Tìm hiểu bản chất của ý thức

Từ khi loài người hình thành, tiến hóa, biết lao động kiếm sống, ý thức phát triển song song với khả năng giao tiếp, ngôn ngữ. Đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều triết thuyết của phương Đông và phương Tây bằng con đường minh triết và duy lý, về quá trình phát sinh của ý thức. Ở Việt Nam có công trình của triết gia Trần Đức Thảo về ý thức được đánh giá cao bằng giải thưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên bản chất của ý thức là gì thì đến nay vẫn còn là vấn đề tồn tại cần được làm sáng tỏ. Phải chăng tùy theo cách nhận thức vấn đề này mà các triết gia xếp thành hai chiến tuyến đối lập - duy tâm và duy vật? ."

doc6 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2807 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu bản chất của ý thức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Tìm hiểu bản chất của ý thức Từ khi loài người hình thành, tiến hóa, biết lao động kiếm sống, ý thức phát triển song song với khả năng giao tiếp, ngôn ngữ. Đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều triết thuyết của phương Đông và phương Tây bằng con đường minh triết và duy lý, về quá trình phát sinh của ý thức.  Ở Việt Nam có công trình của triết gia Trần Đức Thảo về ý thức được đánh giá cao bằng giải thưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên bản chất của ý thức là gì thì đến nay vẫn còn là vấn đề tồn tại cần được làm sáng tỏ. Phải chăng tùy theo cách nhận thức vấn đề này mà các triết gia xếp thành hai chiến tuyến đối lập - duy tâm và duy vật?  Tuy nhiên từ lâu, dù thuộc ý thức hệ nào người ta cũng sẵn sàng tin rằng ý thức, cảm xúc có sức mạnh vật chất to lớn. Sự khác nhau còn lại phải chăng là ở chỗ có người coi ý thức là phi vật chất, họ vạch đường ranh mơ hồ nhưng dứt khoát giữa hai thế giới vật chất và tinh thần? Có lẽ vấn đề nan giải này chưa thể làm sáng tỏ chừng nào khoa học chưa có khả năng khám phá đến cùng cấu trúc của vật chất. Các nhà y học quan tâm đến vấn đề này có lẽ không phải vì muốn biến thành các nhà triết học, từ bỏ việc chữa bệnh cứu người, để tham gia cuộc tranh luận về ý thức hệ. Ở phương Đông đã nhiều thế kỷ nay, nếu không muốn nói nhiều thiên niên kỷ, nhiều vấn đề về y lý, chẩn đoán và điều trị đã được ứng dụng có ích cho nhân loại, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm thực tiễn như thuyết âm dương, châm cứu, bấm huyệt, năng lượng sinh học, điều trị từ xa... Một loạt vấn đề khác cũng chưa được giải thích bằng nguyên lý của khoa học chính thống hay bằng lý luận y học phương Tây. Sự sống vẫn tiếp tục, khoa học phải phát triển, như dòng suối mạnh chảy liên tục. Điều gì phải đến đã đến. Từ nửa đầu thế kỷ XX đến nay đã xảy ra những cuộc cách mạng vĩ đại trong các ngành khoa học cơ bản như Vật lý học, Sinh học và các ngành khoa học khác như Vật lý lượng tử, Cận tâm lý học, Tin học, Vi điện tử, Công nghệ sinh học cao... Trên cơ sở khoa học kỹ thuật phát triển ấy đã đến lúc có thể đặt ra tham vọng tìm hiểu bản chất và vai trò của những cấu trúc vô hình và khung năng lượng của cơ thể con người. Cùng với cơ thể vật lý chúng tạo nên ý thức, tính cách, các khả năng đặc biệt của con người ở trình độ tiến hóa ngày nay. Ngành Sinh - Y học quan niệm rằng ý thức là sản phẩm của não bộ, nói chi tiết hơn, ý thức là sản phẩm “cơ - hóa - điện” của “thân thể + não + hệ thần kinh” (Body + Brain + Nervous system, gọi tắt là BBNS). Nhưng chắc chắn không phải theo kiểu mật là sản phẩm của túi mật, tinh trùng là sản