LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sau Hội nghị lần thứ bốn Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa VIII, khái niệm “xã hội hóa giáo dục” chính thức được đưa vào đời sống. Kể từ đây, các thành phần kinh tế ngoài nhà nước đã chung tay chia sẻ với ngân sách nhà nước gánh nặng đầu tư cho hoạt động giáo dục. Nó khơi dậy và phát huy những nguồn lực dồi dào trong xã hội và thúc đẩy sự nghiệp giáo dục ngày càng phát triển. Để tạo ra cơ chế đầu tư thuận lợi, bình đẳng và ổn định, khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống pháp luật về hoạt động đầu tư cho giáo dục đã được hình thành và không ngừng hoàn thiện.
Luật Đầu tư 2005 ra đời là một bước tiến lớn trong sự phát triển của pháp luật đầu tư hướng vào việc tạo cơ sở pháp lí bình đẳng cho nhà đầu tư. Theo quy định của Luật đầu tư 2005, “phát triển sự nghiệp giáo dục” là hoạt đông đầu tư có điều kiện và được ưu đãi đầu tư. Luật Đầu tư 2005 đã chú trọng đến việc quy định khung pháp lí cho hoạt động đầu tư đặc thù này. Luật Giáo dục 2005 đã tạo cơ sở pháp lí quan trọng cho tổ chức và hoạt động giáo dục trong đó có hoạt động đầu tư cho giáo dục. Qua nhiều năm thực hiện, Luật Đầu tư và Luật Giáo dục đã góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục theo hướng “nhà nước và nhân dân cùng làm”, góp phần nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đã nảy sinh một số vấn đề chưa phù hợp với thực tế, chưa đáp ứng được nhu cầu hội nhập, vẫn có những nội dung chưa rõ ràng, gây khó khăn cho quá trình áp dụng pháp luật.
Hiện nay, chất lượng giáo dục là mối quan tâm hàng đầu của xã hội, cả xã hội đang cố gắng tìm mọi giải pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục. Trong đó, khuyến khích đầu tư cho giáo dục thiết nghĩ là giải pháp hàng đầu, cơ bản và quan trọng nhất. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đang là một vấn đề vô cùng thiết thực. Với mục tiêu có được một cái nhìn tổng quan về các quy định pháp luật, từ đó góp phần tìm ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục, người viết đã lựa chọn vấn đề: “Tìm hiểu pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục”để làm khóa luận tốt nghiệp.
MỤC LỤC
Chương 1. Một số vấn đề lí luận về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục và pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục. 4
1.1. Lí luận về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục. 4
1.1.1. Khái niệm hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục. 4
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục. 8
1.1.3. Các hình thức đầu tư trong lĩnh vực giáo dục. 14
1.2. Lí luận về pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục. 16
1.2.1. Khái niệm pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục. 16
1.2.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục 17
Chương 2. Pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục. 24
2.1. Chủ thể của hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục. 24
2.1.1. Nhà đầu tư. 24
2.1.2. Cơ quan quản lí nhà nước. 26
2.2. Điều kiện đối với hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục. 27
2.3. Các hình thức đầu tư. 37
2.4. Thủ tục đầu tư. 43
2.5. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư. 47
2.6. Ưu đãi, đảm bảo và khuyến khích đầu tư. 50
2.7. Quản lí nhà nước đối với hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục. 53
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục. 56
3.1. Tình hình thực hiện pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục. 56
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục. 59
3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục. 61
3.3.1. Giải pháp kĩ thuật chung: 61
3.3.2. Giải pháp cụ thể đối với pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục. 61
70 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3457 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tìm hiểu pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2005, tại Khoản 16 Điều 3 quy định: “Hợp đồng hợp tác kinh doanh (sau đây gọi tắt là hợp đồng BCC) là hình thức đầu tư được kí giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân”. Đây là hình thức đầu tư dễ tiến hành, các bên tham gia quan hệ đầu tư chỉ ràng buộc với nhau về quyền và nghĩa vụ theo thỏa thuận mà không có sự ràng buộc về mặt tổ chức nên nhà đầu tư có thể nhân danh tư cách pháp lí độc lập của mình để chủ động thực hiện quyền và nghĩa vụ, có sự linh hoạt, ít phụ thuộc vào đối tác khi có vấn đề liên quan đến dự án đầu tư. Chính vì vậy, hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC phù hợp với những dự án đầu tư ngắn, có thời gian triển khai nhanh. Tuy nhiên, hợp tác trong lĩnh vực giáo dục thường có thời gian dài, đối tượng đầu tư vô hình, lợi nhuận chưa nhìn thấy trước mắt nên thực tế còn rất ít nhà đầu tư lựa chọn hình thức này.
Cơ sở giáo dục 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo các hình thức quy định, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, được thành lập và hoạt động kể từ ngày được cấp giấy phép đầu tư. Theo Biểu cam kết các ngành dịch vụ khi Việt Nam gia nhập WTO thì cơ sở giáo dục đại học 100% vốn nước ngoài chính thức được phép thành lập hoạt động từ 01/01/2009. Đây là cơ hội để giáo dục đại học tiếp cận gần hơn với chất lượng quốc tế, tạo môi trường học tập tích cực nhưng cũng là thách thức với cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và các cơ sở giáo dục đại học trong nước khi cạnh tranh để thu hút người học.
Tên gọi của các cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài thể hiện hình thức đầu tư mà nhà đầu tư lựa chọn, được quy định như sau:
- Các cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo các loại hình Trường hoặc Trung tâm và được đặt tên theo nguyên tắc:
+) Trường hoặc trung tâm + bậc học, cấp học (trình độ đào tạo) + tên riêng.
+) Đối với những trung tâm thực hiện các hoạt động giáo dục ngắn hạn sẽ được đặt tên theo nguyên tắc sau: Trung tâm giáo dục + tên riêng hoặc Trung tâm giáo dục + Đào tạo + Tên riêng.
Ngoài tên giao dịch quốc tế bằng Tiếng Anh (hoặc bằng một ngôn ngữ nước ngoài khác) cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài phải có tên giao dục bằng tiếng Việt Nam.
Nếu cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài do một cơ sở giáo dục nước ngoài đầu tư mà lấy tên cơ sở chính tại nước sở tại thì tên cơ sở thành lập tại Việt Nam phải có từ “Việt Nam” ở cuối tên cơ sở đó.
Thủ tục đầu tư
Điểm mới của Luật Đầu tư 2005 và Nghị định 108/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư đó là phân cấp mạnh cho Ủy ban nhân dân tỉnh cấp giấy chứng nhận đầu tư đồng thời giảm bớt những dự án phải trình Thủ tướng Chính phủ. Đây là quy định chung cho mọi lĩnh vực không riêng hoạt động đầu tư phát triển giáo dục. Trong ngành giáo dục, thẩm quyền thành lập trường Đại học ngoài công lập do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Thẩm quyền thành lập nhà trường, nhà trẻ tư thục do Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định cho phép thành lập. Các quy định này nằm rải rác ở các văn bản, ở quy chế các cơ sở giáo dục và có sự khác biệt về thẩm quyền đối với từng cấp học, bậc học.
