Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp tác xã"là luận văn rất hay,được đánh giá cao
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển kinh tế là một yếu tố rất quan trọng trong việc phát triển xã hội, nó quyết định sự bền vững và giàu mạnh của một quốc gia, sự tồn vong của nền chính trị. Khi một quốc gia có một nền kinh tế phát triển mạnh thì sẽ thúc đẩy cả hệ thống chính trị phát triển. Đối với Việt Nam của chúng ta, là một nước đang phát triển, bên cạnh đó xuất phát điểm của Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, nên gặp rất nhiều khó khăn, chính vì lẽ đó việc phát triển kinh tế là không thể xem nhẹ. Trong khi đó, quá trình hội nhập kinh tế thế giới, các nước đòi hỏi Việt Nam phải có một nền kinh tế thị trường, cho nên, việc cấp thiết mà Nhà nước ta cần làm ngay là tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, từng bước xóa bỏ độc quyền Nhà nước trên nhiều lĩnh vực, xây dựng một nền pháp lý minh bạch, hợp lý để từ đó tạo điều kiện cho các nền kinh tế phát triển về quy mô, cũng như tiềm lực về tài chính. “Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chu nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”[1]. Chính vì vậy, nên hợp tác xã sẽ đóng một vai trò quan trọng trong phát triền kinh tế của đất nước.
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, tạo điều kiện bằng nhiều chủ trương, đường lối, chính sách để tạo điều kiện cho hợp tác xã phát triển, phù hợp với điều kiện tình hình mới. Tuy nhiên, việc áp dụng, thực thi các chính sách của Đảng, Nhà nước về hợp tác xã còn gặp nhiều khó khăn. Hiệu quả về mặt kinh tế của hợp tác xã trong thời gian qua mang lại chưa cao, năng lực cạnh tranh của hợp tác xã so với các loại hình doanh nghiệp còn hạn chế, nhiều hợp tác xã làm ăn còn kém hiệu quả. Mặt khác, nền pháp lý về hợp tác xã vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc chưa được tháo gỡ. Hiện nay, chúng ta đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp lý về hợp tác xã (Luật hợp tác xã năm 2003) và Chính phủ cũng đã có nhiều văn bản đề ra những chính sách, hoạch định đường lối phát triển thành phần kinh tế này. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện nhằm tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế hợp tác xã phát triển một cách tương xứng với vị trí mà Đảng và Nhà nước ta định ra.
Thêm vào đó, do bản thân xuất thân trong một gia đình nông dân, chuyên canh tác lúa nước với quy mô nhỏ và thấy được tầm quan trọng của mô hình kinh tế hợp tác xã rất gần gủi với người nông dân, tạo điều kiện cho gia đình và bản thân có một cái nhìn mới về hợp tác xã thời hiện đại. Từ những yêu cầu đó, đã thúc đẩy tôi chọn đề tài “Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp tác xã”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm hiểu rõ những quy định của pháp luật về đăng ký thành lập và kinh doanh hợp tác xã. Qua đó, đưa ra những nhận xét, đánh giá về mô hình hợp tác xã và đề xuất những giải pháp cải thiện pháp luật và chính sách cho loại hình kinh tế này.
3. Phạm vi nghiên cứu
Luật hợp tác xã năm 2003 quy định rất nhiều vấn đề về hợp tác xã, trong Niên luận này, chỉ tập trung nghiên cứu một cách khái quát về những vấn đề chung nhất của hợp tác xã và những nội dung quy định cụ thể về đăng ký thành lập và kinh doanh hợp tác xã. Để từ đó, có cái nhìn tổng quan và đề ra các giải pháp phát triển kinh tế hợp tác xã.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu Niên luận do thu thập nhiều nguồn tài liệu khác nhau, nên sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như: phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, so sánh và phân tích luật viết.
5. Bố cục
Bố cục đề tài niên luận “Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp tác xã” gồm ba phần:
- Phần mở đầu
- Phần nộidung
+ Chương 1: Khái quát chung về hợp tác xã
+ Chương 2: Những quy định của pháp luật hiện hành về hợp tác xã
+ Chương 3: Thực trạng và giải pháp
- Kết luận
53 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5454 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp tác xã, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợp tác xã. Việc cho vay được thực hiện theo các quy định hiện hành. Các hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn vay vốn các tổ chức tín dụng theo quy định hiện hành về chính sách tín dụng nông nghiệp và nông thôn.
2.3. Trình tự thành lập đăng ký kinh doanh hợp tác xã
2.3.1. Thủ tục báo cáo Ủy ban nhân dân cấp xã về ý định thành lập
Sáng lập viên là công dân Việt Nam, từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ luật Dân sự; đại diện có đủ thẩm quyền của hộ gia đình hoặc pháp nhân, có hiểu biết pháp luật về hợp tác xã và khẳng định bằng văn bản cam kết sẽ xây dựng và phát triển hợp tác xã do mình khởi xướng thành lập. Các sáng lập viên sẽ là nòng cốt cho việc chuẩn bị thành lập hợp tác xã.
Sáng lập viên báo cáo bằng văn bản với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi dự định đặt trụ sở chính của hợp tác xã về việc thành lập, địa điểm đóng trụ sở, phương hướng sản xuất, kinh doanh và kế hoạch hoạt động của hợp tác xã, đồng thời tiến hành các công việc tuyên truyền, vận động các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân và cán bộ, công chức nhà nước có nhu cầu tham gia hợp tác xã; xây dựng phương hướng sản xuất, kinh doanh; dự thảo Điều lệ và xúc tiến các công việc cần thiết khác để tổ chức hội nghị thành lập hợp tác xã.
Việc báo cáo với Ủy ban nhân dân cấp xã chỉ mang tính chất thông báo, chứ không mang ý nghĩa xin phép. Vì vậy, ngay sau khi việc thực hiện thông báo, các sáng lập viên tiến hành các hoạt động tiếp theo để chuẩn bị cho sự ra đời hợp tác xã, mà không cần phải chờ đợi được sự đồng ý hay không đồng ý cho thành lập của Ủy ban nhân dân cấp xã. Quy định này, một mặt, tránh được sự phiền hà, gây khó khăn cho việc thành lập hợp tác xã từ phía chính quyền địa phương, mặt khác, tạo sự chủ động cho các sáng lập viên trong việc nhanh chóng xúc tiến việc thành lập hợp tác xã.
2.3.2. Tổ chức hội nghị thành lập hợp tác xã
Hội nghị thành lập hợp tác xã là Hội nghị đầu tiên quyết định việc thành lập hợp tác xã. Hội nghị thành lập hợp tác xã do sáng lập viên tổ chức. Thành phần tham gia hội nghị bao gồm sáng lập viên và cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân khác có nguyện vọng trở thành xã viên. Hội nghị thảo luận và thống nhất về phương hướng sản xuất, kinh doanh; kế hoạch hoạt động của hợp tác xã; dự thảo Điều lệ hợp tác xã; tên, biểu tượng (nếu có) của hợp tác xã và lập danh sách xã viên. Những vấn đề cần được thảo luận và biểu quyết theo đa số tại hội nghị thành lập hợp tác xã được ấn định tại khoản 3 Điều 11 Luật hợp tác xã năm 2003 trên cơ sở kế thừa khoản 3 Điều 13 Luật hợp tác xã năm 1996. Tuy nhiên, để phù hợp với tình hình phát triển chung của các loại hình doanh nghiệp, tạo sự chủ động, tự quyết định của hợp tác xã, Luật hợp tác xã năm 2003 đã bổ sung một số quy định mới cho phù hợp:
- Về số lượng xã viên: Theo quy định tại Điều 4 Luật hợp tác xã năm 1996 thì Điều lệ mẫu của các hợp tác xã do Chính phủ ban hành phải quy định rõ số lượng xã viên tối thiểu. Như vây, tuy cùng loại hình hợp tác xã nhưng hoạt động trên các lĩnh vực, ngành, nghề khác nhau thì hợp tác xã có số lượng xã viên tối thiểu không giống nhau. Điều này, đã tạo sự phức tạp cho hợp tác xã khi thành lập. Để khắc phục hạn chế đó, Luật hợp tác xã năm 2003 đã quy định rõ số lượng xã viên tối thiểu chung cho tất cả các hợp tác xã hoạt động trong mọi lĩnh vực, ngành, nghề khác nhau là 7 xã viên.