phẩm của tinh hoàn, khi người chết thì mật và tinh trùng đầu chết, BBNS chết thì ý thức cũng chết. Các công trình nghiên cứu khoa học Cận tâm lý đã chứng minh bằng thực chứng rằng sau khi thể xác chết phần ý thức - tinh thần vẫn tồn tại ở một dạng khác, ở một nơi khác. Các thành tựu của Vật lý lượng tử của Einstein, Planck, Bohr, Heisenberg đã cho phép đi đến quan niệm mới về cấu trúc của vật chất khác với quan niệm của vật lý cổ điển dẫn đầu bởi Newton. Theo vật lý hiện đại, dưới đơn vị nguyên tử của vật chất còn có hàng loạt các đơn vị cấu trúc nhỏ hơn như electron (10-5m), Hadron (10-8m) với thuộc tính hai mặt - sóng và hạt, khi thì hữu hình, khi thì vô hình. Các nhà vật lý cũng giả thiết rằng cấu trúc hạt nguyên tử với kích thước khoảng 10-33m là cơ sở vật chất của năng lượng sinh học. Lượng tử ánh sáng (quang tử photôn) không có khối lượng, không có kích thước, phát tán trong không gian với tốc độ ánh sáng. Tuy không nắm bắt được photôn nhưng sự tồn tại của chúng trong tự nhiên thì không phải bàn cãi nữa. Trường lượng tử và cơ thể vật lý là hai thực thể song song tồn tại và liên quan chặt chẽ với nhau. Các hiện tượng trong trường lượng tử vô hình. Do đó các nhà vật lý lượng tử rút ra những điểm tương đồng giữa trường lượng tử và ý thức. Nếu không có trường lượng tử thì các cơ chất như nguyên tố hóa học, electron không thể tồn tại. Cũng như vậy, thân thể người ta không phải là một đống vật liệu đạm, đường, mỡ, khoáng, vitamin... tự sắp xếp lại thành hình hài con người, mà điều đó chỉ có thể xảy ra trong trường lượng tử, kể cả các hoạt động sống và tư duy. Các khái niệm như xung động, năng lượng, điện tích, từ trường, tần số, sóng, hạt, chiều dài làn sóng, v.v... đều chỉ là những danh từ quy ước do ý thức con người đặt ra để lập một trật tự trong cái hỗn mang của cơ man thực thể quanh ta. Như vậy có sự liên hệ hữu cơ giữa vật chất và ý thức, giống như giữa vật chất và năng lượng. Có cái gì chung giữa phân tử vật chất và ý thức? Ý nghĩ và cảm xúc giống với các hiện tượng trong thế giới lượng tử ở chỗ tất cả chúng đều vô hình và đều không thể nắm bắt được, mặc dầu chúng là vật chất, khi tồn tại ở dạng hạt, khi thì ở dạng sóng. Các nhà vật lý lượng tử châu Âu đến với ý tưởng tạo mô hình ý thức, vốn dĩ là đối tượng siêu hình, gọi là “mô hình năng lượng - thông tin” dựa trên các tiến bộ khoa học hiện đại của Vật lý lượng tử, Nhiệt động học, Sinh học, Toán học... Tuy nhiên cấu trúc mô hình ý thức không tránh khỏi ít nhiều tính siêu hình. Để biện minh điều này nhà vật lý lượng tử hàng đầu M.Planck nói: “Khoa học không thể không hàm chứa trong bản thân nó một phần siêu hình”. Còn Toshiko Izutsu (Nhật) thì thừa nhận trong chiều sâu của ý thức, ở phía bên kia của sự vật, tồn tại một cơ sở căn bản phi hiện tượng, siêu hình... (xem SK&ĐS, Xuân Ất Dậu, tr.60). Chung quy sự sống được hiểu là sự tích lũy không ngừng các thông tin, mà nguồn tạo ra thông tin chính là ý thức. Thông tin được chuyển tải bằng năng lượng. Theo Viện nghiên cứu cơ khí chính xác quốc gia Nga ở St.Peterburg cơ sở của thông tin là “trường xoắn” (Torsional field). Bằng những công cụ tân kỳ các nhà khoa học Nga đã đo lường được “trường xoắn”, cũng như chứng minh được vai trò quyết định của nó trong khả năng ngoại cảm của con người. Các tính năng quan trọng của “trường xoắn” là tác động xa, với tốc độ lớn hơn tốc độ ánh sáng. Như vậy, “thông tin - ý thức”, “năng lượng - vật chất”, là những hòn đá tảng xây nên vũ trụ và đồng thời là những biểu hiện cơ bản của các tính