Theo quy định của Luật Đầu tư 2005 thì thủ tục đầu tư được quy định đơn giản và thuận tiện hơn cho các nhà đầu tư. Theo đó, dự án đầu tư được phân chia thành hai loại: đăng kí đầu tư và thẩm tra đầu tư. Đầu tư trong lĩnh vực giáo dục là lĩnh vực đầu tư có điều kiện nên các dự án đầu tư phải tiến hành thủ tục thẩm tra đầu tư theo quy định chung. Dự án thuộc diện thẩm tra áp dụng chung cho cả nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Nội dung thẩm tra bao gồm các nội dung: Sự phù hợp quy hoạch kết cấu hạ tầng, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng; Nhu cầu sử dụng đất; Tiến độ thực hiện dự án; Giải pháp về môi trường. Đối với dự án thuộc danh mục đầu tư có điều kiện thì nội dung thẩm tra chính là thẩm tra các điều kiện mà dự án phải đáp ứng.
Điều 49 Luật Đầu tư 2005 quy định về thủ tục thẩm tra chung đối với dự án thuộc danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện, trong đó có lĩnh vực giáo dục. Nội dung thẩm tra còn được quy định cụ thể hơn nữa tại Điều 46 và Điều 47 Nghị định 108/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư 2005. Nghị định 108 quy định về nội dung thẩm tra khả năng đáp ứng điều kiện quy định tại Luật đầu tư và pháp luật có liên quan, quy định trách nhiệm của các Bộ quản lí ngành trong từng lĩnh vực đầu tư cụ thể trong việc thẩm tra các điều kiện của dự án đầu tư.
Hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục là hoạt động đầu tư phải được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư. Thủ tục đầu tư không chỉ được quy định trong Luật đầu tư mà còn được quy định trong Luật giáo dục. Ngoài việc tuân thủ các quy định chung về thủ tục đầu tư trong Luật đầu tư, các nhà đầu tư phải căn cứ vào các văn bản pháp luật trong lĩnh vực giáo dục để thực hiện hoạt động đầu tư. Ví dụ, việc đầu tư xây dựng một trường đại học tư thục, nhà đầu tư cần căn cứ vào thủ tục quy định tại Quyết định 61/2009/QĐ-TTg về quy chế trường đại học tư thục. Theo đó, việc thành lập, đình chỉ hoạt động, sáp nhập, chia, tách, giải thể trường đại học tư thục thực hiện theo quy định tại Quyết định số 07/2009/QĐ-TTg ngày 15 tháng 01 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về điều kiện và thủ tục thành lập, đình chỉ hoạt động, sáp nhập, chia, tách, giải thể trường đại học. Tại Điều 3 Quyết định số 07/2009/QĐ-TTg thì thủ tục thành lập một trường đại học do Thủ tướng Chính phủ quyết định, cụ thể:
Bước tiến hành:
Bước 1: Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp nhận Dự án đầu tư thành lập trường, thẩm định các điều kiện và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt chủ trương đầu tư thành lập trường.
Bước 2: Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Nội vụ và các cơ quan liên quan tổ chức thẩm định dự án đầu tư thành lập trường và các điều kiện được quy định tại Quyết định này, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định thành lập trường.
Hồ sơ đề nghị phê duyệt chủ trương đầu tư thành lập trường đại học tư thục gồm:
Tờ trình đề nghị thành lập trường đại học trong đó cần nêu rõ: tên trường bằng tiếng Việt và tiếng Anh. Tên trường phải gắn với địa danh nơi đặt trụ sở chính của trường hoặc gắn với lĩnh vực đào tạo hoặc danh nhân văn hóa, lịch sử;
Văn bản của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chấp thuận về việc thành lập trường tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Văn bản chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần phải nêu rõ về sự cần thiết, tính phù hợp của việc thành lập trường so với quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương; dự kiến địa điểm, đất đai xây dựng trường và khả năng phối hợp, tạo điều kiện của địa phương đối với việc xây dựng và phát triển nhà trường;
Dự án đầu tư thành lập trường đại học đáp ứng yêu cầu chất lượng nội dung, hình thức. Nội dung Dự án cần làm rõ về sự cần thiết thành lập trường; tính phù hợp với Quy hoạch mạng lưới các trường đại học và quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương; mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện; ngành nghề, quy mô đào tạo, tuyển sinh trong từng giai đoạn; dự kiến cơ cấu bộ máy tổ chức, quản lý, điều hành; số lượng, trình độ giảng viên, cán bộ quản lý; đất đai, vốn điều lệ, dự thảo Quy chế tổ chức và hoạt động; quy hoạch và kế hoạch xây dựng, phát triển trường trong từng giai đoạn.
Trong dự án cần nêu rõ dự kiến tổng số vốn để thực hiện các kế hoạch và bảo đảm hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học trong 3 năm đầu thành lập và các năm tiếp theo; có thuyết minh rõ về tính khả thi và hợp pháp của các nguồn vốn đầu tư xây dựng và phát triển nhà trường trong từng giai đoạn;
- Văn bản pháp lý xác nhận quyền sử dụng đất hoặc văn bản của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về chủ trương giao đất để xây dựng trường, trong đó cần làm rõ về địa điểm, ranh giới của khu đất;
- Bản dự thảo quy hoạch tổng thể mặt bằng và thiết kế sơ bộ các công trình kiến trúc xây dựng trên khu đất xây dựng trường, bảo đảm phù hợp với quy mô đào tạo và tiêu chuẩn diện tích sử dụng phục vụ việc học tập, giảng dạy;
- Văn bản xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về khả năng tài chính và điều kiện cơ sở vật chất – kỹ thuật của người đầu tư thành lập trường
- Đối với việc thành lập các trường đại học tư thục, hồ sơ phải có các văn bản sau đây được lập theo mẫu thống nhất do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định:
- Danh sách các thành viên sáng lập;
- Biên bản cử đại diện đứng tên thành lập trường của các thành viên góp vốn;
- Bản cam kết góp vốn xây dựng trường của cá nhân, tổ chức và ý kiến đồng ý của người đại diện đứng tên thành lập trường;
- Danh sách các cổ đông cam kết góp vốn điều lệ;
- Danh sách các cổ đông cam kết góp vốn.
Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm tiếp nhận Dự án đầu tư thành lập trường, thẩm định, đối chiếu với các điều kiện quy định và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt chủ trương đầu tư thành lập trường.
Trường hợp cần thiết Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể tổ chức để chủ đầu tư Dự án báo cáo trực tiếp, làm rõ các nội dung của Dự án. Thời gian hoàn thành việc thẩm định không quá 30 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ Dự án đầu tư thành lập trường và Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm thông báo kết quả thẩm định hồ sơ cho chủ đầu tư Dự án xin thành lập trường. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xem xét và cấp Giấy chứng nhận đầu tư theo quy định cho các dự án đầu tư thành lập trường đại học tư thục trên địa bàn sau khi có văn bản phê duyệt chủ trương đầu tư thành lập trường của Thủ tướng Chính phủ. Giấy chứng nhận đầu tư của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần được gửi cho Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định thành lập Ban Quản lý dự án để triển khai thực hiện các dự án đầu tư thành lập trường đại học tư thục đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư và đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư; chuẩn bị các điều kiện cần thiết và hồ sơ trình đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, ra quyết định thành lập trường.
