nhĩ te tướp mòn bạc. Cả một
thành phố cứ như vừa đi “bộ đội” thoắt cái đã trở thành cựu chiến binh”.
Và “nỗi ám ảnh về sự khác người bị bỏ quên của một kẻ không cơ quan
đoàn thể” đã thôi thúc nhân vật tôi bước chân ra đường, “trong bộ quần
áo màu rêu” nhàu nhĩ ấy. Kết quả là, “thành phố toàn một màu rêu thời
trang làm cho con mắt nhiều lúc cảm thấy không màu”, và chẳng ai
buồn nhìn sang người khác – như mình cả thôi. “Buổi sáng không màu”!
21
Một thành phố nhạt nhòa trong những đồng phục và mốt thời thượng
đầy phản cảm.
4.2.2. Những huyền tích, tập tục như cách thức điều chỉnh tư duy
về Trái đất
4.2.2.1. Mã báo ứng - quyền năng của tạo hóa qua thế giới biểu tượng
Trong cái nhìn của phê bình sinh thái, nhận thức không phải là
mục đích duy nhất và chủ yếu của huyền tích, tập tục. Mục đích then
chốt của huyền tích, tập tục là nối dài và kế tục tinh thần hòa hợp giữa
cá nhân, xã hội và tự nhiên, duy trì trật tự xã hội và vũ trụ đã có từ khởi
thủy. Sự phục hồi và biện giải những huyền tích, lời sấm truyền là cách
thức cảnh báo những quyền năng tạo hóa của người xưa. Đất và rừng
trở thành biểu tượng văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam trong Mẫu
thượng ngàn. Người Việt luôn kính trọng, tôn thờ đất đai và biến điều
này trở thành tôn giáo đầy ngưỡng vọng. Người Pháp “đến xứ sở này với
mục đích chiếm đất, khai hóa”, họ đã giày xéo những làng quê nguyên
sơ, bình yên của đất nước, cướp bóc sản vật quý hiếm, và khinh ngạo
trước tôn giáo thiêng liêng của dân tộc – đạo Mẫu. Dưới sự quan sát của
nhà dân tộc học Réne, đất và rừng An Nam đều có linh hồn, đều có con
mắt biết thương yêu và biết trừng phạt. Không ít người Pháp đã bị đất trả
thù qua hiện tượng “going black”: “Đó là sự trả thù của đất mẹ. Đó là số
phận những người đi xâm chiếm chúng ta. Chúng ta đi đồng hóa người,
nhưng chúng ta cũng không thoát khỏi bị đồng hóa trở lại” [22, tr.513].
Sự hòa quyện các yếu tố huyền thoại, tập tục, báo ứng sẽ tạo ra
nhiều ám gợi và lay động mãnh liệt đến tâm thức con người, tạo nền
móng tinh thần vững chắc để không ngừng răn đe, nhắc nhở chúng ta
nhất thiết phải kính cẩn và khiêm nhường trước tự nhiên.
4.2.2.2. Mã hạnh phúc – cảnh giới của sinh tồn qua hệ thống tập tục,
quan niệm
Các nhà phê bình sinh thái thường khẳng định: sự gắn kết giữa
trẻ em với thế giới tự nhiên lớn hơn rất nhiều so với người lớn. Trong tâm
hồn thiếu nhi luôn có sợi dây vô hình liên kết cùng vạn vật. Có lẽ, vì trẻ
thơ mang tính rỗng, được coi là biểu tượng của sự hồn nhiên, ngây thơ.
Điều này tạo ra nét gần gũi và dễ dàng thân thiện cùng tự nhiên. Tiểu
thuyết Biển của vô cùng (Thủy Trương) cũng nhấn mạnh: “Trẻ con mà,
22
chúng chạm được vào những tần số âm thanh tinh tế nhất của vũ trụ, của
thiên nhiên và của cuộc sống qua trí tưởng tượng, qua màng rung mỏng
manh ngây thơ của chúng” [62, tr.100]. Trong một số tác phẩm, các nhà
văn đã đề cao tâm hồn thanh cao khi đối chứng với tự nhiên. Cô gái
Đồng Nàng (Sông, Nguyễn Ngọc Tư) là biểu hiện cho sự cần thiết phải
có phẩm tính trong sáng, thuần khiết của con người khi muốn đạt được
sự cộng hưởng cùng thế giới muôn loài. “Mọi thứ ở cô trong veo, ngời
ngợi”. Loài ốc Bụt tìm thấy ở cô những điều thuần khiết, chúng hát cho
cô nghe với tất cả tủi hờn. Những kẻ phàm tục như Lượm có thích nghe
tiếng loài vật thì chẳng bao giờ nghe được.