- Ngoài việc thông qua Điều lệ, Luật hợp tác xã năm 2003 còn bổ sung thông qua Nội quy hợp tác xã. Bởi vì, đây là một văn bản quan trọng quy định về những vấn đề trong nội bộ hợp tác xã, làm cơ sở cho hoạt động quản lý và điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã và có giá trị lâu dài đối với hợp tác xã.
- Về việc thành lập bộ máy quản lý và điều hành hợp tác xã: Luật hợp tác xã năm 1996 chỉ quy định hợp tác xã chỉ tổ chức duy nhất một bộ máy vừa thực hiện chức năng quản lý, vừa thực hiện chức năng điều hành hợp tác xã là Ban quản trị và Ban kiểm soát. Chủ nhiệm là là người đứng đầu Ban quản trị do Hội nghị thành lập hợp tác xã bầu cùng với các thành viên khác của Ban quản trị, Ban kiểm soát. Những quy định trên không còn phù hợp với sự phát triển của hợp tác xã trong điều kiện tình hình mới. Hiện nay, có những hợp tác xã với số lượng xã viên đông, quy mô phát triển lớn, vốn đầu tư nhiều và thị trường rộng đòi hỏi phải có sự tách biệt giữa chức năng quản lý và chức năng điều hành trong tổ chức hoạt động. Do vậy, nếu tiếp tục duy trì mô hình tổ chức quản lý, điều hành như quy định tại Luật hợp tác xã năm 1996 thì không còn phù hợp, tạo ra lực cản kiềm hãm sự phát triển của các hợp tác xã có tiềm năng. Vì vậy, để đáp ứng đòi hỏi khách quan, đồng thời để tạo sự chủ động trong tổ chức và hoạt động của hợp tác xã trên nguyên tắc gọn nhẹ và có hiệu quả, Luật hợp tác xã năm 2003 đã đưa ra hai loại hình tổ chức bộ máy quản lý và điều hành đối với hợp tác xã:
Một là, hợp tác xã thành lập một bộ máy vừa quản lý vừa điều hành: Số lượng thành viên Ban quản trị, Ban kiểm soát do Hội nghị thành lập hợp tác xã quyết định căn cứ vào số lượng xã viên tại thời điểm thành lập. Trong thời gian hoạt động Đại hội xã viên quyết định tăng hay giảm số lượng thành viên Ban quản trị, Ban kiểm soát cho phù hợp và báo cáo bằng văn bản tới cơ quan đăng ký kinh doanh. Đại hội xã viên bầu Ban quản trị và Chủ nhiệm; Ban kiểm soát và Trưởng Ban kiểm soát. Chủ nhiệm hợp tác xã đồng thời là Trưởng Ban quản trị; quyết định số lượng Phó chủ nhiệm hợp tác xã.
Hai là, hợp tác xã thành lập riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành: Số lượng thành viên gồm Ban quản trị, Ban kiểm soát. Đại hội xã viên trực tiếp bầu Ban quản trị và Trưởng Ban quản trị trong số thành viên Ban quản trị; quyết định bầu hoặc thuê Chủ nhiệm hợp tác xã; quyết định số lượng Phó chủ nhiệm hợp tác xã.
2.3.3. Điều lệ hợp tác xã
Điều lệ hợp tác xã là tôn chỉ, là mục đích của hợp tác xã, gồm những quy định nội bộ phù hợp với điều kiệ cụ thể về ngành nghề kinh doanh của hợp tác xã, được toàn thể xã viên nhất trí thông qua, là căn cứ pháp lý để giải quyết các mối quan hệ giữa các xã viên với nhau, cũng như giữa các xã viên với hợp tác xã và có giá trị lâu dài trong hợp tác xã. Khi thành lập, mỗi hợp tác xã phải xây dựng Điều lệ riêng. Điều lệ hợp tác xã phải phù hợp với Điều 12 của Luật hợp tác xã năm 2003 và Nghị định 77/2005/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2005 của Chính phủ quy định về việc ban hành mẫu hướng dẫn xây dựng Điều lệ hợp tác xã.
Điều lệ hợp tác xã do các sáng lập viên dự thảo trình Hội nghị thành lập hợp tác xã thảo luận và biểu quyết thông qua. Tại Hội nghị, các thành viên tham gia hợp tác xã thảo luận thông qua từng điều khoản của Điều lệ theo nguyên tắc đa số với trên 50% số xã viên tham gia Hội nghị nhất trí tán thành. Trong trường hợp biểu quyết mà số phiếu tán thành và số phiếu không tán thành ngang nhau thì ý kiến của bên người Chủ trì hội nghị được xem như quyết định.
Luật hợp tác xã năm 2003 đã bỏ quy định về điều lệ mẫu, thay vào đó luật chỉ quy định Chính phủ ban hành mẫu hướng dẫn xây dựng điều lệ cho hợp tác xã, mà cụ thể là được Nghị định 77/2005/NĐ-CP điều chỉnh đã bổ sung chi tiết hơn Điều 12 của Luật hợp tác xã năm 2003, để từ đó giúp cho các hợp tác xã có điều kiện dựa vào đó xây dựng điều lệ của mình một cách dễ dàng.
Điều lệ hợp tác xã có các nội dung chủ yếu sau[24]:
- Tên hợp tác xã, biểu tượng của hợp tác xã (nếu có);
- Địa chỉ trụ sở chính của hợp tác xã;
- Ngành, nghề sản xuất, kinh doanh;
- Các quy định về đối tượng, điều kiện, thủ tục gia nhập hợp tác xã và ra hợp tác xã của xã viên;
- Các quy định về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của xã viên;
- Nguyên tắc và đối tượng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc;
- Vốn điều lệ của hợp tác xã;
- Vốn góp tối thiểu: mức góp, hình thức góp, thời hạn góp và điều kiện trả lại vốn góp của xã viên;
- Thẩm quyền và phương thức huy động vốn;
- Nguyên tắc trả công, xử lý các khoản lỗ; chia lãi theo vốn góp, theo công sức đóng góp của xã viên và theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã; trích lập, quản lý và sử dụng các quỹ của hợp tác xã;
- Thể thức quản lý, sử dụng, bảo toàn và xử lý phần tài sản chung, vốn tích luỹ của hợp tác xã khi hợp tác xã đang hoạt động và khi hợp tác xã giải thể;
- Cơ cấu tổ chức quản lý hợp tác xã; chức năng, quyền, nhiệm vụ và trách nhiệm của Ban quản trị, Trưởng Ban quản trị, Chủ nhiệm hợp tác xã, Ban kiểm soát, Trưởng Ban kiểm soát và các bộ phận giúp việc cho hợp tác xã;
- Người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã;
- Thể thức tiến hành Đại hội và thông qua quyết định của Đại hội xã viên;
- Chế độ xử lý vi phạm Điều lệ hợp tác xã và nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ;
- Thể thức sửa đổi Điều lệ hợp tác xã;
- Các quy định khác do Đại hội xã viên tự quyết định nhưng không trái với quy định của pháp luật.
Như vậy, so với Điều 14 của Luật hợp tác xã năm 1996, nội dung điều lệ hơp tác xã theo quy định tại Điều 12 của Luâth hợp tác xã năm 2003 đã được bổ sung như sau:
Bổ sung về nguyên tắc và đối tượng đóng bảo hiểm bắt buộc. Theo Luật hợp tác xã năm 2003, đối tượng tham gia hợp tác xã khá đa dạng, đồng thời để đảm bảo quyền lợi của xã viên và người lao động, cũng như việc hợp tác xa thực hiện các quy định của Luật bảo hiểm và Luật lao dộng. Chính vì vậy mà cần được bổ sung vào Điều lệ hợp tác xã. Hơn nữa, việc chi trả các khoản bảo hiểm xã hội có liên quan trực tiếp đến điều kiện tài chính của hợp tác xã, mà cụ thể là quyền lợi của xã viên. Vì vậy, vấn đề xác định nguyên tắc và đối tượng đóng bảo hiểm bắt buộc phải được Đại hội xã viên thông qua và ghi trong Điều lệ hợp tác xã.