Hồ sơ đề nghị Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập trường và quy trình ra quyết định thành lập trường đại học tư thục được quy định rất chặt chẽ tại Điều 3 Quyết định số 07/2009/QĐ-TTg.
Trên đây là thủ tục thành lập một trường đại học có vốn đầu tư của tư nhân. Quy định khá cụ thể về thẩm quyền của cơ quan quản lí nhà nước, các bước tiến hành, nội dung các vấn đề cần thẩm định phù hợp với điều kiện thành lập nhà trường, phù hợp với nguyên tắc của pháp luật đầu tư.
Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư
Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư là nội dung cơ bản của quan hệ pháp luật về đầu tư. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư trong quan hệ đầu tư phát triển giáo dục được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật về đầu tư và pháp luật về giáo dục.
Luật Đầu tư 2005 quy định về mặt nguyên tắc những quyền và nghĩa vụ cơ bản của nhà đầu tư. Luật giáo dục và các văn bản dưới luật quy định chi tiết quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư khi tham gia vào những hình thức đầu tư cụ thể. Ngoài ra, gắn với từng dự án đầu tư, các quyền và nghĩa vụ tương ứng của nhà đầu tư còn được quy định trong các văn bản thuộc các lĩnh vực khác nhau như: Pháp luật về tổ chức doanh nghiệp, pháp luật về lao động, pháp luật về đất đai, tài nguyên, pháp luật về thuế, pháp luật về quản lí ngoại hối, pháp luật về bảo vệ môi trường…
Các quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư được quy định cụ thể như sau:
Thứ nhất, quyền của nhà đầu tư:
Ngoài những quyền cơ bản của nhà đầu tư theo quy định của Luật đầu tư 2005 (Chương 3, từ Điều 13 đến Điều 19) như quyền tự chủ kinh doanh; Quyền tiếp cận, sử dụng nguồn lực đầu tư; Quyền thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất… quyền của nhà đầu tư trong lĩnh vực giáo dục còn được quy định trong các văn bản thuộc lĩnh vực chuyên ngành. Ví dụ, quyền của nhà đầu tư thành lập trường mầm non tư thục được quy định tại Quyết định số 41/2008/QĐ-BGD&ĐT ban hành quy chế tổ chức và hoạt động trường mầm non tư thục. Như vậy, quyền của nhà đầu tư được quy định ở nhiều văn bản khác nhau, những quyền cơ bản đó là:
- Tổ chức thực hiện việc giáo dục, đào tạo người học theo chương trình giáo dục tương ứng cấp học, bậc học do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
- Huy động người học đi học đúng độ tuổi, tổ chức giáo dục hòa nhập cho đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn;
- Được tự chủ quản lí cán bộ giáo viên, nhân viên tại cơ sở đào tạo do mình thành lập;
- Có quyền huy động, quản lí, sử dụng các nguồn lực theo quy định của pháp luật, có quyền trang bị những cơ sở vật chất theo tiêu chuẩn để phục vụ đào tạo;
- Có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về quy hoạch, kế hoạch phát triển, tổ chức các hoạt động giáo dục, xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên; huy động và sử dụng các nguồn lực để thực hiện mục tiêu giáo dục đã cam kết, góp phần cùng nhà nước chăm lo sự nghiệp giáo dục, đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Đối với quyền huy động, tiếp cận và sử dụng nguồn lực đầu tư, nhà đầu tư có quyền bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng các nguồn vốn tín dụng, quỹ hỗ trợ; sử dụng đất đai và tài nguyên theo quy định của pháp luật. Nhà đầu tư được vay tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước với hình thức ưu đãi theo quy định của pháp luật. Nhà đầu tư khi đầu tư vào các hình thức luật định được vay vốn của các tổ chức kinh tế, cá nhân để đầu tư phát triển cơ sở vật chất theo lãi suất thỏa thuận. Nhà đầu tư còn được huy động cón dưới dạng đóng góp cổ phần, huy động các nguồn vốn hợp pháp khác qua hợp tác quốc tế, liên kết với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác, tổ chức kinh tế, tài chính, cá nhân trong và ngoài nước.
Quyền của nhà đầu tư trong những trường hợp cụ thể có những hạn chế nhất định, phụ thuộc vào điều kiện mà nhà đầu tư phải đáp ứng. Đối chiếu quy định này với biểu cam kết các ngành dịch vụ Việt Nam gia nhập WTO thì quyền tự do tuyển dụng lao động bị ràng buộc bởi điều kiện: với dịch vụ giáo dục bậc cao, giáo dục cho người lớn, các dịch vụ giáo dục khác bao gồm cả dạy ngoại ngữ, giáo viên nước ngoài làm việc tại các cơ sở đào tạo có vốn đầu tư nước ngoài phải có tối thiểu 5 năm kinh nghiệm giảng dạy và phải được Bộ giáo dục đào tạo của Việt Nam công nhận về trình độ chuyên môn.
Để thu hút đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư còn được pháp luật ghi nhận quyền mua ngoại tệ. Nhà đầu tư được mua ngoại tệ tại tổ chức tín dụng được quyền kinh doanh ngoại tệ để đáp ứng cho giao dịch vãng lai, giao dịch vốn và các giao dịch khác theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối. Với mục tiêu thu hút nguồn vốn tư nhân đầu tư cho phát triển giáo dục thì việc ghi nhận quyền này của nhà đầu tư là vô cùng quan trọng, tận dụng sự phong phú của nguồn vốn đầu tư và quá trình đầu tư sẽ được tiến hành thuận lợi
- Các quyền khác của nhà đầu tư: nhà đầu tư được hưởng các ưu đãi đầu tư theo quy định của Luật đầu tư, Luật giáo dục và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Được tiếp cận, sử dụng các dịch vụ công theo nguyên tắc không phân biệt đối xử. Tiếp cận các văn bản pháp luật, chính sách liên quan đến đầu tư; các dữ liệu của nền kinh tế quốc dân, của từng khu vực kinh tế và các thông tin kinh tế - xã hội khác có liên quan đến hoạt động đầu tư; góp ý kiến về pháp luật, chính sách liên quan đến đầu tư. Khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về đầu tư theo quy định của pháp luật.Thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, nghĩa vụ của nhà đầu tư:
Ngoài những nghĩa vụ chung được quy định trong Luật Đầu tư 2005 (Điều 20) thì các nhà đầu tư trong lĩnh vực giáo dục phải có những nghĩa vụ cơ bản như sau:
- Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật. Hầu hết các hình thức đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đều hoạt động trên nguyên tắc tự cân đối thu chi, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính. Nhà đầu tư phải quản lí chặt chẽ nguồn vốn, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn huy động được.
- Thực hiện quy định của pháp luật về kế toán, kiểm toán và thống kê. Nội dung thu chi phải được quản lí, theo dõi, phản ánh đầy đủ trên các sổ sách kế toán. Việc lập quỹ dự phòng, chia lãi cho các thành viên góp vốn phải được tiến hành đúng luật và quy chế quy định của hình thức đầu tư. Định kì phải có báo cáo tài chính gửi cơ quan quản lí ngành, cơ quan tài chính và cơ quan thuế cùng cấp theo chế độ kế toán hiện hành. Tiến hành công khai hoạt động tài chính.
