Tìm hiểu tình hình thực hiện chính sách đầu tư phát triển rừng đặc dụng giai đoạn 2011 – 2020

Cần phải thay đổi quan điểm về bảo tồn theo hướng mở nghĩa là bảo tồn bao gồm: Bảo vệ, sử dụng hợp lý và sử dụng biện pháp kỹ thuật phù hợp. Trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của Vườn quốc gia, khu dự trữ thiên nhiên, Khu bảo tồn loài và sinh cảnh cần phải thay đổi có thể vẫn cho phép khai thác, sử dụng một số loài không phải là đặc hữu, nguy cấp, quý hiếm và sử dụng biện pháp lâm sinh phù hợp cho sự phát triển của rừng.

pdf16 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2836 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu tình hình thực hiện chính sách đầu tư phát triển rừng đặc dụng giai đoạn 2011 – 2020, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang 1 / 16 Tiểu luận Tìm hiểu tình hình thực hiện chính sách đầu tư phát triển rừng đặc dụng giai đoạn 2011 – 2020 Trang 2 / 16 Phần mở đầu 1. Đặt vấn đề Như chúng ta đã biết rừng là lá phổi xanh của khí quyển,là hơi thở của sự sống ,là một nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, nó giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển và sinh tồn của loài người. Là nguồn tài nguyên đa dạng và phong phú, rừng điều hoà khí hậu, cân bằng hệ sinh thái, bảo vệ môi trường sống, rừng còn là nhà máy lọc khổng lồ. Ngoài giá trị về kinh tế, môi trường, rừng còn có ý nghĩa quan trọng về cảnh quan thiên nhiên, du lịch văn hoá, danh lam thắng cảnh, an ninh quốc phòng Nước ta nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa, Việt Nam là một trong 16 quốc gia có tính đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới.,quanh năm cây cối xanh tươi. Rừng tự nhiên cũng vậy, với sự đa dạng về chủng loại, phong phú về thành phần động thực vật, đã bao đời nay rừng cung cấp lâm, đặc sản, thuốc chữa bệnh cho con người, thế nhưng mấy thập niên gần đây dân số tăng nhanh, sức ép về diện tích đất canh tác ngày càng tăng đối với rừng. Mỗi năm có hàng triệu ha rừng bị tàn phá nghiêm trọng, nhiều loài động thực vật đã vĩnh viễn mất đi, nguồn Gen các loài động thực vật quý hiếm đang ngày càng cạn kiệt Rừng đặc dung là loại rừng được thành lập với mục đích chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng, nghiên cứu khoa học, bảo vệ di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh phục vụ nghỉ ngơi du lịch kết hợp với phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái. rừng đặc dụng bao gồm: Vườn quốc gia; Khu bảo tồn thiên nhiên gồm có khu dự trữ thiên nhiên và khu bảo tồn loài – sinh cảnh; Khu bảo vệ cảnh quan gồm khu rừng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh; Khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học. Hiện nay diện tích rừng nước ta đang bị suy giảm nghiêm trọng, kể do nhiều nguyên nhân:dân số tăng nhanh, nạn khai thác chặt phá rừng bừa bãi, tập quán của người dân Do vậy công tác quản lí và bảo vệ rừng hết sức quan trọng,rất nhiều khu rừng đặc dụng của Việt Nam đang phải “hy sinh” cho những dự án kinh tế.Hàng triệu ha rừng đặc dụng đang bị phá hủy hoặc đứng trước nguy cơ bị phá hủy,, tình trạng “phá rừng làm kinh tế” ồ ạt như hiện nay đang là một vấn đề hết sức nan giải,mặt khác nhìeu nơi sử dụng rừng đặc dụng chưa mang lại hiệu quả . Xuất phát từ thực tiễn đó,trong những năm gần đây chính phủ nước ta đã đề ra nhiều chính sách nhằm giải quyết các vấn đề trên. Để hiểu rõ hơn về các chính sách của chính phủ,tình hình và kết quả thực hiện các chính sách,nhóm em tiến hành nghiên cứu đề tài: Tim hiểu việc thực hiện chính sách:chính sách đầu tư phát triển rừng đặc dụng giai đoạn 2011 – 2020. Trang 3 / 16 Kết quả nghiên cứu của đề tài hi vọng sẽ giúp được mọi người có cái nhìn tổng quát hơn về tình hình va các chính sách cho rừng đặc dụng của nước ta. 2. Mục tiêu của chính sách a. Mục tiêu chung: Tăng tính chủ động của các Ban quản lý, gắn trách nhiệm của người sử dụng lợi ích với việc đầu tư phát triển và bảo vệ rừng, giảm biên chế Nhà nước, huy động các thành phần kinh tế đầu tư bảo vệ phát triển rừng và khuyến khích vai trò của cộng đồng. Tăng diện tích rừng và hiệu quả sử dụng rừng đặc dụng nhằm phát triển môi trường bền vững. b. Mục