Trên đây là bài tiểu luận về: Thực trạng phá sản ở Việt Nam với kết cấu ba chương trình bày một số khái niệm về phá sản theo nhiều quan điểm và nhiều nước, thực tiễn phá sản ở các doanh nghiệp cũng như việc áp dụng pháp luật phá sản vào tình trạng thực tế của doanh nghiệp; qua đó nêu ra một số nhận xét khách quan và đưa ra giải pháp thông qua tham khảo một số tài liệu và hiểu biết dưới góc độ của một người học luật.
Qua đó nổi bật lên là tầm quan trọng của việc áp dụng cơ chế phá sản đối với doanh nghiệp trong các lĩnh vực như lao động, tài chính, con nợ, chủ nợ Tuy nhiên cũng có quan điểm cho rằng việc phá sản gây mất cân bằng cho nền kinh tế, thất nghiệp, loại bỏ doanh nghiệp nên có không ít tâm lý ngại áp dụng việc phá sản cho doanh nghiệp của mình. Nhưng nhìn chung đây là một cơ chế bảo vệ cả con nợ và chủ nợ và nền kinh tế nhìn từ góc độ lạc quan. Vì thế pháp luật phá sản rất cần cho mọi nền kinh tế nhất là đối với nước ta trong nền kinh tế thị trường hòa nhập với thế giới
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tìm hiểu thực trạng phá sản ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h thức khác thay vì đưa ra Tòa án để giải quyết theo thủ tục phá sản nhằm giúp tiết kiệm thoài gian, công sức, tiền bạc cho các đương sự và nhà nước.
1.1.3.Theo một số nước khác trên thế giới
1.1.3.1.Pháp luật về phá sản ở Pháp
Quy định của pháp luật hiện đại về phá sản của Pháp được đưa ra trong các luật năm 1955, năm 1967. Hiện tại, việc giải quyết phá sản ở Pháp được quy định tại Luật ngày 25-01-1985 (được sửa đổi theo Luật Phá sản ngày 20-10-1994). Một trong những đặc trưng của pháp luật phá sản hiện đại của Pháp là khuyến khích sự sống sót của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Pháp luật cũng phân biệt rõ các quyền yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản và sự phân biệt thứ tự ưu tiên các quyền của chủ nợ đối với người mắc nợ.
Pháp luật về phá sản của Pháp cũng quy định hai thủ tục: Thủ tục phục hồi và thủ tục phá sản.
Luật Phá sản năm 1985 quy định, theo những chứng cứ do người nộp đơn đưa ra, Toà án sẽ quyết định áp dụng thủ tục nào, nếu áp dụng thủ tục phục hồi thì Toà án sẽ chỉ định người giám sát doanh nghiệp. Người giám sát doanh nghiệp sẽ đánh giá khả năng của doanh nghiệp, nếu có khả năng phục hồi, người này sẽ đề nghị Toà án cho áp dụng thủ tục phục hồi. Người đề nghị sẽ xây dựng kế hoạch phục hồi. Trong trường hợp ngược lại, doanh nghiệp sẽ bị làm thủ tục phá sản. Người giám sát doanh nghiệp sẽ xây dựng và chuẩn bị kế hoạch bán doanh nghiệp.
Luật Phá sản sửa đổi năm 1994 quy định thủ tục phục hồi tư pháp. Thủ tục này cấp cho thẩm phán chỉ trong những trường hợp mà sự phục hồi rõ ràng là có thể, quyền ấn định một giai đoạn giám sát mà thời hạn của nó có thể dao động từ 6 tháng đến 20 tháng. Trong khoảng thời gian này, việc quản lý doanh nghiệp được đặt dưới sự giám sát của Toà án. Kết thúc giai đoạn giám sát, Toà án ra quyết định thanh lý công ty hoặc có thể yêu cầu người mắc nợ và các chủ nợ một kế hoạch phục hồi. Kế hoạch của người giám sát phải được Toà án thông qua và chấp thuận. Trong thời gian thực hiện kế hoạch giám sát, mọi khiếu nại (đòi nợ) đối với doanh nghiệp bị giám sát sẽ tạm ngừng. Toà án sẽ xem xét chấp thuận hoặc không chấp nhận kế hoạch do người được Toà án chỉ định đệ trình mà không cần phải có ý kiến của các chủ nợ.
Luật Phá sản sửa đổi năm 1994 đã có những quy định cụ thể hơn để tạo thêm khả năng có thể bỏ qua quá trình áp dụng thủ tục phục hồi, nếu doanh nghiệp không thể có khả năng phục hồi thì sẽ áp dụng thủ tục thanh toán ngay, còn trong trường hợp áp dụng thủ tục phục hồi thì cũng có những quy định chặt chẽ để hạn chế quá trình giám sát doanh nghiệp. Thực tế này cho thấy họ đã bỏ bớt những giai đoạn không cần thiết giúp nhanh chóng thực hiện được mục tiêu: hoặc là áp dụng thủ tục phục hồi, hoặc là nhanh chóng thanh lý được doanh nghiệp không còn khả năng tồn tại.
Luật Phá sản sửa đổi năm 1994 cũng thể hiện xu hướng thay đổi trong pháp luật phá sản của Pháp. Nếu như trước năm 1994, mục tiêu của pháp luật phá sản “hướng vào người mắc nợ” rất rõ nét với quan điểm rõ ràng là trong tình trạng thất nghiệp cao, khả năng về việc làm và sản xuất phải được đảm bảo bằng mọi biện pháp thì Luật Phá sản sửa đổi năm 1994 đã làm giảm nhẹ mục tiêu hướng vào người mắc nợ, tăng quyền hạn của các chủ nợ và nâng cao tính hiệu quả của quá trình tổ chức lại doanh nghiệp.
Khác với Luật Phá sản của Nhật Bản yêu cầu kế hoạch tổ chức lại doanh nghiệp phải được một tỷ lệ nhất định các chủ nợ ở mỗi nhóm chủ nợ thông qua, Luật Phá sản của Pháp cho phép Toà án quyết định chấp thuận hay từ chối kế hoạch do người được Toà án chỉ định đưa ra mà không cần các chủ nợ lớn phải thông qua. Người được Toà án chỉ định có trách nhiệm tư vấn cho các nhà quản lý doanh nghiệp, những người đại diện cho người lao động, các chủ nợ của doanh nghiệp và các cơ quan có liên quan khác và yêu cầu họ cho biết quan điểm của họ là nên để doanh nghiệp tiếp tục tồn tại hay là thanh toán nó. Nhưng quyết định cuối cùng lại do Toà án quyết định mà không cần sự đồng ý của các chủ nợ. Đây là đặc điểm riêng của Luật Phá sản của Pháp.
1.1.3.2.Pháp luật về phá sản ở Liên bang Nga
Theo quy định của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1992 của Liên bang Nga thì tình trạng phá sản của doanh nghiệp được hiểu là việc mất khả năng đáp ứng yêu cầu của chủ nợ về thanh toán hàng hóa (công việc, dịch vụ) kể cả việc mất khả năng bảo đảm các thanh toán phải nộp ngân sách và các quỹ ngoài ngân sách do nghĩa vụ của người mắc nợ vượt quá tài sản của mình hoặc do mất cân đối trong cán cân thanh toán của người mắc nợ.
Dấu hiệu bên trong về tình trạng phá sản của doanh nghiệp là sự ngừng việc thanh toán bình thường của mình, nếu doanh nghiệp không bảo đảm hoặc rõ ràng không có khả năng thực hiện các yêu cầu của chủ nợ trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày đến hạn thực hiện các yêu cầu đó. Doanh nghiệp bị coi là phá sản kể từ thời điểm Toà án trọng tài công nhận tình trạng phá sản hoặc từ thời điểm doanh nghiệp mắc nợ chính thức tuyên bố phá sản tự nguyện (Điều 1 Luật Phá sản doanh nghiệp của Cộng hòa Liên bang Nga năm 1992).