- Thực hiện kiểm định chất lượng đào tạo và giáo dục theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
Ưu đãi, đảm bảo và khuyến khích đầu tư.
* Ưu đãi đầu tư:
Khoản 6 Điều 27 Luật Đầu tư 2005 quy định “phát triển sự nghiệp giáo dục” là lĩnh vực ưu đãi đầu tư. Điều 13 Luật Giáo dục cũng quy định “Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục”, chủ trương ưu đãi đối với hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục còn được thể hiện tại Điều 103 quy định về ưu tiên đầu tư tài chính và đất đai để xây dựng trường học.
Ưu đãi đầu tư được sử dụng như một công cụ chính sách nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng vốn đầu tư vào những địa bàn và lĩnh vực nhất định mà Nhà nước muốn tập trung vốn vào đó vì mục tiêu phát triển chung. Muốn được ưu đãi, các nhà đầu tư cần phải đáp ứng những yêu cầu nhất định của Nhà nước, nghĩa là nhà đầu tư đó phải có các dự án đầu tư đáp ứng được những điều kiện cụ thể theo quy định của pháp luật. Luật đầu tư 2005 quy định, các nhà đầu tư có dự án đầu tư thuộc lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư theo quy định tại Điều 27, 28 của Luật này thì được hưởng ưu đãi theo quy định của luật đầu tư và quy định khác của pháp luật có liên quan. Các đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư được nêu ở Điều 32 Luật Đầu tư 2005 nhằm khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư nguồn lực vào các địa bàn khó khăn, các lĩnh vực quan trọng mà nhà nước muốn phát triển mạnh trong tương lai.
Một số chính sách ưu đãi đối với nhà đầu tư được quy định như sau:
- Ưu đãi về thuế:
Thực hiện đúng tinh thần xây dựng pháp luật hiện nay là các văn bản ban hành mới sẽ không quy định về thuế, không quy định các vấn đề cụ thể về thuế như thuế suất, thời hạn miễn giảm thuế… Luật đầu tư 2005 chỉ quy định rất ngắn gọn tại Điều 33, về nguyên tắc chung áp dụng biện pháp ưu đãi còn mức ưu đãi, thời hạn hưởng ưu đãi được thiết kế để người áp dụng luật đối chiếu sang các văn bản pháp luật về thuế đang có hiệu lực “Nhà đầu tư có dự án thuộc đối tượng quy định tại Điều 32 của Luật này được hưởng thuế suất ưu đãi, thời hạn hưởng thuế suất thuế ưu đãi, thời gian miễn, giảm thuế theo quy định của pháp luật về thuế”.
Như vậy, theo Luật đầu tư 2005, các quy định vể ưu đãi thuế hoàn toàn do pháp luật về thuế quy định, còn nhiệm vụ của Luật đầu tư chỉ là quy định về mặt nguyên tắc và quy định về điều kiện để nhà đầu tư có thể nhận được các khoản lợi từ thuế. Các văn bản pháp luật về thuế hiện nay quy định một số ưu đãi cho nhà đầu tư trong lĩnh vực giáo dục như sau:
+ Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, Nghị định 164/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã khẳng định việc áp dụng chung một mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 28%, không phân biệt doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hay doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước.
+ Việc mở trường dân lập, tư thục ở các bậc học: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, trung học chuyên nghiệp, đào tạo trình độ cao đẳng, đại học là những dự án đầu tư được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp (Điều 33 Nghị định 164/2003/NĐ-CP). Ban hành kèm Nghị định này là phụ lục gồm ba danh mục: danh mục ngành nghề, lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư; danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng ưu đãi đầu tư; danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăc được hưởng ưu đãi đầu tư. Đầu tư phát triển giáo dục đào tạo được quy định là lĩnh vực được ưu đãi đầu tư, mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi sẽ là 10%; 15%, 20% tùy từng địa bàn đầu tư đối chiếu với các danh mục banh hành kèm theo.
+ Dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực giáo dục và di chuyển cơ sở giáo dục theo quy hoạch, di chuyển đến địa bàn khuyến khích đầu tư được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp tối đa là bốn năm, kể từ khi có thu nhập chịu thuế, và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa là chín năm tiếp theo.
+ Nghị định 164/2003/NĐ-CP còn quy định ưu đãi về thuế đối với cơ sở kinh doanh mới thành lập từ dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư, cơ sở giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học có vốn đầu tư nước ngoài mới thành lập được áp dụng thuế suất ưu đãi là 10% trong 15 năm kể từ khi hoạt động kinh doanh, được miễn thuế trong 4 nămm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo. Trường hợp cần đặc biệt khuyến khích cao hơn, Bộ tài chính trình Thủ tướng Chính phủ quyết định áp dụng thuế suất ưu đãi 10% trong suốt thời gian thực hiện dự án.
Theo quy định khuyến khích và ưu đãi đầu tư trong Nghị định 06/2000/NĐ-CP về hợp tác đầu tư với nước ngoài lĩnh vực giáo dục, cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài còn được hưởng miễn thuế thu nhập trong thời gian 8 năm kể từ khi kinh doanh có lãi nếu đáp ứng một trong hai điều kiện: Đầu tư vào địa bàn khuyến khích đầu tư theo quy định của Chính phủ; Nhà đầu tư nước ngòai cam kết chuyển giao không bồi hoàn tài sản cố định cho nhà nước Việt Nam sau khi kết thúc hoạt động. Cũng theo Nghị định 06/2000/NĐ-CP, nhà đầu tư được hoàn 100% số thuế thu nhập đã nộp cho phần lợi nhuận tái đầu tư mở rộng, tái đầu tư chiều sâu vào cơ sở hiện có hoặc đầu tư mới theo các nội dung quy định tại Nghị định này.
Ưu đãi liên quan đến chính sách sử dụng đất:
Cũng như các quy định liên quan đến ưu đãi thuế, ưu đãi đất đai cũng được Luật Đầu tư 2005 đề cập đến một cách rất khái quát, trong đó các nguyên tắc về ưu đãi được quy định bằng cách dẫn chiếu tới các quy định của pháp luật về đất đai: “Nhà đầu tư trong lĩnh vực ưu đãi đầu tư, địa bàn ưu đãi đầu tư được miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật về thuế”. Luật Đầu tư 2005 cũng quy định rất rõ về khoảng thời gian mà nhà đầu tư được sử dụng đất tại Khoản 1 Điều 36: “Thời hạn sử dụng đất của dự án đầu tư không quá 50 năm; đối với dự án đầu tư có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn mà cần thời hạn dài hơn thì thời hạn giao đất, thuê đất không quá 70 năm. Khi hết thời hạn sử dụng đất, nếu nhà đầu tư chấp hành đúng pháp luật về đất đai và có nhu cầu tiếp tục sử dụng đất thì sẽ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét gia hạn sử dụng đất phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt”. Các ưu đãi về đất đai được quy định trong Luật đất đai 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Ngoài những ưu đãi cơ bản quan trọng trên thì nhà đầu tư còn được hưởng những ưu đãi về giảm thiểu các thủ tục hành chính phức tạp, ưu đãi về tỉ giá ngoại tệ, cân đối ngoại tệ, cho phép mua ngoại tệ từ ngân hàng, đảm bảo nhu cầu về ngoại tệ phục vụ quá trình đầu tư. Ngoài ra, Luật giáo dục 2005 còn quy định ưu đãi về thuế trong xuất bản sách giáo khoa, sản xuất thiết bị dạy học, đồ chơi, nhập khẩu sách báo, tài liệu, thiết bị dùng trong nhà trường…
Về thủ tục, dự án đầu tư trong lĩnh vực giáo dục là dự án phải qua thủ tục thẩm tra đầu tư, nếu đáp ứng được điều kiện ưu đãi thì cơ quan nhà nước quản lí đầu tư ghi ưu đãi đầu tư vào giấy chứng nhận đầu tư. Đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài đáp ứng điều kiện được hưởng ưu đãi đầu tư thì cơ quan quản lí đầu tư ghi ưu đãi đầu tư vào giấy chứng nhận đầu tư.