Bổ sung về thẩm quyền và phương thức huy động vốn. Vốn là yếu tố hết sức quan trọng đối với mọi loại hình doanh nghiệp, vốn giúp duy trì, mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh. Do đó, việc huy động vốn là hết sức cần thiết đối với hợp tác xã. Tuy nhiên, việc huy động nguồn vốn cũng gắn liền với nghĩa vụ thanh toán các khoản huy động dưới các hình thức khác nhau, có thể ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính và sự tồn tại của hợp tác xã. Vì thế, việc xác định giao cho ai thẩm quyền huy động vốn, cũng như phương thức huy động vốn như thế nào phải do chính các xã viên quyết định và ghi nhận vào Điều lệ hợp tác xã. Bên cạnh đó, việc ghi nhận trên vừa đảm bảo nguyên tắc huy động vốn, vừa giúp cho cơ quan điều hành hợp tác xã chủ động trong quá trình thực hiện công việc của mình và tránh tình trạng lợi dụng quyền hạn làm ảnh hướng đến quyền lợi chính đáng của hợp tác xã và xã viên.
Bổ sung thể thức quản lý, sử dụng, bảo toàn và xử lý phần tài sản chung, vốn tích luỹ của hợp tác xã khi hợp tác xã đang hoạt động và khi hợp tác xã giải thể. Với đặc thù của loại hình hợp tác xã, nguồn tài sản chung của hợp tác xã là phần tài sản quan trọng. Chính vì lẽ đó, việc quản lý, sử dụng và bảo toàn tài sản đó không chỉ liên quan đến hiệu quả hoạt động của hợp tác xã, quyền lợi của xã viên, mà còn liên quan đến sinh hoạt của cộng đồng dân cư, đặc biệt là đối với các hợp tác xã nông nghiệp. Với tư cách là một tổ chức kinh tế tập thể hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm, việc sử dụng các nguồn vốn, trong đó có vốn tích lũy của hợp tác xã khi hợp tác xã đang hoạt động hoặc giải thể, ngoài phần xử lý theo quy định của Luật hợp tác xã năm 2003 và các quy định pháp luật khác có liên quan, tập thể xã viên được quyết định xử lý phần tài sản quan trọng này thông qua thỏa thuận và ghi nhận trong Điều lệ hợp tác xã.
Bổ sung về người Đại diện theo pháp luật của hợp tác xã. Là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, do vậy, mọi quan hệ hoạt động của hợp tác xã với các chủ thể bên ngoài phải được xác lập thông qua người đại diện. So với Luật hợp tác xã năm 1996, thì người đại diện của hợp tác xã là Chủ nhiệm hợp tác xã, tuy nhiên, Luật hợp tác xã năm 2003 đã mở rộng thêm mô hình quản lý của hợp tác xã, nên người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã không chỉ riêng Chủ nhiệm hợp tác xã mà còn có thể là Trưởng ban quản trị, điều đó phụ thuộc vào từng loại mô hình tổ chức, quản lý, điều hành của hợp tác xã. Mặt khác, Chủ nhiệm hợp tác xã là người đứng đầu bộ máy điều hành và có thể do hợp tác xã thuê. Do đó, không phải trong mọi trường hợp Chủ nhiệm hợp tác xã đương nhiên trở thành người Đại diện theo pháp luật của hợp tác xã. Vì vậy, để phân định rõ ràng tư cách và trách nhiệm trước pháp luật, nên việc khẳng định người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã trong Điều lệ là hết sức cần thiết và phù hợp với thực tế khách quan.
Bổ sung về chế độ xử lý vi phạm Điều lệ hợp tác xã và nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ. Điều lệ, Nội quy hợp tác xã điều chỉnh những quan hệ nội bộ trong hợp tác xã, tạo cơ sở cho ổn định trong tổ chức quản lý, sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã. Trong trường hợp có vi phạm Điều lệ hợp tác xã của các xã viên, thì tùy theo tính chất mức độ vi phạm mà bị kiển trách, cảnh cáo, khai trừ khỏi hợp tác xã, nếu gây thiệt hại tài sản thì phải bồi thường. Bên cạnh đó, nếu trong nội bộ hợp tác xã có tranh chấp phát sinh thì có thể giải quyết trên cở sở hòa giải giữa các xã viên với nhau và giữa xã viên với hợp tác xã theo nguyên tắc bình đẳng, hợp tác; trường hợp không giải quyết được thì trình Đại hội xã viên xem xét, quyết định, nếu không được thì đề nghị Tòa án nhân dân có thẩm quyền sẽ giải quyết. Việc bổ sung nội dung trên vào Điều lệ hợp tác xã có ý nghĩa rất quan trọng nhằm làm ổn định quan hệ trong nội bộ hợp tác xã và tăng cường kỷ luật trong tổ chức có đặc thù mang tính xã hội sâu sắc như hợp tác xã.
Bổ sung về thể thức sửa đổi Điều lệ hợp tác xã. Điều lệ hợp tác xã là văn bản quan trọng, có thể xem đây là “Luật” đối với hợp tác xã, có nội dung liên quan đến mọi hoạt động của hợp tác xã, cũng như quyền lợi của các xã viên và do chính các xã viên thông qua. Vì vậy, việc sửa đổi Điều lệ hợp tác xã để cho phù hợp với tình hình của hợp tác xã trong từng giai đoạn phát triển cũng phải do tập thể xã viên quyết định.
Ngoài ra, Luật hợp tác xã năm 2003 và Nghị định 77/2005/NĐ-CP còn bổ sung trong Điều lệ hợp tác xã một số nội dung khác như: điều kiện trả lại vốn của xã viên; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chức danh quản lý, điều hành, kiểm soát; ghi nhận thêm một số chức danh khác như Trưởng ban quản trị, Trưởng ban kiểm soát vào nội dung của Điều lệ.
2.4. Đăng ký kinh doanh
2.4.1. Hồ sơ đăng ký kinh doanh
Sau hội nghị thành lập hợp tác xã, người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã sẽ thanh lập (đối với hợp tác xã thành lập một bộ máy vừa quản lý, vừa điều hành là Chủ nhiệm hợp tác xã; đối với hợp tác xã thành lập riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành là Trưởng ban quản trị) hoàn chỉnh các văn bản, lập và nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh đã lựa chọn. Tùy điều kiện cụ thể, hợp tác xã có thể chọn cơ quan đăng ký kinh doanh tại cấp huyện hoặc cấp tỉnh nơi hợp tác xã dự định đặt trụ sở chính.
Với chủ trương đơn giản hóa thủ tục cải cách hành chính, lược bỏ những giấy tờ, thủ tục không cần thiết so với Luật hợp tác xã năm 1996. Luật hợp tác xã năm 2003 quy định hồ sơ đăng ký kinh doanh gồm[25]:
- Đơn đăng ký kinh doanh;
- Điều lệ hợp tác xã;
- Số lượng xã viên, danh sách Ban quản trị, Ban kiểm soát của hợp tác xã;
- Biên bản đã thông qua tại Hội nghị thành lập hợp tác xã.