1.2.Vai trò
1.2.1. Vai trò của pháp luật phá sản nhìn từ góc độ lợi ích của chủ nợ.
Trong LPS của đa số các nước đều xác định chủ nợ là các pháp nhân hay thể nhân có các khoản nợ không được trả đúng hạn. Chủ nợ thường được phân thành ba loại: chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm.
Khi mới hình thành, LPS chủ yếu được áp dụng cho các thương gia nhằm bảo vệ lợi ích của các chủ nợ. Ví dụ: LPS đầu tiên của nước Anh đã quy định nhiều biện pháp rất nghiêm ngặt, kể cả bỏ tù con nợ. Đồng thời với quá trình dân chủ hóa các hoạt động kinh tế, nhất là xu thế mở rộng quyền tự do và bình đẳng trong kinh doanh, pháp luật về phá sản ngày càng có xu hướng nhân đạo hóa các biện pháp áp dụng đối với chủ DN bị phá sản, phát triển các quy định nhằm bảo vệ lợi ích của các con nợ. Tuy nhiên lợi ích của các chủ nợ vẫn là mục tiêu bảo vệ hàng đầu.
Các chủ nợ của DN là những người có quyền lợi bị ảnh hưởng nhiều nhất trong một vụ phá sản. Do đó, chủ nợ được pháp luật quy định các quyền để họ có thể tham gia bảo vệ lợi ích của mình. Pháp luật cho phép các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với DN, HTX (Khoản 1, Điều 13, LPS 2004). Chủ nợ có quyền khiếu nại về quyết định không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản DN, có quyền khiếu nại DN về danh sách chủ nợ do tổ quản lí tài sản lập, có quyền khiếu nại về quyết định tuyên bố phá sản DN. Đại diện chủ nợ là thành viên của tổ chức quản lí tài sản. Các chủ nợ có quyền tham gia hội nghị chủ nợ để xem xét, thông qua phương hướng hòa giải tổ chức lại hoạt động kinh doanh của DN hoặc thảo luận và kiến nghị với Thẩm phán về việc phân chia giá trị tài sản còn lại của DN nếu không có phương án hòa giải hoặc phương án hòa giải không được thông qua (chỉ những chủ nợ không có bảo đảm hoặc chủ nợ có bảo đảm một phần mới có quyền biểu quyết tại hội nghị chủ nợ) Luật Phá sản năm 2004 và văn bản hướng dẫn thi hành (NXB. Chính trị Quốc gia).
Ngoài ra, vai trò của LPS trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ nợ còn được thể hiện qua quy định tại Điều 31, LPS 2004 : kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, nghiêm cấm DN, HTX cất giấu, tẩu tán tài sản; thanh toán nợ không có bảo đảm; từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ; chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm bằng tài sản của DN.Bên cạnh đó, sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản DN, HTX phải được sự đồng ý bằng văn bản của Thẩm phán trước khi thực hiện những họat động sau: cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán, tặng cho, cho thuê tài sản; nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng; chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực; vay tiền; bán, chuyển đổi cổ phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản; thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của DN, HTX và trả lương cho người lao động trong DN, HTX. PGS.TS Dương Đăng Huệ, Pháp luật phá sản của Việt Nam (NXB Tư pháp).
Để bảo vệ tuyệt đối quyền lợi cho các chủ nợ, LPS cho phép chủ nợ không có bảo đảm còn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố các giao dịch của DN, HTX quy định tại khoản 1,Điều 43 của LPS 2004 vô hiệu. Khi các giao dịch này được tuyên bố vô hiệu thì những tài sản thu hồi được phải nhập vào khối tài sản của DN, HTX. Trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản nếu xét thấy việc đình chỉ thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực và đang được thực hiện hoặc chưa được thực hiện sẽ có lợi hơn cho DN, HTX thì chủ nợ cũng có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định đình chỉ thực hiện hợp đồng.
LPS đã tạo ra một thủ tục pháp lí đảm bảo sự bình đẳng quyền lợi giữa các chủ nợ, không cho phép chủ nợ nào được tự ý xé lẻ đi kiện riêng con nợ để đòi nợ, không một chủ nợ nào được con nợ ưu tiên trả nợ trong khi các chủ nợ khác chưa được trả (trừ chủ nợ có đảm bảo đặc biệt cho món nợ của mình, chủ nợ có tài sản cầm cố, thế chấp).
LPS 1993 hạn chế khả năng thu hồi vốn của các chủ nợ. Ví dụ như quy định về nghĩa vụ của chủ nợ phải chứng minh DN, HTX mất khả năng thanh toán vì thua lỗ trong hoạt động kinh doanh khi nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, quy định thời hạn hai năm thua lỗ hoặc khó khăn trong kinh doanh như là một yếu tố bắt buộc của khái niệm “lâm vào tình trạng phá sản”, quy định về trình tự phục hồi như là giai đoạn bắt buộc trong mọi trường hợp sau khi có quyết định mở thủ tục giải quyết tuyên bố phá sản LPS 2004 đã khắc phục những hạn chế đó, mở rộng khả năng đòi nợ của các chủ nợ khi đưa ra khái niệm phá sản đã đoạn tuyệt với nguyên nhân khó khăn, thua lỗ trong hoạt động kinh doanh và thời hạn thua lỗ. Đây là một bước tiến lớn của pháp luật phá sản nước ta, thể hiện sự can thiệp sớm của Nhà nước vào hiện tượng phá sản. Giáo trình Luật thương mại, tập 1 (NXB. Công an nhân dân, Hà Nội – 2009
1.2.2. Vai trò của pháp luật phá sản đối với con nợ
Hoạt động kinh doanh là một hoạt động chứa nhiều rủi ro. Do sự biến động của thị trường và các yếu tố khách quan khác nên tình trạng kinh doanh thua lỗ, không trả được nợ đến hạn đều có thể sảy ra bất cứ lúc nào với bất cứ nhà kinh doah nào. Mặt khác, một doanh nghiệp bị phá sản có thể kéo theo nhiều hậu quả xấu đối với xã hội, mà trước hết là đối với người lao động và chủ nợ. Chính vì vậy mà ngày nay, khi các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì vấn đề đầu tiên mà nhà nước quan tâm không phải là tuyên bố phá sản ngay và phân chia tài sản cho chủ nợ mà phải tìm cách giúp đỡ doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng phá sản. Điều đó lý giải tại sao, pháp luật của đa số các nước đều quy định nhiều hình thức phục hồi khác nhau để doanh nghiệp lựa chọn và áp dụng.
Không giống như ở nhiều quốc gia khác, thất bại trong kinh doanh ở Hoa Kỳ không bị coi là xấu. Trên thực tế, luật phá sản của Hoa Kỳ được xây dựng để sao cho những người thất bại trong kinh doanh lại được khuyến khích tiếp tục theo đuổi công việc kinh doanh của mình. Tác giả viết rằng “Nếu một doanh nhân ở Hoa Kỳ phá sản thì anh ta có thể tiếp tục sống mà không cảm thấy xấu hổ hay phải sống trong nghèo đói tột cùng”.Khả năng có thể bắt đầu lại công việc kinh doanh chính là động lực khiến cho một số người Mỹ sẵn sàng chấp nhận rủi ro trong kinh doanh, và đây là điều có lợi cho toàn bộ nền kinh tế”. Khóa luận tốt nghiệp “Những tiến bộ và hạn chế của Luật phá sản 2004” (Đôn Minh Tiến).
Nathalie Martin, Giáo sư Luật của Trường Đại học New Mexico, hiện đang công tác tại Viện Phá sản Hoa Kỳ với tư cách là học giả thường trú của chương trình Robert M. Zinman.
Hoa Kỳ chủ yếu dựa vào việc sử dụng các nguồn tín dụng của cả tư nhân lẫn doanh nghiệp để bơm vốn cho nền kinh tế. Hoa Kỳ cũng có luật phá sản rất khoan hồng nhằm bảo vệ các cá nhân và doanh nghiệp khi họ lâm vào tình trạng không trả được nợ. Chính vì vậy mà luật phá sản của Hoa Kỳ hỗ trợ cho chủ nghĩa tư bản và sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ thông qua việc khuyến khích doanh nhân chấp nhận rủi ro.