* Đảm bảo và khuyến khích đầu tư:
Tiếp tục kế thừa các biện pháp đảm bảo và khuyến khích đấu tư được quy định trong hệ thống pháp luật đầu tư trước kia, Luật đầu tư 2005 đã quy định thống nhất các biện pháp đảm bảo và khuyến khích đầu tư, thể hiện tính nhất quán trong việc thực hiện các cam kết của nhà nước Việt Nam với lợi ích của nhà đầu tư, được quy định phù hợp với những cam kết trong các điều ước quốc tế về khuyến khích và đảm bảo đầu tư.
Quản lí nhà nước đối với hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục
- Thứ nhất, nội dung quản lí nhà nước về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục (Điều 80 Luật Đầu tư 2005 và Điều 99 Luật Giáo dục 2005).
Theo quy định của pháp luật về đầu tư và pháp luật về giáo dục, nội dung quản lí nhà nước về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục như sau:
+ Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách đầu tư phát triển giáo dục;
+ Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục; ban hành điều lệ, tổ chức và hoạt động các cơ sở giáo dục do nhà đầu tư góp vốn thành lập;
+ Hướng dẫn, hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư và giải quyết những vướng mắc, yêu cầu của nhà đầu tư;
+ Cấp, thu hồi giấy chứng nhận đầu tư;
+ Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục;
+ Quản lí các vấn đề về chương trình đào tạo; chất lượng giáo dục; tiêu chuẩn giáo dục; thống kê, thông tin về tổ chức hoạt động của các cơ sở giáo dục; nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ; cấp văn bằng; hợp tác quốc tế; vinh danh…
+ Tổ chức đào tạo nguồn nhân lực liên quan đến hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục;
+ Tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư.
+ Hướng dẫn đánh giá hiệu quả đầu tư, kiểm tra, thanh tra và giám sát hoạt động đầu tư; giải quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng và xử lí vi phạm trong hoạt động đầu tư
Thứ hai, cơ quan quản lí nhà nước về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục (Điều 81 Luật đầu tư 2005, Điều 100 Luật Giáo dục):
+ Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục. Chính phủ trình Quốc hội trước khi quyết định những chủ trương lớn có ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ học tập của công dân trong phạm vi cả nước, những chủ trương về cải cách nội dung chương trình của một cấp học; hằng năm báo cáo Quốc hội về hoạt động giáo dục và việc thực hiện ngân sách giáo dục.
+ Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình;
+ Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lí nhà nước đối với hoạt động đầu tư;
+ Các bộ, cơ quan ngang bộ phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Kế hoạch và đầu tư thực hiện quản lý nhà nước về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục theo thẩm quyền.
+ Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục theo sự phân cấp của Chính phủ, đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục tại địa phương.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục
Tình hình thực hiện pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục
Thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục, thực hiện các quy định về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục, việc huy động nguồn lực cho giáo dục đã đạt được những kết quả bước đầu. Các lực lượng xã hội tham gia ngày càng tích cực và việc huy động trẻ đến trường, giám sát, đánh giá và hiến kế cho giáo dục, xây dựng cơ sở vật chất trường học, đầu tư mở trường, đóng góp kinh phí cho giáo dục dưới nhiều hình thức khác nhau. Kết quả thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, thực hiện pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục được đánh giá trên các mặt sau:
Nguồn vốn huy động từ sự đóng góp của các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội và đầu tư nước ngoài từng bước tăng lên. Trong năm 2007, số vốn này chiếm khoảng 25% tổng chi phí học tập của xã hội.
Theo “Thống kê giáo dục 2009” do Bộ giáo dục và Đào tạo phát hành, các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng phát triển. Năm học 2007-2008, cả nước có gần 6000 cơ sở giáo dục mầm non, 95 trường tiểu học, 33 trường trung học cơ sở, 651 trường trung học phổ thông, 308 cơ sở dạy nghề, 72 trường trung cấp chuyên nghiệp và 64 trường cao đẳng đại học là các cơ sở giáo dục ngoài công lập. Năm 2008-2009, cả nước có gần 6000 cơ sở giáo dục mầm non (tăng 57 cơ sở so với năm 2007-2008); 94 trường tiểu học, 34 trường trung học cơ sở; 457 trường trung học phổ thông; 83 trường trung cấp chuyên nghiệp; 29 trường cao đẳng và 45 trường đại học ngoài công lập.
Số học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng tăng. Năm 2007-2008, tỉ lệ học sinh sinh viên ngoài công lập là 15,6%, trong đó tỉ lệ học sinh phổ thông là 9%, học sinh trung cấp chuyên nghiệp là 18,2%; học nghề là 31,2%, sinh viên cao đẳng, đại học là 11,8%. Năm học 2008-2009, số học sinh tiểu học ngoài công lập là 40.402 h/s; số học sinh trung học cơ sở là 60.124 h/s; số học sinh trung học phổ thông là 627.217 h/s; số sinh viên cao đẳng à 66.837 s/v; số sinh viên đại học là 151.352 s/v. (số liệu theo Thông kê giáo dục 2009)
- Thực hiện các quy định của Luật Giáo dục 2005 về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục trong năm 2007, 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình Chính phủ kí hoặc kí theo thẩm quyền gần 40 văn bản gồm các hiệp định, thỏa thuận, chương trình hợp tác về giáo dục với các nước và các tổ chức quốc tế như: UNICEF, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Ănggola, Niu-di-lan, Lào, Bắc Ai-len, Mô-dăm-bích,Hung-ga-ry, Ôx-trây-li-a, Nhật Bản, Ru-ma-ni, Cộng hòa Séc, Cộng hòa Ru-an-da, Cộng hòa Áo, Hoa Kì, Hàn Quốc, Vê-nê-duê-la… Được sự đồng ý về nguyên tắc của Thủ tướng Chính phủ, Bộ giáo dục và đào tạo đã cho phép thực hiện 17 chương trình liên kết đào tạo giữa các cơ sở giáo dục Việt Nam và đối tác nước ngoài, thành lập một cơ sở giáo dục độc lập. Các hoạt động hợp tác thực hiện chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2008-2015 với định hướng chính như: Triển khai kế hoạch đào tạo 10.000 tiến sĩ ở nước ngoài với các nước đối tác như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Hàn Quốc, Úc, New Zealand, Áo, Hà Lan, Bắc Âu, Nga, Trung Quốc, Canada…
Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có những vướng mắc trong các quy định pháp luật giữa Luật giáo dục và Luật đầu tư nên việc ban hành các văn bản hướng dẫn quy định chi tiết hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục, cũng như thực hiện pháp luật còn chưa đạt được những yêu cầu đặt ra. Các quy định của Luật giáo dục về khuyến khích đầu tư phát triển giáo dục, khuyến khích hợp tác giáo dục với nước ngoài chậm được cụ thể hóa. Chính vì vậy, trong công tác quản lí, điều hành và xử lí các tình huống thực tiễn đã gặp không ít khó khăn như thiếu căn cứ pháp lí để quản lí các loại hình đầu tư cho giáo dục, việc quản lí du học, hợp tác đầu tư cho giáo dục còn nhiều sơ sài và chưa được quan tâm đúng mức, hợp tác quốc tế về chương trình và hoạt động giáo dục có yếu tố nước ngoài phụ thuộc thuần túy ở những quy định của Luật Đầu tư và khó cụ thể hóa trong ngành.