Như vậy, so với Luật hợp tác xã năm 1996, thì quy định về hồ sơ đăng ký kinh doanh của hợp tác xã trong Luật hợp tác xã năm 2003 đơn giản, gọn nhẹ hơn rất nhiều. Cụ thể là:
Thứ nhất, Theo Luật hợp tác xã năm 2003, hồ sơ đăng ký kinh doanh không cần có danh sách, tên, địa chỉ của xã viên mà chỉ cần số lượng xã viên tham gia hợp tác xã. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các loại hình hợp tác xã chuyển đổi. Thực tế, hiện nay vẫn còn nhiều mô hình chuyển đổi từ mô hình hợp tác xã theo Luật hợp tác xã năm 1996 sang mô hình Luật hợp tác xã năm 2003, bên cạnh đó, việc gỡ bỏ quy định trên tránh được sự không cần thiết, vì trên thực tế có nhiều hợp tác xã khi chuyển đổi lên tới hàng trăm hoặc hàng ngàn xã viên. Trong khi đó, cơ quan đăng ký kinh doanh cũng không cần thiết phải nắm cụ thể thông tin của các xã viên tham gia hợp tác xã, mà thay vào đó chỉ cần nắm thông tin của những người đứng đầu hệ thống quản lý, điều hành, kiểm soát hợp tác xã. Việc quy định như vậy cũng phù hợp với các quy định về đăng ký kinh doanh của Luật doanh nghiệp. Chính vì lẽ đó, Luật hợp tác xã quy định trong hồ sơ đăng ký kinh doanh của hợp tác xã phải có số lượng xã viên, danh sách Ban quản trị, Ban kiểm soát của hợp tác xã là hoàn toàn phù hợp.
Thứ hai, Luật hợp tác xã năm 2003 đã bỏ quy định phải có phương án sản xuất, kinh doanh như quy định của Luật hợp tác xã năm 1996 đã quy định. Việc gỡ bỏ quy định này cũng hoàn toàn phù hợp. Thực tế, các sáng lập viên rất khó xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh phù hợp ngay khi mới bắt đầu đăng ký thành lập trong khi nền kinh tế thị trường luôn luôn vận động. Nếu có đi chăng nữa, thì sau khi thành lập hợp tác xã cũng rất khó hoạt động theo phương án đó. Bởi khi bước vào hoạt động, hợp tác xã còn phù thuộc vào rất nhiều yếu tố như vốn, thị trường và các yếu tố chủ quan khác, hơn nữa, chiến lược sản xuất, kinh doanh không phải bất di, bất dịch mà nó phụ thuộc vào từng thời kỳ, phụ thuộc vào sự vận động và phát triển chung của nền kinh tế. Bên cạnh đó, về phía cơ quan quản lý Nhà nước cũng rất khó kiểm soát được việc đảm bảo thực hiện theo đúng phương án đã xác định trong hồ sơ đăng ký kinh doanh của hợp tác xã. Mặt khác, nếu yêu cầu hợp tác xã hoạt động theo đúng phương án sản xuất, kinh doanh đã đăng ký thì vô hình chung tạo ra một rào cản làm cho hợp tác xã thiếu năng động, thiếu sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, Luật hợp tác xã năm 2003 cũng đã gỡ bỏ quy định giấy phép hành nghề đối với một số ngành, nghề mà pháp luật quy định phải có trong hồ sơ đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật hợp tác xã năm 1996. Yêu cầu có giấy phép hành nghề trong một số ngành, nghề là yêu cầu đối với mọi loại hình doanh nghiệp, trong đó có hợp tác xã. Tuy nhiên, việc yêu cầu có giấy phép hành nghề trong hồ sơ đăng ký kinh doanh hợp tác xã của Luật hợp tác xã năm 1996 là không phù hợp. Bởi vì, khi hợp tác xã chưa được thành lập thì chưa có địa vị pháp lý và chưa là chủ thể trong hoạt động kinh tế. Do đó, việc xin cấp giấy phép hành nghề đối với hợp tác xã trong giai đoạn này là cực kỳ khó khăn và phức tạp, khó thực thi trên thực tế. Hơn nữa, theo quy định của Luật doanh nghiệp, về nguyên tắc không còn quy định việc cấp giấy phép hành nghề, trừ một số ngành, nghề nhất định do Chính phủ quy định. Do đó, việc có giấy phép hành nghề được xác định là một điều kiện mà doanh nghiệp cần phải đáp ứng trước khi bắt đầu sản xuất, kinh doanh mặc dù đã được phía cơ quan chức năng cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh từ trước. Việc gỡ bỏ quy định trên cũng nhằm tạo sự bình đẳng về mặt pháp lý giữa các thành phần kinh tế, cũng như sự bất hợp lý trong thủ tục đăng ký kinh doanh hợp tác xã.
2.4.2. Điều kiện cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh[26]
Để có đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã phải chuẩn bị đầy đủ giấy tờ hợp lệ như đã nói ở phần hồ sơ đăng ký kinh doanh và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh. Ngành, nghề sản xuất, kinh doanh ghi trong hồ sơ phải là ngành, nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Trong hồ sơ phải ghi tên, biểu tượng (nếu có) của hợp tác xã, vốn điều lệ trong trường hợp kinh doanh ngành, nghề mà Chính phủ quy định phải có vốn pháp định thì vốn điều lệ không được thấp hơn vốn pháp định.Khi nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh, người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã phải nộp đủ lệ phí đăng ký kinh doanh theo quy định.
So với quy định trước đây, thì Luật hợp tác năm 2003 đã có sự thay đổi khá phù hợp với tình hình mới.
Thứ nhất, Luật hợp tác xã năm 2003 đã bổ sung hai điều kiện là hợp tác xã hoạt động sản xuất, kinh doanh ngàng, nghề mà pháp luật không cấm và tên, biểu tượng của hợp tác xã. Có thể nói đây là điều kiện đầu tiên, tối thiểu đối với mọi loại hình doanh nghiệp khi bắt đầu hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đó cũng là việc mà các sáng lập viên phải chuẫn bị ngay từ khi có ý tưởng thành lập hợp tác xã. Tuy nhiên, đây là những thông tin cần thiết giúp cho hoạt động quản lý của cơ quan quản lý Nhà nước mà hợp tác xã cần phải cung cấp.
Thứ hai, Luật hợp tác xã năm 2003 đã bỏ hai điều kiện không hợp lý ở Luật hợp tác xã năm 1996:
- Một là, bỏ điều kiện số lượng xã viên hợp tác xã không ít hơn số xã viên tối thiểu quy định trong Điều lệ mẫu đối với từng loại hình hợp tác xã. Vì Luật hợp tác xã năm 2003 không còn quy định Điều lệ mẫu mà chỉ quy định giới hạn số lượng xã viên tối thiểu tham gia thành lập hợp tác xã là 7 xã viên.
- Hai là, bỏ điều kiện mục đích hoạt động rõ ràng. Đây có thể nói là quy định “để có” vì nó quá chung chung và thiếu tính khả thi trên thực tế. Vì trên thực tế, khi nhà đầu tư bước chân vào thương trường luôn lấy mục tiêu lợi ích kinh tế làm mục đích hoạt động và phát triển của mình. Hợp tác xã hoạt động sản xuât, kinh doanh cũng vì lợi nhuận, bên cạnh đó nó hướng tới mục đích xã hội, các xã viên cùng giúp đỡ nhau nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần xây dựng, phát triển nền kinh tế đất nước. Như vậy, mục đích hoạt động của hợp tác xã đã thể giện ngay chính trong bản chất của hợp tác xã. Nên bỏ quy định trên là phù hợp.
Thứ ba, Luật hợp tác xã năm 2003 cũng đã bỏ điều kiện có trụ sở được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi dự định đặt trụ sở xác nhận như đã quy định trong Luật hợp tác xã năm 1996. Bởi vì, trong thực tế trụ sở của hợp tác xã đã được thể hiện trong hồ sơ đăng ký kinh doanh như đơn đăng ký kinh doanh, Điều lệ hợp tác xã. Mặt khác, trước khi đăng ký kinh doanh, các sáng lập viên đã có động thái đầu tiên là thông báo cho Ủy ban nhân nhân cấp xã nơi dự định đặt trụ sở hợp tác xã về việc thành lập hợp tác xã. Do đó, đến thời điểm thực hiện việc đăng ký kinh doanh mà Ủy ban nhân dân cấp xã không có ý kiến gì thì cũng xem như họ đã gián tiếp xác nhận hợp tác xã có trụ sở tại địa phương mình quản lý. Mặt khác, Luật hợp tác xã năm 2003 quy định[27]: “Người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã sẽ thành lập nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh đã chọn và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của hồ sơ đăng ký kinh doanh”. Cho nên, việc bỏ quy định trên cũng là hợp lý.