tiêu cụ thể Việc ban hành chính sách đầu tư, cơ chế phát triển rừng đặc dụng nhằm tăng hiệu quả đầu tư. Đảm bảo việc giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý các cấp đối với rừng đặc dụng, đồng thời tăng tính chủ động của Ban quản lý rừng đặc dụng trong hoạt động quản lý, kinh doanh các dịch vụ trong rừng đặc dụng nhằm gia tăng nguồn thu tại các khu rừng đặc dụng trên nguyên tắc bảo tồn kết hợp với phát triển. Bên cạnh đó, huy động được các thành phần kinh tế tham gia đầu tư bảo vệ, phát triển rừng đặc dụng. Hướng giảm dần biên chế nhà nước bảo vệ rừng đặc dụng, tăng dần sử dụng cộng đồng địa phương để bảo vệ rừng đặc dụng. Đồng thời, đầu tư phát triển rừng đặc dụng nhằm bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng, nguồn gen sinh vật rừng; nghiên cứu khoa học; bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh; phục vụ nghỉ ngơi, du lịch, kết hợp phòng hộ, góp phần bảo vệ môi trường. c. Phân loại: Vườn quốc gia Là vùng đất tự nhiên được thành lập để bảo vệ lâu dài một hay nhiều hệ sinh thái, đáp ứng yêu cầu sau:  Vùng đất tự nhiên bao gồm mẫu chuẩn của các hệ sinh thái cơ bản còn nguyên vẹn hoặc ít bị tác động của con người, các khu rừng có giá trị cao về văn hóa, du lịch.  Phải đủ rộng để chứa được một hay nhiều hệ sinh thái và không bị thay đổi bởi những tác động xấu của con người.  Tỷ lệ diện tích hệ sinh thái cần bảo tồn phải đạt từ 70% trở lên.  Điều kiện giao thông tương đối thuận lợi. Khu bảo tồn thiên nhiên Trang 4 / 16 Khu bảo tồn thiên nhiên còn gọi là khu dự trữ tự nhiên và khu bảo toàn loài sinh cảnh, là vùng đất tự nhiên được thành lập nhằm mục đích đảm bảo diễn thế tự nhiên và đáp ứng các yêu cầu sau:  Vùng đất tự nhiên có dự trữ tài nguyên thiên nhiên và có giá trị đa dạng sinh học cao.  Có giá trị cao về khoa học, giáo dục, du lịch.  Có các loài động thực vật đặc hữu hoặc là nơi cư trú, ẩn náu, kiếm ăn của các loài động vật hoang dã quý hiếm.  Đủ rộng để chứa được một hay nhiều hệ sinh thái, tỷ lệ cần bảo tồn trên 70%. Khu rừng văn hóa-lịch sử-môi trường Là khu vực gồm một hay nhiều cảnh quan có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu có giá trị văn hóa-lịch sử nhằm phục vụ các hoạt động văn hóa, du lịch hoặc để nghiên cứu, bao gồm:  Khu vực có các thắng cảnh trên đất liền, ven biển hay hải đảo.Khu vực có di tích lịch sử-văn hóa đã được xếp hạng. d. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Văn bản chính sách về quyết định số 24/2012/QDD-TTg của thủ tướng chính phủ:Về chính sách đầu tư phát triển rừng đặc dụng giai đoạn 2011-2020 Phạm vi nghiên cứu Về không gian: Bài tiểu luận nghiên cứu vè chính sách và tình hình thực hiện chính sách sách đầu tư phát triển rừng đặc dụng giai đoạn 2011 – 2020. Về thời gian: Số liệu phục vụ nghiên cứu được thu thập năm 2011, số liệu về diện tích ,kết quả thực hiện trong giai đoạn 2010-2012, các kiến nghị đưa ra có thể áp dụng từ năm 2011-2020. Trang 5 / 16 II.Nội Dung 1. Hệ thống các văn bản chính sách liên quan Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001; Căn cứ Luật ngân sách nhà nước năm 2002; Căn cứ Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004; Căn cứ Luật đầu tư năm 2005; Căn cứ Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03 tháng 3 năm 2006 của Chính phủ về thi hành Luật bảo vệ và phát triển rừng; Căn cứ Nghị định số 117/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 12 năm 2010 của Chính phủ về tổ chức và quản lý hệ thống rừng đặc dụng; Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về chính sách đầu tư phát triển rừng đặc dụng giai đoạn 2011 - 2020. 