năng của tạo hóa. Trong một hệ thống sống như cơ thể con người bao giờ cũng giàu tính thông tin, nghèo năng lượng, cuối cùng chuyển sang giai đoạn tinh thần của sự sống. Theo Viện sĩ Nga Mundasep tác giả cuốn “Chúng ta thoát thai từ đâu” (NXB Thế giới -2002, Hà Nội) Sambala trong lòng núi Hymalaya là nơi có những Xo-ma-chi. Họ là những tu sĩ đến từ Ấn Độ, Nepal. Bằng cách thiền định sâu sắc, nhờ năng lượng tinh thần, quá trình trao đổi chất trong thân thể họ hạ xuống điểm 0, thân xác họ trở nên bất động, rắn như đá (stone still state). Có người sau một thời gian dài tính bằng tháng, bằng năm, trở lại trạng thái bình thường. Có người mãi mãi tồn tại ở trạng thái ấy. Có lẽ hai vị sư “tượng táng” tại chùa Dâu nước ta, mà chúng ta được hân hạnh chiêm ngưỡng ngày nay, thuộc về số Xo-ma-chi ấy chăng? Lúc đó cơ thể vật lý sẽ không đóng vai trò nữa. Ý thức - phần chính của linh hồn - chuyển sang một thế giới vật chất khác - thế giới tế vi - để thực hiện chức năng bảo tồn tính cá thể của một con người trong vũ trụ mà có thời đã sống trên mặt đất. Trong thế giới vật chất có thể xảy ra hiện tượng chuyển pha. Hãy chú ý quan sát một cục nước đá nằm trong đĩa đặt ở nhiệt độ phòng. Cục nước đá chảy thành nước. Nếu cứ để nguyên nước ấy tại chỗ thì nước sẽ mất đi do bốc hơi. Hơi đi đâu mà ta không thấy? Hơi ở trong không khí trong phòng kín. Trong phòng có một ống kim loại dẫn nước lạnh. Trên bề mặt của ống người ta thấy xuất hiện những giọt nước ngưng tụ. Thu nước ngưng tụ vào đĩa rồi đặt đĩa vào ô đá tủ lạnh thì ta sẽ thấy một cục đá tái xuất hiện trong đĩa. Thì ra cục nước đá không mất đi, chỉ trải qua một số pha chuyển tiếp: đá -> nước -> hơi nước -> đá. Mắt ta chỉ nhìn thấy một số pha và không thấy một số pha khác. Trạng thái ý thức có thể biến đổi. Khi ý thức biến đổi sang một trạng thái khác thì con người tiếp nhận thế giới xung quanh một cách khác. Chẳng hạn trong khi ngủ trạng thái ý thức biến đổi người ta thấy thế giới xung quanh một cách khác thường trong giấc mơ mà ở đó không gian nhiều hơn 3 chiều. Thời gian quá khứ, hiện tại, tương lai xảy ra cùng một lúc... Các nhà tu hành trong khi thiền định, các nhà Yoga, có thể chủ động làm biến đổi trạng thái ý thức của mình một cách sâu sắc, đưa ý thức lên một tầng cao khác với người thường. Khi ấy họ có khả năng tiếp nhận vũ trụ, thế giới xung quanh một cách khác, họ có những khả năng đặc biệt khác với người thường. Điều tương tự cũng xảy ra với người mộng du. Tất cả điều đó là hiện thực, không phải dị đoan.  Theo Sức khỏe và đời sống Chào mừng bạn đến với Hội Cú Đêm Trả lời   Trả lời với trích dẫn        Show All Có 2 thành viên cảm ơn sv_luat vì bài viết này: 02-02-07 09:28 PM#2 wonbin2688  Thành viên Tham gia ngày Jan 2007 Bài gửi 35 Cảm ơn 0 Trả lời   Trả lời với trích dẫn        05-02-07 06:10 PM#3 HA GIANG  Thành viên Tham gia ngày Aug 2006 Bài gửi 199 Cảm ơn 0 Thứ ba, lý thuyết về các hình thái ý thức xã hội chỉ ra rằng, nếu ý thức xã hội là một hệ thống các yếu tố khác nhau về chất thì nguyên nhân của tính đa dạng của các hình thái ý thức là do tính đa dạng của đối tượng mà ý thức nó phản ánh. Điều đó có nghĩa, mỗi hình thái ý thức ngoài tính chế định chung của tồn tại đều có một đối tượng riêng biệt của mình và đặc trưng riêng biệt của mỗi hình thái ý thức được quy đinh bởi đặc trưng riêng biệt của đối tượng mà nó phản ánh. Như vậy nghiên cứu đạo đức nếu chỉ xuất phát từ các quan hệ kinh tế sẽ không thể làm sáng tỏ bản chất và đặc trưng của chúng. Vấn đề quan trọng đặt ra ở đây chính là phải làm rõ đối tượng mà đạo đức phản ánh, nghĩa là làm rỡ “tồn tại riêng biệt", cái trực tiếp quy định đặc trưng riêng biệt của đạo đức, chứ không phải chỉ xác định một tồn tại nói chung. Chính từ những tiền đề đặt ra nêu trên chúng tôi cho rằng làm rõ các vấn đề của đạo đức, không thể chỉ xuất phát từ những điều kiện và tác động chung mà còn phải chỉ ra những nguyên nhân và những tác động riêng, đặc biệt là cần chỉ ra và xác định đúng đối tượng riêng biệt, trực tiếp của đạo đức.  