Đối với cá nhân chúng ta có hai loại phá sản chính:
Loại thứ nhất được quy định tại chương 7 cho phép cá nhân gặp rắc rối về tài chính có thể “thanh toán” –được xoá nợ- hầu hết các khoản nợ không có thế chấp. Loại phá sản này không giúp cho cá nhân giữ được tài sản của mình trước những khoản nợ có bảo đảm, tức là khi vay người vay phải thế chấp tài sản, chẳng hạn như đất đai, của mình.
Loại thứ hai được quy định tại chương 13 cho phép cá nhân gặp rắc rối về tài chính có thể trả dần từng phần khoản nợ trong một khoảng ân hạn từ ba đến năm năm. Đến cuối kỳ thanh toán, nếu người vay nợ đã dùng hết thu nhập của mình để trả nợ theo kế hoạch thì số nợ còn lại sẽ bị xóa. Loại này có thể dùng để thanh toán những khoản nợ có bảo đảm quá hạn mà không bị mất tài sản thế chấp.
Luật phá sản áp dụng cho doanh nghiệp hơi khác một chút. Một số doanh nghiệp có thể tiếp tục kinh doanh theo quy định tại chương 11 khi họ tái cơ cấu lại các khoản nợ. Vì vậy, khác với hầu hết các quy định về phá sản trên thế giới, luật pháp Hoa Kỳ cho phép một công ty phá sản được tiếp tục hoạt động dưới sự lãnh đạo của đội ngũ quản lý cũ khi công ty này cố gắng tái cơ cấu lại các khoản nợ. Nói cách khác là về mặt cơ bản thì không có sự chỉ định người giám sát công ty. Một số người cho rằng hệ thống này, hệ thống có tên là người vay nợ bị khống chế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm bởi nhiều công ty vẫn được tiếp tục kinh doanh và tài sản của các công ty được bảo vệ. Các doanh nghiệp cũng có thể thanh lý tài sản theo quy định tại chương 7 và sử dụng số tiền thu được để trả cho chủ nợ.
Nền kinh tế Hoa Kỳ rất mạnh mẽ và năng động. Nền kinh tế sẽ ngày càng vững mạnh hơn khi có nhiều hoạt động kinh tế. Cấu trúc luật pháp của Hoa Kỳ được tạo ra nhằm khuyến khích mọi người thành lập doanh nghiệp với hy vọng rằng họ sẽ thành công, thuê nhiều nhân công, nộp thuế và vì vậy mà họ sẽ thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế. Chúng ta nhận thấy rằng trong quá trình phát triển thì một số doanh nghiệp sẽ thất bại. Nhưng theo như văn hóa của chúng ta, những người sẵn sàng chấp nhận rủi ro đối với công việc và tiền bạc của mình (và cả tiền mình đi vay mượn) để có thể thành công thì đều được đánh giá cao.
Những ý tưởng này không có gì là mới. Xét về mặt xã hội, người Mỹ luôn khuyến khích hoạt động kinh tế thông qua việc sử dụng vốn ồ ạt. Ngay từ đầu thế kỷ 18, khi nền kinh tế Hoa Kỳ còn đang phải cạnh tranh với những nền kinh tế phát triển hơn rất nhiều ở châu Âu thì nó đã phát triển nhanh đến nỗi không ai có thể tưởng tượng nổi và đã nhanh chóng trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Việc sử dụng tín dụng ồ ạt trong thời kỳ sơ khai của nền kinh tế Hoa Kỳ là điều duy nhất có trên thế giới, với việc một số người bán chịu hàng hóa và nguyên vật liệu đầu vào hàng tháng thậm chí là hàng năm. Điều này cho phép các doanh nhân khởi nghiệp khi trong túi học không có nhiều tiền. Nguồn tín dụng dồi dào khiến cho các hoạt động kinh tế phát triển và từ đó chúng ta có một nền kinh tế hùng mạnh dựa trên tín dụng.
Việc vay nợ quá nhiều trong nền kinh tế cũng có những mặt trái của nó. Một số doanh nhiệp đã phá sản. Thậm chí như vậy thì nền kinh tế Hoa Kỳ cũng rất phù hợp với tinh thần doanh nhân của các nhà tư bản vì mục tiêu của nền kinh tế là khuyến khích mọi người chấp nhận rủi ro trong kinh doanh nhằm thúc đẩy nền kinh tế còn non trẻ. Yếu tố pháp lý lượng thứ cho việc không trả được nợ đã khuyến khích mọi người tiếp tục con đường kinh doanh của mình, cho dù là trước đó họ đã thất bại.
Sự tương đối khoan dung của luật phá sản Hoa Kỳ so với luật của Châu Âu lục địa đã khiến một số người kinh ngạc. Trong số những người này có cả triết gia Pháp tên là Alexis de Tocqueville, người đã chỉ trích sự “tha thứ kỳ lạ” đối với các công ty bị phá sản ở Mỹ vào đầu thế kỷ 19. Triết gia này cho rằng theo quan điểm như vậy thì “người Mỹ không chỉ khác những dân tộc ở châu Âu mà còn khác tất cả các dân tộc làm kinh doanh trong thời đại của chúng ta”.
Nếu một doanh nghiệp ở Hoa Kỳ phá sản thì cá nhân chịu trách nhiệm về doanh nghiệp vẫn có thể tiếp tục cuộc sống của mình mà không cảm thấy xấu hổ hoặc phải sống trong nghèo đói tột cùng. Đây quả là một lý thuyết rất hay.
Rất nhiều trong số các doanh nhân Hoa Kỳ thành đạt đã bị phá sản khi họ mới bắt đầu kinh doanh, trong đó bao gồm cả các ông trùm tư bản như John Henry Heizn, Henry Ford của công ty Ford và Phineas Barnum, người thành lập rạp xiếc ở Mỹ. Tất cả những người này đương nhiên đã trở nên rất giàu có và một phần là do họ đã có cơ hội thử kinh doanh, thất bại và sau đó lại có thể bắt đầu lại từ đầu.
Các doanh nghiệp nhỏ của Hoa Kỳ chính là động lực phát triển của nền kinh tế và sử dụng nhiều nhân công hơn các công ty đa quốc gia lớn. Hệ thống tín dụng và các đối tác tham gia hệ thống tín dụng, hệ thống luật phá sản rõ ràng đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và tinh thần kinh doanh của họ. Tuy chỉ có rất ít nguồn tín dụng sẵn có ở Hoa Kỳ không tuân thủ các chuẩn mực quốc tế với rất nhiều người Mỹ trung lưu có thể vay 50.000 đô-la hoặc hơn từ các khoản vay ngân hàng, thẻ tín dụng và các nguồn khác mà không phải thế chấp. Nhiều doanh nhân khởi nghiệp từ những nguồn vốn này.
Nhiều người nước ngoài thấy luật phá sản Hoa Kỳ rất kỳ quặc, một phần là bởi luật pháp Hoa Kỳ rất khác so với luật của các nước. Ở hầu hết các quốc gia thì xóa nợ không phải là một việc đơn giản và thường thì phá sản là một sự sỉ nhục. Ở nhiều nước châu Âu, bất cứ thất bại nào trong kinh doanh cũng bị coi là một điều xấu hổ, thậm chí kể cả khi bạn làm việc cho một doanh nghiệp và doanh nghiệp đó bị phá sản. Những ai từng làm cho một doanh nghiệp bị phá sản thậm chí gặp khó khăn khi đi tìm một công việc khác. Ở một số quốc gia như Nhật Bản chẳng hạn, nghiên cứu của tôi cho thấy rằng sự sỉ nhục vì bị phá sản lớn đến nỗi người ta có thể tự sát.