Những khó khăn, bất cập từ phía các quy định pháp luật như đang tồn tại như:
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu toàn diện, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu quản lý đầu tư trong lĩnh vực giáo dục bằng pháp luật.
Nhiều vấn đề bức xúc xung quanh hoạt động đầu tư còn chưa được điều chỉnh, nhiều khái niệm thực tế đã không còn sử dụng nữa nhưng vẫn tồn tại trong các văn bản cũ, đang còn hiệu lực nên rất khó áp dụng
Hệ thống pháp luật chưa có sự phát triển cân đối giữa các pháp luật về đầu tư và pháp luật về giáo dục. Còn nhiều phân biệt đối xử với nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Hình thức đầu tư còn hạn chế, giảm khả năng thu hút đầu tư.
Nhiều nội dung trong các nghị quyết của Đảng về đổi mới kinh tế - xã hội chậm được thể chế hóa. Nội dung của pháp luật trên một số lĩnh vực còn ẩn chứa tư duy bao cấp, chưa thực sự chuyển hẳn sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vẫn tồn tại cơ chế “xin – cho” trong việc thực hiện nhu cầu đầu tư thành lập các cơ sở giáo dục ngoài công lập.
Trong Luật tồn tại không ít quy định mang tính chất khung. Nhiều vấn đề cụ thể, thậm chí cả những vấn đề thuộc tầm chính sách hoặc liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của nhà đầu tư cũng dành cho văn bản dưới luật quy định chi tiết hoặc hướng dẫn thi hành. Dẫn đến tình trạng rải rác, manh mún, khó tra cứu và khó áp dụng.
Tiến độ xây dựng văn bản luật còn chậm so với đòi hỏi của cuộc sống. Các văn bản không theo kịp nhau, không theo kịp phát triển chung khi hòa nhập thị trường quốc tế. Có tình trạng vấn đề dễ, soạn thảo nhanh thì thông qua trước; vấn đề rất bức xúc nhưng khó thì để lại sau mà không có các giải pháp thúc đẩy, hỗ trợ tích cực cho việc soạn thảo. Việc lấy ý kiến, kiến nghị, góp ý lúc thì kéo dài, lúc thì gấp gáp nặng về hình thức.
Sở dĩ còn những yếu kém, bất cập nói trên là do nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến như: Chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ xuất phát điểm là một nền sản xuất nông nghiệp nhỏ, kém phát triển, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của các cuộc chiến tranh kéo dài, đồng thời duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập trung, bao cấp. Tư duy cũ còn ảnh hưởng rất nặng nề, chủ trương xã hội hóa giáo dục có từ lâu nhưng còn dè dặt khi huy động các nguồn lực đầu tư, còn phân biệt đầu tư trong nước và đầu tư có vốn nước ngoài, còn nặng tư tưởng bao cấp về giáo dục đào tạo và định kiến với “thương mại hóa”. Vì thế, nội dung của pháp luật chưa theo kịp, thậm chí còn lạc hậu hơn nhiều so với thực tiễn. Chương trình, kế hoạch xây dựng và hoàn thiện pháp luật hằng năm hoặc cả nhiệm kỳ chưa dựa trên những căn cứ khoa học và thực tiễn xác thực do chưa có một chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật chỉ đạo. Những yếu tố đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Quy trình xây dựng văn bản pháp luật tuy đã có một số tiến bộ nhưng nhìn chung, việc đổi mới còn chậm, nhất là giai đoạn chuẩn bị dự án cũng như hoạt động thẩm tra từ phía Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.
Để khắc phục những thiếu sót, bất cập của hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước, việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật cần tập trung theo những định hướng sau đây:
Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục
Một là, tập trung mọi nguồn lực, đề cao trách nhiệm của các ngành, các cấp, phấn đấu xây dựng hệ thống pháp luật đủ về số lượng và đạt chất lượng cao để tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đều được điều chỉnh bằng pháp luật, làm cho hệ thống pháp luật thực sự là phương tiện hiệu lực và hiệu quả trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội; phục vụ việc phát triển nền giáo dục; đồng thời phục vụ việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm tính thống nhất nội tại, rõ ràng về thứ bậc, chính xác, minh bạch và dễ hiểu, dễ thực hiện, có tính khả thi cao. Các văn bản Luật phải quy định chi tiết, điều chỉnh hợp lí và là hình thức chủ yếu trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để quy định các vấn đề cơ bản, quan trọng của đời sống xã hội, quyền, nghĩa vụ của công dân, mà không cần đợi nghị định, thông tư hướng dẫn, trừ một số nội dung chưa định hình thì trong luật quy định chung và giao Chính phủ hướng dẫn, sau một thời gian thực hiện phải kịp thời tổng kết, bổ sung quy định chi tiết ngay trong luật. Khắc phục cơ bản và tiến tới chấm dứt tình trạng mọi vấn để đều phải chờ văn bản hướng dẫn.
Ba là, cải cách cơ bản quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm vừa tăng về số lượng, vừa nâng cao chất lượng văn bản; phát huy dân chủ, huy động rộng rãi trí tuệ của các chuyên gia, các nhà quản lý, những người trực tiếp thi hành pháp luật. Ngôn ngữ pháp lý phải trong sáng, chính xác, thống nhất, dễ hiểu, dễ thực hiện. Thường xuyên rà soát, hệ thống hóa, pháp điển hóa văn bản quy phạm pháp luật.
Bốn là, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng tạo ra động lực thúc đẩy thu hút đầu tư, tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Hoàn thiện pháp luật góp phần cải thiện hệ thống giáo dục, đặt mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục lên hàng đầu.
Năm là, hoàn thiện hệ thống văn bản đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các cam kết công nhận giáo dục là một ngành dịch vụ và mở cửa thị trường giáo dục với khu vực và thế giới đòi hỏi hệ thống pháp luật trong nước phải hoàn thiện theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế và điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc gia nhập.