Cần nói rằng vấn đề tồn tại riêng biệt của đạo đức cũng không phải là vấn đề mới. Từ lâu, gắn liền với việc khảo sát đặc trưng riêng biệt của đạo đức, nó đã được nhiều nhà nghiên cứu mácxít cũng như giới nghiên cứu ngoài mácxít quan tâm. Các nhà triết học thời khai sáng ở phương Tây đã bàn rất nhiều về vấn đề này. Tuy nhiên trong giới nghiên cứu mácxít tính cấp bách của vấn đề chỉ thực là sự nổi lên khi thực tiễn xây dựng CNXH đặt ra những tình huống mà trong đó việc lý giải các vấn đề đạo đức từ một nền tảng kinh tế nói chung đã không thể giải đáp. Nguyên nhân cơ bản của tình huống này gắn liền với sự suy thoái và đổ vỡ của ý thức đạo đức xã hội trong quá trình xây dựng nền sản xuất công hữu.  Như ta đã biết, khi nói ý thức đạo đức là sự phản ánh của các quan hệ kinh tế thì nguyên tắc ý thức đạo đức XHCN phải được hình thành và phát triển cùng với qúa trinh hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế XHCN, nghĩa là qú trình xác lập chế độ cống hữu về tư liệu sản xuất. Nhưng trên thực tế không chỉ ở những nước có điều kiện và hoàn cảnh đặc thù với nhiều biến động phức tạp trong quá trinh đi lên CNXH như nước ta mà ngay ở những nước có điều kiện thuận lợi hơn nguyên tắc ấy vẫn không diễn ra trong hiện thực. Việc xây dựng ý thức đạo đức mới không những không dễ dàng thực hiện ngay những kết quả ban đầu đạt được của nó cũng liên tục bị sói mòn và biến dạng dữ dội từ dưới nhiều hình thức. Khảo sát thực tế qúa trình xây dựng ý thức đạo đức mới ở Liên Xô. Trước đây nhà đạo đức học Xô viết P.R.Apecian đã chỉ ra một nghịch lý sâu sắc sau: “Nếu các quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu công cộng về tư hậu sản xuất mà chúng ta xây dựng trong hơn 70 năm qua là quan hệ sản xuất XHCN thì các quan hệ đó đã không tạo ra trong xã hội một cuộc sống tinh thần đạo đức tương ứng, nghĩa là không tạo ra cơ sở để hình thành những quan hệ đạo đức nhân đạo và tốt đẹp giữa người và người"(5). Thậm chí nghiên cứu trạng thái ý thức đạo đức của con người trong các tập thể lao động trong những năm gần đây các tác giả N.N. Crutov và O N.Crutova còn cho thấy một thực tế: ở đâu tính chất công hữu trong các quan hệ sản xuất càng cao thì ở đó tính chất XHCN trong các quan hệ đạo đức của con người càng thấp. Đó là thái độ thờ ơ đối với công việc, sự ghẻ lạnh trong quan hệ giữa người này với người khác, với tập thể..." (6). Vì sao giữa các quan hệ kinh tế và ý thức đạo đức của con người trong CNXH lại xuất hiện nghịch lý trên? Vì sao từ địa vị của người làm thuê bước lên vi trí của người làm chủ, con người không "khẳng định mình mà lại phủ định mình"? Thực tế cho thấy vấn đề này cũng như nhiều vấn đề khác từng nảy sinh trong quá trình xây dựng CNXH trước đây sẽ không được lý giải sáng tỏ nếu không bàn đến một yếu tố then chốt trong cơ chế tác động của các quan hệ xã hội. Nói đúng hơn chính thông qua việc lý giải các mâu thuẫn gay gắt đang diễn ra trong quá trình xây dựng xã hội mới đã cho phép làm sáng tỏ một vấn đề mà theo Engen đó cũng là