2. Nội dung chính của chính sách: A,Quy hoạch và dự án đầu tư phát triển rừng đặc dụng Quy hoạch phát triển rừng đặc dụng :Ban quản lý lập dự án đầu tư,phát triển rừng đặc dụng 9bao gồm cả phát triển khu vực sinh thái) trình cấp có thẩm quyền phê duyệt:thời hạn quy hoạch là 10 năm. Lập,phê duyệt dự án đầu tư:Ban quản lý dự án đầu tư,phát triển rừng đặc dụng phù hợp với quy hoạch được duyệt và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định về quản lý đầu tư hiện hành của nhà nước. B,Hỗ trợ phát triển cộng đồng vùng đệm các khu rừng đặc dụng Hỗ trợ 40 triệu đồng/thôn, bản/năm để đồng quản lý rừng đặc dụng Quyết định nêu rõ, ngoài kinh phí sự nghiệp thường xuyên theo quy định, Nhà nước cấp kinh phí quản lý bảo vệ rừng ổn định để Ban quản lý rừng đặc dụng chủ động tổ chức thuê, khoán, hợp đồng cộng đồng dân cư tại chỗ, mua sắm trang thiết bị để quản lý bảo vệ rừng; mức trung bình 100.000 đồng/ha/năm tính trên tổng diện tích được giao (mức cụ thể do cơ quan có thẩm quyền quyết định). Ngân sách nhà nước cũng hỗ trợ đầu tư cho cộng đồng dân cư thôn bản vùng đệm để đồng quản lý rừng đặc dụng; mức hỗ trợ mỗi thôn bản là 40 triệu đồng/thôn, bản/năm. Thí điểm đổi mới bộ phận kinh doanh du lịch sinh thái rừng đặc dụng Trang 6 / 16 Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển du lịch sinh thái trong rừng đặc dụng theo quy hoạch được duyệt. Bộ phận kinh doanh du lịch sinh thái hạch toán phụ thuộc hiện nay (trung tâm du lịch, ban du lịch...) của Ban quản lý rừng đặc dụng có doanh thu trên 3.000 triệu đồng/năm được chuyển đổi thành công ty cổ phần trong đó Ban quản lý rừng đặc dụng sở hữu cổ phần chi phối, tối thiểu 51% vốn điều lệ của công ty cổ phần. Lợi nhuận thu được từ các hoạt động đầu tư, kinh doanh đối với rừng đặc dụng sẽ được phân bổ 25% để thay thế vốn ngân sách cho phần kinh phí sự nghiệp, quản lý rừng. 75% nguồn thu còn lại Ban quản lý rừng đặc dụng sử dụng để tăng lương cho cán bộ, nhân viên, hỗ trợ hoạt động phát triển cộng đồng tại vùng đệm, đầu tư, hoạt động kinh doanh du lịch sinh thái và trích lập các quỹ theo quy định. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư lựa chọn một vườn quốc gia trực thuộc Bộ và một vườn quốc gia trực thuộc địa phương để chỉ đạo thực hiện thí điểm, lập công ty cổ phần. Quyết định cũng nêu rõ, kinh doanh dịch vụ và đầu tư trong rừng đặc dụng được áp dụng ưu đãi về thuế thu nhập doạnh nghiệp. Ngoài ra, các dự án đầu tư phát triển rừng đặc dụng theo quy hoạch được duyệt được hưởng mức ưu đãi cao nhất theo quy định hiện hành của Nhà nước C,Nguồn vốn đầu tư rừng đặc dụng Ngân sách trung ương đầu tư cho các khu rừng đặc dụng do bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn quản lý Ngân sách địa phương đầu tư cho các khu rừng đặc dụng do địa phương quản lý.Ngân sách trung ương hỗ trợ đầu tư có mục tiêu cho các vườn quốc gia của các địa phương và rừng đặc dụng nằm ở huyện biên giới,hải đảo của các địa phương khó khăn Nguồn vốn thu từ hoạt động dịch vụ,hoạt động liên doanh ,liên kết ,bộ phận kinh doanh quản lý…và các dịch vụ khác của ban quản lý rừng đặc dụng, cho thuê môi trường rừng, thu phí dịch vụ môi trường rừng và các dịch vụ khác của Ban quản lý rừng đặc dụng. Vốn huy động hợp pháp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư phát triển rừng đặc dụng. . Tổng vốn đầu tư và vốn sự nghiệp từ ngân sách nhà nước cho chính sách này khoảng 5.500 tỷ trong đó vốn đầu tư là 50%. Một số vấn đề xoay quanh Trang 7 / 16 Những điểm mới nổi bật trong chính sách đầu tư phát triển rừng đặc dụng theo Quyết định 24/2012/QĐ-TTg Những điểm mới nổi bật trong chính sách đầu tư phát triển rừng đặc dụng theo quyết định số 24/2012/QĐ-TTg của TTCP bao gồm 3 nội dung quan trọng. Thứ nhất, nhà nước đảm bảo kinh phí sự nghiệp thường xuyên cho các hoạt động của bộ máy ban quản lý rừng đặc dụng. Hàng năm Nhà nước cấp kinh phí quản lý bảo vệ rừng để Ban quản lý rừng đặc dụng chủ động tổ chức khoán, hợp đồng với cộng đồng dân cư về phòng cháy, chữa cháy rừng, bảo vệ rừng; Ngân sách nhà nước cấp cho bảo vệ rừng với mức 100.000 đồng/ha/năm. Thứ hai, nhà nước hỗ trợ đầu tư cho cộng đồng dân cư thôn bản vùng đệm để đồng quản lý rừng đặc dụng mỗi năm 40 triệu đồng/thôn bản nhằm giúp thôn bản đầu tư nâng cao năng lực phát triển sản xuất (khuyến nông, khuyến lâm, giống cây, giống con, thiết bị chế biến nông lâm sản quy mô nhỏ); hỗ trợ vật liệu xây dựng cho thôn bản (đối với các công trình công cộng của cộng đồng như nước sạch, điện chiếu sáng, thông tin liên lạc, đường giao thông thôn bản, nhà văn hoá..). Thứ ba, thí điểm đổi mới bộ phận kinh doanh du lịch sinh thái hạch toán phụ thuộc của ban quản lý rừng đặc dụng để thành lập công ty cổ phần đối với những Ban quản lý rừng đặc dụng có doanh thu trên 3 tỷ đồng/năm. Thí điểm đổi mới bộ phận kinh doanh du lịch sinh thái là một trong những chính sách mới nhằm đầu tư phát triển rừng đặc dụng Thí điểm tách bộ phận kinh doanh du lịch sinh thái của ban quản lý rừng đặc dụng hiện nay từ hình thức sự nghiệp có thu sang mô hình công ty cổ phần, Nhà nước giữ cổ phần chi phối 51% nhằm tách kinh doanh ra khỏi bảo vệ rừng, tạo động lực pháp lý mới cho việc phát triển du lịch sinh thái, tạo nguồn thu cho ban quản lý rừng đặc dụng nâng cao mức sống của người bảo vệ rừng, gắn bảo tồn với phát triển. . . Kinh doanh du lịch sinh thái trong rừng đặc dụng 1. Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển du lịch sinh thái trong rừng đặc dụng. 2. Phát triển du lịch sinh thái trong rừng đặc dụng thực hiện theo quy hoạch được duyệt và quy định của Luật doanh nghiệp, Luật bảo vệ và phát triển rừng, Quyết định này và quy định hiện hành khác của Nhà nước. a) Trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: Được lập các tuyến đường mòn chiều rộng tối đa không quá 1,5 m, lều trú chân, cắm biển chỉ dẫn để tuần tra kết hợp phục vụ dịch vụ du lịch sinh thái, không được làm thay đổi cảnh quan tự nhiên của khu rừng. Trang 8 / 16 b) Trong phân khu phục hồi sinh thái: Được mở các đường trục chính, xây dựng công trình để bảo vệ và phát triển rừng kết hợp phục vụ các hoạt động dịch vụ - du lịch. Mức độ tác động của các công trình hạ tầng phục vụ cho hoạt động du lịch sinh thái tối đa là 20% tổng diện tích quy hoạch cho hoạt động dịch vụ - du lịch. Trong đó, diện tích xây dựng các công trình phục vụ cho hoạt động dịch vụ - du lịch tối đa không quá 5%; diện tích xây dựng đường mòn, điểm dừng chân, bãi đỗ xe không quá 15%. c) Trong phân khu dịch vụ hành chính, khu bảo vệ cảnh quan, khu rừng nghiên cứu khoa học diện tích tối đa để xây dựng các công trình phục vụ hoạt động dịch vụ - du lịch không quá 20% tổng diện tích của phân khu dịch vụ hành chính hoặc khu bảo vệ cảnh quan, khu rừng nghiên cứu khoa học. Sử dụng nguồn thu từ hoạt động du lịch sinh thái trong rừng đặc dụng Toàn bộ lợi nhuận thu được gồm: Thu từ hoạt động dịch vụ, cho thuê môi trường rừng, thu phí dịch vụ môi trường rừng (theo Nghị định 99/2010/NĐ-CP), lợi nhuận thu từ hoạt động liên doanh liên kết, phần lợi nhuận của Ban quản lý rừng đặc dụng trong công ty cổ phần phát triển rừng đặc dụng (nếu có) và các nguồn thu hợp pháp khác được sử dụng như sau: 1. Sử dụng 25% nguồn thu trên để thay thế vốn ngân sách cấp cho phần kinh phí sự nghiệp, quản lý rừng quy định tại Điều 7 và Điều 8 của Quyết định này. Nếu thay thế hết phần vốn ngân sách cấp mà còn dư thì chuyển phần dư sang chi cho nội dung quy định tại Khoản 2 Điều này. 2. Ban quản lý rừng đặc dụng được sử dụng 75% nguồn thu còn lại cho các mục tiêu theo thứ tự ưu tiên như sau: a) Hỗ trợ tăng lương cho cán bộ, nhân viên đang làm việc tại Ban quản lý rừng đặc dụng nhưng tổng mức lương (bao gồm lương cơ bản và phần hỗ trợ) tối đa không quá 2,5 lần lương cơ bản theo quy định. b) Hỗ trợ cho các hoạt động phát triển cộng đồng tại vùng đệm của rừng đặc dụng (theo Điều 8 của Quyết định này). c) Chi cho đầu tư, hoạt động kinh doanh du lịch sinh thái. d) Trích lập các quỹ theo quy định tại Nghị Định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Tổ chức thực hiện Trách nhiệm của các Bộ, ngành và địa phương 1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: a) Kiểm tra, giám sát thực hiện Quyết định này, hàng năm có báo cáo giám sát thực hiện quyết định này gửi Thủ tướng Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính. Trang 9 / 16 b) Xây dựng ban hành tiêu chí đánh giá hàng năm về chất lượng công tác quản lý bảo vệ rừng đặc dụng. 2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: a) Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cân đối nguồn vốn đầu tư phát triển trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. b) Chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về đầu tư; phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh kiểm tra, giám sát việc đầu tư cho các khu rừng đặc dụng. c) Hướng dẫn thực hiện quy định tại Điều 11 Quyết định này. d) Có trách nhiệm đánh giá toàn diện về các mặt kinh tế, xã hội, môi trường trong thời hạn 3 năm và 5 năm để báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét điều chỉnh, bổ sung chính sách này. 3. Bộ Tài chính: a) Chủ trì, phối hợp với các Bộ ngành liên quan cân đối, bảo đảm kinh phí sự nghiệp, kinh phí quản lý rừng cho các Bộ, ngành và địa phương; khi giao kế hoạch chi ngân sách hàng năm ghi rõ mục chi phát triển rừng đặc dụng trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. b) Hướng dẫn chi tiết nội dung chi và định mức chi quy định tại Điều 7 và Điều 8 của Quyết định này. 4. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh a) Trong vòng 2 năm kể từ ngày Quyết định này có hiệu lực, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Ban quản lý rừng đặc dụng chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn. b) Bảo đảm đủ kinh phí đầu tư và sự nghiệp quản lý rừng theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 8 của Quyết định này cho Ban quản lý rừng đặcdụng thuộc địa phương quản lý theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. c) Chỉ đạo Ban quản lý rừng đặc dụng lập, phê duyệt quy hoạch, dự án đầu tư theo quy định. d) Chỉ đạo, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện Quyết định này tại địa phương. Quý I hàng năm có báo cáo thực hiện Quyết định này của năm trước gửi về Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính để tổng hợp. Quản lý đầu tư và giám sát đầu tư 1. Quản lý quy hoạch và đầu tư xây dựng cơ bản theo quy định hiện hành của Nhà nước. Ban quản lý rừng đặc dụng có trách nhiệm xây dựng, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch các chương trình, dự Trang 10 / 16 án nhằm đầu tư bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng; chủ đầu tư đối với các công trình bằng vốn ngân sách nhà nước trên diện tích rừng đặc dụng được giao. 2. Ban quản lý rừng đặc dụng chịu trách nhiệm toàn diện trước cơ quan có thẩm quyền về việc sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước đúng mục đích, đúng đối tượng, tiết kiệm hiệu quả. 3. Ban quản lý rừng đặc dụng có nhiệm vụ xây dựng báo cáo giám sát định kỳ 6 tháng và hàng năm về việc thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, tài chính cho thuê môi trường rừng của Ban quản lý rừng đặc dụng gửi cho cơ quan quyết định đầu tư và các cơ quan liên quan của tỉnh. 4. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức giám sát đầu tư và giám sát việc quản lý bảo vệ rừng của Ban quản lý rừng đặc dụng theo quy định. Thực trạng ,tình hình thực hiện chính sách Hiện nay tổng số khu rừng đặc dụng của nước ta là 128, trong đó có 30 Vườn quốc gia, 48 khu dự trữ thiên nhiên, 12 khu bảo tồn loài, 38 khu bảo vệ cảnh quan. Tổng diện tích các khu rừng đặc dụng trên 2 triệu ha và tổng diện tích rừng của cả nước gần 13,4 triệu ha, độ che phủ rừng toàn quốc 39,5 %, tỷ lệ giữa diện tích rừng đặc dụng và diện tích rừng cả nước là 15 % (tiêu chuẩn của thế giới 10 %), tuy nhiên nó còn phụ thuộc vào chất lượng của rừng, sự phân bố đều trên toàn bộ diện tích tự nhiên và tính đa dạng sinh học mới có thể duy trì bảo tồn rừng. Hệ thống quản lý các rừng đặc dụng này phụ thuộc vào từng loại rừng đặc dụng, như ở cấp Trung ương quản lý 06 Vườn quốc gia, còn lại trực thuộc tỉnh, việc xây dựng và quản lý chúng dựa trên Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004; QĐ số 62/2005/QĐ-BNN, ngày 12/10/2005 về việc ban hành tiêu chí phân loại rừng đặc dụng; QĐ số 186/QĐ-TTg, ngày 14/8/2006 về quy chế quản lý rừng; Nghị định số 32/2006/NĐ-CP, ngày 30/3/2006 về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và mới đây là Nghị định số 24/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Về chính sách đầu tư phát triển rừng đặc dụng giai đoạn 2011 – 20 Tuy nhiên, hệ thống rừng đặc dụng vẫn dang đang phải đối mặt với tình trạng suy giảm đa dạng sinh học; đầu tư cho các khu rừng đặc dụng còn thấp, địa phương có nhiều rừng đặc dụng đời sống người dân gặp nhiều khó khăn. Theo đó, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang chỉ đạo, triển khai xây dựng và phê duyệt báo cáo quy hoạch bảo tồn và phát triển bền vững khu rừng đặc dụng đến năm 2020, trong đó các Vườn quốc gia và một số khu bảo tồn