Tuy nhiên, một số quốc gia khác như Nhật Bản, Ý, Pháp, Anh và Đức hiện đang bắt đầu làm luật theo hướng dễ dãi hơn nhằm thúc đẩy giới doanh nhân và hỗ trợ cho nền kinh tế phát triển năng động hơn. Ở một số nước, các nhà lập pháp cho rằng hệ thống luật phá sản dễ dãi hơn sẽ giữ được tài sản và hỗ trợ cho các nền kinh tế chưa phát triển nhanh. Nước Nhật bị giảm phát là ví dụ về việc một quốc gia cố gắng dùng luật phá sản dễ dãi hơn để kích thích vay mượn và thúc đẩy hoạt động kinh tế. Do hầu hết các luật này đều mới nên chưa rõ là liệu những thay đổi này có giúp thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ hay không. Đôi khi những yếu tố văn hóa cũng khiến người ta không tận dụng được những cơ hội mà luật phá sản mới này đem lại.
Ở Hoa Kỳ thì chẳng có gì là xấu hổ khi chúng ta bị phá sản. Một số ông chủ cấp tiến thậm chí còn coi nhân viên từ những công ty bị phá sản là đáng quý hơn do họ đã có một bài học từ thất bại trước đó. Ngoài ra, nghiên cứu của tôi còn cho thấy rằng nhiều ông chủ Mỹ thành công đã từng thất bại trong những lần kinh doanh trước. Khả năng có thể khởi nghiệp lại chính là điều khiến cho người Mỹ sẵn sàng chấp nhận rủi ro trong kinh doanh và điều này đem lại lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế. Nguồn tín dụng dồi dào cũng rất hữu ích cho các doanh nhân mới bắt tay vào kinh doanh. https://www.google.com.vn/search?hl=vi&tbo=d&sclient=psy-
Ngoài khoản nợ mà người Mỹ dùng để bắt tay vào kinh doanh thì họ cũng vay tiền để mua các mặt hàng tiêu dùng như nhà cửa, xe hơi, đồ đạc, quần áo. Người Mỹ thường dùng thẻ tín dụng nhiều hơn so với người dân ở các nước khác. Xét tổng thể thì họ cũng mua nhiều hàng tiêu dùng hơn, thậm chí là nhiều hơn cả người dân sống ở những quốc gia giàu có như Nhật Bản và Canada. Duy trì mức tiêu thụ hàng tiêu dùng cao là điều có lợi cho nền kinh tế Hoa Kỳ, đặc biệt là khi nền kinh tế suy thoái.
Tuy nhiên, luật phá sản của Hoa Kỳ cũng không dễ dãi đối với các doanh nghiệp bán hàng trả góp cho những cá nhân mua hàng tiêu dùng với giá trị lớn. Như biểu đồ trong bài cho thấy, có mối tương quan chặt chẽ giữa nợ tiêu dùng và phá sản và phá sản thường do chi tiêu cho hàng tiêu dùng.
Hơn nữa, những người chi tiêu nhiều quá mức cho hàng tiêu dùng sẽ khó có cơ hội trả nợ. Đây là lý do cho sự thay đổi gần đây trong luật phá sản của Hoa Kỳ nhằm hạn chế chi tiêu cho hàng tiêu dùng.
Thúc đẩy hoạt động kinh tế ở Hoa Kỳ có thể được coi là một nhiệm vụ của mọi công dân. Chấp nhận rủi ro tín dụng để khởi nghiệp có thể đem lại những lợi nhuận tài chính khổng lồ. Nếu doanh nghiệp làm ăn tốt thì doanh nhân sẽ phát đạt. Nếu công việc kinh doanh thất bại thì doanh nhân sẽ có cơ hội làm lại. Vay mượn quá nhiều để chi cho tiêu dùng cũng có những rủi ro tương tự nhưng không đem lại khoản lợi nhuận nào.Tạp chí điên tử của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ
1.2.3.Vai trò của pháp luật phá sản đối với người lao động
Khi doanh nghiệp bị phá sản thì những người lao động trong doanh nghiệp sẽ phải chịu hậu quả trực tiếp, họ sẽ bị mất việc làm, mất nguồn thu nhập để đảm bảo đời sống. Sự bảo vệ của Luật Phá sản đối với người làm công thể hiện ở chỗ pháp luật cho phép người lao động được quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp hoặc phản đối yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, quyền được tham gia quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, quyền được ưu tiên thanh toán nợ lương trước các khoản nợ khác của doanh nghiệp, .
1.2.4.Vai trò của pháp luật phá sản đối với nền kinh tế
Phá sản bao giờ cũng kéo theo những hậu quả về kinh tế xã hội nhất định nhưng phá sản không phải là hiện tượng hoàn toàn tiêu cực. Phá sản là một giải pháp hữu hiệu trong việc cơ cấu lại nền kinh tế, là sự đào thải tự nhiên đối với doanh nghiệp làm ăn yếu kém, góp phần duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Vì vậy, Luật Phá sản là công cụ răn đe buộc các nhà kinh doanh luôn luôn phải năng động sáng tạo nhưng không được mạo hiểm và liều lĩnh, đồng thời, Luật Phá sản doanh nghiệp là cơ sở pháp lý để xóa bỏ doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh cho các nhà đầu tư.
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM
2.1.Giai đoạn từ năm 1993 đến 2004
Theo quy đinh tại Điều 2 Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 thì: “ Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoăc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”. Như vậy, theo quy định này thì tình trạng phá sản chỉ được coi là đã xuất hiện khi có đủ các dấu hiệu sau đây:
Thứ nhât, doanh nghiệp đã không thể thanh toán được các khoản nợ đến hạn của mình;
Thứ hai, nguyên nhân của việc không trả được nợ là do thua lỗ trong hoạt động kinh doanh chứ không phải là do những nguyên nào khác. Ví dụ, do con nợ đánh bạc, buôn ma túy hoặc do thực hiện các hành vi bất hợp pháp khác mà dẫn tới tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì Tòa án cũng không thụ lý hồ sơ yêu cầu mở thủ tục phá sản vì không thỏa mãn được dấu hiệu thứ 2 này.
Thứ ba, con nợ đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn không thể thoát khỏi tình trạng không trả được nợ. Theo dấu hiệu này thì Tòa án sẽ không thụ lý hồ sơ và không mở thủ tục phá sản nếu con nợ không chứng minh đươc rằng, mình đã sử dụng các biện pháp trong khả năng cho phép nhất là các biện pháp tài chính để tự cứu mình mà không đạt kết quả
Thứ tư, khoản 1 điều 3 Nghị định số 189 quy định thêm 1 dấu hiệu thứ 4 của tình trạng phá sản đó là việc con nợ bị thua lỗ liên tục trog thời gian ít nhất là 2 năm. Như vậy, Tòa án cũng thể ra quyết định mở thủ tục phá sản nếu việc thua lỗ của con nợ dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán chưa vượt quá thời hạn này
Tóm lại, đặc điểm thứ 2 của pháp luật phá sản Việt Nam là khái niệm tình trạng phá sản đã được quan niệm một cách rất phức tạp. Tính phức tạp của khái niệm này thể hiện ở chỗ , ngoài dấu hiệu quan trọng nhất là việc con nợ không thể thanh toán được các khaonr nợ đến hạn, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có bổ sung vào khái niệm này một số dấu hiệu quan trọng nữa như là nguyên nhân của việc thua lỗ , thời gian thua lỗ và việc con nợ phải tự áp dụng các biện pháp để tụ cứu mình trước khi bị ra Tòa mà không đạt kết quả. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng, ở Việt Nam, trong vòng 10 năm qua( 1993- 2004 ) số vụ phá sản được Tòa án thụ lý giải quyết còn rất thấp. Pháp luật phá sản của PGSTS Dương Đăng Huệ
2.2.Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
2.2.1.Sự sàng lọc tất yếu của chuyển đổi
Trong những năm qua, với điều kiện thuận lợi, Việt Nam đã chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng các DN khoảng 80.000 doanh nghiệp ra đời mỗi năm. Tuy nhiên, đi kèm với sự bùng nổ số lượng thì một điểm cốt tử của DN Việt Nam là quy mô và năng lực nhỏ yếu và chậm có sự cải thiện.