một chân lý giản dị và sáng tỏ nhưng vốn bị "một đống tư tưởng che kín mất" vấn đề các lợi ích và việc thỏa mãn các lợi ích của con người. Trên bình diện đạo đức việc lý giải vấn đề cũng không nằm ngoài thực tế đó. Nói khác đi chính từ việc khảo sát các mâu thuẫn xã hội hiện thực người ta dần dần nhận ra rằng: cái trực tiếp quy định bản chất và đặc trưng riêng biệt của đạo đức không phải là các quan hệ kinh tế nói chung mà là những quan hệ xác định. Những quan hệ này mặc dù không nằm ngoài mối liên hệ với các quan hệ kinh tế, song chúng có vị trí và cơ chế tác động độc lập và không đồng nhất với các quan hệ kinh tế, đó là lợi ích. Trong nền sản xuất dựa trên chế độ công hữu chính do không thực hiện đúng đắn và đầy đủ các quan hệ lợi ích cho nên đã không tránh khỏi tiêu cực dẫn đến sự xói mòn và suy thoái của ý thức đạo đức xã hội. Qủa là nghiên cứu đạo đức không thể không bàn đến yếu tố lợi ích, điều mà Engen khi dẫn lại lời của các nhà khai sáng Pháp đã viết: “Lợi ích hiểu một cách đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức". Về nguyên tắc đạo đức bao giờ cũng là hình thức phản ánh của các quan hệ kinh tế và chịu sự quy định của các quan hệ kinh tế, hay nói đúng hơn đó là sự quy đinh của các điều lịch sử xã hội và của các quy luật của sự phát triển xã hội. Nhưng tính quy đinh của các điều kiện và các quy luật của sự phát triển xã hội không tác động đến đạo đức một cách trực tiếp mà chỉ biểu hiện và bộc lộ thông qua các mắt khâu trung gian. Có nghĩa sự tác động nêu trên chỉ được thực hiện chừng nào các mắt khâu trung gian được phát huy và sử dụng, ngược lại thiếu sự chuyển tiếp của các mắt khâu trung gian, sự tác động trên sẽ không còn ý nghĩa. Khảo sát đạo đức dưới tác động của các lợi ích chính là nhằm làm rõ vai trò của các tác động trực tiếp ấy. Hơn nữa khảo sát các tác động xã hội dẫn đến sự hình thành đạo đức thông qua các mắt khâu trung gian cán thấy rằng, tính quy định của các điều kiện và các quan hệ kinh tế đốt với lợi ích không phải là mối liên hệ một chiều, đơn trị. Nói khác đi không phải trong hệ thống quan hệ kinh tế nào cũng đều sinh ra những lợi ích tương ứng với nó và do vậy làm xuất hiện những ý thức đạo đức phù hợp. Do tác động của nhiều yếu tố xã hội khác nhau, mối liên hệ trên luôn là một biến thể phức tạp. Nó có thể là sự thể hiện chân thực và đầy đủ nội dung của các quan hệ kinh tế, nhưng cũng có thể chỉ là những phản ánh phiến diện, hư ảo của các quan hệ trên. Chẳng hạn không thể giản đơn cho rằng, trong nền sản xuất dựa trên chế độ công hữu, con người bao giờ cũng có thể được quan tâm và thỏa mãn đầy đủ các lợi ích của mình, và ngược lại trong các nền sản xuất dựa trên chế độ tư hữu sự quan tâm ấy sẽ không thể diễn ra. Thật ra ở bất cứ nền sản xuất nào việc thỏa mãn các lợi ích không chỉ đặt ra ở chế độ sở hữu, chế độ kinh tế, đó là những vấn đề của chế độ chính trị, xã hội và việc thực hiện các chế độ ấy... Đặc biệt, một trong những vấn đề trung tâm của mối quan hệ này là việc xác định vị trí của con người trong nền sản xuất xã hội, quyền được hoàn thiện của con người được biểu hiện bằng việc thỏa mãn chính các nhu cầu và lợi ích của họ. Thực tế cho thấy ở bất cứ đâu, một khi vị trí của con người trong xã hội bị coi rẻ, con người bị biến thành phương tiện cho các mục đích khác nhau, dù đó là phương tiện để phát triển xã hội, quyền của con người bị vi phạm, thi dù đó là nền sản xuất dựa trên chế độ công hữu đi nữa, sự quan tâm trên cũng không thể được thực hiện. Bởi vậy để xây dựng và