thiên nhiên đã bước đầu triển khai hoạt động phát triển du lịch sinh thái, đặc biệt là các Trang 11 / 16 Vườn quốc gia được công nhận là khu di sản thiên nhiên ở khu vực và thế giới như Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Cát Tiên, Cát Bà,...nơi bảo tồn nhiều hệ sinh thái với tính đa dạng sinh học cao, đã và đang là điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước. Đến đầu háng 9 năm 2012, Việt Nam đã quy hoạch 166 khu rừng đặc dụng trên toàn quốc với tổng diện tích quy hoạch gần 2,3 triệu ha, trong đó hơn 1,95 triệu ha là diện tích có rừng, chủ yếu là rừng tự nhiên do nhà nước quản lý.Tuy nhiên, nhiều khu rừng đặc dụng vẫn bị đe dọa do tình trạng thác gỗ trái phép, chuyển đổi mục đích sử dụng đất một phần diện tích… Kết quả bước đầu thực hiện chính sách: Hiện nay chúng ta đã thiết lập được hệ thống các khu rừng đặc dụng chung cho toàn quốc, xây dựng các tiêu chí để thành các rừng đặc dụng (Vườn quốc gia, khu bảo tồn,…), các khu rừng đặc dụng được thành lập trải dài trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, hầu hết các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng có các loài đặc hữu, nguy cấp, quý hiếm đã được bảo tồn và nằm trong rừng đặc dụng. Hệ thống các khu rừng đặc dụng đã trở thành những nơi để nghiên cứu khoa học, thực tập, tham quan du lịch, nghỉ dưỡng, bảo vệ nguồn nước, bảo tồn những văn hóa, kiến thực bản địa, bảo tồn đa dạng sinh học . Các khu rừng đặc dụng đã phát huy tốt vai trò bảo vệ đa dạng sinh học, có tác động tích cực đối với các ngành kinh tế như nông nghiệp, du lịch, thủy điện, công nghiệp, phát triển kinh tế, xã hội ở cấp quốc gia và địa phương ngày càng được khẳng định. Các khu rừng đặc dụng được phê duyệt quy hoạch bảo tồn đều dành diện tích cho phát triển du lịch sinh thái, riêng 6 Vườn quốc gia thuộc Tổng cục Lâm nghiệp (gồm Bạch Mã, Cúc Phương, Ba Vì, Tam Đảo, Yokdon, Cát Tiên) đã được Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt quy hoạch với tổng diện tích là 288.791,65 ha, trong đó quy hoạch cho phát triển du lịch sinh thái với diện tích trên 14.000 ha, chiếm 5% tổng diện tích tự nhiên của 6 Vườn quốc gia. Hệ thống các khu rừng đặc dụng đã trở thành những nơi để nghiên cứu khoa học, thực tập, tham quan du lịch, nghỉ dưỡng, bảo vệ nguồn nước, bảo tồn những văn hóa, kiến thực bản địa, bảo tồn đa dạng sinh học, …Tuy nhiên hệ thống tổ chức, quản lý rừng đặc dụng sau một thời gian thực hiện vẫn còn một số những bất cập ,nhuãng khó khăn tồn tại sau: Trang 12 / 16 Theo luật đa dạng sinh học năm 2008 thì phân cấp khu bảo tồn có 4 dạng sau: Vườn quốc gia, Khu dự trữ thiên nhiên, Khu bảo tồn loài - sinh cảnh, Khu bảo vệ cảnh quan và không có khu nghiên cứu, thực nghiệm khoa học. Như vậy giữa Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 và Luật đa dạng sinh học năm 2008 có sự khác nhau về phân chia và dùng từ, một bên sử dụng “rừng đặc dụng”, bên kia dùng “ Khu bảo tồn”. Trong khi theo Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 thì “Khu bảo tồn” nằm trong rừng đặc dụng và dưới Vườn quốc gia. Do đó tạo ra sự không thống nhất về cách sử dụng, gây khó khăn cho công tác quản lý. Trong bảng phân hạng của IUCN thì khu vực được bảo vệ chia làm 6 hạng, không có khu vực dành cho thực nghiệm khoa học; đối chiếu với phân hạng của Việt Nam tương đương từ I – V, không có phân hạng VI (điều hành để sử dụng hiệu quả tài nguyên môi trường), đối chiếu với các quy định về quản lý rừng đặc dụng thì không có loại rừng đặc dụng nào cho phép khai thác hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên thực tế hiện tượng này vẫn thường xuyên xảy ra, người dân vẫn khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên trong rừng đặc dụng bởi từ lâu người dân sống gắn bó với rừng, coi rừng là nhà. Do đó cần phải sửa đổi và bổ xung trong việc phân hạng rừng đặc dụng cho phù hợp với thực tế nhưng vẫn đảm bảo việc quản lý rừng tốt. Hệ thống quản lý các khu rừng đặc dụng chưa có một cơ chế rõ ràng và việc quản lý cũng chưa thông nhất. Cả nước có 30 Vườn quốc gia thì chỉ có 06 Vườn là thuộc Bộ, còn lại trực thuộc UBND tỉnh và sở NN&PTNT tỉnh; còn 98 khu rừng đặc dụng khác do Sở NN&PTNT và Chi cục