Với một năng lực nhỏ yếu và chậm cải thiện nhưng tỷ lệ DN tồn tại khá cao cho thấy, thời gian qua, các DN Việt Nam đã được hưởng nhiều thuận lợi để phát triển nhanh một cách dễ dàng. Với sự tồn tại quá nhiều DN nhỏ yếu và chậm phát triển cũng cho thấy sự canh tranh và đảo thải vẫn chưa quyết liệt. Tuy nhiên, khi môi trường gặp khó khăn, các điều kiện thuận lợi không còn thì tất yếu sự thử thách và đảo thải sẽ mạnh hơn.
Phá sản, có thể trong quan niệm chung vẫn còn là một chuyện nặng nề. Tuy nhiên, với quan niện mới, phá sản là hiện tượng kinh tế bình thường. Phá sản hiện nay không chỉ là việc chấm dứt hoạt động mà phá sản tạo cơ tái cấu trúc lại doanh nghiệp để trở lại hoạt động bình thường. Chính vì thế, nhiều luật phá sản trên thế giới đều xem tuyên bố phá sản chỉ là một biện pháp nhằm tái cơ cấu doanh.
Vậy nên, những cuộc khủng hoảng trên thế giới gần đây đều cho thấy, rất nhiều tập đoàn lớn đã tuyên bố phá sản nhưng đó là một biện pháp để đổi mới lại và cải tổ hoạt động sản xuất kinh doanh, cải tổ cơ chế để đáp ứng tôt hơn nhu cầu thị trường. Và dưới góc độ đó, phá sản là việc loại bỏ và đào thải những gì không còn là phù hợp.Việt Nam đang chuẩn bị thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế. Việc tái cơ cấu nền kinh tế sẽ bắt đầu từ thực thể cơ bản nhất là các DN. Và trong quá trình đó tất nhiên sẽ có sự cắt bỏ những bộ phận, tổ chức kém hiệu quá nhất. Sự thực thì trong chính quá trình đổi mới DN nhà nước, đã có những DN phải chấp nhận phá sản như một sự tất yếu, sự lựa chọn tốt nhất để tạo điều kiện cho DN khác phát triển.
Thậm chí, các chuyên gia cho rằng, giai đoạn vốn rẻ và vốn dễ đã qua, các DN cần phải có sự thích ứng cần thiết cho quá trình thay đổi này. Sự thích ứng đó bắt nguồn bằng chính sự cạnh tranh tự nhiên và đòi hỏi nội sinh trong mỗi DN, bản thân các DN không thể đáp ứng được sự thay đổi này thì tất yếu sẽ bị tụt lại và đào thải dần. Thậm chí, quá trình đó cần phải được đẩy nhanh để sự thay đổi đến nhanh hơn.
Tái cơ cấu được hiểu đơn giản nhất là quá trình chuyển đổi tư duy, mô hình và cách thức phát triển sao cho việc sử dụng các nguồn lực và tài ngyên một cách hiệu quả nhất, tạo ra tăng trưởng cao và bền vững nhất. Như thế, sự đào thải của những bộ phận yếu kém trên một cơ thể chính là sự thay đổi và điều chỉnh này sẽ góp phần giúp cho nguồn lực của xã hội được sử dụng một cách hiệu quả hơn.
Trên thực tế, mỗi doanh nghiệp sử dụng nguồn lực của mình một phần như vốn, tri thức, công nghệ, tài nguyên, con người. Một doanh nghiệp không hiệu quả thì rút lui để doanh nghiệp khác sử dụng hiệu quả hơn. Vì thế, việc rút lui khỏi thị trường hoặc không hoạt động khi hiệu quả kinh tế không cao và để nguồn lực được sử dụng một cách hiệu quả hơn là một quá trình "phá hủy sáng tạo" và cần thiết đối với nền kinh tế.
2.2.2. Những con số cụ thể
Theo bộ kế hoach và đầu tư đến tháng 9 năm nay, có đến 49000 doanh nghiệp đã phá sản, giải thể và ngừng hoạt động, ngừng nộp thuế. Trong đó phá sản, giải thể là 5800.Khoảng 11500 ngừng hoạt động 13500 ngừng nộp thuế. Như vậy bình quân mỗi quý có trên 12 000 doanh nghiệp phá sản giải thể, ngừng hoạt động, ngừng nộp thuế .
500 là con số doanh nghiệp (DN) đăng ký giải thể chỉ trong vòng 2 tháng đầu năm tại TP Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Nếu tính từ đầu năm 2011 đến nay, đã có 50.000 DN làm ăn thua lỗ, phá sản - một con số đáng lo ngại. Nhưng chưa hết, thực tế số doanh nghiệp đang trong tình trạng ngắc ngoải “chết lâm sàng” còn rất nhiều và dự báo con số này còn tiếp tục khốc liệt trong thời gian tới.
Doanh nghiệp phá sản tại hai đầu tàu kinh tế cả nước là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đã tăng đột biến. Điều này khiến cho các chuyên gia lo ngại về sự khó khăn kéo dài của nền kinh tế. Theo Phó giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội Nguyễn Văn Tứ, trong hai tháng qua Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội làm thủ tục giải thể cho 169 DN, gấp 4,3 lần cùng kỳ năm trước. “Thông thường sau Tết rất ít khi DN xin giải thể, các năm trước rất hiếm, nay số liệu lớn như thế cho thấy tình hình các DN đặc biệt khó khăn”, ông Tứ nói. Tại TP HCM, số DN xin giải thể tính đến tháng 2 là 327 đơn vị. Như vậy tính riêng Hà Nội và TP HCM đã có khoảng 500 DN đăng ký giải thể trong hai tháng qua. Nhưng con số có thể lớn gấp nhiều lần.
Nếu tính từ năm 2011 đến nay, thì con số DN giải thể lên tới 50.000. Đầu tiên là các DN nằm trong lĩnh vực xây dựng, khi hàng loạt dự án bị đắp chiếu, cắt giảm. Nó kéo theo các DN sản xuất vật liệu xây dựng (sắt, thép, xi măng) cũng bị đình trệ, rồi lan tỏa sang các lĩnh vực và mặt hàng khác. Do lạm phát tăng cao, từ đầu năm 2011, Chính phủ đã có chủ trương thắt chặt tín dụng. Hạn mức tín dụng cho phép trong năm 2011 tăng không quá 20%. Nhiều DN mặc dù đã được các ngân hàng chấp thuận, phê duyệt cho vay vốn và đã được giải ngân một phần, đang thực hiện dở dang phải dừng lại do ngân hàng đã chạm ngưỡng hạn mức dẫn đến dự án bị ngưng trệ, đình đốn... Với những DN này, khi không thể tiếp tục vay vốn, dự án dở dang sẽ nằm bất động. Trang thiết bị, máy móc cũng trở thành sắt vụn.
CHƯƠNG III: NHẬN XÉT VÀ GIẢI PHÁP
3.1.Nhận xét
Theo thống kê gần đây, trên 70% doanh nghiệp của chúng ta vẫn tồn tại hoạt động sau khi thành lập trong 19 năm kể từ khi Luật Doanh nghiệp ra đời. Trong khi đó, tại các nước khác, mỗi năm ước có khoảng 25% doanh nghiệp đã biến mất ngay trong năm đầu tiên thành lập còn ở Việt Nam là 30%. So sánh này cho thấy, tỷ lệ tồn tại của doanh nghiệp Việt Nam là cao, cao hơn cả ở các nước phát triển, thể hiện môi trường đầu tư kinh doanh của ta khá thuận lợi. Nói cách khác, đã có giai đoạn trước đây, việc thành lập sản sinh doanh nghiệp có phần dễ dàng, khả năng tồn tại cao.
Nhưng mặt khác, điều đó lại cho thấy sự cạnh tranh, sự sàng lọc, sự đào thải ở môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam tương đối thấp. Chính điều đó lý giải tại sao, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam vẫn thấp trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu. Chính sự cạnh tranh, sàn lọc và đào thải thấp đó là nguyên nhân số doanh nghiệp đang điêu đứng trước bờ vực của sự phá sản vẫn cố gắng cầm cự và trông chờ nguồn vốn rót vào để thoát khỏi tình trạng phá sản thay vì nộp đơn xin phá sản. Điều này bên cạnh những lợi ích đã phân tích ở phần trên nó còn là gánh nặng của nền kinh tế nước nhà.