Tiểu thuyết Họ vẫn chưa về (Nguyễn Thế Hùng) giới thiệu về
tập tục nuôi hươu đầy linh thiêng ở một vùng núi miền Trung: Những
người nuôi hươu thì phải giữ cho thân thể trong sạch trước khi lấy
nhung – một sự trai giới để giữ thiêng cho nghề, người không giữ được
mình thì gây ra tai họa. Tâm thức đáng kính thể hiện trong khát vọng
sống, khát vọng duy trì nòi giống của con người từ việc lấy “Lộc trời”.
“Người thợ bắt đầu trong nghề nuôi hươu và khai thác Lộc trời không
thể là người buông thả, dễ dãi với các dục vọng của bản thân mình. Sự
bắt đầu phải là sự trưởng thành, chín muồi về nghề nghiệp, đạo đức,
nhất là sự bắt đầu đó lại là sự ứng xử với thiên nhiên”. Trong quá trình
lao động, những người nuôi hươu đã coi những sản phẩm nhung hươu
mang lại hằng năm chính là Lộc trời. Để được trời ban lộc, họ phải để
tâm hồn và thể xác trong sạch, tránh chạm vào những điều cấm kị, ô
uế, xem thường vạn vật. Đó cũng là chìa khóa để mở cánh cửa sung
túc, hạnh phúc của nông dân. Ngược lại, nếu bất tuân quy luật tự nhiên,
nhiều năm sau đó, trời sẽ không ban lộc, cuộc sống nhân dân rơi vào
cảnh thất thu, thiếu thốn, khó khăn.
Huyền thoại là một quyền lực thông tin cung cấp ý nghĩa nghi lễ
và lời sấm truyền, là sự khai mở toàn diện cho nhân loại nhằm xem xét
các mối quan hệ giữa con người và môi trường. Ấn tượng sức mạnh và
quyền năng của tự nhiên không phải là dấu ấn riêng của từng cá nhân
sau khi họ bị vướng phải những tai nạn sinh thái, mà đó là tâm thức của
cộng đồng, được tiếp nhận và nối dài từ xa xưa. Giải mã những huyền
23
tích và tập tục về tự nhiên, chúng ta sẽ giải mã được đâu là cảnh giới của
sinh tồn, đâu là nguyên tắc sống vẹn toàn của nhân loại.
KẾT LUẬN
1. Quan niệm về thực tại và con người như đã nói ở trên chính
là chìa khóa mở đường cho sự đổi mới tư duy cùng những tìm tòi lối viết
phù hợp với tâm thế, thị hiếu thẩm mĩ trong không gian văn hóa mới.
Đây là những tác nhân đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự chuyển dịch và
vận hành của tiểu thuyết nói chung và tiểu thuyết sinh thái nói riêng.
Thời gian đầu, tư tưởng sinh thái trong tiểu thuyết vẫn chưa rõ nét, biểu
thị mờ nhạt cùng với các chủ đề, tư tưởng khác. Dần dần, các nhà văn đã
ý thức được đề tài sinh thái là một vấn đề thiết yếu, có ý nghĩa trong đời
sống hiện đại. Từ những năm cuối thế kỉ XX đến nay, tiểu thuyết sinh
thái phát triển mạnh, được các nhà văn trình bày theo hệ thống quan
điểm và diễn ngôn sinh thái đặc trưng với từng phong cách riêng (trường
hợp phong cách sinh thái đô thị như Đỗ Phấn, sinh thái hoang dã như
Trần Duy Phiên). Đặc biệt, các nhà văn trẻ cũng rất lưu tâm đến vấn đề
sinh thái như một hiện tượng nóng bỏng trên toàn cầu.
2. Với cách tiếp cận lấy chỉnh thể sinh thái làm trung tâm,
chúng tôi tiến hành tìm hiểu đặc tính hậu/ giải cấu trúc phê bình sinh
thái trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 – 2014. Tuy nhiên,
mục đích của giải/ hậu cấu trúc không nhằm thay thế vị trí của sự đối
lập phân cực, mà nhằm phá huỷ, thủ tiêu mâu thuẫn của các cặp đối
lập (như nhân loại/ tự nhiên) bằng cách điều chỉnh mối quan hệ của
chúng. Khi vận dụng lí thuyết này trong phê bình sinh thái, chúng tôi
nhận thấy cần phải cẩn trọng, nếu không sẽ rất dễ rơi vào các trường
hợp: hoặc là quá chú trọng đến văn bản (hệ lụy đi kèm: phê bình sinh
thái trở thành lí thuyết lệ thuộc của hậu/ giải cấu trúc); hoặc là quá đề
cao “cái chết của chủ thể”, triệt hạ hoàn toàn vị thế con người, quên
mất con người cũng là mắt xích quan trọng trong sinh thể. Vì vậy,
tính đối thoại là con đường để hòa giải những xung khắc trên. Những
phạm trù của hậu/ giải cấu trúc như phi trung tâm, cái chết của chủ
thể, tính liên chủ thể, tính đối thoại trở thành điểm tham chiếu và ứng
dụng để dẫn nhập, giải mã những thông điệp môi trường. Giải quyết
24
những hạn chế của hậu/ giải cấu trúc, chúng tôi tin rằng đây sẽ là
phương pháp thực hành rất hữu ích để chuyển tải tư tưởng và nhiệm
vụ của văn học sinh thái.