kiểm lâm quản lý. Chính sự không thống nhất này đã dẫn đến việc quản lý và bảo tồn các khu rừng đặc dụng này không hiệu quả, mỗi nơi có cách làm riêng, phá vỡ kết cấu rừng chung của cả nước, ảnh hưởng đến chất lượng rừng và đa dạng sinh học. Theo Nghị định số 117/2010/NĐ-CP, ngày 24 tháng 12 năm 2010 của Chính phủ về tổ chức và quản lý rừng đặc dụng thì Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn tổ chức lập quy hoạch các khu rừng đặc dụng trên địa bàn tỉnh và UBND tỉnh phê duyệt quy hoạch các khu rừng đặc dụng đó hoặc có quyền điều chỉnh, chuyển mục đích sử dụng rừng đặc dụng đó. Đứng trên quan điểm bảo tồn và phát triển: Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn sẽ lập quy hoạch cho các khu rừng đặc dụng trên địa bàn tỉnh là rất khó, bởi lập quy hoạch cho rừng đặc dụng cần phải có kiến thức sâu về bảo tồn, nó khác với quy hoạch sử dụng đất. Việc UBND tỉnh được phê duyệt, điều chỉnh, chuyển Trang 13 / 16 mục đích sử dụng rừng đặc dụng trên địa bàn tỉnh ảnh hưởng không nhỏ đến quy hoạch rừng đặc dụng của cả nước bởi quan điểm bảo tồn chưa được chú trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của địa phương. Không tạo ra hành lang đa dạng sinh học đối với những vùng giáp ranh. Hiện nay quan điểm về bảo tồn còn nhiều bất cập: Bảo tồn không có nghĩa là bảo vệ và duy trì tự nhiên của loài, quan điểm này bị bó hẹp, sớm muộn loài sẽ bị tuyệt chủng; cần phải có cái nhìn tích cực hơn: Bảo tồn bao gồm bảo vệ, sử dụng hợp lý và sử dụng biện pháp kỹ thuật phù hợp ví dụ như Pơ mu tái sinh chỉ gặp ở nơi có độ tàn che phù hợp – có ánh sáng (cần phải xúc tiến tái sinh). Kinh phí phục vụ cho rừng đặc dụng rất thấp, ngân sách có thể rót trực tiếp từ Trung ương hoặc tỉnh nhưng kinh phí này chỉ đủ cho chi phí hoạt động bộ máy ban quản lý hoặc nếu có đầu tư chủ yếu cho xây dựng cơ bản, còn kinh phí dành cho bảo tồn rất ít và chưa được chú ý. Phần lớn các nguồn ngân sách này được cấp theo kế hoạch hàng năm và dựa trên cân đối giữa ngân sách Trung ương và tỉnh, do đó nguồn tài chính này không ổn định ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý bảo tồn rừng đặc dụng. Một số Vườn quốc gia trực thuộc Bộ thì ngoài ngân sách Trung ương còn được tiếp cận rất dễ các nguồn kinh phí từ các tổ chức quốc tế đầu tư; còn Vườn quốc gia, khu bảo tồn thuộc tỉnh phụ thuộc lớn vào tiềm năng kinh tế của tỉnh, nguồn kinh phí được tiếp cận từ các tổ chức quốc tế rất hạn chế, phụ thuộc vào cơ chế quản lý hành chính của tỉnh. Do đó trong hệ thống quản lý rừng đặc dụng bị mất cân đối, có những rừng được đầu tư nhiều và ngược lại, ảnh hưởng không nhỏ đến đa dạng sinh học trong công tác bảo tồn rừng. Một số dự án được đầu tư từ các tổ chức quốc tế chưa thật sự có hiệu quả, chưa tận dụng được các lợi thế và kinh nghiệm có được, do đó ảnh hưởng rất lớn đến các dự án quốc tế sau này. Hầu hết các Vườn quốc gia, khu bảo tồn chưa có cán bộ được đào tạo chuyên về bảo tồn mà chỉ thông qua các lớp tập huấn ít ngày, do đó kiến thức về bảo tồn còn hạn chế ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý và bảo tồn rừng Hiện nay vùng đệm của khu rừng đặc dụng thuộc quyền quản lý của chính quyền địa phương, các ban quản lý rừng đặc dụng chỉ có quyền quản lý trong phạm vi rừng quản lý của mình, trong khi đó việc thành lập vùng đệm rừng đặc dụng là để hỗ trợ cho công tác bảo tồn, quản lý và bảo vệ rừng đặc dụng, do đó dẫn đến sự không hợp nhất Trang 14 / 16 về mặt quản lý và xây dựng kế hoạch phát triển cho vùng. Trong quy hoạch bảo tồn và phát triển rừng ít được địa phương quan tâm và đưa vào kế hoạch, nghị quyết phát triển chung của địa phương. Khi xây dựng phát triển rừng đặc dụng chưa gắn kết giữa phát triển vùng lõi với vùng đệm, chưa có sự phát triển hài hòa giữa 2 vùng. Quy mô về diện tích các khu rừng đặc dụng hầu hết giới hạn trong phạm vi hành chính của tỉnh, mà chưa chú trọng đến diện tích vùng sinh thái đặc trưng, diện tích vùng có các loài đặc hữu, nguy cấp, quý, hiếm,… (nghĩa là chưa chú trọng đến việc thành lập khu bảo tồn liên danh giới), chính điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại của loài, của hệ sinh thái. Đối với Vườn quốc gia, khu bảo tồn chưa xác