2.4.3. Nơi đăng ký kinh doanh
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng xác định: “Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt”. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách khuyến khích thành lập hợp tác xã để phù hợp với tính chất, tầm quan trọng của loại hình tổ chức kinh tế này, cũng như phù hợp với đối tượng tham gia hợp tác xã. Trước đó, khi tiến hành đăng ký kinh doanh hợp tác xã, Luật hợp tác xã năm 1996 quy định[28]: “Chủ nhiệm hợp tác xã phải gửi hồ sơ đăng ký kinh doanh đến Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp huyện) nơi dự định đặt trụ sở chính của hợp tác xã”. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành của pháp luật về nơi đăng ký kinh doanh cho tất cả các loại hình doanh nghiệp được quy định như sau[29]: “Người thành lập doanh nghiệp hoặc người đại diện theo ủy quyền nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh theo quy định tại Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính”. Nhất quán chính sách khuyến kích thành lập hợp tác xã và đồng thời đảm bảo sự bình đẳng giữa hợp tác xã với các loại hình doanh nghiệp khác, Luật hợp tác xã năm 2003 quy định cho phép hợp tác xã được quyền lựa chọn nơi đăng ký kinh doanh tại cấp huyện hoặc cấp tỉnh để tạo sự chủ động cho hợp tác xã, cụ thể là: “Hợp tác xã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh hoặc cấp huyện nơi hợp tác xã dự định đặt trụ sở chính, tuỳ theo điều kiện cụ thể của hợp tác xã”[30].
Cơ quan đăng ký kinh doanh[31] được pháp luật về hợp tác xã diện dẫn đến Nghị định 109/2004/NĐ-CP ngày 02 tháng 4 năm 2004 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, đến ngày 29 tháng 8 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định 88/2006/ NĐ-CP thay thế Nghị định 109/2004/NĐ-CP quy định về cơ quan đăng ký kinh doanh như sau[32]: Cơ quan đăng ký kinh doanh được tổ chức ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) và ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), bao gồm:
Ở cấp tỉnh: Phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư (sau đây gọi chung là Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh).
Ở cấp huyện: Trong trường hợp không thành lập Phòng đăng ký kinh doanh cấp huyện thì Phòng Tài chính – Kế hoạch thực hiện nhiệm vụ đăng ký kinh doanh.
Bên cạnh đó, để đảm bảo yêu cầu cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh được xem xét, giải quyết nhanh gọn, đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất kinh doanh, Luật hợp tác xã quy định[33]: “Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan đăng ký kinh doanh phải xem xét hồ sơ và cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho hợp tác xã”.
Đồng thời, nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của hợp tác xã và xã viên, Luật hợp tác xã năm 2003 quy định rằng: “trường hợp từ chối thì phải trả lời bằng văn bản”.
Mặt khác, khi đăng ký thành lập thì việc xác định tư cách pháp nhân và thời điểm bắt đầu hoạt động là một vấn đề quan trọng mà đối với mọi loại hình doanh nghiệp luôn quan tâm, không chỉ riêng gì hợp tác xã. Luật hợp tác xã năm 1996 mới dừng lại[34]: “Hợp tác xã có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh” mà chưa quy định thời điểm hợp tác xã bắt đầu hoạt động. Do đó, khi hợp tác xã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cũng không biết khi nào mình bắt đầu được phép hoạt động, đặc biệt là đối với hợp tác xã hoạt động trong các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Khắc phục hạn chế trên, Luật hợp tác xã năm 2003 quy định rõ[35]: “Hợp tác xã có tư cách pháp nhân và có quyền hoạt động kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; đối với những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện mà hợp tác xã đăng ký hoạt động thì hợp tác xã được kinh doanh những ngành, nghề đó kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh hoặc có đủ điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật”. Việc cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh các ngành, nghề có điều kiện theo quy định của pháp luật được tiến hành độc lập với việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho hợp tác xã.
2.4.4. Chi nhánh, văn phòng đại diện và doanh nghiệp trực thuộc hợp tác xã
Để tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác xã phát huy năng lực, tiếp cận nhanh nhạy với thị trường. Luật hợp tác xã năm 2003 quy định[36]: “Hợp tác xã có quyền mở chi nhánh, văn phòng đại diện ở trong nước và nước ngoài. Trình tự, thủ tục mở chi nhánh, văn phòng đại diện theo quy định chung của Chính phủ đối với mọi loại hình doanh nghiệp. Hợp tác xã được thành lập doanh nghiệp trực thuộc theo quy định của pháp luật”.
Hợp tác xã thành lập chi nhánh hạch toán phụ thuộc không có vốn điều lệ hoặc văn phòng đại diện phải tiến hành đăng ký tại cơ quan đăng ký kinh doanh. Khi lập chi nhánh, văn phòng đại diện, hợp tác xã phải gửi thông báo tới cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh hoặc cấp huyện nơi đặt chi nhánh, văn phòng đại diện. Nội dung thông báo gồm có:
- Tên và địa chỉ trụ sở chính của hợp tác xã;
- Ngành, nghề kinh doanh của hợp tác xã;
- Tên chi nhánh, văn phòng đại diện dự định thành lập; tên phải kèm theo chữ “Chi nhánh” đối với đăng ký thành lập chi nhánh và chữ “Văn phòng đại diện” đối với trường hợp đăng ký thành lập văn phòng đại diện;
- Họ tên, số chứng minh nhân dân, chữ ký và nơi cư trú của người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã;
- Tên và địa chỉ trụ sở chi nhánh, văn phòng đại diện;
- Nội dung, phạm vi hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện;
- Họ tên, nơi cư trú, số chứng minh nhân dân của người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện.
Kèm theo thông báo quy định như trên, hợp tác xã phải gửi kèm các giấy tờ sau:
- Bản sao hợp lệ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
- Quyết định bằng văn bản của Ban Quản trị về việc mở chi nhánh, văn phòng đại diện, cử người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện và biên bản hoặc nghị quyết của Đại hội xã viên về việc mở chi nhánh, văn phòng đại diện của hợp tác xã.
Nếu ngành, nghề kinh doanh của chi nhánh phù hợp với ngành, nghề kinh doanh của hợp tác xã; nội dung hoạt động của văn phòng đại diện phù hợp với nội dung hoạt động của hợp tác xã thì trong thời hạn 15 ngày (ngày làm việc), kể từ ngày nhận được thông báo, cơ quan đăng ký kinh doanh cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện.
Sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động, chi nhánh, văn phòng đại diện được khắc dấu và có quyền sử dụng con dấu của mình.
Trường hợp hợp tác xã lập chi nhánh, văn phòng đại diện tại huyện hoặc tỉnh, thành phố khác với nơi hợp tác xã đặt trụ sở chính thì trong thời hạn 07 ngày (ngày làm việc), kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện, hợp tác xã phải thông báo bằng văn bản tới cơ quan đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nơi hợp tác xã đặt trụ sở chính để bổ sung vào hồ sơ đăng ký kinh doanh.
Trường hợp lập chi nhánh, văn phòng đại diện ở nước ngoài thì hợp tác xã phải thực hiện theo quy định pháp luật Việt Nam và quy định pháp luật của nước đó.
Trong thời hạn 15 ngày (ngày làm việc), kể từ ngày chính thức mở chi nhánh, văn phòng đại diện ở nước ngoài, hợp tác xã phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nơi hợp tác xã đặt trụ sở chính để bổ sung vào hồ sơ đăng ký kinh doanh.