Dựa vào những định hướng nêu trên, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư trong thời gian tới cần tập trung vào những nội dung cơ bản sau:
Giải pháp hoàn thiện pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục
Giải pháp kĩ thuật chung:
- Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành pháp theo hướng xác định rõ nội dung, thẩm quyền quản lý vĩ mô của Chính phủ và thẩm quyền quản lý nhà nước của từng bộ, cơ quan ngang bộ. Chính phủ tập trung thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô về kinh tế - xã hội bằng pháp luật và hướng dẫn thực hiện pháp luật; xác lập cơ chế hữu hiệu để kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình quản lý. Các Bộ giáo dục và đào tạo, Bộ kế hoạch và đầu tư, các cơ quan ngang bộ tập trung vào việc xây dựng, ban hành thể chế, kế hoạch, thực hiện quản lý bằng pháp luật đối với lĩnh vực được phân công và chỉ đạo, kiểm tra việc chấp hành pháp luật trong lĩnh vực đó. Luật hóa việc phân cấp quản lý nhà nước giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương. Mọi hoạt động quản lý nhà nước đều chịu sự thanh tra, kiểm tra chặt chẽ, thường xuyên của Chính phủ.
- Tăng cường xã hội hóa giáo dục bằng pháp luật.
Giải pháp cụ thể đối với pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục.
- Sớm đưa Luật giáo dục sửa đổi bổ sung 2009 vào thực tế. Luật Giáo dục 2005 được quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 tạo cơ sở pháp lí quan trọng cho tổ chức hoạt động giáo dục. Trong quá trình thực hiện Luật giáo dục 2005 đã góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục, nâng cao trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực tuy nhiên trong quá trình triển khai đã nảy sinh một số điểm chưa thực sự phù hợp với tình hình thực tiễn, cần phải được sửa đổi bổ sung, tiếp tục hoàn thiện tạo điều kiện cho sự nghiệp giáo dục phát triển mạnh mẽ hơn. Thêm vào đó, bối cảnhViệt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào các quan hệ kinh tế thế giới khiến nhu cầu sửa đổi bổ sung Luật giáo dục ngày càng cấp thiết. Một nội dung quan trọng được ghi nhận ở Luật giáo dục 2009 là “Đầu tư cho giáo dục”. Luật giáo dục mới đã mở rộng quan điểm, coi “đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, đầu tư cho giáo dục là hoạt động đầu tư đặc thù, thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện và được ưu đãi đầu tư”. (Điều 13). Trong Tờ trình Quốc hội về dự án Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật giáo dục đã thuyết minh như sau: “Giáo dục là loại hình dịch vụ đặc biệt, được quy định trong Luật đầu tư, là lĩnh vực đầu tư có điều kiện và được ưu đãi đầu tư. Việc sửa đổi, bổ sung Điều 13 – Đầu tư cho giáo dục nhằm đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa các quy định của Luật giáo dục với Luật đầu tư, tạo cơ sở cho việc xây dựng các văn bản dưới luật theo hướng hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục thực hiện theo hệ thống pháp luật chuyên ngành, phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 5 Luật Đầu tư: “Hoạt động đầu tư đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của Luật đó”. Quy định về đầu tư cho giáo dục của Luật giáo dục được hoàn thiện sẽ là cơ sở để hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục.
- Dành cho đầu tư phát triển giáo dục nhiều ưu đãi hơn nữa. Ưu đãi là vấn đề nhà đầu tư nào cũng quan tâm. Dành cho họ những ưu đãi thích đáng sẽ thu hút được đáng kể nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực giáo dục.
Ưu đãi được hi vọng nhiều nhất là ưu đãi về đất đai. Ông Nguyễn Việt Hồng, Vụ trưởng Vụ Hành chính sự nghiệp (Bộ Tài chính) cho rằng: hiện nay nhiều tổ chức, cá nhân có nguyện vọng tham gia đầu tư thành lập mới các trường đại học gặp nhiều vướng mắc, như không có đất để triển khai hoặc khi được giao đất lại gặp nhiều khó khăn về giải phóng mặt bằng. Vì vậy cần có những quy định rõ ràng, thông thoáng hơn nữa cho nhà đầu tư được tiếp cận với chính sách ưu đãi về đất đai.
Ưu đãi về thuế cũng rất được quan tâm. Các quy định ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp còn nhiều bất cập, chưa công bằng và chưa khuyến khích các hoạt động xã hội hóa. Các cơ sở tư nhân hoạt động trong lĩnh vực xã hội hóa theo quy định của Luật Doanh nghiệp thì phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp là 28%; không được hưởng mức thuế 10% như quy định tại nghị định của Chính phủ. Chính vì vậy cần xây dựng và thực hiện chính sách ưu đãi về thuế đối với các trường ngoài công lập; các tổ chức, các trung tâm thuộc các trường đại học thực hiện liên kết đào tạo, các cơ sở đào tạo thuộc doanh nghiệp, các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế, các trường tự chủ 100% kinh phí hoạt động. Theo đề xuất của các nhà quản lí thì nên thực hiện chính sách miễn thuế thu nhập trong 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế; giảm 50% thuế thu nhập trong 5 năm tiếp theo với mức thuế là 10%. Chính sách thuế áp dụng chung, không phân biệt công lập và ngoài công lập. Theo ý kiến cá nhân em, khi mở rộng ưu đãi cho các nhà đầu tư, không nên phân biệt hình thức đầu tư, nguồn vốn đầu tư mà nên căn cứ vào “hiệu quả đầu tư”. Cho đến khi hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục mang lại những lợi ích cho nhà đầu tư, cho toàn xã hội thì đó sẽ là căn cứ hợp lí nhất để dành cho họ những ưu đãi và khuyến khích. Còn những ưu đãi ban đầu thì giải quyết được mục tiêu thu hút đầu tư chứ chưa chắc mang lại nhiều lợi ích nhất cho cả nhà đầu tư và cho sự phát triển chung của xã hội.
- Về chủ thể đầu tư, cần quy định cụ thể vể điều kiện của chủ thể được thực hiện hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục. Thêm vào đó là nguồn gốc của vốn đầu tư. Mặc dù không tránh được việc “rửa tiền” khi đầu tư vào giáo dục bởi vốn trên thị trường lưu thông khá tự do và chưa có điều kiện cụ thể về việc “thanh lọc” nguồn vốn đầu tư. Giải pháp là phải thành lập một ngân hàng theo hình thức tín dụng cho giáo dục, không nên để những chủ thể chỉ cần có tiền là có thể tham gia hoạt động đầu tư nhạy cảm này được. Cũng có chủ thể không có khả năng tài chính nhưng có trình độ, có năng lực chuyên môn và cao hơn cả là tâm huyết với sự nghiệp phát triển giáo dục. Những chủ thể này không thể tham gia hoạt động đầu tư vì hiện nay, quan niệm đầu tư trong mọi lĩnh vực là bỏ ra những nguồn lực vật chất. Thực trạng người có tiền thì cứ đầu tư nhưng không có tâm dẫn đến chạy theo lợi nhuận mà lơ là chất lượng giáo dục, ngược lại những người có “tâm” lại không thể góp cái vô hình đó vào hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục được. Chính vì vậy cần bổ sung thêm những hình thức đầu tư sao cho tận dụng được mọi nguồn lực trong xã hội để phát triển giáo dục đào tạo.