Lý do mà cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương e ngại tuyên bố phá sản doanh nghiệp của mình thường vì lo ngại sự sụp đổ dây chuyền và thất nghiệp hàng loạt, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người lao động và ảnh hưởng tới sự ổn định xã hội. Bên cạnh đó, do bệnh thành tích, các chủ sở hữu lo ngại nếu doanh nghiệp của mình bị coi là phá sản thì danh dự, uy tín bị ảnh hưởng, việc quản lý, điều hành yếu kém bị phơi bày. Cách thức mà họ lựa chọn là không tuyên bố phá sản, tự mình tái cơ cấu bằng cách cấp vốn bổ sung, hoãn nợ hoặc xóa nợ, phân tách, sáp nhập, cho thuê, khoán Hàng loạt hành động đó thực chất chính là sự can thiệp hành chính vào việc giải quyết tình trạng “phá sản” của doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ.
3.1.1.Thiếu nhận thức
Khi nghe đề cập đến nguyên nhân tại sao các doanh nghiệp ít chọn phương án làm thủ tục phá sản nếu kinh doanh thất bại, một đại diện doanh nghiệp trong ngành gỗ và lâm sản phía Bắc trả lời như sau:
“Hiện nay tôi đang bận họp một chút. Có thể vui lòng tìm xem Nghị quyết mới của Chính phủ, anh mở ra tìm đọc, trong đó có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Tôi đang bận phát biểu hội nghị.”
Hoặc theo một doanh nghiệp kinh doanh thủy sản ở miền Tây Nam bộ:
“Xin lỗi là đang đi có việc riêng ở ngoài, tôi đang đi dự một đám tang. Ồn quá, tôi không có nghe được gì hết.”
Ngoài việc từ chối trả lời, các doanh nhân đều không muốn nêu danh tính và tên của doanh nghiệp. Nhìn chung, nhận thức về một doanh nghiệp phá sản vẫn còn nặng nề, phần lớn nghiêng về góc độ là một con nợ mất khả năng chi trả. Việc tiến hành thủ tục phá sản đối với các doanh nghiệp có vẻ là một lãnh vực nhiều cấm kỵ. Vậy lý do nào khiến các doanh nghiệp tỏ ra không hợp tác khi đề cập đến việc này. TS Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương
“Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng một trong những các nguyên nhân chính gồm có: Về phía Luật Phá sản cũng có những quy định không được sát thực tế lắm; Nguyên nhân thứ hai là sổ sách của các doanh nghiệp không được đầy đủ, không được hoàn chỉnh đúng theo quy định của pháp luật. Cho nên đến khi làm các thủ tục pháp lý, có doanh nghiệp bị kéo dài thời gian, có doanh nghiệp thì không làm được.”
Thực tế kinh doanh cho thấy, trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp ít hay nhiều đều mắc một số sai phạm về mặt pháp luật. Nếu đệ đơn phá sản, tòa sẽ thụ lý và xem xét tất cả các hồ sơ, chứng từ có liên quan. Xem ra, một vụ phá sản thuần túy dân sự có nhiều khả năng trở thành một vụ phá sản hình sự. Vì vậy, nhiều doanh nhân rất e ngại khi phải đệ đơn xin phá sản.
3.1.2.Luật phá sản còn phức tạp
Ngoài ra, Luật Phá sản của Việt Nam có hướng bảo vệ nhiều cho con nợ thay vì chủ nợ. Chính vì vậy trên quan điểm của các tổ chức tín dụng, để con nợ phá sản thì khả năng thu hồi lại nợ vay cũng không nhiều. Từ thực tế này, chính các tổ chức tín dụng cũng hạn chế sử dụng cơ chế phá sản cho các doanh nghiệp để thu hồi nợ. Về quy trình đăng ký phá sản của doanh nghiệp hiện nay, theo Luật sư Lê Văn Thư thuộc Công ty Luật Hà Sơn, Hà Nội cho biết:
“Giải thể thì đơn giản, còn thủ tục phá sản thì rất phức tạp. Có khi phải kéo dài đến 2 – 3 năm mới xong. Muốn tiến hành thực hiện thủ tục phá sản, công ty luật phải xem hồ sơ doanh nghiệp để giải quyết từng bước. Nợ bao nhiêu, các hợp đồng, sổ sách kế toán ra sao; số liệu thanh quyết toán dao động như thế nào, báo cáo tài chính
Theo quy định của pháp luật, vấn đề phá sản rất chi là khó. Chỉ có thể tham khảo và không thể thực hiện được, nếu như công ty luật không xem được tình hình nội bộ của doanh nghiệp.”
Đồng thời, những doanh nhân làm việc thất bại phải phá sản còn bị những luật định chế tài rất khắt khe. Theo pháp luật hiện hành, chủ doanh nghiệp phá sản và những người quản lý doanh nghiệp đó sẽ bị tòa quyết định không được quyền thành lập, và cấm đảm nhiệm các chức vụ quản lý doanh nghiệp từ 1 – 3 năm, kể từ ngày doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
“Giải thể thì đơn giản, còn thủ tục phá sản thì rất phức tạp. Có khi phải kéo dài đến 2 – 3 năm mới xong.” LS Lê Văn Thư
Để có thể thực hiện phá sản doanh nghiệp một cách lành mạnh, một số định chế ứng dụng trong quá trình xử lý doanh nghiệp phá sản cần phải xác lập. Về mức độ hoàn thiện các định chế này, TS Lê Đăng Doanh cho biết:
“Thị trường mua bán nợ hiện nay chưa phát triển. Còn vấn đề định giá tài sản thì cũng có các công ty tư vấn định giá. Nhưng quá trình định giá đó, do các doanh nghiệp từ trước đến nay là không có thực hiện việc định giá qua các công ty tư vấn. Cho nên đến khi gặp các công ty tư vấn định giá, thường các doanh nghiệp bị hụt hẫng.
Các doanh nghiệp cảm thấy giá trị tài sản bị giảm sút nhiều, cho nên họ không lấy làm hài lòng lắm. Từ đây dẫn đến việc không ít doanh nghiệp thường kéo rất dài. Quá trình thực hiện thủ tục phá sản ở Việt Nam đối với một doanh nghiệp có thể kéo dài hàng năm. Có doanh nghiệp kéo dài đến 2 – 3 năm. Số lượng doanh nghiệp có thể hoàn thành được thủ tục phá sản là tương đối ít.”
Thị trường mua bán nợ không phát triển khiến việc xử lý các khoản nợ (có thế chấp) khi doanh nghiệp phá sản trở nên rất khó khăn, đặc biệt là khi liên quan đến nhiều chủ nợ.
Nhận xét về tình trạng pháp luật đối với doanh nghiệp trong việc áp dụng thủ tục phá sản, và hướng giải quyết thuận tiện đối với các doanh nghiệp, Luật sư Lê Văn Thư cho biết như sau:
“Thực tế ở mình vẫn còn khó khăn trong vấn đề về cơ quan hành chính. Ví dụ như là các cơ quan, đôi khi đưa giấy tờ đầy đủ hoặc là “gì gì đấy đấy” thì họ vẫn còn vì lý do này, lý do khác; họ sẽ lại yêu cầu thế nọ thế kia.
Vấn đề phá sản ở Việt Nam thì rất ít khi xảy ra. Chỉ có các công ty lớn mới phá sản, không giống như ở nước ngoài. Còn ở Việt Nam, đối với công ty nhỏ thì làm giải thể.”