Với Luật hợp tác xã năm 1996 chỉ dừng lại ở quy định[37]: “Hợp tác xã được mở chi nhánh, văn phòng đại diện ở địa phương khác ngoài huyện, tỉnh sở tại trong cả nước… Việc mở chi nhánh, văn phòng đại diện của hợp tác xã ở nước ngoài được thực hiện theo quy định của Chính phủ”. Tuy nhiên, để đáp ứng đòi hỏi khách quan từ nhu cầu của nền kinh tế thị trường, sự phù hợp với các quy định của Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác xã năm 2003 đã bổ sung cho phép hợp tác xã được thành lập doanh nghiệp trực thuộc theo quy định của pháp luật. Cụ thể là: “Hợp tác xã được thành lập doanh nghiệp trực thuộc theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Hợp tác xã là chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ của hợp tác xã đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên được thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp và các văn bản pháp luật khác có liên quan”[38].
Với quy định trên đã góp phần khẳng định rõ hơn địa vị pháp lý của hợp tác xã là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân và bình đẳng với các loại hình tổ chức kinh tế khác trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.
CHƯƠNG 3:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
3.1. Thực trạng
Tính đến cuối năm 2009, cả nước ta có 18.104 hợp tác xã, trong đó có 8.828 hợp tác xã nông nghiệp, 896 hợp tác xã thương mại dịch vụ, 1.027 hợp tác xã giao thông vận tải, 510 hợp tác xã thủy sản, 916 hợp tác xã xây dựng, 2.571 hợp tác xã công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, 1.037 quỹ tín dụng nhân dân, 1.932 hợp tác xã điện nước, 121 hợp tác xã môi trường, 266 hợp tác xã lĩnh vực khác[39]. Với sự đóng góp của khu vực hợp tác xã hết sức quan trọng cả về kinh tế, xã hội và văn hóa. Thu hút phần lớn lao động xã hội; khu vực kinh tế này đóng góp gần 8% tổng sản phẩm quốc nội; hỗ trợ tích cực cho kinh tế hộ phát triển; góp phần tăng thu nhập cho xã viên và người lao động; góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
Đối với địa bàn tỉnh Cà Mau, tính đến cuối năm 2009, trong tỉnh có 131 hợp tác xã, với 1.769 xã viên, 3.946 lao động, vốn điều lệ 81.496 tỷ đồng. Trong đó: 34 hợp tác xã nông nghiệp, 36 hợp tác xã sản xuất giống và nuôi trồng thủy sản, 6 hợp tác xã khai thác thủy sản, 13 hợp tác xã giao thông vận tải, 15 hợp tác xã xây dựng, 10 hợp tác xã tiru thủ công nghiệp, 12 hợp tác xã thương mại dịch vụ, 3 hợp tác xã môi trường và 2 quỹ tín dụng nhân dân[40]. Nhìn chung, tình hình hoạt động của hợp tác xã có bước phát triển, số lượng hợp tác xã thành lập mới ngày càng tăng. Về chất lượng thì hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn, có sự chuyển biến tích cực trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, quy mô được mở rộng hơn, nhiều ngành, nghề và dịch vụ với mức thu nhập bình quân 1 xã viên đạt 15 triệu đồng/năm. Riêng một số loại hình hợp tác xã có mức thu nhập khá cao khoảng 50 triệu/năm.
Trong thời gian qua, chủ trương, đường lối và chính sách phát triển hợp tác xã của Đảng và Nhà nước ta luôn thống nhất. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử là từng bước đổi mới hợp tác xã theo hướng phủ hợp với điều kiện khách quan. Hợp tác xã phát triển theo các nấc thang, trình độ khác nhau có thăng, trầm trong thời kỳ chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa chỉ huy, bao cấp kéo dài dẫn tới quan liêu sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Luật hợp tác xã sửa đổi đã được Quốc hội khoá XI thông qua tại kỳ họp thứ 4 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2004. Luật đã có nhiều thay đổi tích cực so với Luật của năm 1996, tạo ra nhiều thuận lợi và thông thoáng hơn cho các hợp tác xã phát triển. Theo Luật, hợp tác xã có được khung khổ pháp lý hoàn chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường và các chuẩn mực quốc tế. Phạm vi hoạt động của các hợp tác đã được mở rộng, không chỉ giới hạn trong ngành nông nghiệp mà đã lan rộng sang các ngành và các lĩnh vực kinh tế khác trong nền kinh tế. Nếu chỉ xét riêng lĩnh vực nông nghiệp, khu vực có nhiều hợp tác xã nhất đang hoạt động, thì hầu hết các hợp tác xã đã đảm nhiệm nhiều dịch vụ nông nghiệp phục vụ các hộ xã viên và cạnh tranh với các cơ sở dịch vụ khác trên cùng địa bàn. Bên cạnh đó, các hợp tác đã không chỉ giới hạn phạm vi hoạt động của mình trong nội bộ ngành mà đã mở rộng sang cung cấp dịch vụ tổng hợp cho các xã viên của mình và cho thị trường. Nhiều hợp tác xã đã phát huy được tinh thần tương thân tương ái trong việc hỗ trợ các hộ xã viên tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo ở khu vực nông thôn. Góp phần tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động tại khu vực nông thôn, nâng cao thu thập và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn. Cải thiện tình trạng xuống cấp và không ngừng phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn như điện, đường, trường, trạm, nhà trẻ và nhiều công trình phúc lợi xã hội khác. Đa dạng hoá các dịch vụ phục vụ cộng đồng người dân nông thôn, phòng chống tệ nạn xã hội và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Nâng cao tình làng, nghĩa xóm và tinh thần tương trợ nhau những lúc khó khăn.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi và thành tựu hợp tác xã đã đạt được trong thời gian quan còn có những bất cập trong vấn đề về pháp lý, cũng như cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước và những khó khăn khách quan, chủ quan dẫn đến hợp tác xã chưa thật sự phát huy hết tiềm năng của mình. Cụ thể:
Thứ nhất, Mặc dù mở rộng thành phần tham gia hợp tác xã, nhưng lại làm xuất hiện mâu thuẫn mới là: cán bộ, công chức theo quy định của Luật hợp tác xã năm 2003 có thể là xã viên hợp tác xã nhưng không thể “góp sức” để trái với quy định về luật cán bộ, công chức. Luật cũng cho phép pháp nhân tham gia hợp tác xã, nhưng pháp nhân cũng không thể “góp sức” vào hợp tác xã. Đây cũng là vấn đề bất cập trong luật.