phát triển đạo đức cùng với việc xác lập các quan hệ kinh tế phù hợp, việc thỏa mãn các nhu cầu và lợi ích của con người luôn là một đòi hỏi có tính nguyên tắc đặt ra trong xây dựng và phát triển của một xã hội. Như vậy nếu quả là sự hình thành và phát triển của đạo đức luôn gắn liền với các quan hệ lợi ích và “đạo đức có thể chỉ được xác định đầy đủ khi đặt nó trong mối quan hệ với các nhu cầu và lợi ích" (7) thì việc nghiên cứu đạo đức từ các lợi ích là một hướng tiếp cận đáng lưu ý, đồng thời đó cũng là một vấn đề lý luận có ý nghĩa thực tiễn cấp bách. Nghiên cứu đạo đức từ các lợi ích chính là cho phép làm sáng tỏ các vấn đề then chốt đang đặt ra trong nghiên cứu đạo đức học hiện nay: vấn đề về cơ sở phản ánh, về chức năng và ý nghĩa lịch sử của sự tồn tại của đạo đức. Đặc biệt, một trong những vấn đề có nghĩa phương pháp luận quan trọng trong hướng tiếp cận trên là làm rõ dây chuyền tác động xã hội dần đến sự hình thành và phát triển của đạo đức trong cuộc sống hiện thực. Trước đây khi nghiên cứu đạo đức từ các quan hệ kinh tế không phải chúng ta không nhìn thấy vai trò của các quan hệ kinh tế trong ý nghĩa “xét đến cùng" của nó. Nhưng để làm rõ dây chuyền tác động xã hội bằng việc xác định và chỉ ra các yếu tố trung gian, trực tiếp trong chính dây chuyền ấy, chúng ta thường chỉ mới quan tâm đến các tác động cùng lớp: các yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc như chính trị, pháp luật, nghệ thuật, tôn giáo… Đương nhiên nghiên cứu đạo đức không thể không bàn đến vai trò tác động của các yếu tố trong cùng thượng tầng kiến trúc cũng như các tác động xã hội khác đối với đạo đức và các mối quan hệ đan xen giữa chúng. Với tư cách là một hình thái ý thức, đạo đức không là kết quả riêng biệt của bất kỳ một tác động nào. Tính phức tạp và thống nhất của hiện tượng cũng như biện chứng của sự phát triển của nó luôn đặt ra và gắn liền với chính các tác động đa tầng và đa hướng đó. Nhưng vấn đề đặt ra là: vậy thì phải chăng trong sự hình thành và phát triển của đạo đức, các yếu tố và đã tác động xã hội khác nhau đều mang vai trò và ý nghĩa như nhau? Về thực chất chúng bao gồm những yếu tố nào? Về vấn đề này theo chúng tôi sự nhận định của các tác giả Xô viết trong công trình “Đạo đức học macxit" là tương đối hợp lý (8). Sự hình thành và phát triển của đạo đức trong công trình này được xác định gắn liền với các yếu tố sau:  Một, hướng vận động của các lợi ích hiện có trong xã hội.  Hai, hệ thống các giá trị đạo đức đang tác động Ba, sự thay đổi các tình huống của sự lựa chọn đạo đức (chẳng hạn sự thay đổi các chuẩn mực trong cách mạng khoa học kỹ thuật).  Bốn, sự tác động của các phương tiện điều chỉnh xã hội khác (quy định của pháp luật, các thiết chế hành chính...).  Năm, điều kiện giao tiếp, dư luận xã hội, kinh nghiệm đạo đức cá nhân;  Sáu, trạng thái tâm lý xã hội.  Bảy, sự tác động của các yếu tố trong lĩnh vực văn hóa tinh thần: khoa học, nghệ thuật, tôn giáo…  Và xét đến cùng đó là tự quy định của các điều kiện kinh tế, xã hội.  Trong hệ thống các yếu tố kể trên. Sự tác động của các lợi ích được coi là một trong những yếu tố có vai trò trực tiếp và gần gũi nhất trong việc tạo ra các định hướng đạo đức ở con người. Có thể nói, việc làm rõ các tác động đa dạng trong xã hội đối với sự hình thành đạo đức và xác định vai trò riêng biệt của mỗi tác động đó là đòi hỏi không thể thiếu trong xây dựng đạo đức hiện nay

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTìm hiểu bản chất của ý thức.doc
Luận văn liên quan