Hoạt động phá sản theo luật định là một công cụ sàng lọc doanh nhân, hạn chế những doanh nghiệp quá yếu kém. Vì các doanh nghiệp này tiếp tục chiếm dụng vốn, làm cho nợ xấu tăng lên. Nếu công cụ tuyển chọn này được hoàn thiện thì hoạt động kinh doanh tại Việt Nam sẽ có nhiều khởi sắc hơn. Theo TS Lê Đăng Doanh, vấn đề phá sản của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường cần được nhìn nhận như sau:
“Trong nền kinh tế thị trường, việc phá sản là một hiện tượng bình thường. Trong kinh tế học, người ta coi phá sản là một sự tàn phá sáng tạo. Tức là những doanh nghiệp nào có ông chủ kém, đã có đầu tư sai và không có khả năng kinh doanh nữa thì doanh nghiệp đó sẽ phải làm thủ tục phá sản; để cho có một ông chủ khác có năng lực hơn được thực hiện.
Hiện nay, quá trình sàng lọc này đã bắt đầu diễn ra ở Việt Nam. Tôi nghĩ rằng trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường thì không thể nào tránh khỏi những giai đoạn sàng lọc.”
Phá sản luôn là một giải pháp cần thiết trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, vì đây là cách tái phân bổ nguồn lực từ chỗ không còn hiệu quả sang chỗ có hiệu quả hơn. Trong thực tế, những doanh nghiệp mất khả năng chi trả nhưng không áp dụng được thủ tục phá sản sẽ làm tăng thêm rủi ro cho nền kinh tế vốn nhiều trì trệ hiện nay.
Vì thế, dù Luật Phá sản của Việt Nam đã được ban hành gần 20 năm nhưng tỉ lệ doanh nghiệp chủ động hoặc bị yêu cầu phá sản là rất ít, chưa phản ánh đúng thực trạng tài chính của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp dù đã lâm vào tình cảnh phải phá sản nhưng không chủ động tiến hành thủ tục phá sản mà thường cố gắng vay mượn để tiếp tục sống lay lắt, hoặc đối đế quá thì chọn giải pháp giải thể. Thay vì để các doanh nghiệp lựa chọn cách thức trên chúng ta nên có một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cũng như vai trò của Luật phá sản và việc phá sản của doanh nghiệp.
3.2.Giải pháp
3.2.1.Cần thay đổi cách nhìn về hiện tượng phá sản
Phá sản là hiện tượng kinh tế bình thường, khách quan, phát sinh khi các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài và rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Thực tế đã cho thấy việc tuyên bố phá sản khi doanh nghiệp mất khả năng trả nợ không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền lợi, giúp doanh nghiệp rút khỏi thương trường một cách có trật tự thông qua một thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt, là cơ chế bảo vệ con nợ và giảm gánh nặng đối với nền kinh tế cũng như lành mạnh hóa nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn Phá sản hiện nay không chỉ là việc chấm dứt hoạt động, thu hồi toàn bộ tài sản của doanh nghiệp và thanh toán cho các chủ nợ theo một thứ tự nhất định. Phá sản còn một khía cạnh đáng lưu ý là, tạo cơ hội cho doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thỏa thuận với các chủ nợ, tái cấu trúc lại doanh nghiệp và lên kế hoạch trả nợ hợp lý để trở lại hoạt động bình thường.
Luật Phá sản hiện nay không chỉ đặt mục tiêu bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ mà còn có mục tiêu bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Khi Luật Phá sản 2004 được ban hành, đã xuất hiện các quy định ghi nhận tuyên bố phá sản là thủ tục nhằm tạo cơ hội cho doanh nghiệp tự tái tổ chức, phục hồi kinh doanh. Theo đó, từ biện pháp huy động vốn mới, thay đổi mặt hàng kinh doanh, đổi mới công nghệ sản xuất cho đến tổ chức lại bộ máy quản lý, sáp nhập hoặc chia tách bộ phận sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản xuất đều được quy định rõ tại điều 68, Luật Phá sản 2004.
Tuy nhiên bên cạnh đó có không ít chủ nợ xem việc phá sản đơn giản là sự thất bại nặng nề trong kinh doanh, là chính thức rút khỏi kinh doanh với khoản nợ khổng lồ không bao giờ trả hết thì pháp luật phá sản rất khó khả thi. Tuyên bố phá sản chỉ là một trong vô số các biện pháp nhằm tái cơ cấu doanh nghiệp, bởi thế, không nên hiểu sai lệch để rồi né tránh. Chỉ khi nhận thức như vậy, chúng ta mới sử dụng thủ tục tuyên bố phá sản được quy định tại Luật Phá sản 2004 như một công cụ để cứu vãn doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.
3.2.2.Cần có một hệ thống tư pháp đủ mạnh
Để doanh nghiệp mạnh dạn tuyên bố phá sản khi xét thấy là cần thiết nhất thì luật pháp Việt Nam cũng cần được hoàn thiện và cải tiến cho phù hợp với thực tiễn.
- Thẩm phán đóng vai trò quan trọng trong việc xem xét yêu cầu tuyên bố phá sản của doanh nghiệp, chính vì thế rất cần một sự linh hoạt khi xử lý các vụ phá sản. Nếu quá cứng nhắc trong việc áp dụng một trình tự, thủ tục như luật định thì khó có thể đưa ra một phán quyết hợp lý..
- Một lý do không thể chối cãi khiến các doanh nghiệp ngại áp dụng thủ tục phá sản là do thủ tục và thời gian quá dài. Ngay cả tại Hồng Kông, một trong những vùng lãnh thổ có hệ thống luật pháp hoạt động hiệu quả nhất thế giới thì việc xử lý một vụ phá sản phức tạp cũng phải mất vài năm. Trong khi đó thì Việt Nam với hệ thống tư pháp chưa đủ mạnh như hiện tại thì sẽ kéo dài bao nhiêu năn trong khi hoạt động kinh doanh phải tính từng phút giây, từng cơ hội... Thế nên việc rút ngắn thời gian này một cách phù hợp hơn sẽ nâng cao tác dụng của việc phá sản. Để làm được việc này cần phải tiếp tục cải cách hành chính, bổ sung các hướng dẫn cần thiết cũng như cần sự vận hành hiệu quả của một thị trường thứ cấp cho việc thanh lý các tài sản của các DN bị kiệt quệ tài chính đến mức phải xử lý phá sản để tăng cường tính thực thi của Luật phá sản.
- Do đó, bên cạnh việc thay đổi cách nhìn về hiện tượng phá sản để không e ngại với việc tuyên bố phá sản, cần nâng cao trình độ chuyên môn để có một đội ngũ thẩm phán chuyên xử lý các vụ việc phá sản. Khi có niềm tin vào năng lực của tòa án, các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ sẽ sử dụng trình tự phá sản như một cách thức để phục hồi kinh doanh. Chừng nào cơ hội phục hồi kinh doanh thông qua thủ tục phá sản còn thấp, thì người ta còn e ngại việc tuyên bố phá sản.
- Bên cạnh sự rườm rà trong thủ tục, bản thân các chủ doanh nghiệp cũng không muốn phá sản, đặc biệt khi chuyện phá sản gắn với việc phân chia tài sản. Theo luật, khi phá sản, giá trị tài sản doanh nghiệp sẽ phải chia theo thứ tự ưu tiên như sau: lương và trợ cấp thôi việc cho nhân viên; thuế; chủ nợ; chủ doanh nghiệp và cổ đông; ngân sách nhà nước. Có nghĩa sau khi trả cho hết cho nhân viên và chủ nợ, số còn lại mới thuộc về túi chủ doanh nghiệp và cổ đông. Nếu như ở các nước như Mỹ, chủ doanh nghiệp thường sở hữu tỉ lệ cổ phần khá nhỏ thì các ông chủ doanh nghiệp Việt Nam lại nắm giữ lượng cổ phần rất lớn. Vì thế, trong trường hợp công ty phá sản họ sẽ chịu thiệt hại nặng nề hơn. Bên cạnh đó chủ của doanh nghiệp phá sản sẽ bị tước quyền thành lập cũng như làm quản lý doanh nghiệp khác trong 3 năm kể từ ngày tuyên bố phá sản. Theo lẽ đương nhiên không ai gánh thiệt về phần mình nên rất khó khăn để họ đưa đơn yêu cầu xét thủ tục phá sản cho doanh nghiệp của họ.