Thứ hai, Qua nghiên cứu Luật hợp tác xã năm 2003 thấy rằng: Luật hợp tác xã năm 2003 chưa thể chế hóa đầy đủ tư tưởng của Nghị quyết số 13 Hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, đồng thời thấy rõ sự phát triển thực tế của hợp tác xã đã vượt ra khỏi khung khổ của quy định Luật hợp tác xã năm 2003. Nghị quyết số 13 nêu một tư tưởng về mô hình đặc biệt quan trọng là: hợp tác xã, trước hết trong lĩnh vực nông nghiệp “tập trung làm các dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các hộ thành viên, từng bước mở rộng ngành, nghề, sản xuất, kinh doanh, tổng hợp; trong lĩnh vực phi nông nghiệp, vừa tổ chức sản xuất, vừa kinh doanh dịch vụ”. Nghị quyết số 26/NQ-TW (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn nêu rõ: “tiếp tục đổi mới, phát triển hợp tác xã, tổ hợp tác phù hợp với nguyên tắc tổ chức của hợp tác xã và cơ chế thị trường…; Hợp tác xã phải làm tốt các dịch vụ đầu vào, chế biến, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân”. Đây là những luận điểm tuy ngắn nhưng cực kỳ quan trọng đối với việc xác định mô hình pháp lý hợp tác xã. Luật hợp tác xã năm 2003, tuy có giải thích về dịch vụ hợp tác xã đối với xã viên và mức độ sử dụng dịch vụ hợp tác xã quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 4, nhưng Điều 1 Luật hợp tác xã năm 2003 lại không quy định xã viên phải sử dụng dịch vụ hợp tác xã và tại Điều 6 quy định quyền của hợp tác xã nhưng không quy định hợp tác xã cung cấp dịch vụ cho xã viên. Trong khi đó phát triển hợp tác xã đang có những vận động mới vượt qua khỏi khung khổ pháp luật hiện hành, ví dụ: Quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, hợp tác xã dịch vụ vận tải mà thành viên chỉ góp vốn và sử dụng dịch vụ của hợp tác xã, chứ không “góp sức” mà khung pháp luật hợp tác xã năm 2003 chưa điều chỉnh được đầy đủ. Các hợp tác xã dịch vụ phục vụ xã viên chưa thật sự nhận được ưu đãi chính sách về thuế đối với các dịch vụ của hợp tác xã phục vụ xã viên mà lẽ ra là hợp lý và cần được hưởng. Một thực tế nữa, hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp và quỹ tín dụng nhân dân hoạt động theo kiểu mô hình hợp tác xã dịch vụ phục vụ xã viên, theo đó xã viên là chủ sở hữu của hợp tác xã, đồng thời sử dụng dịch vụ của hợp tác xã, chứ không góp sức. Chỉ đối với loại mô hình hợp tác xã mà xã viên vừa là chủ sở hữu, vừa là khách hàng của hợp tác xã, túc là người sử dụng dịch vụ của hợp tác xã mới có thể áp dụng phân phối theo mức độ dịch vụ của hợp tác xã. Loại hình này chưa được thể hiện rõ trong Luật hợp tác xã năm 2003. Như vậy, đang có một khoảng trống pháp luật lớn về mô hình pháp lý hợp tác xã dịch vụ phục vụ xã viên. Bên cạnh đó, Luật hợp tác xã năm 2003 mới chỉ hướng tới thể chế hóa được mô hình hợp tác xã của người lao động, hoàn toàn chưa thể chế được hợp tác xã người tiêu dùng. Đây là một nguyên nhân quan trọng làm hợp tác xã nông nghiệp ở nước ta hiện nay rất lúng túng và hoạt động rất khó khăn mà lẽ ra mô hình thích hợp là hợp tác xã dịch vụ phục vụ xã viên; hợp tác xã phi nông nghiệp hiện nay là phần lớn định hướng theo mô hình hợp tác xã của người lao động nhưng hoạt động cũng chưa hiệu quả và không kém lúng túng như hợp tác xã nông nghiệp; trong khi đó lĩnh vực có thể phát huy rất tốt vai trò của hợp tác xã lại nị bỏ phí.
Thứ ba, hầu hết các hợp tác xã hiện nay có quy mô nhỏ, vốn nghèo, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn nhiều yếu kém. Đối với hợp tác xã nông nghiệp tài sản cố định chủ yếu là các công trình thuỷ lợi nhưng đã xuống cấp rất nhiều, vốn lưu động thấp và tồn tại chủ yếu trên sổ sách giấy tờ, còn thực tế là tồn tại ở các khoản nợ. Với thực trạng đó, các hợp tác xã rất khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và hỗ trợ các hộ xã viên.
Thứ tư, các hợp tác xã thiếu cán bộ có năng lực quản lý và điều hành các hoạt động dịch vụ. Trong nền kinh tế thị trường, nguồn nhân lực cấp cao, nhất là những nhà quản lý, điều hành giỏi không mong muốn làm việc cho các hợp tác xã bởi vì chế độ đãi ngộ trong các hợp tác xã thấp. Các cán bộ quản lý cũ chưa được đào tạo lại cho phù hợp với yêu cầu phát triển mới của hợp tác xã, đã lúng túng trong điều hành, quản lý và phát triển hợp tác xã kiểu mới. Bên cạnh đó, các trường đào tạo cán bộ cho các hợp tác xã bị giới hạn về phạm vi, thiếu kinh phí hoạt động và đội ngũ giảng viên còn chưa đáp ứng được trong điều kiện mới. Mặt khác, trong bố trí, sắp xếp cán bộ hợp tác xã còn mang tính áp đặt từ chính quyền địa phương.
Thứ năm, hiện nay chưa có bất kỳ trường đại học nào của nước ta có bộ môn hoặc khoa về hợp tác xã, không có viện hoặc trung tâm nghiên cứu mạnh về hợp tác xã. Công tác nghiên cứu về hợp tác xã cho đến nay, chủ yếu phục vụ cho công việc cấp bách, như dự thảo luật, phân tán, thiếu chuyên sâu và chuyên trách, thiếu tính hệ thống, thiếu sự cập nhật, và nhất là tiếp cận được tốt với trình độ quốc tế.
Thứ sáu, nhiều hợp tác xã nông nghiệp chỉ tồn tại trên danh nghĩa, hình thức là chủ yếu. Phần lớn các hợp tác xã nông nghiệp khi chuyển đổi từ mô hình kiểu cũ sang mô hình kiểu mới chủ yếu chỉ dừng lại ở hình thức, còn nội dung thì chưa thay đổi được nhiều. Một số khác được thành lập theo sự chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương trong khi chưa có đầy đủ các điều kiện cần thiết nên chưa phát huy được vai trò của mình đối với sự phát triển kinh tế địa phương.
Thứ bảy, Nhận thức về hợp tác xã kiểu mới và Luật hợp tác xã của hầu hết cán bộ cơ sở và nông dân chưa thấu đáo và quán triệt đầy đủ, mặt khác trên thực tế việc chuyển đổi và thành lập mới hợp tác xã còn mang nặng tính hình thức và thiếu những mô hình hoạt động có hiệu quả.
Thứ tám, Về công tác quản lý và giúp đỡ của Nhà nước đối với kinh tế hợp tác xã.Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách (đặc biệt có Luật hợp tác xã) tạo hành lang pháp lý cho hợp tác xã chuyển đổi, xây dựng mới, thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh-dịch vụ. Nhưng trên thực tế, sự tác động của các chủ trương, chính sách đó còn chậm đến các cơ sở. Nhiều chính sách đã được ban hành nhưng đến nay các hợp tác xã nông nghiệp chưa được hưởng lợi từ những chính sách đó.
3.2. Giải pháp
Để thúc đẩy hợp tác xã phát triển bền vững và xứng tầm với vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân cần tiến hành tốt các mặt sau:
Thứ nhất, nghiên cứu, sửa đổi bổ sung Luật hợp tác xã năm 2003, nhất là về mô hình pháp lý của hợp tác xã như đã nêu ở phần thực trạng để hoàn thiện hệ thống pháp lý về hợp tác xã.
Thứ hai, rà soát, sửa đổi cơ chế, chính sách ưu đãi đối với hợp tác xã. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển hợp tác xã thông qua tạo khung khổ pháp luật, ban hành các chính sách hỗ trợ hợp tác xã, đảm bảo hợp tác xã thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế, chính trị và xã hội quan trọng của mình. Các chính sách hỗ trợ của Nhà nước không mang tính bao cấp, mà chỉ mang tính “bà đỡ”, tạo đà cho hợp tác xã phát triển. Nhà nước không can thiệp vào công việc của hợp tác xã. Từ đó tránh được hai khuynh hướng nặng về bao cấp ngân sách nhà nước đối với hợp tác xã hoặc buông lỏng và “bỏ rơi” hợp tác xã.
Thứ ba, tiếp tục triển khai công tác tuyên truyền về Luật hợp tác xã, cùng các văn bản hướng dẫn thi hành chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã. Giới thiệu và tổ chức tham quan các mô hợp tác xã kiểu mới ở các địa phương làm ăn có hiệu quả là nội dung có ý nghĩa và tác dụng rất lớn trong giai đoạn hiện nay vì qua một thời gian dài tồn tại mô hình hợp tác xã kiểu cũ đã gây ra không ít những mặc cảm, tâm lý thiếu tin tưởng của đông đảo hộ xã viên, nhân dân.