3. Trên tinh thần định giá chuẩn tắc đạo đức sinh thái, chúng
tôi quy thành ba tiêu chuẩn đạo đức cơ bản: Nhân vật xâm phạm tự
nhiên, nhân vật nạn nhân sinh thái, nhân vật thức tỉnh. Kết quả của
công việc khảo sát cho thấy, với kiểu nhân vật xâm phạm tự nhiên, sự
mơ hồ sinh thái liên quan nhiều đến các vấn đề chính trị - xã hội và
các cơ chế, chính sách trong quản lí môi trường. Về thực chất, các
nhà văn không cố tình thiết lập một hình mẫu nhân cách lí tưởng để
chứng minh rằng, không có chủ thể nhân loại trung tâm, không có
khách thể tồn tại độc lập, càng không có sự tách biệt giữa người và
vật. Sâu xa, đó là những phản chiếu về tương lai nhân loại phải đối
mặt. Nên trào lưu về với thiên nhiên, đề cao lối sống điền viên là
những gì mà các tiểu thuyết gia muốn độc giả đương đại hướng tới
với thái độ tôn trọng và thành kính trước tự nhiên.
4. Trong chương bốn, việc nghiên cứu một số cạnh khía văn
hóa như quyền lực diễn ngôn và liên văn bản cho thấy rằng, phê bình
sinh thái đã tiếp thu nhiều nguồn lí thuyết và tạo ra những nét đặc
trưng, hấp dẫn cho riêng mình. Qua những diễn ngôn về tự nhiên, con
đường đi của tiểu thuyết sinh thái Việt Nam là từ “phản lãng mạn”
cho đến những tưởng tượng mới về môi trường với các chức năng dự
báo, tiên đoán. Tiểu thuyết sinh thái đã chất vấn khá rõ nét bản chất
của các văn bản tự sự về môi trường, hạn chế hoặc ít khi thấy sự ca
tụng thiên nhiên như trong những văn bản thường làm trước đó. Bên
cạnh đó, hướng đến triết lí phương Đông, từ những huyền tích, tập
tục dân gian, chúng tôi muốn hướng đến phần tư tưởng của phê bình
sinh thái. Quyền lực của tự nhiên không phải là dấu ấn riêng của từng
cá nhân sau khi họ bị vướng phải những tai nạn sinh thái, mà đó là
tâm thức của cộng đồng, đã được truyền lại từ xa xưa. Sự gắn kết
giữa truyền thống và hiện đại, dân gian và bác học đã làm nên mạch
ngầm tuần hoàn, liên hồi cho cảm hứng cội nguồn sinh thái trong văn
học Việt Nam.
25
5. Trên tinh thần nỗ lực giải quyết các vấn đề trọng tâm của đề
tài, chúng tôi nhận thấy vẫn còn rất nhiều vấn đề đặt ra, nếu có điều
kiện nghiên cứu trong tương lai, đây sẽ là những gợi mở thú vị:
- Bản chất là một lí thuyết khởi nguồn từ phong trào hoạt
động môi trường, phê bình sinh thái bị cho là yếu về lí luận, nhiều
khi bỏ qua lí luận. Do đó, xây dựng hệ thống lí luận phê bình sinh
thái vững chắc đang là mục tiêu hướng đến của các nhà nghiên cứu.
Đây là hướng nghiên cứu mở ra triển vọng để xác định cụ thể đối
tượng nghiên cứu phê bình sinh thái, phương pháp thực hành khả
dụng, tránh tình trạng “vay mượn” và “lạm dụng” quá nhiều các lí
thuyết khác, mất đi giá trị độc tôn của phê bình sinh thái. Thực tế,
phê bình sinh thái chú trọng nhiều đến cảm hứng phê phán, điều này
khó mang lại sự trưởng thành về phương diện lí luận. Nếu dẫn nhập
tinh thần triết học sinh thái phương Đông cổ đại, phê bình sinh thái sẽ
bồi đắp và củng cố một số vướng mắc từ trong bản chất.
- Một hướng đi khác có thể xem xét khi nghiên cứu về phê
bình sinh thái trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại đó là các vấn đề
sinh thái nữ quyền, sinh thái giai cấp, sinh thái đô thị, sinh thái hậu
thực dân. Những điều này, chúng tôi đã đề cập đến trong luận án,
nhưng chưa mở rộng và sâu sắc. Do đó, việc phát triển các phạm trù,
phân nhánh của phê bình sinh thái sẽ là những hướng khám phá mới
để tiếp tục công việc nghiên cứu sau này.