- Ngoài ra, tính minh bạch của sổ sách kế toán, số liệu tài chính cũng như các khoản nợ của các doanh nghiệp Việt Nam thường không rõ ràng khiến cho việc thi hành luật phá sản trở nên phức tạp, kéo dài, làm nản lòng các chủ nợ. Vì thế, chủ nợ ngại đưa vấn đề yêu cầu tuyên bố doanh nghiệp phá sản.
- Giới chuyên môn tỏ ra lo ngại khi việc phá sản của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đã vướng víu và bất cập như thế thì đối với các doanh nghiệp mà chủ sở hữu là nhà nước càng khó khăn hơn ngay từ khâu đầu tiên là quy trách nhiệm. Ai sẽ đứng ra xin phá sản doanh nghiệp khi đại diện chủ sở hữu là lãnh đạo của một địa phương, thậm chí ở cấp cao hơn?
- Doanh nhân chỉ sử dụng trình tự phá sản, khi niềm tin vào tòa án gia tăng. Chừng nào cơ hội đòi nợ đọng từ doanh nghiệp mắc nợ thông qua thủ tục phá sản còn thấp, thì trình tự phá sản chưa thể hấp dẫn chủ nợ. Trong bối cảnh pháp luật kế toán và kiểm toán mới bắt đầu được xây dựng, kỷ luật khai báo sổ sách trung thực của doanh nhân thấp, hệ thống đăng ký bất động sản sơ khai, các dòng tiền chưa tập trung qua hệ thống ngân hàng, sự hoán đổi nợ thành cổ phần trong doanh nghiệp mắc nợ chưa diễn ra thuận tiện... trình tự phá sản chưa thể nhanh chóng trở thành một công cụ hiệu quả bảo vệ lợi ích các chủ nợ. Phạm Duy Nghĩa- Tạp chí Tia Sáng
3.2.3.Hoàn thiện hơn pháp luật phá sản.
Ra đời đã gần 20 năm nhưng đến nay Luật Phá sản vẫn còn khá xa lạ với cộng đồng doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp lâm vào cảnh vỡ nợ vẫn không muốn chọn Luật Phá sản để giải quyết.
Theo quy định, khi nhận thấy doanh nghiệp (DN) của mình lâm vào tình trạng phá sản thì chủ DN phải có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Tuy nhiên, nếu phá sản theo luật, DN sẽ đối diện với rất nhiều thủ tục nhiêu khê và có thể gặp những bất lợi khác nên họ thích chọn phương án “mất tích” hơn.
PGS-TS Ngô Trí Long, nguyên phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học giá cả - Bộ Tài chính, đánh giá: Trong điều kiện kinh tế hiện nay, nếu luật công khai, minh bạch thì sẽ có hàng loạt DN phá sản. Tuy nhiên, do cơ chế không rõ ràng nên DN không chọn phá sản như là cứu cánh để có thể rút lui, tìm cơ hội khác.
Nếu ra tòa giải quyết phá sản, trước mắt DN sẽ bị thiệt thòi vì tài sản bị định giá thấp. Kế đến, trong bối cảnh cơ chế quản lý chưa rõ ràng, việc chế tài xử lý các vi phạm chưa nghiêm thì gần như 100% DN đều hoạt động theo chế độ 2 sổ sách, lách luật, né tránh nghĩa vụ thuế Nếu đưa đơn phá sản, tòa sẽ thụ lý và xem xét tất cả hồ sơ, chứng từ có liên quan và không loại trừ khả năng có thể bị truy cứu tránh nhiệm hình sự.
Tất cả các DN phá sản đều mất khả năng trả nợ nhưng Luật Phá sản lại quy định DN phải thanh toán hết các khoản nợ trước khi phá sản thay vì cho làm thủ tục phá sản và họp các chủ nợ lại với nhau để giải quyết. Với quy định phi lý này, DN dù muốn cũng không thể phá sản. Bản thân các chủ nợ cũng không muốn con nợ của mình phá sản bởi theo quy định hiện hành, khi DN phá sản, thứ tự trả nợ ưu tiên lần lượt là: phí phá sản; lương, trợ cấp thôi việc cho nhân viên, bảo hiểm; các khoản nợ không có bảo đảm cho chủ nợ; thuế, chủ nợ, chủ DN và cổ đông Theo trình tự này, nhiều khả năng chủ nợ/ngân hàng không thu hồi được đồng nào. Do đó, nếu để DN “chết”, ngân hàng sẽ “chết” theo vì nợ xấu, nợ khó đòi gia tăng nên ngân hàng sẵn sàng bơm thêm tiền để DN tồn tại và chờ cơ hội thu hồi nợ.
Một kẽ hở khác của luật vô tình tạo cơ hội cho DN “né” phá sản là chế tài xử lý chủ DN, người đại diện DN theo quy định còn quá nhẹ, không đủ sức răn đe.
Không chỉ gây vướng mắc cho DN, Luật Phá sản còn có nhiều quy định không rõ ràng, chính xác nên làm khó cơ quan tố tụng. Theo luật sư Lê Thành Kính, Văn phòng Luật sư Lê Nguyễn, điều 3 Luật Phá sản quy định “DN, HTX không thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi có chủ nợ yêu cầu thị bị coi là lâm vào phá sản”, thế nhưng lại không có tiêu chí cụ thể để xác định các trường hợp “rơi vào tình trạng phá sản”.
Chính quy định này gây ách tắc trong khâu xử lý, giải quyết bởi một DN không thanh toán được các khoản nợ đến hạn bị yêu cầu mở thủ tục phá sản, bị coi là lâm vào tình trạng phá sản lại đang là chủ nợ của một hoặc nhiều DN khác, làm sao DN đó có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản với các con nợ của mình? Luật cũng không quy định nợ quá hạn không thanh toán là bao nhiêu, tài sản âm bao nhiêu thì xếp vào diện lâm vào tình trạng phá sản.
Trước nhu cầu và đòi hỏi từ thực tế, Nhà nước đang xây dựng đề án sửa đổi, bổ sung Luật Phá sản. Các luật sư cho rằng phải sửa luật sao cho cơ quan Nhà nước, DN phá sản và chủ nợ nhận thức được phá sản là chuyện bình thường, tự nhiên trong nền kinh tế lành mạnh; các DN lâm vào cảnh phá sản coi đây là lối thoát, là phương thức tốt nhất để giải quyết nợ nần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của DN.
KẾT LUẬN
Trên đây là bài tiểu luận về: Thực trạng phá sản ở Việt Nam với kết cấu ba chương trình bày một số khái niệm về phá sản theo nhiều quan điểm và nhiều nước, thực tiễn phá sản ở các doanh nghiệp cũng như việc áp dụng pháp luật phá sản vào tình trạng thực tế của doanh nghiệp; qua đó nêu ra một số nhận xét khách quan và đưa ra giải pháp thông qua tham khảo một số tài liệu và hiểu biết dưới góc độ của một người học luật.
Qua đó nổi bật lên là tầm quan trọng của việc áp dụng cơ chế phá sản đối với doanh nghiệp trong các lĩnh vực như lao động, tài chính, con nợ, chủ nợ Tuy nhiên cũng có quan điểm cho rằng việc phá sản gây mất cân bằng cho nền kinh tế, thất nghiệp, loại bỏ doanh nghiệpnên có không ít tâm lý ngại áp dụng việc phá sản cho doanh nghiệp của mình. Nhưng nhìn chung đây là một cơ chế bảo vệ cả con nợ và chủ nợ và nền kinh tế nhìn từ góc độ lạc quan. Vì thế pháp luật phá sản rất cần cho mọi nền kinh tế nhất là đối với nước ta trong nền kinh tế thị trường hòa nhập với thế giới. Chính vì những điếu đó, qua việc nghiên cứu thực tiễn ở Việt Nam bài tiểu luận đã đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn pháp luật phá sản, hướng cho các doanh nghiệp một hướng đi đúng đắn khi lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế và lâm vào tình trạng phá sản. Bài tiểu luận sẽ mang lại một số kiến thức bổ ích cho các doanh nghiệp và mọi người nghiên cứu, học tập
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_pha_san_7356.doc