Thứ tư, tiếp tục nghiên cứu xây dựng mô hình hợp tác xã kiểu mới trên cơ sở tổng kết các đơn vị làm tốt để tạo động lực phát triển, tăng sức hấp dẫn của kinh tế tập thể. Đa dạng hoá hình thức sở hữu trong kinh tế tập thể (có sở hữu của pháp nhân, tập thể, thể nhân). Phát triển các loại hình doanh nghiệp trong hợp tác xã và các hình thức liên hiệp hợp tác xã.
Thứ năm, nâng cao năng lực quản lý và trình độ chuyên môn cho cán bộ cơ sở và hợp tác xã. Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hợp tác xã, như là một giải pháp quan trọng nâng cao nguồn lực lâu dài cho hợp tác xã, tăng cường hoạt động kinh doanh có hiệu quả và mở rộng quan hệ liên doanh, liên kết, hợp tác với các thành phần kinh tế khác.
Thứ sáu, khuyến khích huy động cổ phần và nguồn vốn của xã viên để không ngừng tăng thêm vốn đầu tư phát triển hợp tác xã; tăng tài sản và quỹ không chia. Giải thể hoặc chuyển các hợp tác xã không đủ đoàn kết theo quy định của Luật hợp tác xã sang các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh phù hợp với quy định của quy luật.
Thứ bảy, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Nhà nước ban hành các chính sách trợ giúp kinh tế tập thể trong quá trình xây dựng và phát triển, thông qua việc giúp đỡ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển, giải quyết nợ tồn đọng trước đây, khuyến khích việc tích luỹ và sử dụng có hiệu quả vốn tập thể trong hợp tác xã. Phát huy quá trình của Liên minh hợp tác xã Việt Nam, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia kinh tế tập thể, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, bảo đảm công tác kiểm tra, kiểm soát của các thành viên, ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Phát triển kinh tế tập thể theo phương châm tích cực nhưng vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả thiết thực, vì sự phát triển sản xuất, tránh duy ý chí, nóng vội, gò ép, áp đặt; đồng thời không buông lỏng lãnh đạo để mặc cho tình hình phát triển tự phát chậm nắm bắt và đáp ứng nhu cầu về phát triển kinh tế hợp tác của nhân dân.
Có như vậy, thì mô hình hợp tác xã ngày càng trở nên lang rộng trong nhân dân và tạo điều kiện phát triển vững chắc, góp phần đóng góp hiệu quả vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
KẾT LUẬN
Nước ta đã có một thời kỳ áp dụng mô hình hợp tác xã kiểu cũ trong điều kiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp. Tiếp đó, khu vực hợp tác xã trì trệ, suy thoái kéo dài. Mô hình hợp tác xã hoạt động theo Luật hợp tác xã năm 1996 và Luật hợp tác xã năm 2003 cũng chưa thật sự thoát khỏi tư duy cũ, còn lẫn lộn với mô hình hoạt động của doanh nghiệp. Hệ quả là, bản thân hợp tác xã không thực sự phát huy được lợi thế của mình trong phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời nền kinh tế của đất nước mất đi một nguồn tăng trưởng và thúc đẩy hiệu quả.
Trãi qua một thời gian dài phát triển, tuy nhiên về nhận thức bản chất và mô hình hợp tác xã vẫn chưa thật sự thống nhất trong xã hội ta. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến kết quả cuối cùng là hợp tác xã chưa thể phát triển hiệu quả, nhân dân chưa thật sự hưởng ứng, mặc dù đã có những nổ lực của Đảng và Nhà nước trong việc ban hành khung khổ pháp lý và các chính sách hỗ trợ hợp tác xã. Vì vậy, để hợp tác xã phát huy hiệu quả, trước hết phải chấn chỉnh lại trong nhận thức về bản chất và mô hình hợp tác xã thì mới tạo được khuôn khổ pháp lý, chính sách phù hợp với hợp tác xã, tạo động lực cho xã viên, làm rõ lợi ích và lợi thế của hợp tác xã, từ đó nhân dân, cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp tự giác thành lập hợp tác xã, tức tạo động lực thật sự từ bên trong, từ người dân.
Vậy để phát triển hợp tác xã đòi hỏi sự đổi mới lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với hợp tác xã. Với ý nghĩa quan trọng lâu dài của hợp tác xã cần đưa phát triển hợp tác xã là một trong tâm công tác lý luận và chỉ đạo của từng Cấp ủy Đảng. Hợp tác xã không chỉ có vai trò kinh tế mà còn có vai trò về chính trị, xã hội và văn hóa, góp phần phát triển bền vững đất nước.
Chúng ta có niềm tin chắc chắn rằng, hợp tác xã trong thời gian tới sẽ phát huy tiềm năng thật sự của mình, góp phần xứng đáng và toàn diện về các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội trong phát triển đất nước trong bối cảnh cạnh tranh phát triển ngày càng gây gắt của thời đại toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới./.
[1] Điều 15 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001
[2] Liên minh hợp tác xã Việt Nam, Một số vấn đề cơ bản về hợp tác xã, NXB Lao động – xã hội Hà Nội, 2004
[3] Liên minh hợp tác xã Việt Nam, Một số vấn đề cơ bản về hợp tác xã, NXB Lao động – xã hội Hà Nội, 2004
[4] Liên minh hợp tác xã Việt Nam, Một số vấn đề cơ bản về hợp tác xã, NXB Lao động – xã hội Hà Nội, 2004
[5] Điều 1 Luật hợp tác xã năm 2003
[6] Khoản 1 Điều 5 Luật hợp tác xã năm 2003
[7] Khoản 2 Điều 5 Luật hợp tác xã năm 2003
[8] Khoản 3 Điều 5 Luật hợp tác xã năm 2003
[9] Khoản 4 Điều 5 Luật hợp tác xã năm 2003
[10] Điều 6 Luật hợp tác xã năm 2003
[11] Điều 7 Luật hợp tác xã năm 2003
[12] Điều 1 Luật hợp tác xã năm 2003
[13] Khoản 1 Điều 10 Nghị định 117/2004/NĐ-CP ngày 12 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ
[14] Khoản 2 Điều 10 Nghị định 117/2004/NĐ-CP ngày 12 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ
[15] Khoản 3 Điều 10 Nghị định 117/2004/NĐ-CP ngày 12 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ
[16] Khoản 4 Điều 10 Nghị định 117/2004/NĐ-CP ngày 12 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ
[17] Điều 5 Nghị định 88/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ
[18] Điều 5 Nghị định 88/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ
[19] Điều 6 Nghị định 88/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ
[20] Điều 9 Nghị định 88/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ
[21] Điều 10 Nghị định 88/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ
[22] Điều 11 Nghị định 88/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ
[23] Điều 8 Nghị định 88/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ
[24] Điều 12 Luật hợp tác xã năm 2003
[25] Điều 13 Luật hợp tác xã năm 2003
[26] Khoản 1 Điều 15 Luật hợp tác xã năm 2003
[27] Khoản 2 Điều 14 Luật hợp tác xã năm 2003
[28] Khoản 2 Điều 5 Luật hợp tác xã năm 1996
[29] Khoản 1 Điều 19 Nghị định 88/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ
[30] Khoản 1 Điều 14 Luật hợp tác xã năm 2003
[31] Điều 3 Nghị định 87/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ
[32] Điều 6 Nghị định 88/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ
[33] Khoản 2 Điều 15 Luật hợp tác xã năm 2003
[34] Điều 20 Luật hợp tác xã năm 1996
[35] Điển b, khoản 2 Điều 15 Luật hợp tác xã năm 2003
[36] Điều 16 Luật hợp tác xã năm 2003
[37] Điều 21 Luật hợp tác xã năm 1996
[38] Điều 9 Nghị định 117/2004/NĐ-CP ngày 12 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ
[39] Liên minh hợp tác xã Việt Nam,
[40] Báo cáo số 214/BC-LM HTX của Liên minh hợp tác xã tỉnh Cà Mau, Báo cáo tổng kết tình hình phát triển kinh tế tập thể, hoạt động của Liên minh HTX tỉnh Cà Mau năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ năm 2010
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp tác xã.doc