định được rõ khu vực cho bảo tồn và khu vực dành cho phát triển, do đó đã tạo ra sự lúng túng trong quản lý chỗ nào cũng bảo tồn và bảo vệ nghiêm ngặt. Một số giải pháp đề xuất nhằm thực hiện chính sách đầu tư phát triển rừng đặc dụng giai đoạn 2011 - 2020 1) Cần nghiên cứu, bổ sung hệ thống phân loại rừng đặc dụng cho phù hợp với phân hạng của IUCN, phù hợp với phân hạng quốc tế; sử dụng ngôn ngữ và phân chia rừng cho thống nhất giữa Luật bảo vệ và phát triển rừng 2004 và Luật bảo vệ đa dạng sinh học 2008 để thuận lợi cho việc chỉ đạo, điều hành các văn bản nhà nước thống nhất trong hệ thống quản lý rừng đặc dụng. (2) Cần phải có một cơ chế, chính sách quản lý rõ ràng đối với các Vườn quốc gia, nên tập trung vào một đơn vị quản lý trực tiếp đó là Tổng cục lâm nghiệp. Tổng cục sẽ chỉ đạo việc lập quy hoạch các khu rừng đặc dụng trên cả nước và trình Bộ NN & PTNT phê duyệt. Việc chuyển mục đích sử dụng rừng đặc dụng phải được Thủ tướng quyết định, Tổng cục sẽ điều tiết và phân bổ các nguồn vốn cho các Vườn quốc gia. Thực tế cho thấy những Vườn quốc gia trực thuộc tỉnh quản lý thì những nguồn vốn từ ngân sách tỉnh, nguồn vốn từ các tổ chức quốc tế tiếp cận rất ít, quan hệ với các tổ chức này cũng bị hạn chế; Còn lại nên để các khu bảo tồn thuộc Sở NN&PTNT quản lý. (3) Kinh phí đầu tư cho rừng đặc dụng cần được nâng lên và duy trì, nhất Trang 15 / 16 là những nơi mà ban quản lý rừng đặc dụng chưa có nguồn thu và chưa có điều kiện để phát triển du lịch. Kinh phí đầu tư không những cho cơ sở hạ tầng mà còn đầu tư cho công tác bảo tồn, nghiên cứu khoa học,…Tăng cường quan hệ với các tổ chức quốc tế, thu hút đầu tư dự án, nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học vào công tác bảo tồn. Hiện nay các khu bảo tồn của Việt Nam ít được chú trọng và quan tâm (chủ yếu dành cho các Vườn quốc gia), diện tích rừng các khu này bị xâm hại nghiệm trọng, vốn đầu tư ít,…do đó nếu không thay đổi cách nhìn nhận và quản lý kịp thời thì trong thời gian tới khó có khu bảo tồn nào có thể chuyển hạng thành Vườn quốc gia. (4) Nâng cao nhận thức và trình độ chuyên môn cho các cán bộ làm công tác bảo tồn, những cán bộ làm công tác bảo tồn cần phải khuyến khích và nên có cơ chế chính sách ưu tiên. (5) Cần phải thay đổi quan điểm về bảo tồn theo hướng mở nghĩa là bảo tồn bao gồm: Bảo vệ, sử dụng hợp lý và sử dụng biện pháp kỹ thuật phù hợp. Trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của Vườn quốc gia, khu dự trữ thiên nhiên, Khu bảo tồn loài và sinh cảnh cần phải thay đổi có thể vẫn cho phép khai thác, sử dụng một số loài không phải là đặc hữu, nguy cấp, quý hiếm và sử dụng biện pháp lâm sinh phù hợp cho sự phát triển của rừng. (6) Chính sách quản lý vùng đệm cần phải được quan tâm và thống nhất, giữa địa phương và ban quản lý rừng, cần phải có sự phối hợp tốt trong quản lý. Đầu tư phát triển vùng lõi cần phải gắn liền với đầu tư phát triển vùng đệm, nếu vùng đệm không được đầu tư tốt thì việc quản lý và bảo vệ rừng ở vùng lõi rất khó khăn. (7) Để bảo tồn các hệ sinh thái có tầm quan trọng quốc gia; bảo tồn các loài động, thực vật đặc hữu, nguy cấp, quý, hiếm thì việc thành lập Vườn quốc gia không chỉ giới hạn quy mô ranh giới hành chính mà phải mang tính liên ranh giới hoặc liên biên giới. (8) Cần phải rà soát và loại bỏ các khu rừng đặc dụng không còn giá trị về mặt bảo tồn do quản lý và bảo vệ không hiệu quả. Đối với khu rừng đặc dụng chưa có ban quản lý thì cần phải thành lập ngay, và có thể thành lập hạt kiểm lâm trực thuộc ban quản lý. Trang 16 / 16 Chính vì vậy, chính sách đầu tư phát triển rừng đặc dụng tại quyết định số 24/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với bảo tồn phát triển bền vững các hệ sinh thái rừng đặc dụng mà còn góp phần tạo nền tảng bền vững cho sự phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói giảm nghèo thông qua các hoạt động đồng quản lý và sử dụng hợp lý các giá trị dịch vụ môi trường rừng, thu hút người dân địa phương sinh sống trong và vùng đệm các khu rừng đặc dụng nâng cao ý thức, trách nhiệm bảo vệ rừng, bảo tồn thiên nhiên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfti_u_lu_n_csnn_1__3235.pdf
Luận văn liên quan