- Khi tìm hiểu về tiểu thuyết giai đoạn 1986 – 2014, chúng
tôi nhận thấy càng về sau, đặc biệt từ 2012 đến nay, càng có nhiều
tiểu thuyết thể hiện rõ tư tưởng sinh thái, những vấn nạn về môi
trường được diễn ngôn tường tận, ám ảnh. Cột mốc 1986 – 2014 chỉ
là sự giới hạn thời gian, phạm vi khảo sát của luận án ở khoảng gần
nhất khi chúng tôi bắt đầu tiếp cận đề tài này. Trong quá trình viết,
chúng tôi cũng đã phân tích, nghiên cứu một số tiểu thuyết của những
năm kề cận (2015, 2016) nhằm tạo nên một cái nhìn liền mạch trong
dòng chảy của tiểu thuyết sinh thái đương đại Việt Nam. Vì thế, thiết
nghĩ sẽ rất đáng quý nếu lưu tâm nhiều hơn đến giai đoạn này và lí
giải vì sao tiểu thuyết đầu thế kỉ XXI lại sự nở rộ cảm hứng phê bình
sinh thái. Đây cũng là dấu hiệu phản tỉnh trước cuộc khủng hoảng
26
môi trường toàn cầu, và cũng cho thấy phê bình sinh thái đang là
hướng nghiên cứu hợp thời, ý nghĩa trong thời đại ngày nay.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
I. Bài báo
1. Nguyễn Thùy Trang (2015), “Văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư từ góc
nhìn sinh thái”; Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Huế,
2015, Tập 105, số 6, tr.179-190.
2. Nguyễn Thùy Trang (2016), “Cảm quan sinh thái trong tiểu thuyết
Trăm năm còn lại của Trần Duy Phiên”, Tạp chí Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Huế, tập 125, số11, tr.235-246.
3. Nguyễn Thùy Trang (2016), “Phê bình sinh thái ở Việt Nam từ góc
nhìn văn hóa”; Kỷ yếu khoa học Thành tựu văn học Việt Nam ba mươi
năm đổi mới (1986 – 2016), Trường Đại học Khoa học Huế, tr.76-84.
4. Nguyễn Thùy Trang (2016), “Văn xuôi Nam Bộ sau Đổi mới từ góc
nhìn phê bình sinh thái”; Kỷ yếu Hội thảo Văn học Việt Nam trong xu
hướng toàn cầu hóa, Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, tr.466–474.
5. Nguyễn Thùy Trang (2017), Tính đối thoại – phương thức kết nối
với thế giới tự nhiên trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Tạp chí
Nghiên cứu văn học, 2017, số 3, tr.31–38.
6. Nguyễn Thùy Trang (2017), “Tiểu thuyết Chó Bi – Đời lưu lạc của
Ma Văn Kháng – Nhìn từ lí thuyết phê bình sinh thái”, Nghiên cứu và
dạy học Ngữ văn trong bối cảnh đổi mới giáo dục, Nxb Đại học Huế,
2017; tr.152-162.
7. Nguyễn Thùy Trang (2017), “Sự lật đổ quan niệm “nhân loại trung
tâm” trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại”, Tạp chí Khoa học,
Trường Đại học Sư phạm Hồ Chí Minh, 2017, tập 14, số 4b, tr.72-80.
8. Nguyễn Thùy Trang (2017), “Những hệ lụy của văn hóa hiện đại đối
với môi trường sinh thái từ phương diện đô thị hóa trong văn xuôi Việt
Nam sau Đổi mới”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học
Khoa học Huế, tập 9, tr.63–72.
9. Nguyễn Thùy Trang (2017), “Kiểu nhân vật nạn nhân sinh thái trong
tiểu thuyết Việt Nam từ sau Đổi mới đến nay”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế:
Tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu, Viện Văn học, tr.689-708.
10. Nguyễn Thùy Trang (2018), “Thông điệp môi trường trong tiểu
thuyết Nhắm mắt nhìn trời của Nguyễn Xuân Thủy”, Tạp chí Khoa học
và Công nghệ, Trường Đại học Khoa học Huế, tập 11, số 2, tr.43-52.
II. Đề tài nghiên cứu khoa học
11. Nguyễn Thùy Trang (2016), Văn xuôi Trần Duy Phiên từ góc nhìn
phê bình sinh thái, Đề tài khoa học cấp trường, Trường Đại học Sư
phạm Huế. mã số: T.16 – XH – 06.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_thuyet_viet_nam_giai_doan_1986_2014_tu_goc_nhin_phe_binh_sinh_thai_1_2101_2076186.pdf