- Đặt ra những tiêu chuẩn để xếp hạng chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục ngoài công lập, vinh danh những cơ sở giáo dục chất lượng cao nhằm khuyến khích đầu tư vào chất lượng giáo dục. Mọi hoạt động đầu tư đều vì mục tiêu sinh lợi nhưng hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đặc thù ở chỗ nó là hoạt động mang lại cho xã hội những giá trị quý báu, sản phẩm của giáo dục chúng ta có thể thừa hưởng lâu dài và sản sinh những giá trị vật chất và tinh thần khác. Vì vậy cần kích thích chất lượng giáo dục, bằng chính sách cho nhà đầu tư nhận thấy tầm quan trọng của chất lượng giáo dục đào tạo. Khi một cơ sở đào tạo có chất lượng giáo dục được xã hội công nhận, được vinh danh xứng đáng thì sẽ là “thương hiệu” và ngày càng thu hút người học, càng mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư. Tâm lí thực dụng của con người là luôn tìm cho mình những dịch vụ tốt nhất, chấp nhận chi phí để hưởng thụ những sản phẩm có chất lượng cao. Người học cũng vậy, cũng tìm đến những môi trường giáo dục tốt. Vì thế cần có chính sách ưu đãi, khuyến khích thích hợp, cho phép cơ sở giáo dục có quyền “tự trị”, “tự chủ” và có những đánh giá xếp hạng xứng đáng để nhà đầu tư không chỉ chạy theo lợi nhuận trước mắt mà còn phải chăm lo cho chất lượng và uy tín của cơ sở giáo dục.
- Cần xây dựng một môi trường đầu tư bình đẳng, hạn chế tối đa sự phân biệt nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo môi trường bình đẳng cho cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập, pháp luật cần có những quy định có tầm nhìn xa và ổn định bởi hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục có thời hạn kéo dài, nếu chính sách không ổn định sẽ khiến cho nhà đầu tư không an tâm khi bỏ ra nguồn vốn lớn đầu tư cho giáo dục.
Giáo dục luôn là vấn đề trung tâm của đời sống xã hội vì nó quyết định tương lai của mỗi người và của cả xã hội. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để phục vụ sự nghiệp phát triển giáo dục là một nhiệm vụ rất quan trọng, hết sức cấp thiết nhưng cũng rất khó khăn, đòi hỏi chúng ta ngay từ bây giờ phải tập trung nguồn lực, công sức, trí tuệ để khẩn trương tổ chức triển khai thực hiện. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, bằng sự cố gắng, nỗ lực của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan, tổ chức hữu quan, với sự tham gia đóng góp tích cực, thường xuyên của các ngành, các cấp và của toàn dân, chúng ta có cơ sở để tin tưởng rằng Nhà nước ta sẽ có một hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh, bảo đảm tính đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, khả thi là cơ sở để chúng ta hoàn thành sự nghiệp phát triển giáo dục, góp phần công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, “sánh vai” với các cường quốc năm châu, với bạn bè khu vực và quốc tế.
KẾT LUẬN
Hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục là hoạt động đầu tư đặc thù nên cần có sự điều chỉnh hợp lí của các quy phạm pháp luật. Các quy phạm pháp luật phải được ban hành sao cho phù hợp với yêu cầu của thực tế, kích thích thúc đẩy sự tham gia của các nhà đầu tư, và mục tiêu cuối cùng là nâng cao chất lượng giáo dục.
Luật Giáo dục và Luật Đầu tư cùng điều chỉnh quan hệ này phải có sự kết hợp nhịp nhàng, không chồng chéo, tạo cơ sở pháp lí ổn định để hoạt động đầu tư ngày càng phát triển. Phải làm sao để vừa thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư lại vừa giữ được giá trị và sự trong sạch của môi trường giáo dục, hình thành một nền giáo dục nhiều màu sắc nhưng vẫn đảm bảo lợi ích người học, phát triển giáo dục đào tạo nước ta ngang tầm khu vực và quốc tế.
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô đặc biệt là các thầy cô trong tổ bộ môn Luật Thương mại đã trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn em suốt thời gian học tập tại trường Đại học Luật Hà Nội.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Bùi Ngọc Cường đã dành nhiều thời gian, tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp đỡ em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Nhân đây, em chân thành cảm ơn các cô trong khoa Pháp luật Kinh tế đã tạo nhiều điều kiện và giúp đỡ em hoàn thành tốt khóa học.
Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn các bạn sinh viên cùng học tập, nghiên cứu đã góp ý cho em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Mặc dù em đã cố gắng hoàn thành khóa luận tốt nghiệp bằng tất cả nhiệt tình và khả năng của mình tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của quý thầy cô.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thức VIII của Đảng,
Hiến pháp năm 1992 và Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
Luật Đầu tư 2005
Luật Giáo dục 2005
Luật Thương mại 2005
Luật Khuyến khích đầu tư trong nước – sửa đổi năm 1998 – đã hết hiệu lực)
Luật giáo dục số 11/1998/QH10 (đã hết hiệu lực).
Nghị định 06/2000/NĐ-CP ngày 06/3/2000 của Chính phủ về việc hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học.
Nghị định 164/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19 tháng 8 năm 1999 về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao.
Nghị định 108/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư
Điều lệ trường ĐH tư thục ban hành kèm quyết định 61/2009/QĐ-TTg.
Quyết định số 86/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế trường đại học dân lập.
Quyết định số 07/2009/QĐ-TTg ngày 15 tháng 01 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về điều kiện và thủ tục thành lập, đình chỉ hoạt động, sáp nhập, chia, tách, giải thể trường đại học.
Quyết định 07/2007 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Ban hành Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học.
Điều lệ Trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học (Ban hành kèm theo Quyết định số 07/2007/QĐ-BGDĐT ngày 02/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
Nghị quyết số 90/CP ngày 21 tháng 8 năm 1997 về phương hướng xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa
Nghị quyết 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh và nâng cao chất lượng xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao.
Quyết định của Bộ Giáo dục và đào tạo số 14/2008/QQD-BGD&ĐT ngày 07/4/2008 Ban hành điều lệ trường mầm non ;
Quyết định của Bộ Giáo dục và đào tạo số 41/2008/QĐ-BGD&ĐT ngày 25/7/2008 Ban hành quy chế tổ chức và hoạt động trường Mầm non tư thục.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục năm 2005 (Hồ sơ Dự án Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật giáo dục do Chính phủ trình quốc hội).
Biểu cam kết cụ thể về thương mại dịch vụ - giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các thành viên WTO (phụ lục của Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam).
Thông tư số 14/2005/TT-BGD&ĐT-BKH&ĐT ngày 14/4/2005 hướng dẫn một số điều của Nghị định 06/2000/NĐ-CP ngày 06/3/2000 của Chính phủ về việc hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học.
Giáo trình Luật Đầu tư – Trường Đại học Luật Hà Nội - NXB Công an nhân dân 2008.
Giáo trình kinh tế phát triển – Đại học Kinh tế quốc dân
Hồ sơ Dự án Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục 2005.
Thống kê giáo dục – Bộ Giáo dục và Đào tạo số 2009.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tìm hiểu pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục.doc